MỞĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sau hơn 05 năm thi hành Luật Đất đai 2003, công tác quản lý nhà nước (QLNN) về đất đai ngày càng hiệu quả và phù hợp hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Năng lực, trình độ chuyên môn của một số cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác QLNN về đất đai.
- Việc chấp hành pháp luật đất đai của các cấp, các ngành và của nhân dân chưa thật nghiêm minh; tình trạng lấn chiếm đất đai, giao đất không đúng thẩm quyền, thu tiền sử dụng đất sai quy định; công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất còn nhiều bất cập, gây cho nhân dân nhiều bức xúc; tình trạng khiếu kiện, tranh chấp đất đai ở một số địa phương còn kéo dài; công tác quy hoạch – kế hoạch sử dụng đất; công tác đo đạc lập bản đồ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lập hồ sơ địa chính; công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo v.v còn tồn tại những khiếm khuyết, sơ hở, tính đồng bộ chưa cao. Tất cả những vấn đề đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả của công tác QLNN về đất đai. Việc nghiên cứu lĩnh vực QLNN về đất đai trong tình hình hiện nay là rất cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng nhằm:
- Tìm ra những nguyên nhân hạn chế, yếu kém trong công tác QLNN về đất đai, đồng thời có biện pháp cụ thể, thích hợp nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả QLNN về đất đai.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm giúp các cấp, các ngành thực hiện tốt chức năng QLNN về đất đai.
- Nâng cao nhận thức toàn xã hội trong việc chấp hành tốt pháp luật đất đai.
- Bảo đảm quyền sở hữu của Nhà nước đối với đất đai, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân trong việc sử dụng đất.
Vân Canh là một trong ba huyện miền núi của tỉnh Bình Định đang được Nhà nước quan tâm đầu tư phát triển, nằm ở vị trí cửa ngõ phía Tây Nam của tỉnh cách thành phố Quy Nhơn khoảng 35 km, có lợi thế về giao thông như tỉnh lộ 638; đường sắt Bắc Nam chạy qua nối liền với tỉnh Phú Yên, có tiềm năng lớn về đất đai. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của huyện đến năm 2020 là “ Nông lâm nghiệp – Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp – Du lịch và Dịch vụ ”. Vì vậy trong thời gian đến công tác QLNN về đất đai có ý nghĩa và tầm quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, ổn định đời sống của nhân dân, khai thác tốt tiềm năng đất đai, bảo vệ quyền lợi hài hòa của Nhà nước và nhân dân trong việc sử dụng quỹ đất hiện có của địa phương.
Việc nghiên cứu đánh giá thực trạng của công tác QLNN về đất đai, đề ra các biện pháp thiết thực nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả của công tác này trên địa bàn huyện. là rất thiết thực trong giai đoạn hiện nay.
Với những ý nghĩa nêu trên, được sự quan tâm giúp đỡ của UBND huyện Vân Canh, phòng Tài nguyên và Môi trường huyện, sở Tài nguyên và Môi trường và các ngành có liên quan tôi chọn đề tài tiểu luận: “Quản lý nhà nước về lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện Vân Canh”.
26 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 14665 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý Nhà nước về lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện Vân Canh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mới.
Đầu năm 1981, Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp. Tiếp theo, Đại hội Đảng khóa VI năm 1986 đã đưa vấn đề lương thực - thực phẩm trở thành một trong ba chương trình mục tiêu đổi mới kinh tế. Năm 1987 Luật Đất đai lần đầu tiên của nước ta được ra đời, có hiệu lực từ năm 1988. Dấu mốc tiếp theo có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế nông nghiệp là Nghị Quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 5/4/1989, một văn kiện quyết định nhằm đổi mới chế độ sử dụng đất nông nghiệp. Nghị Quyết đã khẳng định việc chuyển nền nông nghiệp tự cung tự cấp theo hướng sản xuất hàng hóa. Đây là những bước đi có tính then chốt nhằm phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn trên cơ sở Nhà nước giao đất cho hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài.
Để triển khai Luật Đất đai 1987, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VII, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phê chuẩn hai Pháp lệnh, Chính phủ đã ban hành một Nghị định, Thủ tướng Chính phủ đã có một Chỉ thị. Tổng cục Quản lý Ruộng đất đã ban hành một số Quyết định và Thông tư hướng dẫn.
Hiến pháp 1992 ra đời, trong đó quy định rõ chế độ sở hữu và quản lý đất đai: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân ” (Điều 17), “ Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật ” (Điều 18).
I.2.3. Thời kỳ từ 1993 đến nay
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Luật Đất đai năm 1993 ( bao gồm cả Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001 ) là một trong những đạo luật quan trọng thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện Luật Đất đai năm 1993 là tích cực, thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần ổn định chính trị - xã hội.
Tuy nhiên trước tình hình phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã hội, pháp luật về đất đai đã bộc lộ những hạn chế như: Pháp luật đất đai chưa xác định nội dung cốt lõi của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước thống nhất quản lý, vai trò đại diện chủ sở hữu toàn dân của Nhà nước chưa xác định trong Luật. Pháp luật đất đai chưa theo kịp tiến trình chuyển đổi nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, chưa có đủ các chế định cần thiết về định giá đất, về điều tiết địa tô chênh lệch, về điều tiết lợi nhuận qua việc chuyển nhựơng quyền sử dụng đất, về bồi thường khi thu hồi đất, về đấu thầu, đấu giá quyền sử dụng đất v.v…
Để khắc phục những thiếu sót nêu trên, thực hiện Nghị quyết số: 12/2001/QH11 về chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh cúa Quốc hội khóa XI (2002 – 2007), tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Đất đai 2003 và bắt đầu có hiệu lực vào ngày 01/07/2004. Luật đã khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Vai trò của QLNN về đất đai được nâng lên một bậc, việc phân cấp quyền hạn, chức năng QLNN của từng cấp được xác định rõ ràng hơn. Đất đai được quản lý chặt chẽ và sử dụng hợp lý hơn, mang lại hiệu quả kinh tế hơn.
Đất đai là tài nguyên đặc biệt, trước hết bởi đất đai có nguồn gốc tự nhiên, là tặng vật tự nhiên dành cho con người, tiếp đến mới là thành quả do tác động khai phá của con người. Cái tính chất vô cùng đặc biệt của đất đai là ở chỗ tính chất tự nhiên và tính chất xã hội đan quyện vào nhau; nếu không có nguồn gốc tự nhiên, thì con người dù có tài giỏi đến đâu cũng không tự mình (dù là sức cá nhân hay tập thể) tạo ra đất đai được. Con người có thể làm ra nhà máy, lâu đài, công thự và sản xuất, chế tạo ra muôn nghìn thứ hàng hoá, sản phẩm, nhưng không ai có thể sáng tạo ra đất đai. Do đó, quyền sở hữu, định đoạt, sử dụng đất đai, dù Nhà nước hay người dân cũng cần phải hiểu đặc điểm, hết sức đặc biệt ấy.
Đất đai quý giá còn bởi con người không thể làm nó sinh sản, nở thêm, ngoài diện tích tự nhiên vốn có của quả đất. Khi chúng ta nói đất đai là hàng hoá, dù có thêm hai chữ đặc biệt vào đó, thì cũng không lột tả được hết tính chất đặc biệt của đất đai cả về phương diện tự nhiên cũng như xã hội. Vì thế, sự ứng xử với vấn đề đất đai trong hoạt động quản lý không thể được đơn giản hoá, cả trong nhận thức cũng như trong hành động.( Trích trong bài viết “Quản lý đất đai - những khía cạnh đặc thù”- của Đ/C Phạm Quang Nghị: Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam ).
I.3. Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai
Quản lý nhà nước về đất đai là sự tác động có tổ chức và điều khiển quyền lực của Nhà nước bằng pháp luật đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người trong lĩnh vực đất đai, nhằm duy trì phát triển các mối quan hệ xã hội, trật tự pháp luật đất đai và thực hiện tốt những chức năng, nhiệm vụ QLNN về đất đai trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
I.4. Nguyªn tắc quản lý nhà nước về đất đai
Đất đai giữ vị trí và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống của con người, là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Cho nên quản lý nhà nước về đất đai phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Quản lý đất đai phải trên cơ sở pháp luật đất đai, các văn bản, biểu mẫu quy định, hướng dẫn của Nhà nước và các cơ quan chuyên môn từ Trung ương đến địa phương.
- Phải quản lý và sử dụng hợp lý toàn bộ vốn đất đai hiện của Nhà nước.
- Phải đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Tăng cường hiệu quả kinh tế sử dụng đất đai.
- Bảo vệ đất, cải tạo đất và bảo vệ môi trường sống.
I.5. Các nội dung quản lý nhà nước về đất đai:
Tại điều 6 Luật Đất đai 2003 quy định rõ các nội dung quản lý nhà nước về đất đai như sau:
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó.
- Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính.
- Khảo sát đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất.
- Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
- Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Thống kê, kiểm kê đất đai.
- Quản lý tài chính về đất đai.
- Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản.
- Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
- Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai.
- Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TRONG THỜI GIAN QUA ( 2005-2008 )
II.1 Đặc điểm, tình hình
II.1.1. Điều kiện tự nhiªn
+ Vị trí địa lý
Vân Canh là huyện có diện tích tự nhiên lớn nhất tỉnh với 80.020,84 ha, vị trí của huyện nằm ở tọa độ địa lý : từ 13o30’ đến 13o50’ vĩ độ Bắc và từ 108o50’ đến 109o05’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Tây Sơn và An Nhơn. Phía Nam giáp huyện Đồng Xuân - tỉnh Phú Yên. Phía Đông giáp huyện Vân Canh & Thành phố Quy Nhơn. Phía Tây giáp huyện Kôngchoro - tỉnh Gia Lai.
+ Địa hình
Địa hình của Vân Canh có độ cao chênh lệch giữa các vùng trong huyện rất lớn. Độ cao lớn nhất là 700 mét, độ cao trung bình là 200 m, địa hình bị phân cắt mạnh, phần lớn là các sườn núi có độ dốc trên 250 m. Địa hình núi thấp và thung lũng kiến tạo - xâm thực : chủ yếu là đất nông nghiệp và các khu dân cư xen kẽ, sông suối và các hồ đập.
+ Khí hậu
Vân Canh nằm trong tiểu vùng khí hậu Duyên hải Nam Trung Bộ là vùng khí hậu nhiệt đới ẩm.Với nền nhiệt độ cao và ổn định, lượng bức xạ phong phú, số giờ nắng dồi dào với 2 mùa mưa và khô rõ rệt. Tổng lượng mưa lớn, mùa mưa bắt đầu từ đầu tháng 9 đến hết tháng 12, mùa khô bắt đầu từ tháng 1 đến cuối tháng 8, lượng mưa phân bố không đều.
+ Tài nguyên đất
Theo kết quả điều tra của Hội khoa học đất Việt Nam, với phương pháp đánh giá đất của FAO-UNESCO, trên địa bàn huyện Vân Canh có các nhóm đất sau:
Đất Cát (C): Arenosols (AR): Diện tích 282 ha (chiếm 0,35% diện tích tự nhiên); Đất Phù sa (P): Fluvisols (FL): Diện tích: 2.367 ha (chiếm 2,96% diện tích tự nhiên): Phân bố tập trung tại các xã: Canh Vinh, Canh hiển, Canh Hiệp. Đất Xám (X): Acrisols (AC): Diện tích: 76.270 ha (chiếm 95,58% diện tích tự nhiên).
+ Tài nguyên khoáng sản
Đá xây dựng trên địa bàn huyện phần lớn là chủng loại granit, gabro, bazan. Đá có chất lượng tốt, cường độ cao, sử dụng tốt cho các công trình công nghiệp, dân dụng và cơ sở hạ tầng đường giao thông, thuỷ lợi. Cát xây dựng phân bổ trong các bãi bồi, doi cát và lòng sông cạn dọc theo sông Hà Thanh với khối lượng lớn đáp ứng nhu cầu xây dựng trong huyện.
II.1.2. Thùc tr¹ng ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi
+ Kinh tế
Thời kỳ 1995 - 2008 nền kinh tế của Vân Canh có mức tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm khoảng 6,35% ( bình quân cả tỉnh 8,95% ). Trong đó thời kỳ 1995 - 2000 tăng bình quân 4,83% năm và thời kỳ 2001-2008 tăng bình quân 7,9% năm. Nhìn chung cơ cấu kinh tế của huyện Vân Canh kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, thời gian qua cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch, tỷ trọng ngành tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ tăng, nhưng vẫn còn chậm. Hiện nay, nền kinh tế của huyện bước đầu đi vào ổn định và đang được quan tâm đầu tư để phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện một bước. Tuy nhiên so với mặt bằng chung của tỉnh thì nền kinh tế của huyện Vân Canh phát triển còn rất chậm.
. + Dân số, lao động và việc làm
Qua 10 năm từ năm 1998 đến 2008, dân số Vân Canh có sự phát triển khá nhanh, tăng 1,2 lần và tốc độ tăng bình quân hàng năm là 1,88% ( bình quân cả tỉnh chỉ 1,17%). Dân số trên địa bàn huyện năm 2008 là 25.253 người. Mật độ dân số 32 người/km2, quá thấp so với mật độ bình quân của cả tỉnh. Dân số trên địa bàn huyện năm 2008 là 26.213 người.
Năm 2008, toàn huyện có 13.717 người trong độ tuổi lao động, công nhân lành nghề, và chất lượng nguồn lao động không đồng đều giữa các vùng trong huyện. Hàng năm đã giải quyết việc làm cho khoảng 500 động lao. Tuy nhiên trong 5 năm tới sẽ có khoảng 3000 người đến tuổi lao động nên gây áp lực rất lớn về việc làm cho nhân dân, vì vậy cần được các cấp, các ngành quan tâm giải quyết trong những năm tới.
II.1.4. T×nh h×nh sö dông ®Êt vµ tiÒm n¨ng ®Êt ®ai
+ Hiện trạng sử dụng đất:
Theo số liệu thống kê đất đai năm 2005, tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện là 80.020,84 ha, được phân bố sử dụng cho các loại đất chính như sau:
Loại đất
Tổng diện tích tự nhiên(ha)
Cơ cấu(%)
Tổng diện tích tự nhiên
80.020,84
100
- Đất nông nghiệp
55.055,07
68,80
- Đất phi nông nghiệp
2.097,77
2,62
- Đất chưa sử dụng
22.868,00
28,58
( Chi tiết các loại đất có bảng 03- TKĐĐ: thống kê diện tích đất đai kèm theo )
+ Tiềm năng đất đai
Diện tích đất chưa sử dụng còn 22.868,00 ha, chiếm 28,58% diện tích đất tự nhiên của huyện, đây được xem là nguồn tiềm năng dồi dào giúp cho huyện có thể khai thác bổ sung đưa vào sử dụng cho các mục đích, đặc biệt là đất sản xuất nông, lâm nghiệp. Tiềm năng đất để phát triển rừng của huyện trong thời gian tới là rất lớn khoảng 7.000 ha.
Vân Canh còn có nguồn nguyên liệu từ khoáng sản (khai thác đá làm vật liệu xây dựng, phục vụ chế biến đá ốp lát), từ sản xuất nông, lâm nghiệp (phục vụ chế biến gỗ). Hệ thống hạ tầng cơ sở ở mức độ trung bình và đang ở trong giai đoạn đầu tư phát triển.
Với vị trí khá gần thành phố Quy Nhơn, cộng với cảnh quan thiên nhiên đẹp, nhiều lễ hội, phong tục tập quán hấp dẫn của đồng bào dân tộc Chăm, Bana...chứa đựng nhiều tiềm năng du lịch, với nhiều loại hình du lịch hấp dẫn mang tính đặc thù riêng.
II.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước trên địa bàn huyện
II.2.1. Thùc tr¹ng tæ chøc bé m¸y qu¶n lý nhµ níc, tr×nh ®é chuyªn m«n cña ®éi ngò c¸n bé qu¶n lý ®Êt ®ai trªn ®Þa bµn huyÖn
Trước năm 2005 bộ máy quản lý đất đai trên địa bàn chưa được ổn định, số lượng còn ít, trình độ chuyên môn chưa được đào tạo đúng chuyên ngành, còn kiêm nhiệm nhiều công việc. Từ năm 2005 được sự quan tâm của UBND huyện và nhu cầu thực tế của công việc, bộ máy QLNN về đất đai ở cấp huyện được thành lập mới bao gồm: Phòng Tài nguyên và Môi trường, Văn Phòng Đăng ký quyền sử dụng đất huyện. Đối với cấp xã, thị trấn cán bộ địa chính được bố trí từ 01 đến 02 người, có nghiệp vụ chuyên môn đúng chuyên ngành, ổn định và định biên hưởng lương chính thức . ( số liệu cụ thể như sau ):
Danh sách cán bộ phòng Tài Nguyên & Môi Trường huyện Vân Canh.
STT
Họ và Tên
Chức vụ
Trình độ
chuyên môn
Dân tộc
Tuổi
01
Trần Thị Đào
Trưởng phòng
ĐH Kinh tế
Kinh
54
02
Võ Văn Chí
Chuyên viên
ĐH QLĐĐ
Kinh
47
03
Trần Thị Hoa
Chuyên viên
ĐH CNMT
Kinh
26
Danh sách cán bộ Văn phòng Đăng Ký QSDĐ huyện Vân Canh.
STT
Họ và Tên
Chức vụ
Trình độ
chuyên môn
Dân tộc
Tuổi
01
Phạm Thế Phong
P. giám đốc
TC ĐC
Kinh
35
02
Trần Minh Dũng
Chuyên viên
ĐH QLĐĐ
Kinh
32
03
Nguyễn Tiến Sỹ
Chuyên viên
ĐH QLĐĐ
Kinh
29
04
Đinh Minh Tuấn
Chuyên viên
ĐH QLĐĐ
Kinh
23
Cán bộ địa chính các xã, thị trấn
STT
Họ và Tên
Đơn vị
Số lượng
Trình độ chuyên môn
Dân tộc
Tuổi
01
Nguyễn Trọng Phước
Canh Vinh
2
TC ĐC
Kinh
53
02
Nguyễn Hà Tư
TC NN
Kinh
49
03
Trần Văn Đức
Canh Hiển
2
TC ĐC
Kinh
39
04
Bùi Tấn Trực
TC ĐC
Kinh
29
05
Nguyễn Mạnh Đàm
Canh Hiệp
1
TC ĐC
Kinh
43
06
Nguyễn Tữu
TT Vân Canh
1
TC GTVT
Kinh
42
07
Hồ Văn Tèo
Canh Thuận
1
TC ĐC
Kinh
44
08
Lưu Mạnh Hùng
Canh Hòa
1
TC ĐC
Kinh
25
09
Đinh Thành Nhanh
Canh Liên
1
không
Ba na
37
( Nguồn: Phòng TNMT huyện Vân Canh )
II.2.2. Tình hình quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện thời gian (2005-2008)
+ Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện
Thi hành Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Trung ương, của UBND tỉnh, UBND huyện Vân Canh theo thẩm quyền hàng năm đã kịp thời ban hành một số văn bản để chỉ đạo các ban ngành, UBND các xã, thị trấn nhằm thực hiện tốt việc quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn, cụ thể như sau:
- Quyết định số 40/QĐ-UBND ngày 25/01/2005 của UBND huyện Vân Canh về việc thành lập Ban Chỉ đạo kiểm kê đất đai năm 2005;
- Quyết định số 136/QĐ-CTUBND ngày 22/4/2005 của Chủ tịch UBND huyện Vân Canh về việc thành lập Đoàn thanh tra liên ngành để giải quyết khiếu nại, tố cáo của một số hộ dân xã Canh Hiển;
- Quyết định số 147/QĐ-UBND ngày 08/11/2005 của UBND huyện Vân Canh về việc Thành lập Hội đồng bồi thường GPMB, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện;
- Công văn số: 99/UBND ngày 02/3/2007 của UBND huyện Vân Canh về việc khẩn trương giải quyết các hồ sơ đất đai còn tồn đọng.
- Quyết định số 388/QĐ-UBND ngày 07/6/2007 của UBND huyện Vân Canh về việc thành lập Ban Chỉ đạo QHSDĐ cấp xã trên địa bàn huyện.
- Công văn số: 02/UBND ngày 02/01/2008 của UBND huyện Vân Canh về việc kiểm kê đất đai của các tổ chức đang quản lý sử dụng trên địa bàn huyện.
- Công văn số: 308/UBND của UBND huyện Vân Canh về việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai.
Ngoài ra, UBND huyện còn ban hành nhiều các văn bản về việc chỉ đạo, xử lý giải quyết về quản lý sử dụng đất đai trên địa bàn huyện như quyết định giao-cho thuê đất; quyết định thu hồi; quyết định giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn xã, thị trấn; quyết định phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp xã.
+ Công tác xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính
Thực hiện Chỉ thị 364/CP của Chính phủ về việc: lập, quản lý hồ sơ địa giới hành chính, đến nay UBND các xã, thị trấn đã tổ chức thực hiện việc xác định địa giới hành chính trên thực địa, hoàn thành việc lập hồ sơ địa giới hành chính và quản lý tốt phạm vi ranh giới hành chính theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn huyện Vân Canh vẫn còn sự tranh chấp ranh giới hành chính giữa xã Canh Hòa và xã Xuân Lãnh, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên ( do khi thực hiện Chỉ thị 364/TTg số liệu trên bản đồ và hồ sơ chưa đúng với thực tế đang sử dụng ). Hiện nay đang được các cấp, các ngành có liên quan đang tiến hành lập các thủ tục theo quy định, đề xuất các cấp có thẩm quyền giải quyết.
+ Công tác đo đạc, đánh giá phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất
- Thực hiện Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ về đo đạc thành lập bản đồ phục vụ kịp thời công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) và công tác quản lý đất đai ở địa phương, các huyện trong tỉnh đã tiến hành đo đạc lập bản đồ giải thửa ở tỷ lệ 1/2000 theo chỉ thị 299 TTg của thủ tướng chính phủ (gọi chung là bản đồ giải thửa) và đây là cơ sở quan trọng cho việc xét cấp GCNQSDĐ cho nhân dân theo Nghị định 64 CP của Chính phủ. Đến nay trên địa bàn huyện Vân Canh các xã, thị trấn đã được đo đạc và thành lập bản đồ giải thửa và bản đồ địa chính, phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về đất đai: tổng số tờ bản đồ giải thửa tỉ lệ 1:2000 đã thành lập là:144 tờ, trong đó: Canh Vinh: 28 tờ, Canh Hiển: 11 tờ, Canh Hiệp: 15 tờ, Canh Thuận: 34 tờ, Canh Hòa: 23 tờ, Canh Liên: 33 tờ. Riêng thị trấn Vân Canh được UBND tỉnh Bình Định đầu tư kinh phí trong năm 2002 để thực hiện đo đạc lập bản đồ địa chính chính quy theo hệ tọa độ quốc gia VN2000, công nghệ bản đồ số, tổng cộng 73 tờ bản đồ bao gồm 25 tờ ở tỷ lệ 1/2000 và 48 tờ ở tỷ lệ 1/500.
- Bản đồ hiện trạng sử dụng đất, của huyện và các xã, thị trấn đã được xây dựng hoàn chỉnh theo định kỳ 5 năm cùng với công tác kiểm kê đất đai. Đặc biệt kiểm kê đất đai năm 2005 đã xây dựng hệ thống bản đồ hiện trạng sử dụng đất ở cả 2 cấp (huyện và xã) bằng công nghệ số. Cụ thể chi tiết như sau:
STT
Bản đồ HTSDĐ cấp huyện, xã
Số tờ
Tỉ lệ
Phương pháp thực hiện
01
Bản đồ HTSDĐ năm 2005 huyện Vân Canh
01
1:50000
Công nghệ số
02
Bản đồ HTSDĐ năm 2005 TT Vân Canh
01
1:5000
Công nghệ số
03
Bản đồ HTSDĐ năm 2005 xã Canh Hiển
01
1:10000
Công nghệ số
04
Bản đồ HTSDĐ năm 2005 xã Canh Vinh
01
1:10000
Công nghệ số
05
Bản đồ HTSDĐ năm 2005 xã Canh Hiệp
01
1:25000
Công nghệ số
06
Bản đồ HTSDĐ năm 2005 xã Canh Hòa
01
1:10000
Công nghệ số
07
Bản đồ HTSDĐ năm 2005 xã Canh Thuận
01
1:10000
Công nghệ số
08
Bản đồ HTSDĐ năm 2005 xã Canh Liên
01
1:25000
Công nghệ số
Tổng cộng:
08
( Nguồn: Phòng TNMT huyện Vân Canh )
- Bản đồ quy hoạch sử dụng đất cấp xã và cấp huyện: Trong 02 năm 2007- 2008 được sự quan tâm của UBND tỉnh và huyện tất cả các xã, thị trấn trên địa bàn được bố trí kinh phí để thực hiện công tác Quy hoạch - Kế hoạch sử dụng đất nên hệ thống bản đồ Quy hoạch sử dụng đất của các xã đã được đồng loạt thành lập. Số tờ, tỉ lệ bản đồ, công nghệ thành lập bản đồ tương tự như bản đồ HTSDĐ đã nêu trên.
* Với hệ thống bản đồ đã thành lập sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho địa phương thực hiện tốt chức năng QLNN về đất đai, góp phần phát triển kinh tế, ổn định đời sống của nhân dân trên địa bàn huyện.
- Đối với công tác đánh giá, phân hạng đất thì thời gian qua Hội khoa học đất Việt Nam, với phương pháp đánh giá đất của FAO-UNESCO đã thực hiện, nên kết quả này giúp cho các nhà quản lý hoạch định các chương trình phát triển kinh tế nông lâm nghiệp, bố trí hợp lý cây trồng vật nuôi cho từng loại đất nhằm tăng hiệu quả kinh tế sử dụng đất.
+ Công tác quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Những năm trước đây, do nhiều nguyên nhân trên địa bàn huyện chưa tiến hành công tác lập quy hoạch sử dụng đất, chỉ thực hiện công tác lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm và kế hoạch sử dụng đất 5 năm làm cơ sở cho công tác giao đất, cho thuê đất và chuyển mục đích sử dụng đất. Tuy nhiên, các kế hoạch sử dụng đất này mới dựa vào danh mục đầu tư công trình do UBND tỉnh giao đầu năm hoặc HĐND cấp huyện thông qua và nhu cầu sử dụng đất của tổ chức, cá nhân trên địa bàn, do đó thiếu tính thống nhất và cơ sở khoa học trong việc quản lý Nhà nước về đất đai.
Xác định rõ vai trò, tầm quan trọng của công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nên vừa qua trong 02 năm 2007 và 2008 đã được UBND huyện và UBND tỉnh bố trí kinh phí triển khai công tác này đồng loạt ở cấp huyện, cấp xã với kỳ quy hoạch sử dụng đất đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.
Chính nhờ thực hiện tốt công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất mà UBND huyện, thực hiện tốt công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, phân bổ quỹ đất cho các ngành, các lĩnh vực đúng quy định của pháp luật
+ Công tác quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất
Thực hiện Nghị định 64/CP ngày 27 tháng 9 năm 1993 của Chính phủ về việc giao đất nông nghiệp, Nghị định 79/CP ngày 01 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 17/CP trong việc chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại. Công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất cho cá nhân, được UBND huyện thực hiện thường xuyên, kịp thời theo đúng thẩm quyền. Thời kỳ 1993-1997 thực hiện đề án giao quyền sử dụng đất cho nhân dân theo Nghị định 64/CP của chính phủ, hầu hết các loại đất đã được Nhà nước giao và cấp GCNQSDĐ. Theo số liệu điều tra đến năm 2005 diện tích đất được giao theo đối tượng sử dụng là 49.726,77 ha, chiếm 62,14% diện tích tự nhiên, trong đó giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng là 8.757,45 ha; diện tích đất được giao theo đối tượng để quản lý là 31.093,47 ha, chiếm 37,86% diện tích đất tự nhiên.
Từ 2005 đến 2008 theo thẩm quyền UBND huyện đã giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng như sau:
Năm
Mục đích sử dụng
Đối tượng sử dụng
(Hộ gia đình, cá nhân)
Đất SXNN
Đất LN
Đất ở
Diện tích
Số hộ
2006
41,60
126,41
3,55
171,56
202
2007
57,41
39,76
1,77
98,94
127
2008
98,00
206,60
3,23
307,83
248
Cộng
197,01
372,77
8,55
578,33
577
( Nguồn: Phòng TNMT huyện Vân Canh)
- Công tác cho thuê đất: Trong 04 năm (2005-2008), UBND xã, thị trấn theo phân cấp đã tiến hành cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp để tạo nguồn thu cho địa phương với tổng diện tích cho thuê là: 905.36 ha bao gồm đất sản xuất nông nghiệp 765,46 ha, đất lâm nghiệp 139,90 ha, UBND huyện đã cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất để làm kinh tế trang trại với 7 trường hợp tổng diện tích cho thuê là 7,5 ha. Ngoài ra trên địa bàn huyện UBND tỉnh đã cho thuê đất đối với 23 tổ chức, với tổng diện tích cho thuê là 403,41 ha. Trong đó năm 2006 cho thuê 7 tổ chức với diện tích 213,27 ha; năm 2007 cho thuê 11 tổ chức với diện tích 152,64 ha; năm 2008 cho thuê 5 tổ chức với diện tích 37,5 ha, chủ yếu là Lâm trường Hà Thanh, các công ty trách nhiệm hữu hạn thuê đất để trồng rừng sản xuất. ( Nguồn: Phòng TNMT huyện; Sở TNMT Bình Định ).
- Công tác chuyển mục đích sử dụng đất: Từ năm 2005-2008, UBND huyện đã thực hiện việc chuyển mục đích sử dụng đất như sau:Đất nông nghiệp chuyển sang phi nông nghiệp là 39,43 ha, trong đó lấy từ đất sản xuất nông nghiệp 31,56 ha; từ đất lâm nghiệp 7,87 ha; chuyển 60,00 ha đất rừng sản xuất sang đất trồng cây hàng năm tại xã Canh Hiển; chuyển 48,00 ha đất rừng sản xuất sang đất cây lâu năm tại xã Canh Hòa và Canh Thuận; chuyển đổi đất phi nông nghiệp không phải đất ở sang đất ở : 0,36 ha.
- Công tác thu hồi đất: Trong những năm qua, tình hình kinh tế xã hội của địa phương phát triển mạnh, đã đáp ứng kịp thời với yêu cầu, huyện đã tiến hành thu hồi diện tích đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp sử dụng kém hiệu quả để thực hiện các dự án xây dựng các công trình phục vụ nhu cầu dân sinh và phát triển cơ sở hạ tầng của địa phương. Từ năm 2005-2008 huyện Vân Canh tiến hành thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức được tổng cộng là 40,58 ha. (trong đó: đất sản xuất nông nghiệp 29,59 ha; đất lâm nghiệp 7,87 ha; đất phi nông nghiệp 3,12 ha)
* Nhìn chung công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất từ những năm 2005 đến nay trên địa bàn huyện đã được chuyển biến tích cực, các công việc được thực hiện theo đúng thẩm quyền trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được UBND tỉnh phê duyệt. Tình trạng giao, cho thuê, chuyển mục đích sử dụng đất không đúng thẩm quyền, thu tiền sử dụng đất sai quy định không còn xảy ra như những năm 2000 trở về trước.
+ Công tác đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Công tác đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong những năm qua đã được UBND huyện quan tâm, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế nhất định. Trên địa bàn huyện đã cơ bản hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến tháng 12 năm 2008 trên địa bàn huyện đã cấp được 52 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức với diện tích 39.757,0 ha ( thẩm quyền cấp tỉnh ), cấp cho hộ gia đình cá nhân được 5270 giấy chứng nhận với diện tích 5.288,0 ha ( thẩm quyền cấp huyện ).
Hồ sơ địa chính như: bản đồ, sổ địa chính, sổ mục kê, sổ cấp GCNQSDĐ, sổ theo dõi biến động đất đai trên tất cả 6 xã, 1 thị trấn đều có đầy đủ. Chất lượng hồ sơ địa chính hầu hết là thực hiện vào những năm 1994 - 1998, chưa thực hiện theo công nghệ số, độ chính xác chưa cao. Do quá trình phát triển kinh tế trong thời gian gần đây tương đối mạnh mẽ, kéo theo các nhu cầu về sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất cấp GCNQSDĐ của nhân dân trên địa bàn huyện xảy ra thường xuyên theo từng ngày. Tuy nhiên Công tác đăng ký quyền sử dụng đất, lập, chỉnh lý và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bổ sung, nhiều xã chưa thực hiện thường xuyên và kịp thời, công tác cấp GCNQSDĐ theo yêu cầu của người dân có trường hợp còn chậm trễ và kéo dài.
+ Công tác thống kê, kiểm kê đất đai
Công tác thống kê, kiểm kê đất đai trên địa bàn huyện được thực hiện tốt ở cả 2 cấp. Thực hiện Chỉ thị số 28/2004/CT-TTG ngày 15/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc kiểm kê đất đai năm 2005, Thông tư số 28/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chỉ thị số 02/2005/CT-UB của UBND tỉnh Bình Định về việc triển khai công tác kiểm kê đất đai năm 2005. Huyện đã hoàn thành tốt công tác kiểm kê đất đai năm 2005 với chất lượng được nâng cao, hạn chế được tình trạng sai lệch về số liệu, bản đồ với thực tế giữa các đợt thống kê, kiểm kê, phục vụ đắc lực trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện.
+ Quản lý tài chính về đất đai
Công tác quản lý tài chính về đất đai trên địa bàn huyện Vân Canh được thực hiện theo đúng qui định của pháp luật. Các nguồn thu và việc chấp hành thu, chi các loại phí, lệ phí, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, tiền chuyển mục đích, tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong những năm qua đảm bảo đúng mục đích, có hiệu quả và tuân thủ theo quy định hiện hành của Nhà nước.Vì là huyện miền núi nên các nguồn thu từ đất còn rất thấp và chỉ tập trung tại một số vị trí gần các trục đường giao thông chính và thị trấn Vân Canh. Số liệu các nguồn thu ngân sách qua các năm gần đây như sau :
Đơn vị tính: nghìn đồng
Loại thu ngân sách
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
1. Tiền sử dụng đất
996.900
666.809
1.058.300
853.154
2. Thuế chuyển QSDĐ
53.800
65.424
74.709
66.031
3. Phí và lệ phí
45.000
47.680
94.918
42.579
Tổng số:
1.095.700
779.913
1.227.927
961.764
(Nguồn: Chi cục thuế huyện Vân Canh)
+ Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản
Nhìn chung, thị trường bất động sản tại tỉnh Bình Định nói chung còn chưa phát triển và tại huyện Vân Canh hầu như chưa có giao dịch và nếu có cũng chỉ mang tính tự phát, công tác quản lý nhà nước còn chưa được chú ý. Vì là huyện miền núi nên các điều kiện để thúc đẩy thị trường bất động sản còn gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù vậy, trong các năm vừa qua (2005-2008), thị trường quyền sử dụng đất (chủ yếu là đất ở) tại huyện Vân Canh đã bước đầu hình thành thông qua việc Nhà nước tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất ở tại các vị trí có khả năng sinh lợi, góp phần thu ngân sách Nhà nước ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho phát triển trên địa bàn huyện .
+ Công tác quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất
Trong thời gian gian qua UBND huyện, xã cùng với các ngành đã quan tâm và thực hiện tốt theo thẩm quyền chức năng quản lý, giám sát các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất theo các điều, khoản mà Luật đã quy định như: quyền được cấp GCNQSDĐ; quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn quyền sử dụng đất; quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất v.v...Giám sát chặt chẽ việc sử dụng đất theo đúng mục đích, ranh giới; việc thực hiện các trình tự, thủ tục đăng ký đất đai của người sử dụng đất; giám sát việc thực hiện nghĩa vụ tài chính, các biện pháp về bảo vệ đất, bảo vệ môi trường và ngăn chặn các trường hợp lấn chiếm đất đai của người sử dụng đất.
Tuy nhiên, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất của một số hộ gia đình chưa đúng quy định còn diễn ra ( các xã Canh Vinh, Canh Hiển, Canh Thuận và thị trấn Vân canh ), tình trạng mua bán, sang nhượng đất trái phép; tình trạng lấn chiếm đất đai vẫn còn, việc giám sát kiểm tra của các cấp các ngành về thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất có lúc, có nơi chưa được thường xuyên và liên tục.
+ Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm về pháp luật đất đai.
Từ khi Luật Đất đai 2003 có hiệu lực thi hành, được sự hướng dẫn chỉ đạo của UBND tỉnh, của Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND huyện đã thành lập Đoàn thanh tra liên ngành của huyện, đã tập trung chỉ đạo tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật đất đai của các tổ chức, công dân trên địa bàn. Cụ thể từ năm 2005-2008 đã thanh tra và xử lý 49 trường hợp vi phạm đất đai; trong đó: lấn chiếm đất cất nhà trái phép12 trường hợp, chiếm và phát dọn rừng trái phép 16 trường hợp, sử dụng vào các mục đích khác 21 trường hợp ( trong đó kiểm tra nhắc nhở và xử lý việc khai thác vật liệu xây dựng (đá, cát) tại 4 xã với 12 trường hợp ).
Nguồn:( Thanh tra huyện Vân Canh ).
+ Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai
Tính từ năm 2005 đến năm 2008, Thanh tra huyện đã tiếp nhận 23 hồ sơ khiếu nại, về tranh chấp đất đai ( năm 2005: 07 hồ sơ, năm 2006: 05 hồ sơ, năm 2007: 09 hồ sơ, năm 2008: 02 hồ sơ ). Kết quả đã giải quyết 21 hồ sơ, còn tồn đọng 02 hồ sơ. Về việc đơn thư tố cáo các vi phạm pháp luật đất đai không xảy ra. Tình hình khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai đến nay đã giảm dần. UBND huyện đã chỉ đạo các xã, thị trấn, thanh tra liên ngành tập trung giải quyết dứt điểm các trường hợp tranh chấp đất đai theo thẩm quyền nhằm hạn chế đơn thư vượt cấp, góp phần ổn định an ninh - trật tự xã hội trên địa bàn huyện. (Nguồn: Thanh tra huyện Vân Canh ).
II.3. NhËn xÐt, ®¸nh gi¸ ( u, khuyÕt ®iÓm)
II.3.1. Ưu điểm:
Được sự chỉ đạo chặt chẽ của UBND tỉnh, sự hướng dẫn về chuyên môn của Sở Tài nguyên và Môi trường, nhất là từ khi Luật Đất đai 2003 ra đời cho đến nay, công tác quản lý đất đai trên địa bàn huyện Vân Canh đã có nhiều tiến bộ hơn hẳn những năm trước đây. Các cấp, các ngành triển khai thực hiện pháp luật đất đai tương đối đồng bộ, công tác QLNN về đất đai chặt chẽ và đi vào nề nếp, tạo điều kiện cho nhân dân yên tâm đầu tư, thâm canh phát triển sản xuất, việc khai thác sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu quả, các thành tựu khoa học, công nghệ được áp dụng vào lĩnh vực chuyên ngành quản lý đất đai ngày càng tiến bộ hơn.
- Công tác tổ chức, tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai của các cấp, các ngành, trên các hệ thống thông tin đại chúng cho nhân dân ngày càng được sâu rộng, việc chấp hành pháp luật đất đai của hệ thống chính trị và trong nhân dân ngày càng nghiêm minh, nhận thức về pháp luật đất đai của cán bộ, nhân dân trên địa bàn huyện ngày càng nâng cao.
- Công tác thiết lập bản đồ địa chính, cấp giấy chứng nhận QSDĐ, lập và quản lý hồ sơ địa chính; công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; công tác thống kê, kiểm kê lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất theo định kỳ được UBND huyện, UBND tỉnh quan tâm đầu tư kinh phí và chỉ đạo thực hiện, nên hệ thống bản đồ, hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu địa chính, trang thiết bị máy móc phục vụ cho các công việc chuyên môn ngày càng có chất lượng, các loại hồ sơ, tài liệu, bản đồ đã và đang chuẩn hóa theo công nghệ mới ( thiết lập theo công nghệ số ), chất lượng lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được nâng cao, giảm dần tình trạng quy hoạch “ treo ”, hầu hết diện tích đất nông nghiệp, đất ở của hộ gia đình và đất đang sử dụng của các cơ quan, tổ chức trên địa bàn huyện đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận QSDĐ.
- Công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất được cải cách thủ tục hành chính mạnh mẽ theo hướng đơn giản, nhanh chóng, kịp thời, đúng trình tự, thủ tục ( thực hiện theo cơ chế một cửa ).Công tác thu hồi đất, bồi thường, tái định cư được công khai, minh bạch và áp giá đền bù sát với giá thị trường tạo sự hợp lý và thỏa đáng cho người dân.
II.3.2. Nhược điểm:
Bên cạnh các ưu điểm nêu trên, công tác quản lý đất đai trên địa bàn huyện Vân Canh vẫn còn nhiều bất cập. Công tác chỉnh lý biến động đất đai còn nhiều yếu kém, chưa kịp thời; số liệu kiểm kê, thống kê theo định kỳ chưa sát thực tế sử dụng đất. Đội ngũ cán bộ chuyên môn của ngành tại cấp huyện và cấp xã còn thiếu, hầu hết cán bộ địa chính còn trẻ đã qua đào tạo nhưng kinh nghiệm thực tiễn còn yếu kém, nhất là việc tiếp thu công nghệ mới, vi tính, phần mềm chuyên ngành, việc vận dụng chính sách, pháp luật đất đai vào thực tiễn còn hạn chế, một số cán bộ công chức chưa hết lòng vì dân, có lúc, có nơi còn nhũng nhiễu, trì trệ trong xử lý công việc, làm mất lòng tin của nhân dân; cán bộ địa chính tại các xã vùng cao trình độ còn thấp. Việc chấp hành pháp luật đất đai tại một số nơi chưa được nghiêm minh; một bộ phận các hộ gia đình tại các vùng sâu, vùng xa còn chưa được tuyên truyền và tiếp cận pháp luật đất đai nên vẫn còn diễn ra tình trạng lấn chiếm đất công cất nhà, lấn chiếm đất rừng, phá rừng làm nương rẫy trái phép.
- Công tác Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch rừng, quy hoạch thị trấn, thị tứ, quy hoạch đô thị và các quy hoạch cụm công nghiệp, quy hoạch chuyên ngành giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục - đào tạo v.v... chưa được đồng bộ, tính thống nhất và tính khoa học chưa cao, còn nhiều vấn đề chồng chéo, mâu thuẫn, tính khả thi chưa cao. Do đó làm hạn chế rất lớn đối với công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện.
II.3.3. Nguyên nhân của tồn tại, yếu kém
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai chưa sâu rộng trong nhân dân; nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số; công tác thanh tra, kiểm tra ngăn ngừa các trường hợp vi phạm pháp luật đất đai chưa được thường xuyên và liên tục.
- Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai của huyện và của xã số lượng còn rất thiếu so với yêu cầu đặt ra, một số cán bộ địa chính trình độ, năng lực chưa cao, chưa có nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn, chưa vận dụng đúng pháp luật đất đai vào thực tiễn của địa phương, có nơi, có lúc còn tùy tiện, đôi khi buông lỏng công tác quản lý và thiếu tinh thần trách nhiệm. Tình trạng nhũng nhiễu, trì trệ trong xử lý hồ sơ về đất đai của cán bộ làm công tác quản lý đất đai còn xảy ra.
- Các cấp, các ngành, đoàn thể chưa đấu tranh kiên quyết đối với việc lợi dụng chức vụ quyền hạn để vụ lợi và làm sai quy định trong công tác quản lý về đất đai; vai trò giám sát của các cơ quan “đại diện” và các tổ chức xã hội đối với việc quản lý đất đai của UBND huyện, sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy cấp ở cơ sở chưa chủ động, thống nhất, kịp thời đối với các vụ việc tiêu cực xảy ra trong công tác QLNN về đất đai.
- Trình độ dân trí của người dân ( nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ) còn thấp, do đó còn hạn chế trong nhận thức pháp luật đất đai, còn diễn ra tình trạng lấn chiếm đất công cất nhà, lấn chiếm đất rừng, phá rừng làm nương rẫy trái phép.
II.4. Bài học kinh nghiệm
Qua thực tiễn những ưu, khuyết điểm, những hạn chế và những bất cập của công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện Vân Canh trong thời gian qua, cho ta rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để đưa công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực đất đai đạt được kết quả tốt như sau:
- Phải tạo được sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, chính quyền và sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân tất cả vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, chủ động, sáng tạo, tích cực triển khai thực hiện các chủ trương của cấp uỷ và Nghị quyết của HĐND trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai. Trong quá trình chỉ đạo, điều hành các cấp chính quyền địa phương phải kiên quyết, cụ thể, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để giải quyết kịp thời những vướng mắc phát sinh.
- Tất cả các cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý đất đai cần nắm vững Luật Đất đai, các Nghị định, Thông tư, các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành pháp luật đất đai, vì phần lớn năng lực cán bộ địa chính cấp xã, thị trấn còn hạn chế. Nếu nắm vững được Luật, các văn bản dưới Luật, chắc chắn sẽ giảm bớt những vấn đề làm sai Luật như đang diễn ra ở các góc độ và mức độ khác nhau như hiện nay.
- Cần thực hiện tốt kế hoạch hoá sử dụng đất đai cấp xã, cấp huyện đã được phê duyệt, kịp thời chấn chỉnh UBND các xã xem nhẹ công tác quản lý đất đai, thiếu tinh thần trách nhiệm, buông lỏng kỷ cương dẫn đến vi phạm pháp luật đất đai. Xử lý nghiêm minh tình trạng cấp đất, giao đất, cho thuê đất không đúng thẩm quyền, thu tiền sử dụng đất sai quy định, tình trạng sử dụng đất, lãng phí, sai mục đích, lấn chiếm đất công, phá rừng làm nương rẫy trái phép.
- Các cấp, các ngành, đoàn thể cần đấu tranh kiên quyết đối với việc lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt đất công, đất rừng; bao chiếm đất rừng phòng hộ, đất do nhà nước quản lý; chuyển nhượng và xây cất nhà trái phép. Các cấp ủy đảng, chính quyền kịp thời ngăn ngừa và kỷ luật nghiêm minh những cán bộ, công chức có biểu hiện sa sút về đạo đức, phẩm chất, lối sống, có hành vi vi phạm pháp luật đất đai. Cần giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị ở cơ sở.
III. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
III.1. Một số giải ph¸p cơ bản
III.1.1 Gi¶i ph¸p vÒ viÖc n©ng cao hiÖu lùc, hiÖu qu¶ qu¶n lý nhµ níc vÒ ®Êt ®ai.
- Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai sâu rộng hơn nữa trong nhân dân; kiểm tra, rà soát và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật đất đai, giao đất không đúng thẩm quyền; rà soát các văn bản qui phạm pháp luật đất đai đã bàn hành nhưng có nhiều điểm không còn phù hợp để kiến nghị cấp trên sửa đổi.
- Tăng cường đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho những người trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước về đất đai; xử lý tốt vấn đề bồi thường , tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, tiếp nhận và giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân sau khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất chuyển mục đích sử dụng đất.
- Nhà nước cần nghiên cứu, xem xét quy định rõ trách nhiệm của cán bộ, công chức làm công tác tham mưu, đề xuất; trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo UBND các cấp và của các cơ quan, đơn vị, tránh tình trạng quy định chung chung, khi xảy ra sai phạm trong quản lý thì không có người chịu trách nhiệm chính, mà chủ yếu xử lý sai phạm theo cơ chế trách nhiệm “tập thể” làm cho hiệu lực quản lý ngày càng kém, không mang tính răn đe đối với người vi phạm.
- Nâng cao vai trò giám sát của các cơ quan “đại diện” và các tổ chức xã hội đối với việc quản lý đất đai của UBND các cấp và các cơ quan nhà nước khác. Bên cạnh đó, cần có chế tài kiểm soát đủ mạnh để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đất đai, nhất là việc giao đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi, bồi thường, hỗ trợ tái định cư không phù hợp với quy định của pháp luật.
- Tiếp tục kiện toàn các cơ quan quản lý và các tổ chức thực hiện dịch vụ công về đất đai trong việc cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước các tổ chức và công dân khi có nhu cầu, nhất là trong việc xác lập các giao dịch dân sự (mua bán, cho thuê, giá cả, hoạt động môi giới, v.v..) về nhà đất, nhằm thiết lập một thị trường bất động sản lành mạnh bảo đảm cân bằng lợi ích giữa người sử dụng và nhà quản lý trên cơ sở những thông tin công khai, minh bạch và độ tin cậy cao.
- Khắc phục và hoàn thiện ngay tình trạng UBND cấp có thẩm quyền vừa là nơi nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo, vừa thực hiện trình tự, thủ tục thụ lý, thanh tra, sau đó ra quyết định giải quyết, nhưng khi đối chiếu với các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì hậu quả sau khi giải quyết người vi phạm lại là cơ quan hành chính nhà nước, nhất là trong trường hợp giải quyết khiếu nại kéo dài, vòng vo để trốn trách nhiệm cả về đối tượng, phạm vi và trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.
- Các tranh chấp đất đai liên quan đến quyết định hành chính cần được giải quyết tại tòa án, bởi vì thông qua hoạt động xét xử công khai, dân chủ, chính xác, khách quan và hiệu lực phán quyết của tòa án, quyền lợi của người dân trên thực tế sẽ được bảo đảm hơn so với việc giải quyết tại các cơ quan hành chính nhà nước.
- Thực hiện tốt cơ chế “một cửa”, tăng cường công tác cải cách hành chính; sự quan tâm và thống nhất thực hiện của các sở ban ngành trong huyện, nhất là thường xuyên, kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn quản lý đất đai ở cơ sở, tăng cường và phát huy dân chủ ở cơ sở.
- Quản lý và thực hiện việc phân định địa giới hành chính giữa các địa phương trên cơ sở xem xét trách nhiệm và nghĩa vụ của các địa phương, của các cá nhân, pháp nhân đối với xã hội và môi trường đóng trên địa bàn. Đặc biệt trong việc tuân thủ các tiêu chuẩn và quy định về quản lý và sử dụng đất đai vì lợi ích chung của cộng đồng và của toàn xã hội.
III.1.2. Gi¶i ph¸p vÒ c«ng t¸c tæ chøc bé m¸y vµ n©ng cao chÊt lîng ®éi ngò c¸n bé
- Đầu tư nghiên cứu và đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về đất đai, cán bộ địa chính xã, thị trấn, nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ để làm tốt công tác tham mưu, đồng thời mời lãnh đạo chủ chốt cùng tham gia để biết rõ trách nhiệm của mình đối với việc quản lý và sử dụng đất đai của các địa phương.
- Về số lượng của cán bộ quản lý đất đai ở cấp huyện, cán bộ địa chính các xã, thị trấn chưa đáp ứng với nhiệm vụ ngày càng nhiều trong tình hình hiện nay, vì vậy các cấp chính quyền tỉnh, huyện cần quan tâm tăng thêm định biên hơn nữa, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện được tốt hơn.
III.1.3. Gi¶i ph¸p vÒ viÖc sö dông ®Êt ®óng môc ®Ých, hiÖu qu¶, tiÕt kiÖm
- Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, các khoản phí có liên quan đến sử dụng đất, đặc biệt chính sách khuyến khích thuê đất làm trang trại, trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc, thu hút đầu tư vào vùng sâu, vùng xa của huyện. Khuyến khích áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sử dụng đất nhằm bảo vệ tài nguyên đất bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái.
- Đầu tư thâm canh, tăng năng suất cây trồng để bù đắp sản lượng nông sản do một phần đất nông nghiệp chuyển sang sử dụng vào mục đích khác. Thực hiện tốt các chương trình, dự án về khai thác đất bằng và mặt nước chưa sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. Phải triệt để tiết kiệm sử dụng đất nông nghiệp, đồng thời phải khai hoang, mở rộng diện tích đất nông nghiệp trên đất đồi núi chưa sử dụng. Khai thác có hiệu quả vùng đồi núi phục vụ phát triển rừng tạo cảnh quan môi trường cho du lịch phát triển, hướng phát triển rừng là khoanh nuôi, bảo vệ đi đôi với trồng rừng. Phát triển nông lâm kết hợp với mô hình vườn đồi.
- Ưu tiên đủ đất đai cho phát triển giao thông, thủy lợi. Bố trí đất đai một cách hợp lý cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cho sự nghiệp giáo dục- đào tạo, thể dục, thể thao, y tế, văn hoá - thông tin, trên cơ sở tiết kiệm có hiệu quả.
3 - KiÕn nghÞ:
Để tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đất đai đi vào nề nếp, có hiệu lực và hiệu quả theo quy định của pháp luật. Trong quá trình nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện Vân Canh, bản thân tôi xin phép được có một số kiến nghị như sau:
- Nhà nước cần ưu tiên đầu tư bằng nhiều nguồn vốn, với nhiều hình thức khác nhau để đầu tư phát triển trên địa bàn huyện Vân Canh nhằm sớm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, trình độ dân trí cho nhân dân, khuyến khích và có cơ chế chính sách đất đai phù hợp để nhân dân khai thác, sử dụng tiềm năng đất đai hiện có đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả.
- Tăng cường công tác quản lý tài chính về đất đai (thuế nhà, đất; thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế kinh doanh bất động sản; thuế sử dụng đất nông nghiệp… và các loại phí, lệ phí) nhằm giảm thiểu tình trạng trốn thuế, nhất là trong việc chuyển quyền sử dụng đất.
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu các dự án có sử dụng đất một cách công khai, minh bạch theo pháp luật về đấu giá, đấu thầu đối với các mảnh đất, các thửa đất đã được phê duyệt quy hoạch, hạn chế tình trạng chuyển nhượng dự án để kiếm lời mà không chú trọng tới các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Đối với chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư; cần tăng cường công tác đào tạo việc làm mới cho người lao động, gắn việc chuyển đổi đất đai với chuyển đổi lao động, đặc biệt ưu tiên đối với những vùng phải chuyển nhiều đất nông nghiệp sang đất công nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Đẩy nhanh công tác giao đất, cho thuê đất, công tác đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, thống kê, kiểm kê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giải quyết kịp thời việc cấp giấy chứng nhận cho người sử dụng đất, tránh để tồn đọng, kéo dài thời gian gây khó khăn cho việc quản lý và sử dụng đất. Tăng cường công tác giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai.
- Nhà nước cần tăng cường đầu tư trang thiết bị, máy móc, công nghệ, phần mềm, kinh phí đo đạc, lập bản đồ địa chính theo hệ tọa độ chính quy VN-2000, kinh phí đăng ký chỉnh lý biến động và cập nhật hồ sơ địa chính theo định kỳ hàng năm trên địa bàn được kịp thời hơn, để giải quyết những tồn tại, hạn chế của công tác này trong những năm qua chưa thực hiện được.
C - kÕt luËn
Qua thực tế tình hình quản lý nhà nước của huyện Vân Canh trong thời gian qua cho ta kết luận sau:
Vân Canh là một trong ba huyện miền núi của tỉnh Bình Định, có diện tích tự nhiên rất lớn 80.020,84 ha, chiếm 13,3 % tổng diện tích toàn tỉnh, mật độ dân số còn thấp (32 người/km2). Dân tộc Ba Na, Chăm, Tày, Thái, Mường chiếm khoảng gần 40% dân số toàn huyện, về điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trình độ dân trí còn ở mức độ thấp so với mặt bằng chung của tỉnh, điều kiện phát triển kinh tế rất khó khăn, điều đó đã và đang làm hạn chế và gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực đất đai, tuy nhiên được sự đầu tư đúng mực của Nhà nước, sự quan tâm của UBND tỉnh, nhất là sự quan tâm chỉ đạo chặt chẽ của UBND huyện, trong thời gian từ 2005 đến nay, công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện Vân Canh dần đi vào chiều sâu, ổn định và đạt được nhiều kết quả to lớn góp phần thắng lợi trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
- Nhận thức của các cấp, các ngành trong việc chấp hành pháp luật đất đai có sự chuyển biến tốt, các vi phạm pháp luật về đất đai trên địa bàn huyện ngày càng ít xảy ra, việc chấp hành chính sách pháp luật đất đai của các đối tượng sử dụng đất được nghiêm minh, quyền sở hữu của Nhà nước đối với đất đai được phát huy cao hơn, quyền và lợi ích chính đáng của người dân trong việc khai thác sử dụng đất được pháp luật bảo vệ tốt hơn.
- Công tác lập quy hoạch đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất hàng năm của huyện và 6 xã, 1 thị trấn đã được thành lập đồng loạt. Đây sẽ là căn cứ để giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật, đáp ứng nhu cầu sử dụng đất đai của các ngành; công tác đo đạc lập bản đồ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và lập hồ sơ địa chính; công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất đã từng bước được chấn chỉnh, kịp thời đáp ứng nhu cầu của các thành phần kinh tế và của người dân. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các chế độ về quản lý, sử dụng đất đai được tiến hành kịp thời, đã phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm pháp luật về đất đai, chấn chỉnh tình trạng lấn chiếm đất đai, phá rừng làm nương rẫy, các trường hợp khai thác sử dụng tài nguyên đất đai không đúng quy định, giám sát chặt chẽ việc sử dụng đất của các đối tượng theo đúng mục đích, ranh giới; xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật đất đai.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình hiện nay như đã đề cập trong bài tiểu luận này. Vì vậy để công tác quản lý nhà nước về đất đai ngày càng có hiệu lực và hiệu quả hơn nữa, các cấp các ngành cần quan tâm thực hiện những giải pháp cơ bản như đã nêu, đặc biệt cần tăng cường hơn nữa công tác nhân sự, tuyển chọn được đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, tiếp cận tốt công nghệ hiện đại, đặc biệt là chú trọng đến công tác giáo dục đạo đức, rèn luyện tinh thần trách nhiệm đối với cán bộ, nhân viên làm công tác quản lý đất đai./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quản lý Nhà nước về lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện Vân Canh.doc