Quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý

Ngay từ khi giành được độc lập dân tộc, , nhà nước ta đã có các quy định về “tư pháp bảo trợ”. Tuy nhiên, hoạt động này chỉ dừng lại ở hình thức bào chữa mà chưa cung cấp các hình thức dịch vụ pháp lý khác cũng như chưa đáp ứng cho các đối tượng khác. Năm 1997, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 thành lập hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách. Tiếp theo đó, năm 2006, Quốc hội khóa 11 đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý đã tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và hoàn chỉnh hệ hoạt động trợ giúp pháp lý tại Việt Nam. Tại tỉnh Gia Lai, năm 1998, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ra quyết định số 307/1998/QĐ-UBND về việc thành lập Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước với nhiệm vụ thực hiện trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh. Từ đó đến nay, quy mô tổ chức và chất lượng vụ việc ngày một hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta, khi mà sự phân hóa giàu nghèo diễn ra một cách sâu sắc, các chủ thể được trợ giúp pháp lý ngày càng khó tiếp cận các dịch vụ pháp lý thì hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Gia Lai vẫn chưa đạt được mục đích đã đề ra. Nguyên nhân xuất phát từ hệ thống pháp luật về trợ giúp pháp lý vẫn còn nhiều bất cập, nhất là về vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong hoạt động tố tụng, gây cản trở trong quá trình tác nghiệp của đội ngũ này. Việc thu hút người thực hiện trợ giúp pháp lý và tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia hoạt động này vẫn còn yếu. Hơn nữa, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý chưa được sắp xếp, quy định một cách cụ thể, đội ngũ quản lý còn yếu kém. Nhà nước với vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, cần phải có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của mình, khắc phục những khó khăn, vướng mắc trên. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tôi cho rằng nghiên cứu vấn đề về quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp là cần thiết nhằm góp phần nâng cao năng lực quản lý nhà nước và thực hiện trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói riêng cũng như cả nước nói chung. Hơn nữa, thực hiện tốt vấn đề trợ giúp pháp lý là nhằm đảm bảo quyền được bảo vệ của công dân trước pháp luật. Nhất là trong tình hình hiện nay, vấn đề nhân quyền đang được cộng đồng thế giới quan tâm. Ngoài ra, thông qua đó cũng góp phần thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về cải cách tư pháp của Bộ chính trị mà Đảng và Nhà nước ta quyết tâm thực hiện. Mục đích nghiên cứu: luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý tại tỉnh Gia Lai, từ đó nêu lên những vấn đề tồn đọng và đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: đề tài nghiên cứu công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý. Phạm vi nghiên cứu đề tài: đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động ban hành văn bản pháp luật quản lý hoạt động trợ giúp pháp lý, công tác quản lý chất lượng thực hiện trợ giúp pháp lý, quản lý tổ chức và người thực hiện trợ giúp pháp lý và tổ chức bộ máy quản lý tại tỉnh Gia Lai hiện nay.

doc81 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4876 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hể vắng mặt và gửi bài bào chữa, bảo vệ quyền lợi và bản bào chữa phản ánh sự thật khách quan, các cơ sở pháp lý cần áp dụng, ý kiến đề xuất với cơ quan tiến hành tố tụng hợp lý được các cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận mà vẫn đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất của người được TGPL. Nhưng trong trường hợp này, người thực hiện TGPL vẫn không đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng của Bộ tiêu chuẩn. Thứ năm, trong bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL nhằm đào tạo nguồn bổ nhiệm TGVPL (đối với những người có bằng cử nhân luật, đang làm việc trong Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hoặc Chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, có nguyện vọng trở thành TGVPL, được Giám đốc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước đề nghị Giám đốc Sở Tư pháp cử tham dự khoá bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý) hiện nay quy định cho Cục TGPL cũng là một bất cập hiện nay. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngoài hệ thống giáo dục quốc dân được quy định tại Điều 49 của Luật Giáo dục như sau: 1. Trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trường của lực lượng vũ trang nhân dân có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và công nhân quốc phòng; bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý nhà nước về nhiệm vụ và kiến thức quốc phòng, an ninh. 2. Chính phủ quy định cụ thể về trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân. Việc đào tạo, bồi dưỡng có cấp văn bằng, chứng chỉ ngoài hệ thống giáo dục quốc dân cũng cần theo nguyên tắc giao cho trường hoặc cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của cơ quan, tổ chức thực hiện. Việc bồi dưỡng, cấp chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp không thuộc hệ thống giáo dục quốc dân nhưng việc phân công cho đơn vị nào thuộc Bộ Tư pháp thực hiện nhiệm vụ này cũng phải phù hợp với quy định của Luật giáo dục và nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 19 và Điều 44 của Nghị định 07/2007/NĐ-CP thì Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp có nhiệm vụ “Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho người thực hiện TGPL và cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL.” Trong khi theo Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp thì Cục TGPL là một trong hai mươi đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Mặt khác, việc Nghị định 07/2007/NĐ-CP đã “giao” Cục TGPL nhiệm vụ bồi dưỡng để cấp chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL sẽ dẫn đến việc Cục TGPL phải có một cơ sở chuyên trách làm nhiệm vụ bồi dưỡng, cấp chứng chỉ nghiệp vụ TGPL và đòi hỏi phải có cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, giáo trình bồi dưỡng nghiệp vụ, chương trình học…Điều này đi ngược lại với chủ trương cải cách hành chính, tinh giảm biên chế của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. 2.4.2. Về tổ chức và người thực hiện trợ giúp pháp lý Trung bình mỗi năm, Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Gia Lai thực hiện được 1.400 vụ việc, trong đó: vụ việc tư vấn, hòa giải chiếm 92,3%, vụ việc tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng chiếm 7,7%. Chỉ tính riêng từ tháng 01/2008 (kể từ ngày có TGVPL) đến tháng 6/2009, Trung tâm nhận được 198 vụ việc yêu cầu cử người tham gia tố tụng để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Tuy số lượng đội ngũ người thực hiện TGPL là rất đông với 132 người nhưng số lượng người có thể tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng (theo Luật thì chỉ có TGVPL hoặc LS CTV) là 07 người (số lượng TGVPL là 03 người, số lượng LS CTV là 04 người). Lực lượng TGVPL, đa phần đều là Giám đốc Trung tâm TGPL hoặc Trưởng chi nhánh, ngoài nhiệm vụ thực hiện TGPL còn phải thực hiện nhiều việc liên quan đến quản lý nội bộ Trung tâm TGPL và thực hiện các hình thức TGPL khác nên ít tham gia TGPL bằng hình thức tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng. Từ khi Luật trợ giúp pháp lý được ban hành và có hiệu lực, số vụ việc TGVPL tham gia tố tụng là 20 vụ, chiếm 10,1%, số còn lại 178 vụ việc (chiếm 89,9%) do LS CTV của Trung tâm TGPL thực hiện (số liệu tính đến tháng 6/2009). Trung bình mỗi cộng tác viên là luật sư thực hiện 45 vụ việc và 01 vụ thực hiện trong 01 tuần. Riêng đối với Chi nhánh số 1 cũng chỉ đáp ứng được 32,4% nhu cầu tham gia tố tụng trên địa bàn phụ trách, số còn lại 67,7% do cộng tác viên là luật sư thực hiện (() Quyết định số 392/QĐ-UBND của UBND tỉnh Gia Lai ngày 10/7/2009 về việc phê duyệt Đề án hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước theo Luật trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành ). Tuy nhiên, ngoài các vụ việc thực hiện với vai trò là cộng tác viên Trung tâm TGPL, các luật sư này còn thực hiện các vụ việc với vai trò là luật sư. Do đó, số lượng vụ việc do LS CTV thực hiện là rất nhiều, thời gian để nghiên cứu, tham gia một vụ việc là rất ít, không đảm bảo thực hiện có chất lượng đối với vụ việc TGPL. Mặt khác, do luật sư là người thực hiện hành nghề tự do, tuy là cộng tác viên của Trung tâm TGPL, phải tuân thủ các quy định của pháp luật về cộng tác viên như chất lượng vụ việc, quy tắc hành nghề...nhưng Trung tâm TGPL rất khó kiểm soát việc thực hiện TGPL của họ. Trước đây, trong thời gian từ năm 2005 đến 2009, thực hiện dự án do các tổ chức: Phát triển quốc tế Thụy Điển (Sida), Hợp tác và phát triển Thụy Sỹ (SDC), Viện trợ quốc tế Hà Lan (Oxfam Novib), Cứu trợ trẻ em Thụy Điển (SCS)(() Đây là dự án được thực hiện bởi Cục Trợ giúp pháp lý và Trung tâm trợ giúp pháp lý taị 63 tỉnh (trừ Đắk lắk) nhằm: Nâng cao nhận thức pháp luật và việc tiếp cận với các dịch vụ trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách và các nhóm đối tượng đặc biệt như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số v.v...Tăng cường năng lực của các tổ chức trợ giúp pháp lý nhằm nâng cao tính hiệu quả của hoạt động trợ giúp pháp lý, đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý phong phú, đa dạng của các nhóm đối tượng thụ hưởng. Xây dựng các văn bản pháp luật về trợ giúp pháp lý có hiệu lực cao và hoàn thiện hệ thống pháp luật về trợ giúp pháp lý, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý và xây dựng Chương trình hành động về phát triển hệ thống trợ giúp pháp lý dài hạn. ) tài trợ, để kiểm soát hoạt động của các luật sư, Trung tâm TGPL có cử các chuyên viên tham gia cùng luật sư. Tuy nhiên, các chuyên viên Trung tâm TGPL là những người chưa qua đào tạo (vì các luật sư chỉ thực hiện bào chữa, đại diện trong các vụ án hình sự) nên việc kiểm tra, theo dõi này chỉ mang tính hình thức. Ngoài số lượng TGVPL là những người thực hiện TGPL còn cần nhiều chuyên viên để giúp việc và là nguồn để bổ nhiệm TGVPL. Tuy nhiên, hiện nay tại Trung tâm TGPL tỉnh Gia Lai, số lượng chuyên viên chỉ là 07 người, trong đó, có cả 01 viên chức là cán sự. Hầu hết đội ngũ chuyên viên tại Trung tâm TGPL là sinh viên vừa tốt nghiệp ra trường, khả năng về chuyên môn còn hạn chế, nhất là các kỹ năng khi thực hiện TGPL (đây là các kỹ năng nhằm giúp TGVPL thực hiện nhiệm vụ). Đặc điểm của tỉnh Gia Lai là một tỉnh miền núi, số lượng người dân tộc thiểu số đông, chiếm 48% dân số toàn tỉnh. Hơn nữa, như trình bày ở trên do sống tách biệt với thế giới bên ngoài nên người dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều phong tục, tập quán đặc trưng riêng, có tiếng nói riêng và số lượng người dân tộc thiểu số biết tiếng phổ thông cũng còn thấp, nhất là những người lớn tuổi. Trong khi đó, hoạt động TGPL là hoạt động mang tính chất gần gũi với người được TGPL, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của họ. Do vậy buộc đội ngũ người thực hiện TGPL phải am hiểu phong tục tập quán. Tuy nhiên, đội ngũ người thực hiện TGPL vẫn còn có những hạn chế, thiếu hiểu biết về phong tục, tập quán cũng như tiếng nói của người đồng bào dân tộc thiểu số (đặc biệt là hai nhóm người dân tộc thiểu số có số lượng đông nhất là Jrai và Bahnar). Do đó, việc giao tiếp với người được TGPL là người dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, dẫn tới kết quả không cao. Năm 2005, Sở Nội vụ tỉnh Gia Lai kết hợp với Trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh Gia Lai mở các lớp tiếng Jrai và Bah nar cho cán bộ, công chức trong tỉnh nhằm nâng cao khả năng giao tiếp với 02 lớp/năm. Trung tâm TGPL đến nay đã có 02 người được tham dự lớp trên. Số lượng này là không đáp ứng được theo yêu cầu của thực tế. Mặt khác, lớp trên chỉ cung cấp các kiến thức cơ bản, buộc những người tham gia muốn giao tiếp tốt với người dân tộc thiểu số buộc phải học hỏi thường xuyên sau khi tham gia lớp này. Trụ sở làm việc của một số Trung tâm TGPL còn chật hẹp. Nơi tiếp dân của Trung tâm TGPL và các chi nhánh còn nằm chung với các cơ quan hành chính (Trung tâm TGPL nằm trong trụ sở của Sở Tư pháp, chi nhánh số 1 nằm trong khuôn viên làm việc của UBND thị xã Ayun Pa, chi nhánh số 2 chung trụ sở với Phòng Tư pháp thị xã Ayun Pa), trong khi người nghèo, người dân tộc thiểu số (là hai đối tượng được hưởng TGPL chính) có tâm lý là ngại đến các cơ quan hành chính, nên họ ít đến trụ sở Trung tâm TGPL và các chi nhánh để yêu cầu TGPL. Kinh phí dành cho hoạt động chuyên môn nghiệp vụ (trợ giúp lưu động, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng TGPL…) của Trung tâm TGPL còn rất hạn hẹp. Công tác TGPL phần lớn vẫn dựa vào sự hỗ trợ về kinh phí từ các Dự án hợp tác quốc tế nên chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cũng như nhu cầu TGPL ngày càng tăng của nhân dân. Trung tâm TGPL lại nằm ở thành phố Pleiku, trong khi người nghèo, người dân tộc thiểu số lại ở các vùng sâu, vùng xa. Thậm chí, do đặc điểm của tỉnh là một tỉnh có diện tích lớn (diện tích tự nhiên đến 15.536,9 km2, đứng thứ hai cả nước sau Nghệ An), hệ thống giao thông còn nghèo nàn, nên nếu họ ở vùng thành thị cũng khó đến với Trung tâm TGPL (thị trấn Krông Pa thuộc huyện Krông Pa cách thành phố Pleiku gần 150km). Để khắc phục tình trạng này, trước khi có Luật trợ giúp pháp lý, Trung tâm TGPL đã thành lập các chi nhánh, điểm TGPL nhưng hoạt động không hiệu quả. Sự hình thành các hình thức TGPL này dựa trên cơ cấu cán bộ đã có sẵn ở các cơ quan, là cộng tác viên của Trung tâm TGPL. Các chi nhánh, điểm TGPL do các cán bộ tư pháp huyện và xã làm nòng cốt, trụ sở chi nhánh cũng là phòng làm việc của Phòng Tư pháp. Sở dĩ có sự kiêm nhiệm này bởi vì bản thân hệ thống TGPL không có biên chế xuống cấp cơ sở, hơn nữa cơ cấu này cho phép tận dụng nguồn nhân lực là những người đang đảm nhiệm công tác tại cơ sở, nơi dễ dàng tiếp xúc và nắm bắt nhu cầu TGPL của người dân địa phương. Tuy nhiên nhược điểm của mạng lưới cộng tác viên TGPL là trình độ pháp luật của cán bộ còn thấp, đa số chỉ mới tốt nghiệp trung cấp luật, có nhiều nơi không có người đủ tiêu chuẩn làm cộng tác viên. Mặt khác, các cộng tác viên cũng có nhiều hạn chế trong các kỹ năng thực hiện TGPL. Ví dụ như kỹ năng tư vấn, đây là một hình thức TGPL chủ yếu của các cộng tác viên tại cơ sở. “Để thực hiện tư vấn đạt chất lượng thì người thực hiện TGPL phải nhận biết được bản chất vụ việc và hướng dẫn, giải thích cho người được TGPL cách thức, biện pháp thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về TGPL và các quy định khác có liên quan; kết quả tư vấn pháp luật đã thể hiện được các nội dung của quá trình thực hiện TGPL trong phiếu thực hiện TGPL, văn bản tư vấn pháp luật…Để tư vấn có chất lượng theo Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc TGPL thì việc hoàn thiện kỹ năng tư vấn của người thực hiện TGPL là một yêu cầu quan trọng” (() Phan Hòa Hiệp- “Hoàn thiện kỹ năng tư vấn vụ việc TGPL, góp phần nâng cao chất lượng vụ việc TGPL”, Tạp chí dân chủ và pháp luật 10/2009, trang 23. ). Nguyên nhân, do các Trung tâm TGPL không có đủ nguồn lực để tổ chức tập huấn, cập nhật kiến thức chuyên môn cho các cộng tác viên, cũng như bản thân họ cũng không có thời gian để nghiên cứu, học tập nhằm hoàn thiện các kỹ năng của mình hơn. Hơn nữa hoạt động kiêm nhiệm của các cộng tác viên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của công tác. Bởi lẽ, trong cùng một thời gian họ đồng thời phải đảm nhiệm công tác chuyên môn ở cơ quan với khối lượng lớn hơn nhiều so với công việc TGPL. Về chế độ đãi ngộ đối với cộng tác viên mới ở mức mang tính động viên nên chưa khuyến khích được tinh thần công tác của họ. Thực tế đã có quy định về mức chi cho các hoạt động đó( () Thông tư liên tịch số 81/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 25/9/2008 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan trợ giúp pháp lý nhà nước ) nhưng vì thủ tục thanh toán phức tạp, phải lập sổ theo dõi các vụ việc, có đơn, chứng từ hợp lệ v.v. Trong khi đó các cộng tác viên cấp xã phần lớn lại không quen nghiệp vụ giấy tờ tài chính hay lưu trữ, lại khó có điều kiện liên lạc trực tiếp đến Trung tâm nên họ có tâm lý ngại, thậm chí tự bỏ qua khoản chi này. Do đó, đội ngũ này ưu tiên trước hết cho công tác chuyên môn của mình. Thực tế, phần lớn cộng tác viên của Trung tâm TGPL trong cả năm không có một vụ việc nào gửi đến thanh toán tại Trung tâm, có nhiều cộng tác viên trong năm cũng không báo cáo một vụ việc nào. Việc thu hút các tổ chức tham gia TGPL còn quá yếu kém. Thực tế, tuy Luật trợ giúp pháp lý đã được triển khai 04 năm nhưng chưa có bất kỳ một tổ chức tham gia TGPL (như tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật) đăng ký tại Sở Tư pháp. Đối với các tổ chức hành nghề luật sư, lấy nguyên nhân là đã có luật sư trong tổ chức đã tham gia với tư cách là cộng tác viên nên các tổ chức này không tham gia. Các tổ chức tư vấn thì vẫn còn thờ ơ với việc này. Mặt khác, tuy Phòng Hành chính tư pháp và Bổ trợ tư pháp được giao nhiệm vụ quản lý các tổ chức này tham gia hoạt động TGPL, tức là có thông báo, phổ biến và khuyến khích các tổ chức này tham gia TGPL nhưng cơ quan thực hiện lại là Trung tâm TGPL nên hiệu quả không cao. 2.4.3. Những khó khăn, vướng mắc khác Chất lượng đội ngũ thực hiện công tác QLNN đối với hoạt động TGPL cũng còn gặp nhiều hạn chế, vì hiện nay hầu hết số lượng chuyên viên của các phòng đều là những sinh viên mới ra trường, mặc dù có kiến thức cơ bản nhưng kinh nghiệm làm việc còn hạn chế. Số lượng sinh viên mới ra trường, có thời gian làm việc đến 3 năm chiếm gần 50% số lượng chuyên viên. Mặc khác, do hoạt động TGPL hầu như chỉ diễn ra tại Trung tâm TGPL, do đó, chức năng QLNN đối với hoạt động TGPL ở các phòng hầu như không thực hiện mà giao hẳn sang cho Trung tâm TGPL để Trung tâm quản lý thực hiện. Câu lạc bộ TGPL là hình thức hoạt động TGPL cộng đồng, mới được hình thành từ khi có Luật trợ giúp pháp lý tại địa bàn (thực ra, trước đó, Cục TGPL dựa trên việc tổng kết hoạt động của các câu lạc bộ TGPL ở các địa phương khác và đề xuất đưa mô hình này vào Luật trợ giúp pháp lý). Câu lạc bộ TGPL được lập ra để người được TGPL và những người có hoàn cảnh đặc biệt khác ở địa phương tham gia sinh hoạt, trao đổi những vướng mắc pháp luật của họ với nhau nhằm tăng cường khả năng tự giải quyết hoặc hỗ trợ giải quyết vướng mắc thông qua tư vấn pháp luật, giúp đỡ kiến thức pháp luật để hỗ trợ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người được TGPL. Đến tháng 11/2009, ở Gia Lai, đã thành lập được 51 Câu lạc bộ TGPL. Qua thực tiễn hoạt động cho thấy tính hiệu quả và những kết quả nhất định, bước đầu tạo cầu nối giữa người dân với chính quyền, tạo điều kiện cho người tham dự có thể bộc bạch những tâm tư, nguyện vọng, những vướng mắc pháp luật ngay tại địa bàn dân cư. Tuy nhiên, đối với TGPL thì Câu lạc bộ lại có những đặc thù rất riêng, vì người tham gia sinh hoạt hầu hết là người được TGPL đang sinh sống tại địa bàn cấp xã (họ là người nghèo hoặc đối tượng chính sách). Trong cùng một thời điểm, Câu lạc bộ này thực hiện hai chức năng: chức năng của một Câu lạc bộ với tư cách là sân chơi giải trí lành mạnh, cung cấp kiến thức pháp luật cho người dân đúng như tên gọi của nó, bên cạnh đó, Câu lạc bộ còn có chức năng thực hiện TGPL cho những người thuộc diện được TGPL. Trong khi đó yêu cầu đặt ra khi sinh hoạt lại quá cao (nội dung sinh hoạt của Câu lạc bộ vừa phải sinh động vừa phải thực hiện TGPL) nên có lúc, có nơi còn gặp nhiều lúng túng; các thành viên trong Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ chưa được tập huấn chuyên sâu về kiến thức pháp luật kỹ năng tổ chức nhằm đạt mục đích, yêu cầu của một buổi sinh hoạt TGPL. Mặc dù Ban Tư pháp trực tiếp điều hành Câu lạc bộ nhưng do thời gian cũng như năng lực và trình độ pháp luật còn hạn chế nên nhiều lúc chưa thực sự thuyết phục các thành viên tham gia Câu lạc bộ thậm chí không thể giải toả được vướng mắc pháp luật của các thành viên tham dự. Công tác quản lý chất lượng vụ việc tại một số địa phương chưa được lãnh đạo các Trung tâm TGPL nhà nước, người đứng đầu tổ chức tham gia TGPL quan tâm đúng mức; việc triển khai đánh giá chất lượng vụ việc tại một số nơi còn chậm và thiếu toàn diện; các hoạt động đánh giá chất lượng còn mang nặng tính hình thức hoặc mới chỉ dừng lại ở việc thẩm định để chi trả thù lao. Do đó chưa kịp thời chỉ ra và khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong các hoạt động TGPL ở từng giai đoạn, từng địa bàn, ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng vụ việc TGPL. 2.5. Nguyên nhân của những tồn tại trong quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý Những tồn tại, vướng mắc trên xuất phát từ hệ thống pháp luật về TGPL ở nước ta, điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của tỉnh Gia Lai và một số nguyên nhân khác. Cụ thể như sau: Một là, hệ thống pháp luật về TGPL ở nước ta hiện nay chưa hoàn thiện, tính hệ thống hóa chưa cao, thiếu thống nhất, chưa cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau nên khó áp dụng, gây khó khăn cho công tác quản lý. Điều này xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu do đất nước ta đang trong quá trình đổi mới mạnh mẽ, tình hình kinh tế - xã hội biến đồng không ngừng dẫn đến Luật và các văn bản dưới luật không thể theo kịp sự biến đồng đó. Mặt dù Luật và các văn bản này có tính dự báo, tức là đã có một khoảng thời gian để các văn bản này tồn tại và phù hợp với một số điều kiện mới phát sinh mà thời điểm ban hành văn bản chưa thể hiện trong xã hội. Mặt khác, lĩnh vực TGPL tuy là lĩnh vực hẹp nhưng có liên quan mật thiết đến các lĩnh vực khác như tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, lĩnh vực về cán bộ, công chức….nên công tác ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật cũng khó khăn. Mặt khác, cơ chế, kỹ năng xây dựng và ban hành các văn bản về TGPL cũng như hệ thống pháp luật nói chung chưa được hoàn thiện. Trong một thời gian ngắn, sau khi Luật trợ giúp pháp lý ra đời, Chính phủ, các Bộ, ngành đã có nhiều cố gắng trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn, tuy nhiên chưa đầu tư nghiên cứu đúng mức cho việc hoạch định chính sách, xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp, giải quyết kịp thời những vướng mắc của thực tiễn QLNN nên vẫn còn nhiều mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động TGPL. Hai là, các quy định của pháp luật hiện nay xác định chỉ khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong đó có đội ngũ luật sư và tổ chức hành nghề luật sư tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý mà không phải một quy định mang tính bắt buộc, có chế tài. Theo bà Tạ Thị Minh Lý trả lời báo Pháp luật Việt Nam khi xây dựng Luật trợ giúp pháp lý cho rằng “đây là vấn đề thuộc về đạo đức xã hội, làm luật sư phải biết luôn có tinh thần bênh vực, giúp đỡ người yếu thế. Vì vậy trợ giúp pháp lý là việc đương nhiên phải làm.” Tuy nhiên, “Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư dứt khoát phải đi kèm những chế tài cụ thể về các vi phạm” (Lê Thúc Anh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, phát biểu tại Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc năm 2009). Ba là, Gia Lai làm một tỉnh miền núi, kinh tế còn khó khăn, chủ yếu dựa vào nông nghiệp và khai thác, chế biến lâm sản nên nên việc thu hút đội ngũ tri thức, nhất là đội ngũ am hiểu về pháp luật về làm việc tại tỉnh gặp nhiều trở ngại. Dẫn đến Trung tâm TGPL cũng như Sở Tư pháp và ngành tư pháp của tỉnh Gia Lai đang thiếu nhiều người có trình độ đại học chuyên ngành luật (theo thống kê của Sở Tư pháp thì ở các huyện, thị xã, thành phố, Phòng Tư pháp có biên chế từ 03 đến 05 người, trong đó người có trình độ đại học chỉ chiếm 63%; đối với cấp xã thì trong tổng số 222 xã, phường, thị trấn thì cán bộ tư pháp – hộ tịch có trình độ đại học chỉ khoảng 20%). Hơn nữa, lại không có nguồn để tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng. Ngoài ra, việc điều chuyển cán bộ đã có kinh nghiệm trong công tác TGPL, đã qua đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL làm công việc khác; bố trí cán bộ mới làm công tác TGPL gây thiếu hụt về đội ngũ người thực hiện TGPL cũng như ảnh hưởng đến việc bố trí nhân lực theo lĩnh vực chuyên sâu về nghiệp vụ TGPL và chất lượng nguồn nhân lực thực hiện TGPL, nhất là đội ngũ cộng tác viên là cán bộ tư pháp – hộ tịch ở cấp xã...Nguyên nhân vì đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có trình độ rất thấp, trong khi đó những cán bộ có kinh nghiệm và đã qua bồi dưỡng, đào tạo về TGPL có trình độ hơn nên được điều chuyển qua làm công tác như Phó chủ tịch UBND, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã... Bốn là, viên chức tại Trung tâm TGPL cũng như công chức làm công tác QLNN tại các phòng thuộc Sở Tư pháp, hiện nay, ngoài chế độ chung về tiền lương và tiền khoán chi, họ không được hưởng chế độ, sự hỗ trợ hay khuyến khích nào khác. Điều này đã gây tác động không tốt đến tâm trạng, tinh thần làm việc và hiệu quả công tác của đội ngũ công chức, viên chức làm công tác QLNN về TGPL cũng như thực hiện TGPL. Theo Nghị định 07/2005/NĐ-CP, TGVPL được hưởng phụ cấp trách nhiệm theo nghề bằng 25% mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp vượt khung (nếu có). Khi tham gia tố tụng, thực hiện đại diện ngoài tố tụng, hoà giải trong trợ giúp pháp lý, TGVPL được hưởng phụ cấp vụ việc bằng 10% mức bồi dưỡng áp dụng đối với cộng tác viên. Tuy nhiên, đến nay, các TGVPL của Trung tâm trợ giúp pháp lý vẫn chưa nhận được chế độ trên do chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể. Năm là, các dịch vụ pháp lý còn khá xa lạ đối với người dân, ít khi người dân nhờ đến sự giúp đỡ của Luật sư khi có vụ việc liên quan đến pháp luật nên nghề Luật sư tại Gia Lai còn ít phát triển, dẫn đến nguồn cộng tác viên là Luật sư của Trung tâm TGPL không có. Sáu là, thiếu quy trình các thủ tục trong hoạt động TGPL để dễ kiểm soát chất lượng vụ việc. Theo Luật trợ giúp pháp lý thì chỉ mới quy định về trình tự yêu cầu TGPL tại Điều 33 Luật trợ giúp pháp lý và thụ lý vụ việc TGPL tại Điều 34 Luật trợ giúp pháp lý. Trong khi nếu áp dụng một quy trình quản lý sẽ thúc đẩy cả hệ thống làm việc tốt, giải phóng người lãnh đạo khỏi các công việc sự vụ lặp đi lặp lại; ngăn ngừa được những sai sót nhờ xác định rõ các quy trình, thủ tục giải quyết công việc và trách nhiệm của mỗi bộ phận, cá nhân; qua đó tạo điều kiện xác định đúng nhiệm vụ công việc và cách thức thực hiện để đạt được kết quả cũng như cung cấp cách nhận biết, giải quyết các sai sót và ngăn ngừa tái diễn. Bảy là, nhận thức về công tác TGPL của một số cơ quan, tổ chức, cá nhân và một số cấp uỷ, chính quyền chưa đầy đủ. Vì vậy, quá trình thực hiện Luật trợ giúp pháp lý cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành Luật trợ giúp pháp lý chưa thông suốt, thuận lợi, chưa nhận được sự quan tâm đúng mức, đầu tư nguồn lực cần thiết và kịp thời từ một số cơ quan, tổ chức có liên quan. Tám là, việc kiểm tra, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL chưa thường xuyên nên có tình trạng một số vụ việc TGPL chất lượng chưa cao, chưa bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL. Một số hoạt động của Trung tâm chưa đi vào thực chất và chưa bám sát nhu cầu TGPL của người dân, còn né tránh các vụ việc khó, gây “đụng chạm”. CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ 3.1. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về trợ giúp pháp lý Việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về TGPL là một yêu cầu cấp thiết nhằm phù hợp với sự thay đổi của đất nước ta hiện nay cũng như nhằm hoàn thiện tính thống nhất và đẩy đủ của các văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động TGPL.Từ những vấn đề tồn tại, vướng mắc đã được phân tích ở phần trên và các nguyên nhân của tồn tại, vướng mắc ấy, theo tôi cần thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất, cần đồng bộ hóa các văn bản pháp luật về vị trí, vai trò của TGVPL trong tố tụng. Đó là sự thống nhất giữa Luật trợ giúp pháp lý và Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Việc hoàn thiện này có thể là sửa đổi hệ thống pháp luật hướng dẫn thi hành Luật TGPL (cụ thể là mục II.3 Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC) , hoặc sửa các quy định về người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự trong các văn bản quy định về tố tụng. Đối với việc sửa đổi các văn bản về tố tụng (Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính) và Bộ luật dân sự, đây là một việc làm khó khăn, và tốn nhiều thời gian vì để thay đổi các văn bản này cần phải tuân theo quy trình ban hành văn bản Luật của Luật Ban hành văn bản. Do đó, đây là phương án khó khả thi. Tuy nhiên, trong dự thảo lần 3 Luật Tố tụng hành chính trình lên kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII thì Ban soạn thảo đã đưa thêm đối tượng là TGVPL là Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại khoản 2 Điều 52 như sau: Những người sau đây được Toà án chấp nhận làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: a) Luật sư tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật về luật sư; b) TGVPL hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo Luật trợ giúp pháp lý. Trong khi đó, quyền và nghĩa vụ của TGVPL và luật sư tham gia tố tụng là không khác gì nhau và được quy định chung tại khoản 4 Điều 52 Dự thảo: 4. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có các quyền, nghĩa vụ sau đây: a) Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng; được tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Toà án xét thấy cần thiết; b) Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; c) Tham gia phiên toà hoặc có văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; d) Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác theo quy định của Luật này. đ) Tranh luận tại phiên toà; e) Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; g) Tôn trọng Toà án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà. Đối với phương án sửa đổi Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC theo hướng TGVPL tham gia tố tụng với vai trò của Luật sư. Cụ thể như sau “TGVPL tham gia tố tụng theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 21 Luật Trợ giúp pháp lý với tư cách là Luật sư của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; của đương sự trong vụ án hình sự; trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính”. Ưu điểm của phương án này là thủ tục đơn giản, nhanh và gọn hơn. Vì đây chỉ là Thông tư liên tịch, thủ tục ban hành đơn giản hơn việc ban hành Luật. Trong khi đó để ban hành văn bản luật thì cần sửa chữa nhiều văn bản luật khác nhau, trải qua nhiều bước như trên đã phân tích. Hơn nữa, việc dựa vào vai trò của luật sư sẽ không phải sửa đổi, bổ sung các quyền của người bào chữa, người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Phương án này cũng phù hợp hơn với thực tế vì như trên đã phân tích, hầu hết các quyền và nghĩa vụ của TGVPL hiện nay đều giống như quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong các vụ án hình sự, vụ việc dân sự, hành chính. Tuy nhiên, cũng cần xem xét lại sự phù hợp của chế định người bào chữa trong tố tụng. Vì như trên đã phân tích, quyền và nghĩa vụ của luật sư và người đại diện hợp pháp trong vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự không được phân biệt rõ ràng. Trong khi, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo Bộ luật dân sự rất khác so với quyền và nghĩa vụ của luật sư. Do đó, cũng cần sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng bổ sung quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Sửa đổi mục II.3.b Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC theo hướng gọn hơn, không gây hiểu nhầm là chủ thể mới là LS CTV. Cụ thể sửa lại như sau: “LS CTV tham gia tố tụng theo quy định của Luật Luật sư và các văn bản có liên quan”. Tóm lại, mục II.3 Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC có thể được viết lại như sau: “TGVPL, LS CTV được cấp giấy chứng nhận để tham gia tố tụng với tư cách sau đây: a) TGVPL tham gia tố tụng theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 21 Luật Trợ giúp pháp lý với tư cách là Luật sư của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; của đương sự trong vụ án hình sự; trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính b) LS CTV tham gia tố tụng theo quy định của Luật Luật sư và các văn bản có liên quan”. Thứ hai, về vấn đề TGPL lưu động, cần sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 35 Nghị định 07/2007/NĐ-CP theo hướng các cơ quan, ban ngành tạo điều kiện để cán bộ, công chức, viên chức tham gia TGPL lưu động nhưng cũng chủ động trong việc sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức của mình. Cụ thể, khi cần huy động đại diện cơ quan, ban ngành ở cơ sở tham gia TGPL lưu động, Trung tâm TGPL, Chi nhánh TGPL phải thông báo ít nhất trước 5 ngày tổ chức lưu động. Nếu không bố trí được đại diện, cơ quan, ban ngành phải thông thông báo với Trung tâm TGPL, Chi nhánh TGPL ít nhất trước 3 ngày tổ chức thực hiện lưu động. Thứ ba, về chức năng của các cơ quan QLNN đối với hoạt động TGPL, cần sửa đổi khoản 2 Điều 44 Nghị định 07/2007/NĐ-CP như sau: “Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp là cơ quan chuyên môn giúp Bộ Tư pháp thực hiện QLNN và quản lý chuyên ngành về TGPL.” Vì Cục TGPL chỉ mang tính chất là cơ quan giúp việc của Bộ Tư pháp. Đồng thời cũng để phù hợp với các quy định trước đây. Tại Điều 1 Quyết định số 734/QĐ-TTg cũng quy định thành lập Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp để giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp QLNN về TGPL miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Tại Quyết định số 1989/QĐ-BTP cũng quy định “Cục TGPL là đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp QLNN về công tác TGPL trong phạm vi cả nước”. Cần bãi bỏ quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định 14/2008/NĐ-CP về chức năng QLNN về TGPL của UBND cấp huyện. Vì hiện nay, theo các văn bản hiện hành, Phòng Tư pháp chỉ có chức năng hướng dẫn thực hiện hoạt động của CLB TGPL. Trong khi đó, Câu lạc bộ TGPL được thành lập trên cơ sở quyết định của Chủ tịch UBND cấp xã. Nếu chỉ căn cứ vào nhiệm vụ này mà quy định UBND cấp huyện cũng thực hiện chức năng QLNN đối với hoạt động TGPL thì bắt buộc cũng phải quy định UBND cấp xã có chức năng QLNN đối với hoạt động TGPL. 3.2. Những giải pháp hoàn thiện cơ cấu, tổ chức, nâng cao năng lực đội ngũ thực hiện trợ giúp pháp lý Đội ngũ thực hiện TGPL chính là lực lượng giải quyết, thực hiện chính sách về TGPL. Đây là nhân tố cơ bản, quyết định tính hiệu quả trong QLNN đối với hoạt động TGPL. Để phát huy nhân tố này, cần thực hiện một số giải pháp sau: Một là, bám sát thực hiện Quyết định số 392/QĐ-UBND ngày 10/7/2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Đề án hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh theo Luật trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong đó, tập trung đầu tư hoàn thiện và phát triển cơ cấu, tổ chức của Trung tâm TGPL, đảm bảo số lượng biên chế của Trung tâm TGPL trong năm 2010 là 12 biên chế, cụ thể bổ sung: 01 Phó giám đốc Trung tâm TGPL, 04 chuyên viên đối với phòng nghiệp vụ TGPL. Cần xem xét, cân nhắc đối với việc thành lập các Chi nhánh của Trung tâm TGPL, nếu chưa đủ nguồn lực về đội ngũ và cơ sở, vật chất, kiên quyết chưa thành lập nhằm tránh tình trạng thành lập ra các Chi nhánh nhưng hoạt động không hiệu quả do không có đủ nguồn lực và cơ sở vật chất để hoạt động. Kết hợp với việc thực hiện nghiêm túc Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, Trung tâm TGPL sẽ có điều kiện tăng thu nhập cho viên chức, góp phần khắc phục hạn chế về kinh phí do ngân sách cấp cho hoạt động TGPL. Hai là, cần nâng cao hơn nữa vị trí, vai trò của các tổ chức Đoàn thể, Hội quần chúng trong TGPL. Về cơ bản ít nhiều, các tổ chức này cũng có khả năng thực hiện TGPL. Ví dụ đối tượng phụ nữ thông qua hội phụ nữ, đối tượng nông dân nghèo thông qua hội Nông dân, đối tượng người có công với cách mạng thông qua Hội Cựu chiến binh…Nếu tăng cường vai trò của các đoàn thể này sẽ tận dụng được nguồn lực của các tổ chức này (nhất là các tổ chức có hệ thống hoàn chỉnh. Ví dụ: Hội Cựu chiến binh được tổ chức ở bốn cấp: cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và cấp trung ương). Điều này sẽ bù đắp được những hạn chế trong các biện pháp thực hiện TGPL của Trung tâm TGPL. Khi có nhu cầu TGPL, người được TGPL có thể thông qua các tổ chức này để đưa yêu cầu đến Trung tâm TGPL. Do đó, Trung tâm TGPL cần có sự liên hệ chặt chẽ hơn nữa đối với các tổ chức này như hàng tháng gặp gỡ giao ban, khuyến khích các tổ chức này cử cán bộ, công chức tham gia làm cộng tác viên của Trung tâm TGPL, hoặc kết hợp để thực hiện tổ chức sinh hoạt các Câu lạc bộ (như phối hợp sinh hoạt giữa câu lạc bộ TGPL với Câu lạc bộ Nông dân…). Ba là, cần nhận thức đúng vai trò của luật sư trong việc thực hiện TGPL. Điều này sẽ giúp các cơ quan có chức năng có những chính sách, phương hướng hoạt động nhằm thúc đẩy sự tham gia của luật sư trong hoạt động TGPL. Luật sư là nghề góp phần quan trọng bảo đảm công lý, là công cụ hữu hiệu để thực hiện nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của công dân. Trợ giúp pháp lý cũng nhằm mục đích đem lại công bằng cho những người không có điều kiện về kinh tế tiếp cận với công lý. Do đó, hoạt động trợ giúp pháp lý không thể tách rời nghề luật sư. Trong Luật luật sư tại Điều 31 cũng quy định “Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý.”.Trên thế giới hiện nay, tồn tại ba mô hình TGPL phổ biến, đó là: một là, mô hình TGPL từ thiện (là mô hình dựa hoàn toàn vào sự hảo tâm hoạt động của luật sư tình nguyện thực hiện các dịch vụ pháp lý miễn phí), hai là, mô hình TGPL nhà nước (là mô hình nhà nước tổ chức, quản lý và cung cấp kinh phí cho các tổ chức thực hiện TGPL), ba là mô hình hỗn hợp (là mô hình kết hợp giữa hai mô hình trên, mà mô hình ở nước ta đang mô phỏng theo). Dù là mô hình nào thì “các luật sư hành nghề tự do đều giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động TGPL”( () Nhận thức về vai trò, trách nhiệm, hình thức, phương thức tham gia của luật sư đối với hoạt động TGPL theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý 2006, Nguyễn Văn Tùng, Nhà nước và pháp luật số 1/2008, tr 63. ). Hiện nay, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã và đang có những thay đổi lớn về chất lượng hoạt động, phục vụ khách hàng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế nước ta đang hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhất là sau khi nước ta gia nhập tổ chức WTO. Trong đó, để đánh giá chất lượng của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư đã có những giải thưởng, danh hiệu tôn vinh những luật sư, tổ chức hành nghề luật sư nhằm xếp loại luật sư, tổ chức hành nghề luật sư như danh hiệu “Hãng luật và luật sư của năm”(() Chương trình bình chọn danh hiệu “Hãng luật và LS của năm” là hoạt động thường niên do Báo Pháp luật Việt Nam phối hợp với Bộ Tư pháp, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các tổ chức nhằm góp phần tôn vinh nghề nghiệp của các Luật sư và tổ chức hành nghề Luật sư, xây dựng hình ảnh, thương hiệu của các hãng luật, luật sư tham gia cuộc bình chọn. Chương trình được trao giải lần đầu tiên vào ngày 04/05/2010 tại Hà Nội. ), danh hiệu“ Luật sư của công chúng”(() Đây là danh hiệu được tổ chức cùng với Chương trình bình chọn “Hãng luật và Luật sư của năm” do Báo Pháp luật Việt Nam tổ chức bình chọn.Tại lần đầu, có 03 Luật sư được vinh danh là Luật sư Phạm Hồng Hải (Văn phòng Luật sư Phạm Hồng Hải và Cộng sự), Luật sư Thiệu Ánh Dương (Đoàn Luật sư T.P Hồ Chí Minh), Luật sư Đặng Anh Đức (Văn phòng Luật sư Đặng và Cộng sự). ). Để gắn với nhiệm vụ cao cả của luật sư, trong các tiêu chí để vinh danh các danh hiệu trên cần có tiêu chí thực hiện TGPL của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Không những thế, cần coi đây là tiêu chí bắt buộc, hàng đầu. Tuy nhiên, tại Quyết định số 498 /QĐ-TBT, ngày 11 tháng 12 năm 2009 của Tổng Biên tập Báo Pháp luật Việt Nam về việc ban hành quy chế bình chọn danh hiệu “hãng luật và luật sư của năm” thì tiêu chí bình chọn hai danh hiệu trên hoặc không đề cập đến nghĩa vụ TGPL hoặc coi đây chỉ là một tiêu chí nhỏ trong thang điểm xét chọn. Do đó, cần có sự sửa đổi trong quy chế bình chọn, trong đó tách tiêu chí về TGPL ra riêng với thang điểm 10/100. Bốn là, đối với cộng tác viên không là luật sư, cần tăng cường số lượng tại những vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó chú trọng phát triển cán bộ tại chỗ là người dân tộc thiểu số (qua chế độ cử tuyển, ưu đãi, thu hút sinh viên luật); thu hút các cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan đã nghĩ hưu; cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, luật gia, hòa giải viên cơ sở, trưởng thôn, trưởng bản làm cộng tác viên, chú trọng phát triển cộng tác viên ở cấp cơ sở, trong đó ưu tiên lựa chọn cán bộ nữ và cán bộ là người dân tộc thiểu số. Năm là, cần bổ sung đội ngũ chuyên viên tại Trung tâm TGPL là người thực hiện TGPL (nhưng chỉ thực hiện các hình thức TGPL khác, không phải là tham gia tố tụng) nhằm khắc phục tình trạng thiếu người thực hiện TGPL. Thực tế, từ khi các Trung tâm TGPL được thành lập đến trước khi Luật trợ giúp pháp lý ra đời, thì việc thực hiện TGPL đều do đội ngũ chuyên viên tại Trung tâm TGPL thực hiện. Hơn nữa, chất lượng vụ việc TGPL cũng được nâng cao vì đội ngũ này hoạt động một cách chuyên nghiệp và dễ kiểm soát được chất lượng vụ việc. Hiện nay, đội ngũ chuyên viên chỉ đóng vai trò giúp việc cho đội ngũ TGVPL, gây lãng phí nguồn nhân lực trong khi họ đều là cử nhân luật, có trình độ pháp lý cao hơn hẳn so với lực lượng cộng tác viên là già làng, trưởng bản hay hòa giải viên. Sáu là, cần chú trọng tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là các kỹ năng TGPL cho đội ngũ TGVPL, chuyên viên, cộng tác viên là cán bộ tại cơ sở như đồng bào dân tộc thiểu số, già làng, trưởng bản. Cần đặt việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng về TGPL trong tổng thể các giải pháp về kiện toàn, củng cố phát triển lực lượng thực hiện TGPL cũng như chất lượng thực hiện TGPL. Trong đó, xây dựng cơ chế đánh giá chất lượng bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL. Bao gồm 3 bước thực hiện: Bước 1: Xác định đầu vào gồm nhu cầu về nội dung nghiệp vụ TGPL, các kiến thức, kỹ năng đã có của học viên, cơ sở, vật chất cần có để đảm bảo cho việc tập huấn, chất lượng giảng viên. Ví dụ: đối với chuyên viên, cộng tác viên, TGVPL không phải là người dân tộc thiểu số cần nâng cao khả năng giao tiếp của họ khi tiếp xúc với người dân tộc thiểu số (tập huấn, đào tạo về tiếng nói, phong tục của người dân tộc thiểu số). Đối với các cộng tác viên là già làng, trưởng bản, cán bộ hòa giải cần nâng cao kiến thức pháp luật… Bước 2: Trong quá trình tập huấn, cần xác định được phương pháp truyền đạt, phương pháp giảng dạy, dành nhiều thời gian thảo luận, trao đổi và giải quyết tình huống, vụ việc mẫu. Đối với tập huấn các kỹ năng TGPL, chủ yếu giúp học viên thực hành các thao tác, quy trình, thủ tục thông qua giải quyết vụ việc cụ thể hoặc đưa ra các bài tập trắc nghiệm. Bước 3: Xác định đầu ra, học viên hoàn thành chương trình bồi dưỡng, thực hành thành thạo những kỹ năng, biết sử dụng kiến thức đã được bồi dưỡng như thế nào thông qua việc viết bài thu hoạch hoặc kiểm tra kỹ năng thực hành. Đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm để tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng sau. Theo Quy chế bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-BTP ngày 05/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp thì Trung tâm TGPL nhà nước có trách nhiệm tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL thường xuyên cho người thực hiện TGPL theo kế hoạch đã được Giám đốc Sở Tư pháp phê duyệt. Đồng thời, theo Đề án “Bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý giai đoạn 2008-2010, định hướng đến năm 2015” ban hành kèm theo Quyết định số 10/2008/QĐ-BTP ngày 10/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp thì đối tượng bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên của Trung tâm là cộng tác viên của Trung tâm, thành viên Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ TGPL, luật sư, tư vấn viên pháp luật của các tổ chức tham gia TGPL. Với nhóm đối tượng cần bồi dưỡng nghiệp vụ như vậy và phải tiến hành liên tục trong phạm vi thời gian dài để bảo đảm tiến độ mà Đề án đã đặt ra, cần thiết phải xây dựng một quy trình “bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý thường xuyên và đột xuất” của Trung tâm TGPL. 3.3. Một số giải pháp khác Ngoài các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trợ giúp pháp lý, hoàn thiện cơ cấu, tổ chức, nâng cao năng lực đội ngũ thực hiện trợ giúp pháp lý, theo tác giả cần tiến hành một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động trợ giúp pháp lý là: - Các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp cần nhận thức đúng đắn và đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động TGPL, coi đây là một hoạt động không thể thiếu trong hoạt động của Nhà nước cũng như của xã hội; quan tâm, chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện hoạt động này trên địa bàn mình. - Bổ sung biên chế cũng như phân công trách nhiệm cho các công chức làm công tác QLNN về TGPL. Trước mắt, cần bổ sung 01 biên chế tại Phòng Hành chính Tư pháp và Bổ trợ Tư pháp thuộc Sở Tư pháp để thực hiện chức năng QLNN về TGPL theo nhiệm vụ của Phòng được phân công. - Cần quy định việc đào tạo chức danh TGVPL như một chức danh tư pháp và việc đào tạo, cấp chứng chỉ do Học viện Tư pháp thực hiện. Theo Điều 3 Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg ngày 25 tháng 02 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Học viện Tư pháp thì Học viện Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: 1. Đào tạo nghiệp vụ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, chấp hành viên, công chứng viên và các chức danh tư pháp khác; 2. Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho chấp hành viên, công chứng viên, luật sư và cán bộ có chức danh tư pháp khác thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp; 3. Nghiên cứu khoa học phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có chức danh tư pháp; 4. Hợp tác với các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài trong việc đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học. Như vậy, Học viện Tư pháp ngoài việc đào tạo nghiệp vụ các chức danh tư pháp như hiện nay, bao gồm các chức danh: thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, chấp hành viên, công chứng viên, Học viện Tư pháp cũng có chức năng đào tạo các chức danh tư pháp khác, mà một trong số đó là chức danh TGVPL. Hơn nữa, tại Quyết định số 07/2008/QĐ-BTP ngày 05 tháng 12 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Ban hành Quy chế bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý, nội dung, hình thức khoá bồi dưỡng nguồn bổ nhiệm TGVPL được quy định tương tự như khóa đào tạo luật sư. Trong khi đó, Học viện Tư pháp (mà cụ thể là Khoa Đào tạo Luật sư) có đội ngũ giáo viên có năng lực, trình độ cao. 100% giảng viên cơ hữu của Khoa có trình độ thạc sỹ trở lên trong đó có 06 tiến sỹ (trong đó 02 tiến sỹ bảo vệ ở nước ngoài). Bên cạnh đội ngũ giảng viên cơ hữu, Khoa Đào tạo Luật sư còn có một đội ngũ giảng viên thỉnh giảng đông đảo, có trình độ, có năng lực và kỹ năng hành nghề cao. Các giảng viên thỉnh giảng là các chuyên gia, luật sư có uy tín của các bộ ngành, của các đoàn luật sư trên toàn quốc.(() ) Do đó, Học viện Tư pháp hoàn toàn có khả năng để tổ chức các lớp bồi dưỡng nguồn TGVPL. - Thực hiện lồng ghép hoạt động TGPL với các Chương trình mục tiêu Quốc gia khác nhằm bổ sung kinh phí dành cho hoạt động TGPL. Trong những năm qua, hoạt động TGPL đã được lồng ghép với chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo (theo Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 05 tháng 02 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010) và đã được cấp một lượng kinh phí đáng kể (khoảng 6 tỷ đồng( Nguyễn Trọng Nghĩa, Tăng cường nguồn lực tài chính và hỗ trợ xã hội cho công tác TGPL, Hội thảo về xây dựng chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam, Hà Nội, tháng 4/2009, tr 24. )) để thực hiện một số hoạt động cụ thể, mang hiệu quả rất lớn. Trong thời gian tới, cần có sự tổng kết, đánh giá để có cơ sở kiến nghị với Chính phủ cho thực hiện lồng ghép với các Chương trình mục tiêu Quốc gia khác về dân số, việc làm, giáo dục, đào tạo… - Đối với Câu lạc bộ TGPL, trong buổi sinh hoạt cần có kế hoạch cụ thể, khảo sát, nắm bắt được những vướng mắc cũng như nhu cầu của người dân nhằm chuẩn bị được nội dung sinh hoạt hợp lý. Gắn kết việc tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL với sinh hoạt của các Câu lạc bộ khác (như phần trên đã nêu) nhằm tạo sức cuốn hút của người dân. Mặt khác, Trung tâm TGPL và Phòng Tư pháp cũng cần có sự hướng dẫn nghiệp vụ, cử người tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ. Cũng như giúp đỡ các Câu lạc bộ về mặt nội dung sinh hoạt (như sưu tầm các tình huống pháp lý,…). - Thiết lập hồ sơ theo dõi kết quả TGPL đối với từng người thực hiện TGPL. Trước hết, cần quy định cụ thể về quy trình để các tổ chức thực hiện TGPL theo dõi kết quả cuối cùng của từng vụ việc. Việc theo dõi liên tục kết quả thực hiện TGPL sẽ là cơ sở để đưa ra kết luận về chất lượng và năng lực của người thực hiện TGPL. Song song với việc thiết lập hồ sơ theo dõi kết quả TGPL của từng người thực hiện TGPL cũng cần đánh giá chất lượng vụ việc có tính chất ngẫu nhiên một cách thường xuyên. - Xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2008 trong hoạt động TGPL theo Quyết định số 118/2009/QĐ-TTg ngày 30/9/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg ngày 20 tháng 6 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ quy định áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Hiện nay, tại Trung tâm TGPL chỉ mới dừng lại ở việc quy định Quy chế làm việc để điều chỉnh sự phối hợp trong quan hệ công tác. Việc áp dụng tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 sẽ giúp làm rõ trách nhiệm của từng cá nhân, đơn vị; rõ cách làm (trình tự, cơ sở pháp lý); xây dựng phần mềm máy tính cho xử lý công việc qua mạng và trong xử lý nội bộ cơ quan với các công việc khác. Mặt khác, cũng nhằm kiểm soát tài liệu và kiểm soát hồ sơ tốt hơn. Hệ thống văn bản liên quan tới từng lĩnh vực và hồ sơ tương ứng với từng vụ việc đã giải quyết được thu thập, sắp xếp, mã hoá, lưu giữ ở từng đơn vị chức năng. Tình trạng tài liệu, hồ sơ để phân tán, thất lạc, không được cập nhật kịp thời sẽ được khắc phục đáng kể, rất thuận lợi cho việc khai thác, sử dụng. Trước mắt cần xây dựng quy trình: thực hiện TGPL (bao gồm các công việc: tiếp dân và thực hiện tư vấn pháp luật, cử TGVPL, LS CTV tham gia tố tụng v.v…); tổ chức thực hiện TGPL lưu động (Xem phụ lục 4: Các quy trình quản lý chất lượng để xây dựng tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2008). Tóm lại, hoạt động TGPL là một hoạt động còn mới mẻ nên hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động TGPL còn chưa được đồng bộ. Trong đó, quy định về vị trí, vai trò của TGVPL trong hoạt động tố tụng còn nhiều vướng mắc, gây khó khăn cho hoạt động này. Về cơ cấu, tổ chức và kinh phí cho hoạt động TGPL cũng còn nhiều khó khăn. Vì vậy, Nhà nước với vai trò chủ thể quản lý cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm về hoạt động TGPL trong những năm qua, nhất là quá trình thực hiện Luật trợ giúp pháp lý để thúc đẩy hoạt động này ngày một phát triển. KẾT LUẬN Trong điều kiện Đảng và Nhà nước ta đang phấn đấu xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân, trợ giúp pháp lý là một công cụ để nhà nước thực hiện công bằng trong xã hội, thúc đẩy quá trình trên. Đối với Gia Lai là một tỉnh miền núi, kinh tế và trình độ dân trí còn thấp, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 50% dân số toàn tỉnh nên công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý được các cấp Đảng và chính quyền quan tâm. Tuy nhiên, thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh cũng còn nhiều tồn tại, vướng mắc. Tuy hoạt động trợ giúp pháp lý là một hoạt động đã có từ lâu ở nước ta, tuy nhiên phải đến năm 1997, hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý mới được hình thành và đến năm 2005, một văn bản luật về trợ giúp pháp lý đầu tiên được ban hành, đó là Luật trợ giúp pháp lý. Từ đó đến nay, qua năm năm thực hiện Luật trợ giúp pháp lý, đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn điều chỉnh. Tuy nhiên, vị trí, vai trò cũng như quyền và nghĩa vụ của trợ giúp viên pháp lý và Luật sư cộng tác viên khi tham gia tố tụng vẫn còn nhiều vướng mắc. Mặt khác, việc đào tạo chức danh trợ giúp viên pháp lý vẫn còn chưa hợp lý. Ngoài ra, trong quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý, vấn đề quản lý nhà nước đối với tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý (trong các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, luận văn tập trung phân tích về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Gia Lai) đang gặp nhiều khó khăn về con người, kinh phí và các điều kiện khác để thực hiện nhiệm vụ của mình. Ngoài hai vấn đề trên, luận văn cũng nêu lên một số vướng mắc, bất cập khác trong quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý, đó là việc huy động các cơ quan, ban ngành ở cơ sở tham gia trợ giúp pháp lý, quy định đối với các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý, đánh giá chất lượng vụ việc, nâng cao chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, sự hoạt động của câu lạc bộ trợ giúp pháp lý Luận văn đã nêu ra nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc trên và đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại trên nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý. Cụ thể: các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vị trí của người thực hiện trợ giúp pháp lý trong tố tụng, cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý, tổ chức thực hiện pháp luật, nâng cao vị trí, vai trò của Luật sư, các tổ chức Đoàn thể, Hội, quần chúng trong trợ giúp pháp lý, và một số giải pháp khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý.doc
Luận văn liên quan