Quản lý tài chính trong các tổ chức công

Một là, tiếp tục quán triệt cho cán bộ, công chức,viên chức về chủ trương thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhằm trang bị nhận thức đúng đắn và đầy đủ về mục tiêu và yêu cầu của Nghị định 130 và Nghị định 43. Tiết kiệm chi tiêu chỉ là một mục tiêu phụ của chế độ tự chủ, mục tiêu lớn hơn là đổi mới cơ chế quản lý, sắp xếp tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ công. Hai là, việc định biên cho các cơ quan nhà nước cần được thực hiện theo một tiến trình bao gồm các giai đoạn hợp lý. Ở giai đoạn khởi đầu, khi nhiệm vụ cụ thể của mỗi biên chế chưa được xác định rõ ràng thì có thể sử dụng phương pháp tự phân tích công việc để xác định biên chế giao cho đơn vị. Ở giai đoạn sau, khi nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan đã được xác định rõ hơn, quy trình công việc và hệ thống giám sát được thiết lập thì có thể áp dụng các phương pháp phức tạp và khách quan hơn để tính toán biên chế. Việc tính toán biên chế cần có sự phối hợp giữa các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ với cơ quan có thẩm quyền quản lý nhân sự. Bởi lẽ, việc giao biên chế mang tính áp đặt từ trên sẽ dẫn đến hệ quả hoặc là làm lãng phí nhân lực hoặc khiến cho đơn vị không thể thực hiện hiệu quả công việc được giao. Ba là, Bộ Tài chính cần tiến hành rà soát và điều chỉnh hệ thống định mức chi tiêu phù hợp với tình hình thực tế, có tính khả thi. Trong điều kiện giá cả biến động, việc điều chỉnh cần được tiến hành thường xuyên hàng năm. Đồng thời, cần hướng tới một chế độ tự chủ thật sự thông thoáng, hạn chế những ràng buộc mang tính cứng nhắc. Có như vậy mới kích thích cơ quan, cá nhân tiết kiệm chi. Bốn là, xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá cá nhân rõ ràng, chặt chẽ về mặt định lượng. Trên cơ sở công khai, minh bạch về sử dụng ngân sách và tài sản công, cần quy định rõ trách nhiệm giải trình của từng cá nhân đối với nguồn kinh phí được giao. Trách nhiệm này không chỉ đòi hỏi phải có đầy đủ bằng chứng để chứng minh việc sử dụng nguồn kinh phí như thế nào, mà phải chịu toàn bộ trách nhiệm về hậu quả xảy ra do thất thoát, lãng phí hoặc sử dụng sai mục đích. Trong đó, đặc biệt lưu ý về trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý tài chính. Năm là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý tài chính, tài sản công. Xây dựng và triển khai chương trình tăng cường năng lực cho hệ thống cán bộ làm công tác tài chính,kế toán, nhất là những người trực tiếp có trách nhiệm và quyền hạn về chi tiêu công, nhằm đáp ứng yêu cầu phân cấp và hiện đại hóa công tác tài chính.Bên cạnh việc mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng quản lý tài chính cho từng nhóm đối tượng, cần tạo lập một môi trường văn hóa công sở lành mạnh, đúng đắn. Việc tiết kiệm, chống lãng phí chỉ thật sự có hiệu quả khi nó trở thành ý thức của từng thành viên, thành đặc trưng văn hóa công sở của mỗi đơn vị, cơ quan nhà nước  Sáu là, đổi mới phương pháp phân bổ kinh phí ngân sách nhà nước theo hướng giao ngân sách gắn với nhiệm vụ và sản phẩm cuối cùng,nghiên cứu đổi mới việc phân bổ ngân sách theo kết quả đầu ra. Bảy là, tiếp tục sửa đổi bổ sung để hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo ra sự thống nhất và động lực mạnh mẽ cho các đơn vị khi triển khai thực hiện.

doc24 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3328 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý tài chính trong các tổ chức công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH BÀI TẬP MÔN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG CÁC TỔ CHỨC CÔNG Giảng viên : Ths. Lê Toàn Thắng. Nhóm sinh viên thực hiện: Phạm Thị Hoàng Yến Nguyễn Thị Thúy Trần Thị Ánh Nguyệt Nguyễn Thị Thủy Nguyễn Thị Phượng. Lớp KH9-QLC1. HÀ NỘI 04/2010 MỤC LỤC Lời nói đầu I.Khái quát 1. Bối cảnh 2. Mục tiêu chung ban hành Nghị định 130/2005/ NĐ-CP và Nghị định 43/2006/NĐ-CP II. Nội dung của Nghị định 130/2005/NĐ-CP và Nghị định 43/2006/NĐ-CP Nghị định 130/2005/NĐ-CP Nghị định 43/2006/NĐ-CP III. Đánh giá tình hình thực hiện Nghị định 130/2005/NĐ-CP và Nghị định 43/2006/NĐ-CP Tình hình thực hiện cơ chế tài chính theo Nghị định 130/2005/NĐ-CP Những mặt tích cực Những hạn chế còn tồn tại Tình hình thực hiện cơ chế tài chính về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP Những mặt tích cực Những hạn chế còn tồn tại. III. Một số đề xuất kiến nghị Tài liệu tham khảo. LỜI NÓI ĐẦU Cải cách hành chính là một vấn đề nhận được rất nhiều sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội. Nó được xem như là một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, phát huy dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội.Việt Nam đã xác định 4 nội dung cơ bản của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 , đó là : cải cách thể chế hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính; đổi mới ,nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức và cải cách tài chính công. Trong đó, cải cách tài chính công không chỉ mang lại lợi ích cho nhà nước, cho các bộ, ngành, địa phương, đơn vị trực tiếp sử dụng các nguồn lực tài chính công mà còn mang lại lợi ích cho mọi tầng lớp nhân dân, những người có quyền giám sát việc sử dụng các nguồn lực tài chính công, đồng thời là người thụ hưởng dịch vụ công được cung cấp bởi những nguồn lực tài chính công. Nhận thức rõ điều này, Chính phủ đã quy định một cách cụ thể, chi tiết và rõ ràng cơ chế tài chính áp dụng cho các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp tại các Nghị định : - Nghị định của Chính phủ số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước . - Nghị định của Chính phủ số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 04 năm 2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Sau đây nhóm chúng em xin trình bày một số vấn đề liên quan tới 2 Nghị định trên. Khái quát 1. Bối cảnh Cải cách tài chính công là một nội dung quan trọng trong chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 136/2001/QĐ –Ttg ngày 17/09/2001. Theo đó trên cơ sở phân biệt rõ cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công, thực hiện đổi mới cơ chế phân bổ Ngân sách cho cơ quan hành chính, xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cách tính kinh phí căn cứ vào kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu của cơ quan hành chính, tăng quyền chủ động cho cơ quan sử dụng Ngân sách. Xuất phát từ nội dung, mục tiêu của công tác cải cách tài chính công, Chính phủ đã ban hành cơ chế tài chính áp dụng cho các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp tại các Nghị định : - Nghị định của Chính phủ số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước ( gọi tắt là Nghị định 130 ) - Nghị định của Chính phủ số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 04 năm 2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập ( gọi tắt là Nghị định 43 ) - Nghị định số 115/2005 /NĐ-CP ngày 05/09/2005 quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. 2. Mục tiêu chung ban hành Nghị định 130 và Nghị định 43 - Phân biệt rõ cơ chế quản lý nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp với cơ chế quản lý nhà nước đối với cơ quan hành chính nhà nước - Thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức bộ máy tinh gọn; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng lao động và nguồn lực tài chính được giao để hoàn thành nhiệm vụ - Tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị chủ động trong sử dụng biên chế và nguồn tài chính một cách hợp lý nhất để hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ được giao - Nâng cao hiệu suất lao động, hiệu quả sử dụng nguồn tài chính, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức. II. Nội dung của Nghị định 130 và Nghị định 43 Nghị định của Chính phủ số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 - Cơ quan ban hành : Chính phủ - Nội dung: Quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước. Nghị Định 130/2005/NĐ-CP của Chính Phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước gồm 4 chương, 15 điều và tập trung vào các vấn đề sau: F Những quy định chung: Phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Nghị Định là các cơ quan Nhà nước có tài khoản và con dấu riêng ( cơ quan thực hiện chế độ tự chủ). Riêng đối với UBND cấp xã, phường, cơ quan thuộc ĐCSVN, các tổ chức chính trị - xã hội tùy điều kiện quyết định việc áp dụng Nghị định. Các cơ quan thuộc Bộ Quốc Phòng, Bộ Công an và Ban cơ yếu Chính phủ được ngân sách Nhà nước cấp kinh phí quản lý hành chính không thuộc đối tượng thực hiện Nghị định này. Nghị định được ban hành nhằm thực hiện các mục tiêu về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước. Nghị định qui định 3 nguyên tắc thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính là đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không tăng biên chế và kinh phí quản lý hành chính được giao và thực hiện công khai, dân chủ, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của cán bộ, công chức. F Nội dung chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính: - Chế độ tự chủ , tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế: Căn cứ số biên chế được giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ động trong việc quyết định việc sắp xếp, phân công cán bộ, công chức theo vị trí công việc; điều động cán bộ, công chức trong nội bộ cơ quan; hợp đồng thuê khoán công việc và hợp đồng lao động đối với một số chức danh theo quy định của pháp luật và phạm vi nguồn kinh phí được giao. Trường hợp sử dụng biên chế thấp hơn so với chỉ tiêu được giao, cơ quan vẫn được đảm bảo kinh phí quản lý hành chính theo chỉ tiêu biên chế được giao.Khi có điều chỉnh biên chế,mức kinh phí được giao sẽ được điều chỉnh để thực hiện chế độ tự chủ. - Chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng kinh phí quản lý hành chính: Kinh phí quản lý hành chính giao cho các cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được xác định vào giao hàng năm trên cơ sở biên chế được cấp có thẩm quyền giao, kể cả biên chế dự bị ( nếu có ) và định mức phân bổ ngân sách nhà nước tính trên biên chế; các khoản chi hoạt động nghiệp vụ đặc thù theo chế độ quy định. Nội dung chi của kinh phí giao gồm : các khoản chi thanh toán cho cá nhân; các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn; các khoản chi có tính chất thường xuyên ngoài một số nhiệm vụ được giao kinh phí nhưng không thực hiện chế độ tự chủ theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền giao. Căn cứ vào tình hình nhiệm vụ được giao, Thủ trưởng cơ quan thực hiện chế độ tự chủ tự quyết định bố trí số kinh phí được giao vào các mục chi cho phù hợp; được quyền điều chỉnh giữa các mục chi nếu xét thấy cần thiết. Cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được vận dụng các chế độ chi tiêu tài chính hiện hành để thực hiện, nhưng không được vượt qua mức chi tối đa do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. - Về sử dụng kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm được: Phạm vi sử dụng kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm được gồm : Bổ sung thu nhập cho cán bộ công chức; chi khen thưởng và phúc lợi; trích lập quỹ dự phòng để ổn định thu nhập cho cán bộ, công chức. Số kinh phí tiết kiệm được, cuối năm chưa sử dụng hết được chuyển sang năm sau tiếp tục sử dụng. F Khi có phát sinh các yếu tố làm thay đổi mức kinh phí đã giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ có văn bản đề nghị bổ sung, điều chỉnh dự toán kinh phí, giải trình chi tiết các yếu tố làm tăng, giảm dự toán kinh phí gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp. F Trách nhiệm của các cơ quan thực hiện chế độ tự chủ Thủ trưởng cơ quan thực hiện chế độ tự chủ, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm thực hiện, kiểm tra, giám sát, đánh giá, báo cáo kết quả thực hiện Nghị định gửi Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ phối hợp chỉ đạo, kiểm tra tình hình, tiến độ thực hiện, giải quyết theo thẩm quyền hoặc kiến nghị với cấp có thẩm quyền giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện chế độ tự chủ về sử dụng kinh phí, biên chế của cơ quan Nhà nước. Nghị định 43 - Cơ quan ban hành : Chính phủ. - Nội dung : Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Nghị định gồm 5 chương 35 điều, tập trung vào các vấn đề sau : F Những quy định chung : - Về phạm vi và đối tượng điều chỉnh: Nghị định này quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, tài c hính với các đơn vị sự nghiệp công lập do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập - Nghị định được ban hành nhằm các mục tiêu về việc thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập - Các nguyên tắc để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm là : hoàn thành nhiệm vụ được giao; công khai, dân chủ, đúng pháp luật; quyền tự chủ gắn với tự chịu trách nhiệm; đảm bảo lợi ích nhà nước, tổ chức cá nhân. F Nghị định này quy định đơn vị sự nghiệp thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc xây dựng nhiệm vụ,xây dựng kế hoạch và tổ chức hoạt động: Các đơn vị sự nghiệp được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thành lập mới, sáp nhập, giải thể; chức năng, nhiệm vụ cụ thể và quy chế hoạt động của các tổ chức trực thuộc. F Ngoài ra các đơn vị sự nghiệp công lập còn được tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và quản lý, sử dụng cán bộ, viên chức. F Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính : Nghị định này quy định chi tiết về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động; đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động. Cụ thể được thể hiện như sau: Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động. Nguồn tài chính - Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp. - Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp. - Nguồn viện trợ, tài trợ,quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật. - Nguồn khác theo quy định của pháp luật. - Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp. - Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp. - Nguồn viện trợ, tài trợ,quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật. - Nguồn khác theo quy định của pháp luật. Nội dung chi - Chi thường xuyên và chi không thường xuyên. - Chi thường xuyên và chi không thường xuyên Tự chủ về các khoản thu, mức thu. - Thu phí và lệ phí phải thu đúng và thu đủ theo mức thu và đối tượng thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao. - Đối với sản phẩm hàng hóa và dịch vụ do cơ quan nhà nước đặt hàng thì mức thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. - Đối với những hoạt động dịch vụ theo hợp đồng với các tổ chức , cá nhân trong và ngoài nước, các hoạt động liên doanh liên kết, đơn vị được quyết định các khoản thu, mức thu cụ thể theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích lũy. - Thu phí và lệ phí phải thu đúng và thu đủ theo mức thu và đối tượng thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao. - Đối với những hoạt động dịch vụ theo hợp đồng với các tổ chức , cá nhân trong và ngoài nước, các hoạt động liên doanh liên kết, đơn vị được quyết định các khoản thu, mức thu cụ thể theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích lũy. Tự chủ về sử dụng nguồn tài chính. - Căn cứ vài nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, đối với các khoản chi thường xuyên thì thủ trưởng đơn vị được quyết định một số mức chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ cao hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy đinh. - Căn cứ vào tính chất công việc, thủ trưởng đơn vị được quyết định phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc. - Quyết định đầu tư xây dựng, mua sắm mới và sửa chữa lớn tài sản thực hiện theo quy định của nghị định này và của pháp luật. - Căn cứ vài nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, đối với các khoản chi thường xuyên thì thủ trưởng đơn vị được quyết định một số mức chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ, nhưng tối đa không được vượt quá mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. - Căn cứ vào tính chất công việc, thủ trưởng đơn vị được quyết định phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc. - Quyết định đầu tư xây dựng, mua sắm mới và sửa chữa lớn tài sản thực hiện theo quy định của nghị định này và của pháp luật. Tiền lương, tiền công, thu nhập. - Đối với những hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhà nước giao, chi phí tiền lương, tiền công cho cán bộ, viên chức và người lao động đơn vị tính theo lương, cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định. - Đối với những hoạt động cung cấp sản phẩm do nhà nước đặt hàng có đơn giá tiền lương trong đơn giá sản phẩm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, đơn vị tính theo đơn giá tiền lương theo quy định. - Đối với những hoạt động dịch vụ có hạch toán có chi phí riêng, thì chi phí tiền lương, tiền công cho người lao động được áp dụng chế độ tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước. - Nhà nước khuyến khích các đơn vị sự nghiệp tăng thu, tiết kiệm chi, tinh giản biên chế , tăng thu nhập cho người lao động. - khi nhà nước có sự điều chỉnh các quy định về tiền lương thì các đơn vị này phải theo chế độ của nhà nước quy định. - Đơn vị phải trả tiền lương cho người lao động theo cấp bậc và chức vụ do nhà nước quy định. - Nhà nước khuyến khích các đơn vị sự nghiệp tăng thu, tiết kiệm chi, tinh giản biên chế , tăng thu nhập cho người lao động. - khi nhà nước có sự điều chỉnh các quy định về tiền lương thì các đơn vị này phải theo chế độ của nhà nước quy định. Sử dụng phần chênh lệch giữa thu và chi. Thu > chi. - Trích tối thiểu 25% để lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. - Tăng thu nhập cho người lao động. - Trích lập quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ dự phòng ổn định thu nhập. - Tăng thu nhập cho người lao động. - Chi khen thưởng cho tập thể, cá nhân trong và ngoài đơn vị. - Chi cho phúc lợi trợ cấp khó khăn đột xuất cho người lao động. - Chi tăng cường cơ sở vật chất. Sử dụng các quỹ Quỹ được chia thành các loại và sử dụng theo quy định. F Nghị định còn quy định cụ thể và chi tiết trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị sự nghiệp, bộ trưởng các Bộ và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tóm lại : Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ chế quản lý tài chính mới theo Nghị định 130, bước đầu đã khuyến khích và tạo động lực cho đội ngũ cán bộ công chức nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Quy trình xử lý công việc của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước đang được sửa đổi hợp lý khoa học hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính. Việc chi tiêu của các đơn vị được thực hiện công khai, dân chủ, tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn lực từ ngân sách nhà nước. Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, tiếp tục kế thừa và phát huy kết quả Nghị định 10, Nghị định 43 đã tạo điều kiện cho các đơn vị trong việc quản lý và sử dụng nguồn tài chính, đặc biệt là quyền được liên doanh liên kết với các tổ chức cá nhân để hoạt động dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội theo quy định của pháp luật; quyền được vay vốn của các tổ chức tín dụng, được huy động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị để đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp. Tổ chức hoạt động dịch vụ đã tạo điều kiện cho các đơn vị tăng nguồn lực tài chính, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ, thu nhập đầu người tăng thêm đáng kể đã tạo ra động lực phấn đấu làm việc, yên tâm công tác cho đội ngũ cán bộ công chức và người lao động. III. Đánh giá tình hình thực hiện Nghị định 130 và Nghị định 43 Tình hình thực hiện cơ chế, chính sách tài chính theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP Những mặt tích cực Thứ nhất, tăng cường quyền tự chủ và tính chủ động của thủ trưởng đơn vị trong công tác quản lý nhân sự và quản lý tài chính. Sự chuyển biến lớn trong cách nghĩ, cách làm của người đứng đầu đơn vị (cũng là người chủ tài khoản của đơn vị) là tính linh hoạt, mạnh dạn quyết định những công việc có lợi theo thứ tự ưu tiên cho đơn vị trong khuôn khổ thẩm quyền và nguồn kinh phí được cấp. Hơn thế, các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ không nhất thiết phải đợi xin phép cơ quan cấp trên và theo đó, cơ quan cấp trên không phải “can thiệp” quá sâu vào công việc của cơ quan cấp dưới. Thứ hai, tạo ra sự thay đổi về thái độ làm việc, tinh thần và ý thức trách nhiệm của đội ngũ công chức đối với công việc và ngân sách được giao. Quy chế chi tiêu nội bộ được xây dựng trên cơ sở ý kiến đóng góp của tất cả các công chức trong đơn vị. Tất cả các khoản thu và nội dung chi được công khai chi tiết, đã góp phần kiểm soát chi tiêu một cách hợp lý và thúc đẩy thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng ngân sách, tài sản công. Thứ ba, hoạt động của các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ được nâng lên một bước về chất lượng; quy trình xử lý công việc được xây dựng mới, hợp lý và khoa học; nội dung, tiêu chuẩn thủ tục theo yêu cầu quản lý hành chính hiện đại từng bước được áp dụng. Thứ tư, công tác tổ chức lao động khoa học, trên cơ sở đó tiết kiệm được kinh phí, tăng thu nhập cho người lao động. VD: ở Bình Thuận, tính riêng trong năm 2008, ở cấp tỉnh có 15/33 đơn vị tiết kiệm được 1.643 triệu đồng (trong đó, kinh phí tiết kiệm về sử dụng biên chế là 375 triệu đồng và kinh phí tiết kiệm từ quản lý hành chính là 1.268 triệu đồng); ở cấp huyện, 4 đơn vị thuộc thành phố Phan Thiết tiết kiệm được 105 triệu đồng từ kinh phí quản lý hành chính, 1 đơn vị thuộc thị xã La Gi tiết kiệm được 11 triệu đồng từ kinh phí quản lý hành chính. Những hạn chế còn tồn tại Thứ nhất, trong thời gian đầu, việc xác định biên chế, xác định định mức kinh phí giao khoán và xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ là hết sức quan trọng. Trên thực tế, việc hướng dẫn của Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính về quá trình chuẩn bị này chưa thật nhất quán, đầy đủ và cụ thể. Vì thế, nhiều đơn vị còn lúng túng trong giai đoạn chuẩn bị triển khai cơ chế mới. Khá nhiều đơn vị mô phỏng dựa theo quy chế chi tiêu nội bộ (đã có) của các đơn vị khác mà không dựa trên các căn cứ khoa học và điều kiện thực tế của mình. Bên cạnh đó, vẫn còn một số ít thủ trưởng đơn vị thiếu kỹ năng quản lý tài chính, chưa nắm rõ mục tiêu và yêu cầu của chế độ tự chủ nên chưa mạnh dạn triển khai. Thứ hai, việc xác định và giao biên chế cho các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ ở các cơ quan, đơn vị chưa dựa trên những căn cứ khoa học. Vì thế, số lượng biên chế được giao của phần lớn các đơn vị chưa tương xứng với khối lượng công việc của đơn vị đó. Phần lớn các đơn vị ở cấp tỉnh và huyện thiếu hụt hoặc dư thừa biên chế. Hệ quả là kinh phí giao thực hiện chế độ tự chủ cho các đơn vị cũng không phù hợp với khối lượng và chất lượng công việc. Thứ ba, cách thức xác định định mức kinh phí trên mỗi biên chế chưa phù hợp. Cách thức tính toán định mức kinh phí chưa phản ánh một cách đầy đủ và hợp lý các chi phí cần thiết, chưa tính hết đặc thù của các cơ quan nhà nước khác nhau, giữa các địa bàn khác nhau. Không ít đơn vị gặp phải bất lợi khi phần lớn công chức của mình có thâm niên và hệ số lương cao. Theo đó, với mức khoán kinh phí như vậy chỉ đủ để trả lương và phần kinh phí quản lý hành chính chiếm tỷ lệ không đáng kể. Thứ tư, cơ chế tự chủ cho phép các cơ quan nhà nước được quyết định việc chi tiêu của mình, nhưng các cơ quan này phải tuân thủ các định mức được ban hành trong rất nhiều văn bản của Nhà nước (về nguyên tắc chỉ được bằng hoặc thấp hơn định mức chi tiêu hiện hành). Trong bối cảnh tình hình giá cả thị trường luôn biến động hàng ngày thì không ít (nếu không nói là phần lớn) định mức chi hiện hành nhanh chóng trở nên lạc hậu, thấp hơn rất nhiều so với giá cả thị trường. Trong khi đó, thời gian áp dụng định mức chi là ba năm nên ở vào năm thứ ba, phần lớn các định mức chi gần như không còn thích hợp nữa. Chính điều này khiến cho không ít đơn vị, địa phương không mặn mà với việc triển khai cơ chế tự chủ. Thứ năm, quyền tự chủ trong sử dụng biên chế khó thực hiện trong khuôn khổ pháp lý hiện hành và môi trường văn hóa của Việt Nam. Cho đến nay, biên chế giao cho các đơn vị đã được cơ quan quản lý nhân sự xác định từ trước, biên chế tiết kiệm gần như không có hoặc không thể (vì số biên chế tiết kiệm sẽ được cơ quan quản lý nhân sự cân đối cho các đơn vị khác). Việc tuyển dụng nhân sự đôi khi chịu áp lực của những mối quan hệ áp đặt từ trên xuống hoặc thân quen. Những quy định chặt chẽ của pháp luật về quản lý công chức khiến cho việc tinh giản biên chế hết sức khó khăn, ngay cả đối với những người không đủ năng lực cần thiết trong thực hiện công việc được giao. Với tất cả điều nêu trên khó có thể hy vọng thủ trưởng đơn vị phát huy trách nhiệm, nhất là trách nhiệm giải trình đối với việc cải thiện kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị mình. Thứ sáu, khả năng tiết kiệm kinh phí không nhiều. Điều này xuất phát từ định mức giao tự chủ còn eo hẹp và không thể tiết kiệm kinh phí bằng cách giảm biên chế được giao. Trong khi đó, kinh phí quản lý hành chính khó có thể cắt giảm hoặc tỷ lệ tiết kiệm từ kinh phí này không nhiều; tính tiết kiệm, chống lãng phí của phần lớn cán bộ, công chức chưa trở thành ý thức tự giác trong mỗi người; các biện pháp kiểm soát chi tiêu còn chung chung và thiếu các chế tài nghiêm khắc. Thứ bảy, còn quá nhiều ràng buộc về thủ tục hành chính khi thanh toán, quyết toán (nhất là với quy định phải đầy đủ hóa đơn, chứng từ mới đảm bảo tính hợp pháp). Một số quy định chi tiêu hành chính hiện hành còn nhiều bất cập, một số khoản khoán chi cho cá nhân song cá nhân tiết kiệm được cũng không được hưởng trực tiếp phần tiết kiệm đó. Hơn nữa, trong bối cảnh chế độ tiền lương còn khá thấp so với mức sống bình quân của xã hội và giá cả biến động từng ngày, không ít cán bộ, công chức phải khai man để đảm bảo trang trải các khoản chi thực tế và vô hình chung, hình thành thói quen man trá chứng từ, hóa đơn tài chính. Thứ tám, hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của công chức còn chung chung, chưa mang tính định lượng. Hầu hết các đơn vị thiếu hệ thống đánh giá kết quả hoạt động theo yêu cầu của Nghị định số 130 và thiếu tiêu chí được xác định rõ ràng đối với mỗi công chức (theo các đầu ra dựa trên bảng mô tả công việc). Việc đánh giá kết quả hoạt động của công chức mang tính cào bằng và chủ quan, cảm tính, “bào mòn” động lực phấn đấu, khuyến khích công chức dựa trên kết quả hoạt động. Bên cạnh đó, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được xác định và xử lý đúng mức. Không ít nhà quản lý thiếu kiến thức, kỹ năng quản lý tài chính hoặc vì động cơ vụ lợi đã đưa ra những quyết định chi tiêu không đúng đắn, gây thất thoát và lãng phí nghiêm trọng. Thứ chín, chưa có tiêu chí cơ bản làm căn cứ đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ. Tình hình thực hiện cơ chế tài chính về quyền tự chủ, chịu trách nhiệm theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Những mặt tích cực Nghị định 10 ( Nghị định 10/2002/NĐ-CP về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu) là bước quan trọng nhằm phân biệt rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp thì việc giao quyền tự chủ cho đơn vị sự nghiệp thì giao quyền tự chủ cho đơn vị sự nghiệp có thu theo Nghị định 43 là bước tiếp theo phân biệt chức năng, nhiệm vụ toàn bộ các cơ quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách theo 3 mảng : cơ quan hành chính( Nghị định 130); đơn vị sự nghiệp công lập( Nghị định 43) và các tổ chức khoa học công nghệ công lập( Nghị định 115). Đây là đóng góp quan trọng trong cải cách hành chính, phân định rõ luồng ngân sách tài chính công. Sau một thời gian thực hiện Nghị định 43, các đơn vị sự nghiệp công lập đã đạt được một số mặt tích cực trong việc sử dụng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính: Thay đổi phương thức quản lý Thực hiện Nghị định 43, mối quan hệ giữa đơn vị sự nghiệp với các cơ quan quản lý Nhà nước đã có sự thay đổi theo hướng trao quyền tự chủ về quản lý biên chế, lao động, hoạt động chuyên môn ,quản lý tài chính cho đơn vị sự nghiệp công lập, cơ quan hành chính; không làm thay đổi và không can thiệp sâu vào hoạt động nội bộ của đơn vị. Cụ thể : + Trong việc giao dự toán Ngân sách nhà nước : Việc cấp kinh phí ngay từ đầu năm và cấp theo mục đã giúp các đơn vị chủ động điều chỉnh các mục chi theo nhu cầu của mình, đồng thời việc kiểm soát chi tại Kho bạc Nhà nước cũng nhanh chóng và thuận lợi hơn. + Trong việc sử dụng kinh phí tiết kiệm từ hoạt động thường xuyên: Các đơn vị chủ động trong việc quản lý, sử dụng kinh phí, tiết kiệm chi. Kinh phí thường xuyên năm trước không sử dụng hết được chuyển sang năm sau nên việc sử dụng nguồn kinh phí của các đơn vị chủ động và hiệu quả hơn. Các đơn vị sự nghiệp đã chủ động linh hoạt tổ chức hoạt động dịch vụ để thu hút nhiều người tham gia hưởng thụ các dịch vụ công cộng với chất lượng cao và chi phí hợp lý. + Trong việc huy động nguồn vốn phát triển hoạt động sự nghiệp: Các đơn vị được tự chủ trong việc huy động các nguồn vốn để tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị; vay các tổ chức tín dụng, huy động của cán bộ viên chức trong đơn vị, từ các nhà đầu tư thông qua các hoạt động liên doanh, liên kết. Nhờ đó, cơ sở vật chất của các đơn vị sự nghiệp được tăng cường, tạo điều kiện mở rộng các lĩnh vực hoạt động với các loại hình đa dạng, phong phú, phù hợp với chức năng nhiệm vụ được giao. Những kết quả này là bước tiến trong đổi mới cơ chế tài chính, làm cho hoạt động tài chính thông thoáng hơn, bước đầu thực hiện dân chủ cơ sở, thực hiện công khai minh bạch, dân chủ trong quản lý Nhà nước. - Sắp xếp tổ chức bộ máy, biên chế và thực hiện hợp đồng lao động theo hướng tinh gọn hiệu quả. Để nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ, các đơn vị sự nghiệp được chủ động xây dựng sắp xếp tổ chức theo hướng tinh gọn, giảm phòng ban có chức năng trùng lặp, chồng chéo; xây dựng cơ cấu, tiêu chuẩn chức danh viên chức, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ này. Chủ động ký kết các hợp đồng lao động phù hợp với khối lượng công việc và khả năng về nguồn tài chính, giảm dần áp lực về biên chế, tháo gỡ khó khăn cho những đơn vị có nhu cầu lao động cao nhưng được giao biên chế thấp. Việc chi trả thù lao xứng đáng với chất xám và hao phí lao động đã giữ và thu hút được nhân tài, có năng lực cống hiến cho sự nghiệp phát triển của đơn vị. - Đa dạng hóa các loại hình hoạt động sự nghiệp Thực hiện Nghị định 43, các đơn vị sự nghiệp được giao quyền tự chủ tài chính, đã mở rộng hoạt động sự nghiệp: các trường đào tạo đã tổ chức hình thức đào tạo chính quy, tại chức. Một số trường như Học viện Hành chính, trường Cán bộ quản lý Nhà nước và phát triển nông thôn I, II…đã có những hoạt động liên kết với nước ngoài về những nội dung liên quan đến đào tạo, hoặc gửi cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài. Các bệnh viện, trung tâm y tế đã tổ chức các hình thức khám chữa bệnh nội trú, khám chữa bệnh theo yêu cầu, bác sĩ gia đình.. - Thực hiện tự chủ về tài chính: Các đơn vị sự nghiệp khi chuyển sang Nghị định 43 được khoán phần kinh phí Ngân sách cấp cho hoạt động thường xuyên, đồng thời tích cực khai thác các nguồn thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ và được chủ động sử dụng các nguồn kinh phí tùy theo yêu cầu hoạt động của đơn vị, đảm bảo chi tiêu hiệu quả, tiết kiệm trên cơ sở quy chế chi tiêu nội bộ do đơn vị tự xây dựng. Thu nhập cho người lao động tăng lên từ những kết quả đa dạng hóa các loại hình sự nghiệp, đổi mới phương thức hoạt động, sắp xếp tổ chức bộ máy, tăng thu, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm, các đơn vị đã tạo được nguồn để thực hiện cải cách tiền lương tăng thu nhập cho người lao động. VD: Để thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh và các ngành chủ quản đã ban hành các quy định về cơ chế, chính sách, hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ như quy định phân cấp tuyển dụng viên chức vào làm việc tại các đơn vị sự nghiệp Nhà nước thuộc tỉnh, quy định phí thư viện… Nhìn chung việc triển khai thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ đối với các đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực: văn hoá, y tế, giáo dục là phù hợp với yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý với các đơn vị sự nghiệp trong thời kỳ hiện nay. Tạo điều kiện cho đơn vị chủ động tổ chức hoạt động dịch vụ, tăng nguồn thu, tăng thu nhập cho người lao động trung bình từ 50.000 đến 500.000 đồng/người/tháng, chủ động phân bổ nguồn tài chính của đơn vị theo nhu cầu chi tiêu trên tinh thần tiết kiệm, gắn quyền lợi trực tiếp với người lao động, nâng cao kỹ năng quản lý, chất lượng hoạt động sự nghiệp, tạo không khí đoàn kết, phấn khởi trong nội bộ đơn vị… Những hạn chế còn tồn tại. Qua một thời gian thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính , nhất là tự chủ về tài chính, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP tại các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn còn tồn tại một số vấn đề sau: - Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm tổ chức bộ máy, biên chế và nhân sự: Nghị định cho phép đơn vị được tự quyết định về biên chế nhưng trên thực tế Thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp chưa thực sự được thực hiện quyền này. - Về cơ chế tài chính : + Tiêu chuẩn định mức Các đơn vị sự nghiệp công lập chưa có cơ sở thực hiện các định mức, tiêu chuẩn ngành do một số văn bản quy định về tiêu chuẩn, định mức kinh tế-kĩ thuật lạc hậu, chậm sửa đổi như :định mức giờ giảng, định mức biên chế theo lĩnh vực, theo ngành nghề, mức chi trả thù lao cho giáo viên (theo quy định tại Thông tư 79/2005/TT-BTC), mức thu học phí, viện phí còn thấp so với giá cả hiện tại. Do vậy, hàng năm, ngân sách nhà nước vẫn phải hỗ trợ kinh phí chi thường xuyên cho các cơ sở đào tạo. Vì vậy,một số cơ sở đào tạo còn tư tưởng trông chờ sự bao cấp từ ngân sách nhà nước, không năng động, cạnh tranh trong hoạt động. + Cơ chế giao kế hoạch: Việc lập dự toán : Theo quy định tại Nghị định 43/2006/NĐ-CP, phần kinh phí không thực hiện tự chủ tài chính phải được duyệt nội dung và dự toán, tuy nhiên, hầu hết các đơn vị chưa quan tâm tới vấn đề này, đây cũng là một nội dung Kiểm toán Nhà nước nhắc nhở các đơn vị. + Cơ chế huy động vốn: Việc vay vốn tín dụng của các đơn vị theo quy định tại điều 11 Nghị định 43/2006/NĐ-CP để đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ (trong đó có cả dịch vụ đào tạo) còn gặp khó khăn về thủ tục: chưa có hướng dẫn cụ thể và thủ tục yêu cầu về thế chấp tài sản phức tạp. + Tỷ lệ trích khấu hao và trích lập quỹ: Thông tư số 45/2006/TT-BTC quy định các đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ tài chính theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP phải trích khấu hao tài sản cố định như doanh nghiệp. Mặt khác theo quy định tại Nghị định 43 phần chênh lệch thu lớn hơn chi (sau khi đã trang trải các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp khác theo quy định) phải trích tối thiểu 25% vào quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Như vậy, các đơn vị bị giảm nguồn chi để nâng cao thu nhập cho người lao động, trong khi nguồn quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp có thể không được sử dụng hết. Đối với các quỹ được trích lập do tiết kiệm chi từ hoạt động thường xuyên trong năm của đơn vị không cho phép gửi tại ngân hàng và phải thực hiện chi qua Kho bạc Nhà nước cũng thể hiện tính cứng nhắc trong thi hành Luật ngân sách. - Về năng lực của đội ngũ kế toán: Trình độ chuyên môn của đội ngũ kế toán ở các đơn vị chưa đồng đều, một số kế toán trưởng còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ nên chưa thích nghi với cơ chế tài chính mới, đưa hoạt động tài chính của đơn vị theo quỹ đạo mới. Một số đơn vị, bộ phận tham mưu về tài chính còn yếu, lúng túng trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, đặc biệt là việc xác định lương cho từng cá nhân. Hầu hết, các đơn vị còn lúng túng trong việc xây dựng tiêu chí để trả thu nhập tăng thêm cho người lao động theo hiệu quả công việc. - Về cơ chế, chính sách khác: Bộ Tài chính còn thiếu hướng dẫn cụ thể việc hạch toán nội dung tạm trích lập kết thúc năm, khi đơn vị xác định được chênh lệch của hoạt động thường xuyên và tạm trích lập các quỹ (chuyển từ tài khoản hạn mức sang tài khoản vãng lai tại Kho bạc) nên cả Kho bạc và đơn vị lúng túng trong việc hạch toán và theo dõi. Do việc Bộ quản lý ngành, lĩnh vực chủ trì phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,biên chế đối với các đơn vị sự nghiệp theo quy định tại khoản 4 điều 5 và khoản 7 điều 8 Nghị định 43 chưa cụ thể, chi tiết nên dẫn đến các đơn vị được giao quyền tự chủ về tài chính chưa đồng bộ, ảnh hưởng tới kết quả về việc thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Một số đề xuất, kiến nghị. Một là, tiếp tục quán triệt cho cán bộ, công chức,viên chức về chủ trương thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhằm trang bị nhận thức đúng đắn và đầy đủ về mục tiêu và yêu cầu của Nghị định 130 và Nghị định 43. Tiết kiệm chi tiêu chỉ là một mục tiêu phụ của chế độ tự chủ, mục tiêu lớn hơn là đổi mới cơ chế quản lý, sắp xếp tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ công. Hai là, việc định biên cho các cơ quan nhà nước cần được thực hiện theo một tiến trình bao gồm các giai đoạn hợp lý. Ở giai đoạn khởi đầu, khi nhiệm vụ cụ thể của mỗi biên chế chưa được xác định rõ ràng thì có thể sử dụng phương pháp tự phân tích công việc để xác định biên chế giao cho đơn vị. Ở giai đoạn sau, khi nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan đã được xác định rõ hơn, quy trình công việc và hệ thống giám sát được thiết lập thì có thể áp dụng các phương pháp phức tạp và khách quan hơn để tính toán biên chế. Việc tính toán biên chế cần có sự phối hợp giữa các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ với cơ quan có thẩm quyền quản lý nhân sự. Bởi lẽ, việc giao biên chế mang tính áp đặt từ trên sẽ dẫn đến hệ quả hoặc là làm lãng phí nhân lực hoặc khiến cho đơn vị không thể thực hiện hiệu quả công việc được giao. Ba là, Bộ Tài chính cần tiến hành rà soát và điều chỉnh hệ thống định mức chi tiêu phù hợp với tình hình thực tế, có tính khả thi. Trong điều kiện giá cả biến động, việc điều chỉnh cần được tiến hành thường xuyên hàng năm. Đồng thời, cần hướng tới một chế độ tự chủ thật sự thông thoáng, hạn chế những ràng buộc mang tính cứng nhắc. Có như vậy mới kích thích cơ quan, cá nhân tiết kiệm chi. Bốn là, xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá cá nhân rõ ràng, chặt chẽ về mặt định lượng. Trên cơ sở công khai, minh bạch về sử dụng ngân sách và tài sản công, cần quy định rõ trách nhiệm giải trình của từng cá nhân đối với nguồn kinh phí được giao. Trách nhiệm này không chỉ đòi hỏi phải có đầy đủ bằng chứng để chứng minh việc sử dụng nguồn kinh phí như thế nào, mà phải chịu toàn bộ trách nhiệm về hậu quả xảy ra do thất thoát, lãng phí hoặc sử dụng sai mục đích. Trong đó, đặc biệt lưu ý về trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý tài chính. Năm là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý tài chính, tài sản công. Xây dựng và triển khai chương trình tăng cường năng lực cho hệ thống cán bộ làm công tác tài chính,kế toán, nhất là những người trực tiếp có trách nhiệm và quyền hạn về chi tiêu công, nhằm đáp ứng yêu cầu phân cấp và hiện đại hóa công tác tài chính.Bên cạnh việc mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng quản lý tài chính cho từng nhóm đối tượng, cần tạo lập một môi trường văn hóa công sở lành mạnh, đúng đắn. Việc tiết kiệm, chống lãng phí chỉ thật sự có hiệu quả khi nó trở thành ý thức của từng thành viên, thành đặc trưng văn hóa công sở của mỗi đơn vị, cơ quan nhà nước  Sáu là, đổi mới phương pháp phân bổ kinh phí ngân sách nhà nước theo hướng giao ngân sách gắn với nhiệm vụ và sản phẩm cuối cùng,nghiên cứu đổi mới việc phân bổ ngân sách theo kết quả đầu ra. Bảy là, tiếp tục sửa đổi bổ sung để hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo ra sự thống nhất và động lực mạnh mẽ cho các đơn vị khi triển khai thực hiện. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nghị định 130/2005/NĐ-CP, Nghị định 43/2005/NĐ-CP, Nghị định 10/2002/NĐ-CP về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. “Thực hiện chế độ tự chủ,tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính ở Bình Thuận” Ths. Võ Công Khôi – Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III. “Báo cáo kết quả thực hiện các Nghị định của Chính phủ về cải cách tài chính công tại các đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.” Nhóm thực hiện : - Cán bộ Vụ Tài chính - Chuyên gia Việt Nam. 4. Báo cáo của Sở Nội vụ Quảng Ninh về tình hình thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP .( Do Bộ Nội vụ tiến hành khảo sát đánh giá tình hình thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP vào ngày 29/03/2010)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTình hình thực hiện Nghị định 130-2005-NĐ-CP và Nghị định 43-2006-NĐ-CP.doc
Luận văn liên quan