Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một thực thể xã hội ra đời từ hàng nghìn năm nay và sẽ tồn tại cùng với loài người trong một thời gian khó đoán định. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia. Vào những năm gần đây, tình hình tôn giáo trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Nằm trong dòng chảy của lịch sử nhân loại, Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, bên cạnh các tôn giáo lớn có tổ chức với số lượng tín đồ đông đảo còn có các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian truyền thống. Tôn giáo đã và đang trở thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, các hoạt động của tôn giáo được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, số người theo tôn giáo ngày càng tăng. Hiện nay, ngoài xu hướng hành đạo đồng hành cùng dân tộc, thuần túy tôn giáo, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật cũng đã xuất hiện các hoạt động tôn giáo không bình thường, có phần lấn lướt chính quyền, vi phạm một số qui định của Nhà nước về hoạt động tôn giáo: Một số chức sắc tôn giáo ngấm ngầm hoạt động chống đối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, có tư tưởng vọng ngoại, tìm mọi cách cung cấp thông tin sai lệch về tình hình tôn giáo ở trong nước; Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đã từ chối không tham gia lễ diễu hành cùng các tổ chức tôn giáo trong dịp lễ Quốc khánh 2/9/2005 với lý do là Nhà nước đối xử không bình đẳng với Hội thánh, gây hiệu ứng tiêu cực về chính trị; các tổ chức tôn giáo, nhất là đạo Tin lành gia tăng các hoạt động truyền đạo vào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; một số tôn giáo lợi dụng việc đòi lại đất đai cơ sở thờ tự để có những hoạt động chống đối chính quyền, gây khiếu kiện rất phức tạp, hoặc gây điểm nóng tôn giáo; có giáo phái đòi tách khỏi Giáo hội và sự quản lý của Nhà nước; nhiều tổ chức đội lốt tôn giáo nhằm tập hợp lực lượng chống lại chính quyền, tạo cớ để các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo để vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo để đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Bắc có vị trí chiến lược về địa chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng. Là địa đầu biên cương của Tổ quốc, đây cũng là một trong những địa bàn trọng điểm mà các thế lực thù địch tập trung hoạt động chống phá. Số lượng tôn giáo ở Lạng Sơn có qui mô không lớn, hiện nay chỉ có ba tôn giáo chính: Phật giáo, Công giáo và Tin lành. Nhìn chung các tín đồ theo đạo đại bộ phận là những người dân sống tốt đời đẹp đạo. Đường hướng chung của các tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay đều tập trung củng cố đức tin, tuyên truyền phát triển đạo. Song ở Lạng Sơn, điều cần quan tâm là sự phát triển của đạo Tin lành. Tin lành được truyền vào Lạng Sơn từ năm 1938, chủ yếu tập trung ở khu vực đồng bào dân tộc Dao sinh sống (huyện Bắc Sơn). Thời gian qua sự phát triển của đạo Tin lành ở khu vực này đã gây những ảnh hưởng tiêu cực về nhiều mặt, xáo trộn cuộc sống bình thường của người dân, gây chia rẽ đoàn kết nội bộ các dân tộc thiểu số, giữa người theo và không theo đạo Tin lành. Đáng chú ý là những phần tử xấu vì lợi ích cá nhân hoặc bất mãn đã lợi dụng đạo Tin lành để chia rẽ quần chúng với Đảng, Chính quyền hoặc cản trở việc thực hiện nghĩa vụ công dân của tín đồ. Trong những năm vừa qua, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn đã có nhiều tiến bộ và đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng bên cạnh đó cũng còn một số tồn tại: Một bộ phận cán bộ đảng viên nhận thức về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo còn hạn chế; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn thiếu tập trung và đồng bộ; việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo còn kéo dài, gây tâm lý phản cảm cho quần chúng tín đồ và các chức sắc tôn giáo, tạo ra những sơ hở không đáng có cho một số phần tử xấu lợi dụng. Đặc biệt việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tôn giáo của chính quyền ở nhiều lúc, nhiều nơi, nhất là ở cơ sở còn quá cứng nhắc; các đoàn thể nhân dân vùng đồng bào có đạo nói chung hoạt động còn kém hiệu quả; công tác xây dựng lực lượng cốt cán, đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo còn chưa được quan tâm đúng mức; việc thực hiện Chỉ thị số 01 của Thủ Tướng Chính phủ “Về một số công tác đối với đạo Tin lành” còn gặp nhiều khó khăn, nhận thức đối với tôn giáo và hoạt động tôn giáo của đảng ủy, chính quyền ở một số nơi còn chưa thống nhất. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy đã quan tâm và tăng cường chỉ đạo công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Một mặt nhằm nâng cao nhận thức về tín ngưỡng, tôn giáo, vai trò của nó trong đời sống tinh thần của nhân dân và trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh nhà; mặt khác để thực hiện đầy đủ, nghiêm túc đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo và hoạt động tôn giáo, chống mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, cản trở sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ tình hình đặt ra nói trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ khoa học tôn giáo. Hy vọng rằng với đề tài này, tôi sẽ góp sức vào một vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn cấp bách không chỉ trước mắt mà còn lâu dài đối với công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

doc100 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7435 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động chống phá cách mạng. Hiện nay Mỹ và các lực thù địch nhìn nhận tôn giáo ở Việt Nam như một lực lượng chính trị có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản Việt Nam và đang hậu thuẫn cả về vật chất lẫn tinh thần cho số đối tượng chống đối trong các tôn giáo, nhằm phục vụ cho âm mưu đẩy nhanh tiến trình “dân chủ hoá” thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Các thế lực thù địch ngày càng gia tăng các các hoạt động phát triển đạo nhằm tranh thủ nắm quần chúng. Chúng cử nhiều đoàn vào Việt Nam gặp gỡ các chức sắc tôn giáo; các cơ quan chức năng của Mỹ đặt vấn đề, cần có “tự do tôn giáo ở Việt Nam”; họ thường xuyên khích lệ, hỗ trợ các hoạt động chống đối trong tôn giáo [69, tr.40]. Từ diễn biến tình hình phức tạp như đã nêu trên, Lạng Sơn cũng là địa bàn mà các thế lực thù địch tăng cường “Thúc đẩy phát triển Kitô giáo và đạo Tin lành lên vùng cao, vùng sâu, vùng xa ở biên giới phía Bắc” [69, tr.45]. Hiện tại ở Lạng Sơn, số có biểu hiện phản động cực đoan trong các tôn giáo chiếm tỷ lệ ít so với đại đa số tuân thủ pháp luật. Trong số này chủ yếu là những phần tử bất mãn, đây sẽ là cơ sở để các thế lực thù địch kích động, chỉ đạo, tài trợ cho số này móc nối, phát triển đạo, tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức phản động hoạt động nhằm lật đổ chính quyền khi có thời cơ. Trong các hình thức chúng sử dụng, đáng chú ý là hình thức tuyên truyền phát triển đạo Tin lành, đạo Công giáo cũng như các loại tôn giáo mới khác. Sau đây là một số vụ việc lợi dụng tôn giáo điển hình mà qua đấu tranh và quản lý các cơ quan chức năng và các cấp chính quyền ở tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện được trong thời gian vừa qua. Do nắm chắc địa bàn, đồng thời làm tốt công tác vận động quần chúng tín đồ các tôn giáo tham gia tố giác tội phạm, từ năm 1999 đến năm 2002 các ngành chức năng của tỉnh đã kịp thời phát hiện và ngăn chặn 5 vụ tuyên truyền, phát triển tà đạo vào địa bàn, cụ thể: Đạo “Long hoa chính giáp”, “Quần tiên duy lạc” truyền vào địa bàn huyện Bắc Sơn; đạo “Địa mẫu chân kinh” thâm nhập vào vùng đồng bào dân tộc Dao sinh sống tại xã Lợi Bác huyện Lộc Bình và xã Thái Bình huyện Đình Lập; đạo “Long hoa di lặc” được truyền vào chùa Tiên, quần thể đền, chùa Nhất- Nhị- Tam Thanh (thành phố Lạng Sơn), đền Bắc Lệ (huyện Hữu Lũng), đền Mẫu (thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc). Hình thức tuyên truyền, phát triển các loại tà đạo như đã nêu trên là phát tán các loại kinh sách, tài liệu, băng cassete… nhưng do các cơ quan chức năng làm tốt công tác quản lý nhà nước về các hoạt động tôn giáo trên địa bàn, các loại tài liệu tuyên truyền đạo trái phép đều bị tịch thu, đến nay các loại tà đạo đã được ngăn chặn kịp thời, không phát triển được tín đồ. Ngày 14/01/2002, tại hai xã Nhất Tiến, Nhất Hòa (huyện Bắc Sơn), đây là nơi sinh sống của đồng bào dân tộc Mông mới di cư đến, đã xuất hiện ông Dương Văn Mình tự xưng là “Vua” ở Cao Bằng đến thăm nơi ăn ở của các gia đình người Mông. Với trình độ nhận thức rất thấp của đồng bào và sự hiện hữu của vị “Vua” với những lời phán bảo nhảm nhí đã gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho đồng bào, nhưng do các ngành chức năng và chính quyền địa phương đã can thiệp và giải quyết kịp thời, bà con đã yên tâm trở lại, ổn định trong cuộc sống và lao động sản xuất. Hiện nay các tổ chức Tin lành trong và ngoài nước cũng thường xuyên cử người đến Lạng Sơn để tuyên truyền phát triển đạo. Các tổ chức này thường chọn địa bàn vùng sâu, vùng xa để phát tán tài liệu, tuyên truyền đạo trái pháp luật. Trong đó điển hình là vụ ông Hồ Trọng Tuấn sinh năm 1962, thường trú tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, được tổ chức Tin lành Cơ đốc Phục lâm ở Mỹ cử đến Lạng Sơn để truyền đạo. Với thủ đoạn đi thăm thân, đi tìm việc làm Tuấn đã lén lút nhiều lần đến các huyện Bắc Sơn, Văn Quan, Cao Lộc, Tràng Định…để tuyên truyền đạo. Hồ Trọng Tuấn đã lợi dụng những chỗ đông người, chủ động làm quen, sau đó giới thiệu băng, đĩa, tài liệu, kinh sách tuyên truyền đạo, đồng thời hướng dẫn mọi người cách bắt sóng đài phát thanh “An bình hạnh phúc”. Hàng tháng thông qua hệ thống điện thoại công cộng và Intenet, Hồ Trọng Tuấn báo cáo tình hình hoạt động tuyên truyền phát triển đạo ở Lạng Sơn cho tổ chức Cơ đốc Phục lâm có trụ sở tại Mỹ do mục sư Dương Quốc Tùng cầm đầu và nhận sự tài trợ về tài chính và tài liệu để tiếp tục tuyên truyền, phát tán. Do làm tốt công tác vận động quần chúng, các cơ quan chức năng của tỉnh đã phát hiện được việc làm trái pháp luật trên của Hồ Trọng Tuấn, ngày 6/6/2002 Công an tỉnh đã gọi hỏi đấu tranh đối với Hồ Trọng Tuấn. Qua khám xét tại chỗ ở của Hồ Trọng Tuấn, cơ quan chức năng đã phát hiện có 232 quyển kinh sách các loại, 90 tấm cardvidit giới thiệu về địa chỉ của tổ chức Tin lành ở Mỹ, nhiều lịch phát sóng của đài phát thanh “An bình hạnh phúc” và một số băng cassete, đĩa VCD có nội dung tuyên truyền phát triển đạo. Căn cứ vào các hoạt động trái pháp luật của Hồ Trọng Tuấn, ngày 19/6/2002, Công an Lạng Sơn đã trục xuất Hồ Trọng Tuấn và gia đình ra khỏi địa bàn. Cũng liên quan đến đạo Tin lành, năm 2005 các cơ quan chức năng của Lạng Sơn đã phát hiện ông Nguyễn Vũ Trường Giang, thường trú tại thành phố Hà Nội, tự xưng là mục sư đã tuyên truyền, phát triển hệ phái Tin lành Hữu liên Cơ đốc; bà Nguyễn Thị Thúy, thường trú tại tỉnh Phú Thọ tuyên truyền hệ phái Phúc âm Ngũ tuần lên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Đến nay đã làm lễ Báp Têm cho 03 tín đồ người dân tộc Tày ở huyện Cao Lộc và huyện Văn Quan. Điều đáng chú ý là trước kia đạo Tin lành chỉ hoạt động trong vùng dân tộc Dao ở Bắc Sơn, đến nay đã phát triển sang vùng dân tộc thiểu số khác (dân tộc Tày, Nùng…) Bên cạnh đó, hoạt động của Hội thánh Tin lành Bắc Sơn cũng có những biểu hiện lấn lướt chính quyền địa phương như phát tán tài liệu phát triển đạo trái phép. Các cơ quan chức năng đã thu giữ 20 quyển “ Người Việt Nam đối với đạo Tin lành”, 60 quyển “Ca khúc Trúc tôn” và sau khi kiểm tra thấy không đủ điều kiện lưu hành nên đã tịch thu. Hội thánh Tin lành Bắc Sơn thường xuyên cử người đi các tỉnh, thành khác học giáo lý, học nhạc nhưng không báo cáo chính quyền; tích cực liên hệ với Tổng hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) bằng thư từ, điện thoại để báo cáo tình hình hoạt động và xin ý kiến chỉ đạo việc phát triển đạo trên địa bàn. Hoạt động của Tin lành trong dân tộc Mông (huyện Bắc Sơn) cũng có nhiều dấu hiệu đáng chú ý. Trong năm 2005 cùng với việc viết đơn gửi chính quyền đòi công nhận là một Hội thánh trực thuộc Tổng hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), họ lén lút cử 02 tín đồ còn trẻ đi vào thành phố Hồ Chí Minh tập huấn kinh Thánh do một số mục sư người Mông từ Mỹ, Thái Lan về giảng dạy. Trong vấn đề xin thành lập Hội thánh độc lập, quan điểm chỉ đạo của ta là không đồng ý cho thành lập Hội thánh Tin lành trực thuộc Tổng hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) mà chỉ đồng ý là một Hội nhánh, trực thuộc Hội thánh Tin lành Bắc Sơn. Hoạt động của Giáo hội Công giáo Lạng Sơn cũng có nhiều hình thức để tuyên truyền phát triển đạo, thu nạp thêm nhiều tín đồ. Những năm gần đây Giáo hội thường xuyên xin đi làm lễ tại một số nơi không có nhà thờ, đến một số nơi có giáo dân chào đời hay chết để làm lễ, qua đó đã phục đạo ở một số tín đồ đã khô nhạt đạo, phát triển thêm được nhiều tín đồ. Đầu Năm 2006, Giáo hội Công giáo Lạng Sơn đã có đơn gửi Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn và Uỷ ban nhân dân huyện Bắc Sơn xin xây dựng nhà thờ tại xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn. Trên đây là những vấn đề nổi cộm đã và đang đặt ra cho, vì vậy công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn cần đặc biệt chú ý để từ đó có các giải pháp quản lý có hiệu quả. Chương 3. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở LẠNG SƠN 3.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở LẠNG SƠN TRONG THỜI GIAN TỚI Thứ nhất, tình hình kinh tế, xã hội và tôn giáo trên thế giới tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đứng đầu là Mỹ đang tìm mọi cách để chống phá cách mạng nước ta. Qua các sự kiện xảy ra ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc… cho thấy Mỹ và các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” bằng thủ đoạn. Đặc biệt, chúng đã lợi dụng việc truyền đạo trái phép để kích động vấn đề dân tộc, kích động tư tưởng “ly khai”, tập hợp quần chúng gây bạo loạn chính trị, kích động hàng ngàn người vượt biên trái phép, gây bất ổn định tình hình trong nước, nhất là ở khu vực Tây Nguyên. Các hoạt động của của cái gọi là “Nhà nước Khmer Crôm”, “ Nhà nước Đêga độc lập” và “Nhà nước Mông tự trị” đã tác động không nhỏ đến tình hình tư tưởng của đồng bào ở khu vực Tây Nam Bộ, Tây Nguyên và Tây Bắc. Bên cạnh đó, năm 2005 Mỹ đã xếp Việt Nam vào nhóm nước “cần quan tâm đặc biệt” về vấn đề tôn giáo. Tình hình đó đã, đang và sẽ tiếp tục chi phối và tác động mạnh vào tình hình tôn giáo ở Lạng Sơn. Thứ hai, trong điều kiện mở cửa, hội nhập nền kinh tế quốc tế, đặc biệt là với nước láng giềng Trung Quốc, Lạng Sơn đang được xem là một tâm điểm được quan tâm để phát triển đạo, thu hút tín đồ. Trong những năm sắp tới, dự báo tình hình hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn sẽ có nhiều diễn biến phức tạp, các loại tôn giáo mới, các tôn giáo lớn sẽ có xu hướng phát triển mạnh trên địa bàn. Biểu hiện rõ nhất là các giáo hội tôn giáo ở Lạng Sơn như: Phật giáo, Công giáo và Tin lành đều có nhu cầu xin phép chính quyền cho tu sửa, xây dựng các nơi thờ tự và tranh thủ phát triển tín đồ. Các hiện tượng tôn giáo mới, đặc biệt là các hệ phái mới của Tin lành tiếp tục mở rộng phạm vi, đối tượng hoạt động, tích cực tuyên truyền phát triển đạo lên vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thứ ba, những hoạt động tôn giáo bất hợp pháp cũng sẽ diễn ra phức tạp hơn. Có thể xuất hiện cả những hoạt động tôn giáo chịu sự chỉ đạo của các thế lực thù địch chống phá Đảng và Nhà nước từ bên ngoài, gây nên những diễn biến theo chiều hướng tiêu cực đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Hiện nay có một số đối tượng chịu sự chỉ đạo từ bên ngoài đến địa bàn các huyện Bắc Sơn, Văn Quan, Lộc Bình, Tràng Định… lén lút tuyên truyền đạo Tin lành và các loại tạp đạo khác trái pháp luật mà chính quyền và các cơ quan chức năng đã xử lý. Mặc dù tỉnh đã xử lý và trục xuất các đối tượng vi phạm trên ra khỏi địa bàn, nhưng dự báo trong thời gian tới Lạng Sơn vẫn là địa bàn trọng điểm mà các đối tượng tuyên truyền đạo chọn là địa bàn hoạt động. 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở LẠNG SƠN Trên cơ sở phân tích những biến động mới nhất của tình hình tôn giáo và thực trạng quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Lạng Sơn và những bài học kinh nghiệm đã rút ra, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện có hiệu quả một số giải pháp sau để tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo trên địa bàn tỉnh: 3.2.1. Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo, chính sách tôn giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo Như trình bày của tác giả ở phần trước, một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn trong những năm vừa qua là về nhận thức. Những bất cập, hạn chế trong nhận thức về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước của một bộ phận khá lớn cán bộ đảng viên, đặc biệt trong đó có không ít những người làm công tác tôn giáo, đã dẫn tới không ít địa phương nhìn nhận tôn giáo rất thành kiến, khắt khe, vì vậy quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo quá nguyên tắc, cứng nhắc; có nơi lại không coi trọng công tác tôn giáo, dẫn đến tình trạng buông lỏng trong quản lý. Đối với quần chúng tín đồ các tôn giáo chưa được thường xuyên tổ chức học tập chính sách pháp luật về tôn giáo, do vậy rất dễ bị lừa bịp, kích động tham gia các hoạt động sai phạm, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo của các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp. Nghị quyết 24- NQ/TW ngày 16/10/1990 của Ban chấp hành Trung ương về Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới đã khẳng định: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” [18, tr.3]. Do vậy đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ làm công tác tôn giáo cần nhận thức “tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài” đối với xã hội chúng ta. Có như vậy trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo vừa hạn chế được những mặt tiêu cực, đồng thời phát huy được những mặt tích cực của tôn giáo trong việc xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xã hội văn minh và giầu mạnh. Để nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ đảng viên và đông đảo quần chúng tín đồ các tôn giáo về đường lối chính sách đối với tôn giáo, đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn trong tình hình mới, theo chúng tôi cần tập trung làm tốt những điểm sau: Một là, Cần nâng cao nhận thức và hiểu biết trên cơ sở khoa học về nguồn gốc và quá trình phát triển của các tôn giáo trong lịch sử, trong đó có các tôn giáo lớn trên thế giới, ở Việt Nam và trên địa bàn Lạng Sơn. Đồng thời hiểu thấu đáo quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo và chính sách cụ thể trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Trên cơ sở đó mà ứng xử với tôn giáo, đề ra những chính sách, giải pháp phù hợp trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở địa phương; đáp ứng được nguyện vọng sinh hoạt tôn giáo của quần chúng có đạo, động viên họ phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, tích cực học tập, lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống ấm no. Bên cạnh đó kịp thời ngăn chặn những hoạt động lợi dụng tôn giáo cho mục đích chính trị xấu xa. Hai là, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức chính trị- xã hội, thông qua nhiều hình thức phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt đường lối, chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong đội ngũ cán bộ đảng viên, đoàn viên và hội viên. Đặc biệt cần chú ý tới quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo. Định hướng cho các hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ của pháp luật và phù hợp với lợi ích chung của cả dân tộc. Cần tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc. Qua đó làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời cảnh giác và đấu tranh ngăn ngừa làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo để phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân, chống phá Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa của các thế lực phản động trong và ngoài nước trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. 3.2.2. Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị cơ sở ở vùng tôn giáo tập trung Đảng ta đã khẳng định: Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, vận động quần chúng tín đồ các tôn giáo và xây dựng lực lượng chính trị vùng giáo là vấn đề cốt lõi, là biện pháp cơ bản, chiến lược lâu dài mà Đảng, Nhà nước ta đã xác định phải thực hiện tốt. Thực tiễn cho thấy, trọng tâm và trung tâm trong các hoạt động của giáo hội các tôn giáo là quần chúng tín đồ. Vì vậy, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo chỉ có hiệu quả khi quần chúng tín đồ và chức sắc các tôn giáo đồng thuận với cách thức quản lý của chính quyền, tự giác chấp hành chính sách pháp luật của nhà nước trong quá trình hành đạo. Bên cạnh đó, lực lượng chính trị ở vùng giáo hoạt động có hiệu quả thì thu hút được đông đảo quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo tích cực tham gia các phong trào cách mạng của địa phương. Để thực hiện tốt công tác vận động quần chúng và xây dựng lực lượng chính trị vùng tôn giáo, theo chúng tôi cần làm tốt các vấn đề sau: Một là, tiếp tục tuyên truyền phổ biến, giáo dục chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước nói chung và đường lối chính sách đối với tôn giáo nói riêng đến với đông đảo quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo. Qua đó góp phần để quần chúng tín đồ nâng cao nhận thức và hiểu biết về chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là đường lối chính sách về tôn giáo. Từ đó họ tự giác thực hiện tốt chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Để làm tốt nhiệm vụ trên, Lạng Sơn cần có các giải pháp trong công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng dân tộc. Đặc biệt đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số thì nên biên tập đề cương tuyên truyền ra tiếng dân tộc và kết hợp tuyên truyền lồng ghép với các chương trình phát triển kinh tế, xã hội. Cần chú ý tranh thủ việc giải quyết các vụ việc tôn giáo để tuyên truyền. Tín đồ các tôn giáo ở Lạng Sơn phần lớn là người dân tộc thiểu số, họ rất tin tưởng ở Đảng và có đức tính thật thà nhưng rất khái tính, do vậy cán bộ làm công tác tôn giáo vận cần gần dân, hiểu dân và giúp dân trong cuộc sống, qua đó góp phần tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền và giáo dục đối với tín đồ các tôn giáo. Hai là, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các đoàn thể quần chúng trong vùng giáo. Thực tế tại nhiều địa phương của tỉnh Lạng Sơn vẫn còn tình trạng là trong khi các đoàn thể quần chúng của ta hoạt động kém hiệu quả, thì ngược lại giáo hội các tôn giáo (nhất là đạo Tin lành) lại tổ chức nhiều hoạt động thu hút được đông đảo tín đồ tham gia. Để khắc phục tình trạng này, đồng thời tăng cường thu hút tín đồ tham gia hoạt động do các đoàn thể nhân dân phát động, đóng góp chung vào phong trào cách mạng ở địa phương, trước hết các tổ chức đoàn thể phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động cho phù hợp với điều kiện thực tiễn ở từng địa phương. Phải đa dạng hóa các hình thức hoạt động cho phù hợp với từng vùng miền, từng dân tộc, phải hướng các hoạt động đó vào các nhu cầu đời sống thiết thực của quần chúng, như đẩy mạnh các phong trào xóa đói giảm nghèo; các hoạt động đền ơn đáp nghĩa; từ thiện nhân đạo; xây dựng gia đình, thôn bản, khối phố văn hóa… Qua đó góp phần thu hút tín đồ tham gia các hoạt động do chính quyền địa phương phát động, góp phần phục vụ tốt cho công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn. 3.2.3. Có chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vững chắc ở vùng tôn giáo tập trung, qua đó góp phần tạo cơ sở cho công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh hiện thực xã hội bằng hình thức hư ảo vào đầu óc con người. Vậy muốn xóa bỏ hạnh phúc hư ảo, phải xây dựng một xã hội hiện thực tốt đẹp cho quần chúng có đạo. Vì vậy Lạng Sơn cần có kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và thực hiện hiệu quả ở những vùng tôn giáo tập trung bằng các hình thức như: Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; đưa vào thực hiện các dự án đầu tư phát triển kinh tế; giải quyết việc làm; xóa đói giảm nghèo; đẩy mạnh phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; phát triển giáo dục và công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; coi trọng việc củng cố mối quan hệ xã hội trong cộng đồng các tôn giáo và giữa các tôn giáo với toàn thể xã hội; thường xuyên tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng, truyền bá tri thức khoa học, kinh tế cho tín đồ các tôn giáo. Bằng các biện pháp kinh tế và văn hóa nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các vùng đồng bào theo đạo, qua đó góp phần tạo cơ sở và động lực trực tiếp cho công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Để thực hiện chính sách phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất cho tín đồ, chức sắc các tôn giáo, đặc biệt ở một tỉnh miền núi như Lạng Sơn, theo chúng tôi cần tập trung theo hướng sau: Phát triển nông, lâm nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp và nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Xây dựng các vùng sản xuất chuyên canh tập trung phù hợp với tiềm năng, lợi thế về khí hậu, đất đai của từng vùng. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng thâm canh, tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Khai thác và phát huy thế mạnh kinh tế đồi rừng, đẩy mạnh công tác trồng rừng, khoanh nuôi, tái sinh và bảo vệ rừng. Hoàn thành giao đất, giao rừng gắn với định canh định cư cho hộ các hộ tín đồ nghèo. Bên cạnh đó tỉnh cần đẩy mạnh chính sách đầu tư phát triển, nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn về giao thông, thủy lợi, điện, trường học, trạm y tế xã… Phát triển đa dạng các ngành nghề, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động ở vùng tôn giáo tập trung, tận dụng tốt hơn thời gian lao động và nâng cao thu nhập cho quần chúng tín đồ các tôn giáo. Cần chú trọng phát triển văn hóa, xã hội để nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân nói chung và quần chúng tín đồ các tôn giáo nói riêng. Theo chúng tôi cần làm tốt các công tác sau: Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chất lượng giáo dục được đảm bảo, trình độ dân trí của nhân dân được nâng cao, nhận thức về các vấn đề tự nhiên, xã hội và con người một cách khoa học thì niềm tin tôn giáo sẽ bị hạn chế, quần chúng tín đồ các tôn giáo cũng không bị lợi dụng vào các hoạt động trái pháp luật. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Kiểm soát chặt chẽ tình hình dịch bệnh, tăng cường phòng bệnh. Củng cố và nâng cao năng lực hoạt động của mạng lưới y tế, nhất là y tế ở những thôn bản vùng sâu, vùng xa, vùng tôn giáo tập trung. Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Tập trung phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, đẩy mạnh thực hiện phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, làm tốt công tác thông tin phổ biến pháp luật đến nhân dân, đặc biệt là nhân dân các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng tôn giáo. Ưu tiên một số lĩnh vực như: Đẩy mạnh phong trào văn nghệ quần chúng ở cơ sở. Thông qua các hoạt động này góp phần thu hút đông đảo quần chúng vào tập luyện và tham gia các hội diễn nghệ thuật quần chúng ở địa phương. Qua đó góp phần xóa bỏ các tập quán, tín ngưỡng lạc hậu và hạn chế thời gian của quần chúng tín đồ dành quá nhiều vào việc hành đạo, tập hát Thánh ca. Chú ý đến công tác tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh như Báo Lạng Sơn, Đài phát thanh- truyền hình Lạng Sơn, Tạp chí văn nghệ xứ Lạng, thường xuyên sử dụng các tin, bài phóng sự viết về vấn đề tôn giáo. Quan tâm đầu tư cả về chất lượng, thời lượng các chương trình truyền hình, phát thanh bằng tiếng dân tộc, qua đó nâng cao hiệu quả tuyên truyền chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước nói chung, chính sách về tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng trong vùng tôn giáo tập trung. Kịp thời biểu dương các gương điển hình tiên tiến của tín đồ các tôn giáo trong phong trào xóa đói giảm nghèo, phong trào bảo vệ trật tự trị an và an ninh quốc gia vùng biên giới, đấu tranh chống các hoạt động mê tín, dị đoan và tuyên truyền đạo trái pháp luật. Thực hiện thành công những giải pháp đó cũng chính là góp phần tạo cơ sở và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn Lạng Sơn. 3.2.4. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo Công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn Lạng Sơn có thành công hay không thì yếu tố con người trực tiếp tham gia làm công tác tôn giáo luôn có tính quyết định. Để tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, trong thời gian tới Lạng Sơn cần chú trọng đến công tác tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo. Một là, về phương diện tổ chức. Với mô hình tổ chức làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo như hiện nay ở Lạng Sơn, đó là: Ở cấp tỉnh thì có Phòng Tôn giáo trực thuộc Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh; ở cấp huyện, thành phố thì đến nay 11 huyện và thành phố đã thành lập được Phòng Dân tộc- Tôn giáo trực thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, thành phố. Để tăng cường tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn, trong thời gian tới cần thành lập ngay Ban Tôn giáo tỉnh, có con dấu và tài khoản riêng, không thể để kéo dài tình trạng như hiện nay. Ban Tôn giáo này trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh trên cơ sở Phòng Tôn giáo trực thuộc Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh như hiện nay. Có như vậy mới phù hợp với Nghị định 22/ NĐ-CP ngày 12/01/2004 của Chính phủ Về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp và Thông tư số 25/TT-BNV ngày 19/04/2004 của Bộ Nội vụ Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tôn giáo ở địa phương. Ở cấp xã, phường, thị trấn nơi có đông đồng bào các tôn giáo thì cần có 01 cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo thay bằng chế độ làm công tác tôn giáo kiêm nhiệm như hiện nay. Hai là, về phương diện cán bộ. Để tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo, cần xây dựng và thực hiện tốt công tác qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và bảo đảm chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo. Hiện nay ở Lạng Sơn, cán bộ làm công tác tôn giáo đều xuất phát từ các ngành, các nghề khác nhau, trong đó không có cán bộ đã qua đào tạo chuyên ngành về lĩnh vực tôn giáo, do đó ảnh hưởng lớn đến hiệu quả công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo. Để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới, tỉnh cần có sự quan tâm về một số vấn đề sau: - Đối với cán bộ chuyên trách đang làm công tác tôn giáo, cần có sự rà soát và bố trí cho phù hợp với mỗi công việc cụ thể. Trong việc tuyển chọn, điều động cán bộ làm công tác tôn giáo cần phải xuất phát từ tính chất, yêu cầu của công tác này. Tôn giáo là một lĩnh vực xã hội nhạy cảm và phức tạp, do vậy các bộ làm công tác tôn giáo phải là những người có trình độ, năng lực và tâm huyết với nghề. Cần tránh tình trạng hiện nay ở một số địa phương trong tỉnh là phân công gò ép, hoặc xếp những cán bộ đã bị kỷ luật, mất uy tín… làm công tác tôn giáo. Mạnh dạn thay thế cán bộ có năng lực yếu, thiếu tinh thần trách nhiệm, uy tín thấp, có quan điểm không đúng trong công tác tôn giáo. - Có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo thường xuyên kiến thức về tôn giáo. Hiện nay cán bộ làm công tác tôn giáo ở Lạng Sơn không nhiều, nhưng rất đa dạng về mặt bằng xuất phát, vì vậy ảnh hưởng lớn đến công tác tôn giáo. Chính vì thế, đối với cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo cần phải có sự quan tâm về nhiều phương diện, trong đó quan trọng nhất hiện nay là nâng cao kiến thức. Để thực hiện được vấn đề này, tỉnh nên dành một khoản kinh phí để phối hợp với các cơ sở đạo tạo về lĩnh vực tôn giáo của Trung ương như: Ban Tôn giáo Chính phủ, Viện Nghiên cứu Tôn giáo và Tín ngưỡng (thuộc Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nghiên cứu Tôn giáo (thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia),… mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn 2-3 tháng tại tỉnh. Đối tượng tham gia lớp đào tạo là những cán bộ làm công tác tôn giáo ở các cấp, các ngành, các địa phương. Tỉnh cần có kế hoạch đào tạo cơ bản, chuyên sâu đối với cán bộ làm công tác tôn giáo. Hiện nay Viện Nghiên cứu Tôn giáo và Tín ngưỡng và Viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tổ chức các khóa đào tạo cử nhân, cao học, nghiên cứu sinh về chuyên ngành tôn giáo và tín ngưỡng. Để cán bộ làm công tác tôn giáo có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực tôn giáo và công tác tôn giáo, tỉnh cần có qui hoạch cụ thể và cử cán bộ đi tham gia các lớp đào tạo này. Ngoài ra, ở các vùng dân tộc thiểu số, cán bộ làm công tác tôn giáo nếu không biết tiếng dân tộc thì phải được bồi dưỡng, huấn luyện để hiểu biết tiếng nói, phong tục tập quán và tâm lý của dân tộc nơi mình công tác. - Tỉnh cần có nguồn kinh phí dành cho công tác tập huấn, bồi dưỡng và đào tạo đối với cán bộ làm công tác tôn giáo. Hàng năm cấp một khoản kinh phí cho Ban dân vận, các đoàn thể làm công tác tôn giáo để đi thăm hỏi động viên cán bộ cốt cán lúc ốm đau, khi gia đình có chuyện buồn; ngày lễ, tết… Cần có chế độ chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo. Công tác tôn giáo là loại hình công tác phức tạp, vất vả, song thu nhập của đội ngũ cán bộ làm công tác này hiện nay lại rất thấp, vì vậy cần phải lưu ý quan tâm đến đời sống của họ. Do đời sống còn gặp nhiều khó khăn, nên họ chưa yên tâm công tác, để động viên kịp thời tới đội ngũ những người làm công tác tôn giáo, tỉnh cần có sự quan tâm và dành khoản kinh phí ưu đãi đặc biệt cho đội ngũ này. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở LẠNG SƠN HIỆN NAY Cùng với việc nêu ra các giải pháp nói trên, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong thời gian tới, tác giả mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị như sau: 3.3.1. Đối với Trung ương Một là, Trung ương cần tập trung xây dựng hệ thống pháp luật tín ngưỡng, tôn giáo. Từ ngày thành lập nước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về công tác tôn giáo và liên quan đến tôn giáo. Trong số này có một số văn bản quan trọng, như: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đến lần thứ X; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 2/7/1998 của Ban Chấp hành Trung ương Về công tác tôn giáo trong tình hình mới; Nghị định số 26/NĐ-CP ngày 19/4/1999 của Chính phủ Về các hoạt động tôn giáo; các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992; gần đây nhất là Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo… Những văn bản trên chỉ rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo của công dân, đồng thời đề ra những chính sách, biện pháp quản lý các hoạt động tôn giáo. Tuy nhiên do ban hành ở nhiều thời điểm khác nhau, nên các văn bản có sự trùng lặp, do vậy nên cần thiết phải rà soát lại, xác định những văn bản phù hợp, bãi bỏ những văn bản mà trên thực tế không còn tác dụng. Hiện nay Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo là văn bản luật có tính pháp lý cao nhất trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. Nhưng trong quá trình thực hiện, nhiều vấn đề được cụ thể hóa để tránh tình trạng các tổ chức, cá nhân tôn giáo lợi dụng để hoạt động tôn giáo trái phép, như: một số giáo phận đã tự ý chia tách giáo xứ, nâng họ lên xứ, phong chức, thuyên chuyển linh mục, tu sĩ, xuất cảnh ra nước ngoài không có ý kiến của cấp có thẩm quyền…[7, tr.6]. Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về tôn giáo, trong thời gian tới Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về tôn giáo, tiến tới xây dựng Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo có giá trị pháp lý cao. Luật về Tín ngưỡng, tôn giáo phải thể hiện bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, cụ thể hóa toàn diện các lĩnh vực tôn giáo, qua đó tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo của chính quyền các cấp. Hai là, đề nghị Trung ương đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các đề án nghiên cứu, khảo sát về tôn giáo, qua đó làm cơ sở quyết định những giải pháp, chính sách quản lý cho phù hợp trên các vấn đề sau: Vấn đề các tổ chức tôn giáo chưa được công nhận tư cách pháp nhân; về các tổ chức tập hợp quần chúng của tôn giáo; quản lý dòng tu của Công giáo; việc các tôn giáo tham gia các hoạt động y tế, giáo dục, từ thiện nhân đạo; đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo; công tác tổ chức quản lý hoạt động của các tổ chức phi chính phủ (NGO) liên quan đến tôn giáo đang hoạt động ở Việt Nam… Ba là, hiện nay ở các xã, phường, thị trấn có đông tín đồ các tôn giáo, Chính phủ nên nghiên cứu xây dựng đề án tổ chức làm công tác tôn giáo trực thuộc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, hoặc có phân công một cán bộ chuyên trách theo dõi công tác tôn giáo. Khắc phục tình trạng phân công một ủy viên Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn kiêm nhiệm như hiện nay theo qui định ở Điều 2 khoản 4 Nghị định 22/ 2004/ NĐ- CP Về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp. Bốn là, Chính phủ cần quan tâm giải quyết kinh phí hoạt động cho công tác tôn giáo. Khắc phục tình trạng kinh phí dành cho công tác tôn giáo rất khó khăn, hạn hẹp như hiện nay. Nên bố trí một khoản kinh phí đặc biệt để chi cho việc tranh thủ các chức sắc tôn giáo, cho đội ngũ cốt cán ở cơ sở. Cần có định biên cụ thể về số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách tôn giáo của chính quyền các cấp và có chính sách đãi ngộ riêng đối với cán bộ làm công tác tôn giáo. 3.3.2. Đối với Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng sơn Một là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, do vậy trong thời gian tới các cấp ủy đảng cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo đối với công tác tôn giáo. Hàng năm tổ chức hội nghị sơ kết, tổng kết về công tác tôn giáo, qua đó để rút kinh nghiệm về công tác tôn giáo từ tỉnh đến cơ sở. Hai là, để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo và phù hợp với nhiệm vụ, khối lượng công việc và yêu cầu thực tiễn ở Lạng Sơn, đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh cho thành lập ngay cơ quan tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tôn giáo theo mô hình: Ban Tôn giáo, có con dấu và tài khoản riêng. Ba là, kiện toàn lại các Ban quản lý đền, chùa, đảm bảo sự định hướng, chỉ đạo của chính quyền các cấp, đồng thời có đại diện chính quyền cơ sở trực tiếp tham gia Ban quản lý. Đã đến lúc cần phải kiểm tra, giám sát được các nguồn thu, chi tại các đền, chùa để tránh tình trạng khiếu kiện về nguồn thu chi tại các cơ sở này như hiện nay. Đề ra cơ chế phù hợp, qui định cụ thể việc sử dụng các nguồn thu, nhất là phục vụ công tác từ thiện hoặc quĩ phúc lợi xã hội. Bốn là, Uỷ ban nhân dân tỉnh cần tăng cường công tác trao đổi thông tin về tình hình tôn giáo, công tác tôn giáo ở địa phương với Ban Tôn giáo Chính phủ, trên cơ sở đó tranh thủ ý kiến chỉ đạo kịp thời và tiếp tục bổ sung các nội dung phối hợp cho hiệu quả. Năm là, hiện nay trên địa bàn Lạng Sơn, các tôn giáo đang đẩy mạnh việc tuyên truyền phát triển đạo, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa vùng dân tộc thiểu số. Do vậy đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh và các cơ quan ban ngành hữu quan tiếp tục có các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao dân trí, giác ngộ ý thức chính trị, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc; tăng cường xây dựng củng cố tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể; quan tâm xây dựng lực lượng cốt cán ở vùng đồng bào dân tộc có đạo để thu hút quần chúng tích cực tham gia các phong trào cách mạng. Sáu là, hàng năm mở các lớp tập huấn, trang bị kiến thức pháp luật cũng như kiến thức chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cho cán bộ chuyên trách và cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, nhất là các xã, phường, thị trấn có nhiều hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Bảy là, các cấp ủy đảng, chính quyền cần chú ý đến công tác động viên và khen thưởng kịp thời các chức sắc tôn giáo hành đạo theo đúng chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, có nhiều thành tích tham gia phong trào cách mạng của địa phương. Đồng thời có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn các hành vi truyền đạo trái pháp luật và kích động bà con giáo dân làm mất ổn định tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. 3.3.3. Đối với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội và các ngành chức năng của tỉnh có liên quan đến tôn giáo Một là, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp là cơ quan tập hợp lực lượng toàn dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn Đảng, toàn dân vào thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do vậy Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cần qui tụ, liên kết các tổ chức chính trị, xã hội, các tầng lớp nhân dân, trong đó có các tổ chức, cá nhân tôn giáo, đoàn kết thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Hai là, các tổ chức chính trị, xã hội cần quan tâm nhiều đến hội viên, đoàn viên là tín đồ các tôn giáo, vận động họ thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước do địa phương phát động. Thông qua các phong trào thi đua, vận động tín đồ gia nhập vào các đoàn thể, đồng thời chọn ra những hội viên, đoàn viên ưu tú điển hình giới thiệu cho Đảng. Ba là, các cơ quan chức năng như: Sở Tài nguyên - Môi trường tiến hành khoanh vùng, đo đạc lập hồ sơ đất đai từng cơ sở thờ tự, tiến tới cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đất cho từng cơ sở thờ tự theo qui định của pháp luật hiện hành. Để tránh tình trạng khiếu kiện, tranh chấp đất đai của cơ sở thờ tự như hiện nay. Sở Xây dựng sau khi cấp phép xây dựng các cơ sở thờ tự của các tôn giáo cần thường xuyên kiểm tra, giám sát tiến độ thi công để các công trình kiến trúc tôn giáo đúng với thiết kế, qui hoạch đã được duyệt. Ngành Văn hóa - Thông tin cần tăng cường công tác bảo tồn, bảo tàng các giá trị văn hóa, lịch sử của các công trình tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn. Đoàn Kiểm tra liên ngành về tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội các cấp cần thường xuyên theo định kỳ tiến hành các đợt kiểm tra hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội trên địa bàn, qua đó phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc, trái pháp luật, đồng thời phát huy được những giá trị tốt đẹp của các lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống, góp phần giữ gìn nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Cơ quan An ninh chủ động nắm bắt tình hình, kịp thời phát hiện các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành các hoạt động tuyên truyền đạo trái pháp luật, lôi kéo, kích động quần chúng tín đồ tham gia các hoạt động đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc Để công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo có hiệu quả cao cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp trong công tác tôn giáo. Đối với những vùng giáp ranh thường xuyên phải trao đổi thông tin về tình hình hoạt động tôn giáo, quan tâm đến hoạt động của chức sắc các tôn giáo. KẾT LUẬN Tôn giáo là một thực thể xã hội, luôn gắn liền với đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và là nhu cầu tâm linh, tinh thần của một bộ phận nhân dân. Tôn giáo luôn là vấn đề nhạy cảm và hết sức phức tạp, nó vừa liên quan đến nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng tín đồ, vừa ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự an toàn xã hội và an ninh của Quốc gia. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế, song song với quá trình ấy các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang đẩy mạnh lợi dụng tôn giáo để thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình” chống chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một trong những công tác có tính cấp bách trong giai đoạn hiện nay, làm tốt công tác này sẽ góp phần đưa hoạt động tôn giáo đi vào ổn định, đúng pháp luật, loại bỏ những âm mưu, hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Trong thời gian qua, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn đã đạt những kết quả quan trọng. Có được những kết quả đó là do cấp ủy đảng và chính quyền địa phương đã dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Qua đó đã khắc phục được quan niệm phiến diện về tôn giáo trong đội ngũ cán bộ đảng viên. Chính sách về tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước đã được Lạng Sơn quán triệt và thực hiện nghiêm túc, tạo được sự đồng thuận, thống nhất của quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo với công tác quản lý của chính quyền địa phương. Các dự án phát triển kinh tế, xã hội trong vùng tôn giáo tập trung được chính quyền, các cơ quan ban ngành ở cấp tỉnh và huyện quan tâm thực hiện có hiệu quả, do vậy đời sống vật chất và tinh thần của quần chúng tín đồ, đặc biệt trong vùng dân tộc thiểu số được nâng lên rõ rệt. Quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, phấn khởi tham gia xây dựng cuộc sống mới “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần vào sự thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn thời gian vừa qua còn bộc lộ một số hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Do đó trong thời gian tới tỉnh cần phải quan tâm giải quyết một số vấn đề tồn tại cả về nội dung chính sách cũng như hình thức quản lý sao cho phù hợp với tình hình hiện nay. Từ những yêu cầu trên, luận văn đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị cụ thể đối với công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn, qua đó nhằm phát huy những thành tựu và khắc phục những hạn chế của công tác này ở địa phương. Với yêu cầu như vậy, hy vọng rằng luận văn sẽ góp một phần nhỏ bé để cùng các cơ quan chức năng của Lạng Sơn làm tốt hơn nữa công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Trung ương (1998), Thông báo số 145 về kết luận của Bộ Chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, Hà Nội. 2. Ban chấp Trung ương (1998), Chỉ thị 37/ CT- TW về công tác tôn giáo trong tình mới, Hà Nội. 3. Ban Chấp hành Trung ương (2004), Qui định số 123- QĐ/TW về một số điểm kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo, Hà Nội. 4. Ban Tôn giáo Chính phủ (2002), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Nghị định 26 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo, Hà Nội. 5. Ban Tôn giáo Chính phủ (2001), Các văn bản pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 6. Ban Tôn giáo Chính phủ (2004), Báo cáo tổng kết công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, Hà Nội. 7. Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), Báo cáo tổng kết công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, Hà Nội. 8. Ban Tôn giáo chính phủ (2005), Đề cương bài giảng tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo, Hà nội. 9. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2002), Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Ban Dân vận Tỉnh ủy Lạng Sơn (1995), Báo cáo tình hình tôn giáo trong 2 năm thực hiện Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị, Lạng Sơn. 11. Ban Dân vận Tỉnh ủy Lạng sơn (1997), Báo cáo công tác tôn giáo- dân tộc năm 1997, Lạng Sơn. 12. Ban Dân vận Tỉnh ủy Lạng Sơn (1998), Kế hoạch về việc triển khai thực hiện kết Luận 145 và chỉ thị 37 của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo trong tình hình mới, Lạng Sơn. 13. Ban Dân vận Tỉnh ủy Lạng Sơn (1999), Báo cáo công tác tôn giáo - dân tộc năm 1999, Lạng Sơn. 14. Ban Dân vận Tỉnh ủy Lạng Sơn (2002), Báo cáo công tác tôn giáo năm 2002, Lạng Sơn. 15. Ban Dân vận Tỉnh ủy Lạng Sơn (2003), Báo cáo công tác tôn giáo năm 2003, Lạng Sơn. 16. Ban Dân vận Tỉnh ủy Lạng Sơn (2004), Báo cáo công tác tôn giáo năm 2004, Lạng Sơn. 17. Ban Dân vận Tỉnh ủy Lạng Sơn (2005), Báo cáo công tác tôn giáo năm 2005, Lạng Sơn. 18. Bộ Chính trị (1990), Nghị quyết số 24- NQ/ TW về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, Hà Nội. 19. Bộ Nội vụ (2004), Thông tư số 25/ TT- BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tôn giáo ở địa phương, Hà Nội. 20. Chính Phủ (1999), Nghị định số 26- NĐ/ CP về các hoạt động tôn giáo, Hà Nội. 21. Chính Phủ (2004), Nghị định số 22-NĐ/ CP Về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp, Lạng Sơn. 22. Chi hội Thánh Tin lành Bắc Sơn, Báo cáo hoạt động của Hội Thánh Tin lành Bắc Sơn giai đoạn 1997 - 2003 và chương trình hoạt động năm 2004- 2005, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. 23. Công ty cổ phần thông tin kinh tế đối ngoại (2005), Lạng Sơn thế và lực mới trong thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Nguyễn Cường (2000) Xứ Lạng văn hóa và du lịch, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 25. Nguyễn Hồng Dương (2002), “Một số vấn đề về công tác tôn giáo trong tình hình mới”, Tạp chí Dân vận, (1+2), Hà Nội. 26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 28. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Địa chí Lạng Sơn (1998), Địa lý Lạng Sơn, Lạng Sơn. 33. Hoàng Minh Đô (2005), Việc thực hiện chính sách tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, (chủ nhiệm đề tài) thuộc đề án Chính phủ, Hà Nội. 34. Hoàng Giáp (2003), “Ngô Thì Sĩ và đền thờ Tam giáo ở Lạng Sơn”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, ( ). 35. Hội Đồng Bộ Trưởng(nay là Chính phủ) (2003), Nghị định số 69- NĐ/ HĐBT về các hoạt động tôn giáo, Hà Nội. 36. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 37. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh- Trung tâm khoa học về Tín ngưỡng và Tôn giáo (2004), Tập bài giảng lý luận về tôn giáo và chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 38. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm khoa học về Tín ngưỡng và Tôn giáo (1998), Trích tác phẩm Kinh điển Chủ nghĩa Mác - Lênin về Tôn giáo, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội. 39. Mai Thanh Hải (1998), Tôn giáo thế giới và Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 40. Thanh Hiếu (1998), “Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo”, Tạp chí Công giáo và Dân tộc, (40). 41. Huyện ủy Bắc Sơn (2006), Báo cáo tình hình tôn giáo và kết quả thực hiện chủ trương đối với đạo Tin lành ở huyện Bắc Sơn, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. 42. Nguyễn Hữu Khiển (2001), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 43. Nguyễn Đức Lữ (2002), Đổi mới chính sách tôn giáo và Nhà nước quản lý tôn giáo hiện nay- Những bài học kinh nghiệm và kiến nghị cụ thể, Đề tài nhánh thuộc đề tài cấp Nhà nước, chủ nhiệm đề tài, Hà Nội. 44. Bùi Đức Luận (2003), “Những bước tiến trong việc thể chế hóa chủ trương, chính sách về tôn giáo ở nước ta thời gian gần đây”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (1). 45. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2001), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 46. Phòng Tôn giáo, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (1999), Báo cáo công tác Tôn giáo, Lạng Sơn. 47. Phòng Tôn giáo, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2000), Báo cáo công tác Tôn giáo, Lạng Sơn. 48. Phòng Tôn giáo, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2001), Báo cáo công tác Tôn giáo, Lạng Sơn. 49. Phòng Tôn giáo, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2002), Báo cáo công tác Tôn giáo, Lạng Sơn. 50. Phòng Tôn giáo, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2003), Báo cáo công tác Tôn giáo, Lạng Sơn. 51. Phòng Tôn giáo, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2004), Báo cáo công tác Tôn giáo, Lạng Sơn. 52. Phan Viết Phong (2002), “Hướng dẫn hoạt động tôn giáo - Nhiệm vụ quan trọng của công tác tôn giáo hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr. 53. Thủ Tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 01- CT/ TTg về một số công tác đối với đạo Tin lành, Hà Nội. 54. Tỉnh ủy Lạng Sơn (1998), Báo cáo tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo sau 2 năm tổng kết Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đến nay, Lạng Sơn. 55. Tỉnh ủy Lạng Sơn (1991), Báo cáo tình hình công tác tôn giáo của tỉnh Lạng Sơn, Lạng Sơn. 56. Tỉnh ủy Lạng Sơn (2005), Báo cáo trình Đại hội XIV Đảng bộ tỉnh, Lạng Sơn. 57. Ngô Hữu Thảo (1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu Quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội. 58. Trần Minh Thư (2005),“Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một yêu cầu khách quan”, Tạp chí Công tác tôn giáo, (3). 59. Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn(2002), Báo cáo kết quả 3 năm thực hiện nghị định 26/ 1999/ NĐ- CP của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo của tỉnh Lạng Sơn (1999- 2002), Lạng Sơn. 60. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Hà Nội. 61. Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2003), Báo cáo kết quả kiểm tra các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội trên địa bàn tỉnh, Lạng Sơn. 62. Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2003), Báo cáo về những vi phạm trong hoạt động tôn giáo của ông Lý Tiến Lưu (Mục sư Tin lành), Lạng Sơn. 63. Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2000), Kế hoạch triển khai thông báo số 255/ TB- TW Về chủ trương đối với đạo Tin lành trong tình hình mới trên địa bàn tỉnh, Lạng Sơn. 64. V.I Lênin, toàn tập (1980), Về thái độ của Đảng công nhân đối với tôn giáo, Tập 17, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 65. V.I Lênin, toàn tập (1980), Chủ nghĩa xã hội và Tôn giáo, Tập 12, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 66. Đặng Nghiêm Vạn (2002), "Trở lại vấn đề tôn giáo", Tạp chí Cộng sản, (13). 67. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 68. Viện Nghiên cứu chiến lược và khoa học- Bộ Công an (2003), Tôn giáo trong thế giới hiện đại, Hà Nội. 69. Viện Chiến lược quân sự- Bộ Quốc phòng (2004), Nghiên cứu tổng kết lý luận, thực tiễn đấu tranh phòng chống chiến lược” Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, Hà Nội. 70. Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Lạng Sơn (1998), Báo cáo thực trạng về công tác quản lý Đền, Chùa trên địa bàn tỉnh, Lạng Sơn. 71. Sở Văn hóa- Thông tin tỉnh Lạng Sơn (2005), Báo cáo công tác văn hóa- thông tin, Lạng Sơn. 72. Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay.doc