Quan niệm của Roland Barthes trong tác phẩm Những huyền thoại (Mythologies)

Trên lĩnh vực văn học, Những huyền thoại của Roland Barthes đã gợi mở một phương pháp sáng tác mới cho văn học Việt Nam, đặc biệt là tiểu thuyết : phương pháp sáng tác huyền thoại, đây là một phương pháp còn khá mới mẻ và chưa được vận dụng hiệu quả lắm trong các truyện kể và tiểu thuyết Việt Nam. Và đây cũng là một phương pháp sáng tác mà các nhà nghiên cứu tiểu thuyết ở ta đang dành một sự quan tâm lớn. Những huyền thoại sẽ mở ra một hướng tìm tòi phát triển, đổi mới hình thức thể loại, nhất là thể loại tiểu thuyết luôn phải đối mặt với nguy cơ mất dần độc giả trước sự phát triển mạnh mẽ của điện ảnh và truyền hình, trong các nhà văn Việt Nam ta, góp phần đưa nền văn xuôi đương đại Việt Nam phát triển năng động hơn và sáng tạo ra nhiều tác phẩm đạt hiệu quả nghệ thuật hơn.

pdf37 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3187 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quan niệm của Roland Barthes trong tác phẩm Những huyền thoại (Mythologies), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiện chưa từng bao giờ xảy ra để nói về một điều đã tồn tại từ xa xưa” (Salluste, sử gia La Mã cổ đại), kể “một sự kiện đã xảy ra trong thời nguyên thuỷ, thời hoang đường khai thiên lập địa” (Mircea Eliade); huyền thoại là “truyện hoang đường từ xa xưa, qua đó thể hiện một cách tượng trưng quan niệm về thế giới” (Từ điển Encarta). Ta cũng nhận thấy rằng các định nghĩa thường chú ý đến đặc điểm không còn tồn tại hay không thật của những chuyện được kể trong huyền thoại. Khảo sát Những huyền thoại, chúng tôi thấy rằng, R.Barthes đã không đi theo quan điểm truyền thống về Huyền thoại, mà ông xem xét các huyền thoại trong “phạm vi mỗi nền văn hoá như những hệ thống biểu thị mà ngay những người đề xuất cũng không biết các ý nghĩa thật của chúng”[1]. Thuật ngữ huyền thoại có nguồn gốc từ ngôn ngữ cổ Hy Lạp, phiên âm theo ngữ hệ La tinh là mythos (tiếng Anh: myth, tiếng Pháp: mythe. Mythos có nghĩa là lời nói mơ hồ tối nghĩa và cần một sự giải mã để tìm ra ẩn ý của nó. Nó bị che lấp bởi những thứ vặt vãnh không liên quan gì đến bản thân nó và làm cho nội dung của nó trở nên mơ hồ. Từ mythologies mang nghĩa thần thoại, dùng để chỉ những câu chuyện từ thời xa xưa của các dân tộc, nơi có những nhân vật thần thánh hoặc những anh hùng được thần thánh hóa. Tuy nhiên, từ mythologies cũng được dùng theo nghĩa mythe, và Roland Barthes đã dùng như thế. Ông viết về “những huyền thoại trong đời sống hằng ngày ở Pháp”, nó là những gì đang diễn ra nơi thế giới chúng ta đang sống. Nó là “nơi người ta đấu vật”, là lúc “nhà văn đi nghỉ hè”, là “chuyến du ngoạn trên biển”, là “các loại xà phòng và bột giặt”, “đồ chơi” con trẻ, là rượu vang, sữa, bít tết, khoai tây rán, là “gương mặt nàng Garbo” – một diễn viên nổi tiếng lúc bấy giờ, là “chiếc xe Citroën Mới”, v.v…Tất cả tạo nên những huyền thoại hiện đại, nhằm mục đích “phê phán ngôn ngữ của cái gọi là văn hóa đại chúng về phương diện tư tưởng”. Roland Barthes cho rằng Huyền thoại được tạo ra do sự vật bị đánh mất sử tính, sự vật đã quên lãng nguồn gốc cấu tạo ra chúng: "Huyền thoại hoá là một vận hành có nhiệm vụ biến những hiện tượng ngẫu nhiên mang tính lịch sử trong một nền văn hoá thành những câu chuyện, những điều thiêng liêng, thần thánh, hoặc những chân lý hiển nhiên, không còn gì thắc mắc hay đáng ngờ.” Huyền thoại hoá tạo nên “doxa”. Barthes dùng lại thuật ngữ “doxa” của Platon, với nghĩa “giọng nói của tự nhiên”, để chỉ tất cả những quan điểm chính thống về sự vật, về cuộc đời… Như vậy công tác giải huyền thoại chính là đi ngược dòng thời gian để truy nguyên lý lịch ban đầu của sự vật để vạch ra “tính ngẫu nhiên lịch sử của chúng” và như thế sẽ xoá đi “tính thiêng liêng thần bí giả tạo bao quanh những sự vật đó”. Tính thiêng liêng này sở dĩ được hình thành là do con người đã quên lãng sử tính của sự vật. Chúng ta bị thuyết phục tin rằng tất cả những gì đang xảy ra chung quanh: các định chế xã hội, các nguyên tắc đạo lý, các quy ước văn học…đều hoàn toàn tự nhiên và không có gì phải bàn cãi về “tính chất tự nhiên” của chúng. Trong huyền thoại có phần không thực, vì vậy, huyền thoại làm cho con người lạc lối, lầm đường, mụ mị khi tin vào những điều “hoang tưởng”. Và giải huyền thoại là xoá bỏ, hoá giải điều lệch lạc để tìm ra sự thật đích thực. Theo R.Barthes, giải huyền thoại là một kỹ thuật, một phương pháp tạo ra sự thức tỉnh, một thủ pháp vệ sinh tinh thần để tẩy rửa những huyền thoại chính trị, văn hoá, xã hội đã được chế tạo ra. Giải huyền thoại là nỗ lực chống lại sức mạnh khống chế của “doxa” [2]. Trong Những huyền thoại, Roland Barthes đi giải mã 53 huyền thoại hiện đại của nước Pháp. Và nhìn chung, ta thấy các huyền thoại mà Roland Barthes đưa ra thuộc rất nhiều lĩnh vực trong xã hội: Những huyền thoại thuộc lĩnh vực văn hóa nghệ thuật chiếm một số lượng vượt trội: Diễn viên của ảnh viện Harcourt, Nhà văn đi nghỉ hè, Lối phê bình câm và mù, Gương mặt nàng Garbo, Adomov và ngôn ngữ, Hai huyền thoại về sân khấu trẻ, Văn chương như của Minou Drouet, Lối phê bình “Chẳng-chẳng”… Bên cạnh đó, những huyền thoại chính trị cũng chiếm vị trí đáng kể: Người nghèo và người tư sản, Mấy câu hỏi của ông Poujade, Ảnh tranh cử, Chuyến du hành đường biển của “Batory”, Kẻ sử dụng bãi công…Ngoài ra còn có huyền thoại tôn giáo (Billy Graham ở trường đua xe đạp mùa đông…), huyền thoại khoa học (Bộ óc của Enstein, Người-phóng…), huyền thoại thể thao (Nơi người ta đấu vật, Cuộc đua xe đạp vòng quanh nước Pháp…), huyền thoại về tinh thần (Binchon ở xứ da đen…) và tất nhiên không thể thiếu những huyền thoại vật chất thuộc trào lưu sống tư sản hiện đại của người Pháp (Các loại xà phòng và bột giặt, Rượu vang và sữa, Bít-tết và khoai tây rán, Thoát y vũ, Chiếc xe Citroën Mới…). Qua danh sách những huyền thoại của Roland Barthes, ta thấy hiện lên khá đầy đủ những khía cạnh của xã hội Pháp hiện đại. Xã hội hiện đại Pháp trong thời hậu chiến, những năm 50, những năm của phi thực dân hóa, trong trào lưu giải tán các thuộc điạ, rùng rùng chuyển động với nhiều cuộc cọ sát, giữa cái cũ và cái mới, giữa những ngộ nhận về giá trị cội nguồn và những âu lo cho viễn ảnh tương lai. Trên đấu trường tư tưởng, cánh Hữu và cánh Tả mâu thuẫn gay gắt và chống đối nhau trong bầu không khí ngày càng sôi nổi. Và đỉnh điểm cuộc đọ sức sẽ diễn ra vào thập niên 60 với Cách Mạng Tháng 5 năm 1968. Nhìn từ góc độ này, Những huyền thoại của Roland Barthes vô cùng thú vị cho độc giả, bởi nó muốn phanh phui cái bản chất xã hội hiện đại, muốn vạch trần các tín điều được số đông xem như sự thật hiển nhiên . Nó “đọc” được đằng sau vô số các hiện tượng xã hội, như cuộc đua xe đạp vòng quanh nước Pháp, như chiếc xe hơi Citroën, như rượu vang, thịt bít tết và khoai tây rán, hay trong các câu chuyện và nhân vật đương thời, sự tụt hậu của những giá trị mang nhãn hiệu tiểu tư sản. Ngòi bút của Roland Barthes đầy châm biếm mỉa mai, giải mã các hiện tượng được xã hội tiêu thụ và văn hoá đại chúng mới xuất đầu lộ diện, tung hô như những bảng hiệu của nền hiện đại [14]. Ở đó, ta nhận ra bản chất của xã hội tư sản. Nền dân chủ tư sản thực ra là một trong những hình thức chính trị của nhà nước tư sản. Cơ sở kinh tế của dân chủ tư sản là những điều kiện tiên quyết của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình phát triển do bản chất giai cấp, dần dần tính chất tiến bộ của nền dân chủ tư sản đã bị biến dạng. Từ chỗ quan hệ bình đẳng của công dân trước pháp luật đã thay bằng quan hệ áp bức và bất công, các phúc lợi tự do cá nhân, phần lớn rơi vào lớp người khá giả, giới thượng lưu. Còn những người làm thuê, nhân dân lao động lại ít được hưởng quyền tự do dân chủ thật sự. Ngay cả vấn đề thông tin đại chúng, nhà nước tư bản vẫn rêu rao là tự do, kỳ thực, nó được sử dụng chủ yếu vì lợi ích của những tổ chức độc quyền tư bản lớn. Nhiều nhà tư bản lớn ở phương Tây đã mua các báo, tạp chí, đài phát thanh, đài truyền hình, hãng phim và những phương tiện tuyên truyền khác để thao túng, uốn nắn dư luận xã hội theo ý đồ riêng của mình. Đó là thực chất của chế độ dân chủ tư sản hiện đại. Bởi vậy, Roland Barthes đã đi lật đổ địa vị của linh mục Pierre, và đặt câu hỏi: Phải chăng đa số dân tộc Pháp, thay vì đi tìm một nền công lý thực sự, “đã đánh tráo vào đó những biểu hiện của lòng vị tha?”. Với cái nhìn sắc sảo, khi phân tích phản ứng của công chúng trong một trận đấu vật (catch), Roland Barthes nhận xét : “Công chúng đòi hỏi chiêm ngưỡng hình ảnh của sự đam mê, chứ không phải là sự đam mê”, nó thể hiện sự quan tâm của ông đối với văn hóa đại chúng. Ông không ngại phê phán tính tự mãn của giới nghệ sĩ, đằng sau cuộc triển lãm nhiếp ảnh mang tên “Đại gia đình con người”, Roland Barthes lạnh lùng tố cáo cái huyền hoặc trong giá trị nhân văn chung chung, khi nó bỏ quên các điều kiện sống cụ thể của người da màu hay người lao động nhập cư. Ông để cho chính trị gia cánh hữu Poujade đánh lên những cảm xúc phân biệt chủng tộc trong các bài viết “Mấy câu hỏi của ông Poujade” hay “Poujade và các nhà trí thức”. Và “Bichon ở xứ da đen” là một văn bản quan trọng về một sự phân biệt chủng tộc. “Ngữ pháp Phi Châu” là một bài viết về ngôn ngữ, cụ thể hơn, về ngôn ngữ sử dụng trong một số tờ báo cánh hữu và tạp chí để mô tả, đánh giá và phân tích các cuộc xung đột đang diễn ra tại Algeria. Ông phơi bày bản chất tư tưởng của thuật ngữ dùng để mô tả cuộc xung đột lớn của đế quốc Pháp, xác định các tuyên bố gian dối để che giấu thực tế của cuộc chiến tranh Algeria. Nói về nền sản xuất tư bản, khi phân tích quảng cáo về “các loại xà phòng và bột giặt”, ông đã cho thấy rằng sản xuất tư bản đặt lợi nhuận lên hàng đầu mà không quan tâm đến đạo đức hay xã hội; họ đưa hai loại bột giặt: loại ngấm sâu và loại nhiều bọt và điều quan trọng là họ đã biết che dấu tác dụng ăn mòn của xà phòng “dưới hình ảnh thú vị của một chất vừa ngấm sâu vừa bay bổng, có thể chi phối cấp độ phân tử của sợi vải mà không gây tác hại cho vải”; ông thảo luận về các phương pháp quảng cáo khác nhau của Omo và Persil, quảng cáo của họ thúc đẩy hai sản phẩm khác nhau với hai thuộc tính khác nhau nhưng trong thực tế, hai sản phẩm gần như giống nhau và cả hai đều được sản xuất bởi Unilever đa quốc gia Anh-Hà Lan. Trong bài viết về “đồ chơi”, R.Barthes chỉ rõ sự tụt hậu trong giá trị tư tưởng của xã hội tư sản, các loại đồ chơi tung ra khuyến khích trẻ em trở thành chủ sở hữu hơn là người sáng tạo và đó là một sự khuyến khích thụ động. Trong thời hậu chiến, ở Pháp nhiều hàng tiêu dùng giá cả phải chăng hơn và nhiều người tiêu dùng có thể dễ dàng có được những tài sản như là xe hơi, máy giặt,…lợi dụng điều đó, giai cấp tư sản đã tạo ra một sự say mê các lợi ích vật chất và cái gọi là tiến bộ công nghệ để tạo nên sự bùng nổ tiêu dùng, trong bài về chiếc xe hơi DS, ông cười đùa chế giễu “thời nay, xe hơi là thành tựu tương đương với các thánh đường gô-tíc thời trước đấy”, v.v…Chỉ cần nhìn vào mục lục những huyền thoại của Roland Barthes ta đã có thể thấy muôn mặt xã hội Pháp xuất hiện dưới con mắt của một nhà ký hiệu học. Bên cạnh việc phơi bày bản chất xã hội tư sản, ông dành một sự quan tâm đặc biệt cho ngữ pháp. Ông phân tích và chỉ ra những ngụy biện buồn cười trong thói quen ngôn ngữ của mọi người. Ông chỉ ra rằng, Racine là Racine là một lập luận trùng ngôn, thứ lập luận giai cấp tư sản đặc biệt ưa thích. Roland Barthes đã chỉ ra bản chất của trùng ngôn và khiến ta giật mình: “Lợi thế lớn của phương pháp trùng ngôn chính là chẳng phải nói ra”. Nó là sự an toàn tuyệt vời của cái rỗng không. Từ đó, ông vạch trần bản chất khôn lỏi, nhút nhát, lười biếng thậm chí vô trách nhiệm của những người sử dụng trùng ngôn này. Roland Barthes cũng phê phán lối phê bình Chẳng- chẳng, một lối phê bình bắt nguồn từ tính đạo đức của các từ ngữ được dùng. Người ta tưởng rằng lối phê bình đó là mới nhưng ông đã lật ngược quan niệm đó. Ông quan sát thấy chỉ cần xem những huyền thoại nào khác lộ ra trong những bài phê bình đó là đủ biết tác giả của nó đứng về phía đảng phái nào. Ngoài ra, ở lối phê bình Chẳng-chẳng người ta cứ thích xem “phong cách” của nhà văn như giá trị vĩnh cửu của văn chương, đi theo quan niệm ở Độ không của lối viết, Roland Barthes cho Văn phong là một giá trị phê bình hoàn toàn cũ. Bài viết Mấy câu hỏi của ông Poujade cũng là một bài viết có sự hỗ trợ đắc lực từ ngữ pháp học. Qua những câu trả lời như: “Ngài nhận trách nhiệm về sự đoạn tuyệt, ngài sẽ phải chịu các hậu quả”, Roland Barthes đã khái quát về khát vọng mọi hiện tượng diễn ra trọn vẹn trong khuôn khổ nội tại theo cơ chế có đi có lại đơn giản của giai cấp tư sản. Hình thức ngữ pháp cân bằng, phép tu từ ăn miếng trả miếng, tất cả theo dạng đẳng thức là thứ ngữ pháp ưa dùng của giai cấp này.[18] Với những huyền thoại đưa ra, Roland Barthes đã vạch trần bộ mặt giả dối của giai cấp tư sản, đó chính là sự “thoát danh” của nó. Và hiện tượng ấy được Roland Barthes xem xét khá tỉ mỉ. Xã hội Pháp vốn là một xã hội tư sản, và cho dù lịch sử có đem đến những biến cố gì đi nữa thì bản chất xã hội ấy vẫn không thay đổi, nó là một môi trường ưu đãi của những biểu đạt huyền thoại. Như vậy thì giai cấp tư sản “thoát danh” để làm gì? Suy cho cùng chỉ để thực hiện mục đích điều khiển xã hội của nó. Sự “thoát danh” chính là rũ bỏ cái tên tư sản trong huyền thoại, qua đó “giai cấp tư sản biến thực tại của thế giới thành hình ảnh của thế giới, biến Lịch sử thành Bản chất tự nhiên”. Và từ đó, mọi ý đồ chính trị của giai cấp tư sản được công chúng chấp thuận một cách hết sức tự nhiên mà không có một sự phản kháng nào. Roland Barthes đã xem huyền thoại của xã hội tư sản Pháp như một diễn ngôn và diễn ngôn này có mối liên hệ khăng khít với chính trị. Roland Barthes đã định nghĩa về huyền thoại ở phương diện ký hiệu học trong xã hội tư sản như sau: “huyền thoại là một ngôn từ phi chính trị hóa”, chính bởi vì nó luôn biến cái ý định lịch sử thành bản chất tự nhiên, nó vứt hết tính chất lịch sử của các sự vật. Chính trị ở đây được hiểu sâu xa là “tổng thể các mối quan hệ giữa người với người trong cấu trúc hiện thực, xã hội của chúng, trong quyền lực tạo lập thế giới của chúng”. Và phải hiểu tiền tố phi như một giá trị năng động: “nó thể hiện ở đây một thao tác, nó không ngừng thực tại hóa sự rũ bỏ”. Nói cho đúng ra Roland Barthes khẳng định rằng: huyền thoại luôn tìm mọi cách xóa đi dấu vết chính trị nhưng nếu nhìn thấu đáo nó vẫn mang dấu vết chính trị, bởi vì “mọi đối tượng tự nhiên nhất vẫn chứa đựng một dấu vết chính trị, dù mờ nhạt, dù thấp thoáng thế nào đi nữa, đó là sự hiện diện ít nhiều đáng ghi nhớ của hành vi con người đã làm ra, đã sắp xếp, đã sử dụng, đã chinh phục hoặc đã quẳng nó đi” (theo Marx). Theo đó, Roland Barthes đi đến một kết luận rằng: mọi người quan hệ với huyền thoại không phải ở phương diện chân lý mà là ở phương diện sử dụng, như vậy nếu chúng ta nhận xét huyền thoại ấy chẳng có sắc thái chính trị thì đơn giản là vì nó không phải được tạo ra cho chúng ta. Từ cách chọn huyền thoại để phân tích lộ ra quan niệm về huyền thoại của Roland Barthes: “huyền thoại là ở phe Hữu”. Bởi vì bản chất của phe Hữu là hào nhoáng, cởi mở, ba hoa và phe Hữu cũng là phe nắm trong tay mọi thứ: “các vấn đề tư pháp, luân lý, mỹ học, ngoại giao, các nghệ thuật nội trợ, Văn chương, sân khấu. Sự bành trướng của nó có cùng quy mô với hiện tượng thoát-danh tư sản”. Như vậy, một câu hỏi được đặt ra rằng: ở phe Tả có huyền thoại hay không? Roland Barthes trả lời rằng: “huyền thoại có ở phe Tả, nhưng nó không hề có cùng những tính chất của huyền thoại tư sản. Huyền thoại phe Tả thì không bản chất”. Ta luôn biết rằng, phe Tả được xác định liên quan đến những người bị áp bức, dân vô sản hoặc dân thuộc địa. Chính vì vậy, những huyền thoại của họ mang bản chất nghèo nàn, nó gắn với bản chất của giai cấp. Trước hết, đối tượng để huyền thoại nắm bắt rất hiếm hoi, nó chỉ là vài khái niệm chính trị. Chính vì vậy, chẳng bao giờ huyền thoại của phe Tả chạm được tới những lĩnh vực mênh mông của những mối quan hệ giữa người với người. Nó không xâm nhập được vào cuộc sống hào nhoáng đời thường, không chiếm được một vị thế ưu trong xã hội. “Nó chỉ là huyền thoại phụ, việc sử dụng nó chẳng liên quan đến chiến lược như trong trường hợp huyền thoại tư sản, mà chỉ là chiến thuật, hoặc tệ nhất, là sự lệch lạc”. Huyền thoại ở phe Tả nếu có thì là do tiện thể sinh ra chớ không phải là do thiết yếu. Nó khô khan, nó không biết sinh sôi nảy nở và tự sáng tạo ra mình bởi vì nó thiếu năng lực chủ chốt là năng lực bịa đặt. Và “ta có thể nói rằng theo một nghĩa nào đấy, huyền thoại phe Tả luôn luôn là huyền thoại giả tạo, huyền thoại tái tạo: do đó mà nó vụng về”. Theo như những phân tích trên thì huyền thoại mang tính giai cấp nặng nề và qua đó cũng cho ta thấy được bản chất bành trướng, độc đoán của giai cấp vô sản. Những vấn đề mà Roland Barthes đưa ra khi đi giải mã huyền thoại vẫn có một sự liên quan đến cuộc sống hôm nay, không chỉ riêng nước Pháp mà trên toàn thế giới. Ngày nay khi đọc Những huyền thoại, độc giả vẫn cảm nhận được cái đáng yêu trong ngòi bút của Roland Barthes, cho dù cuộc sống đã khốc liệt gấp vạn lần trước và nước Pháp ngày nay cũng đã sinh sôi nảy nở thêm gấp vạn lần các huyền thoại mới. Nhưng cái cách giải huyền thoại mà Roland Barthes đưa ra sẽ trang bị một cái nhìn tỉnh táo cho công chúng đối với thực tế xã hội. 3.2. CẤU TRÚC CỦA KÝ HIỆU HUYỀN THOẠI VÀ BÀI HỌC VỀ “TRÔNG NHÌN VÀ THƯỞNG THỨC”[2] Trong Lời nói đầu của Những huyền thoại, Roland Barthes đã viết: “Ngay từ đầu [...] tôi cũng đã tin vào một điều mà sau đó tôi tìm cách rút ra tất cả những hệ quả: huyền thoại là một ngôn ngữ (langage). Vì vậy, tuy quan tâm đến những sự việc xem ra hết sức xa lạ với mọi loại văn chương (một trận đấu catch, một món ăn được xào nấu, một cuộc triển lãm đồ nhựa), tôi không nghĩ là đi ra ngoài lĩnh vực ký hiệu học đại cương của thế giới tư sản chúng ta, mà tôi đã tiếp cận triền dốc văn chương trong những tiểu luận trước...” Đến Lời nói đầu ở lần tái bản năm 1970, tác giả lại viết: “Bạn đọc sẽ thấy ở đây hai điều xác định: một mặt là việc phê phán về phương diện tư tưởng đối với ngôn ngữ của cái gọi là văn hóa đại chúng; mặt khác là việc tháo dỡ về phương diện ký hiệu học đối với ngôn ngữ ấy: tôi vừa đọc Saussure và tôi sẽ rút ở đấy ra niềm tin chắc là bằng cách xem xét các “thể hiện tập thể” như những hệ thống ký hiệu, người ta hy vọng có thể vượt lên khỏi sự bác bỏ có tính chất kính nhi viễn chi và chỉ ra một cách chi tiết sự lừa phỉnh muốn biến văn hóa tiểu tư sản thành bản chất phổ quát”. Như vậy thì trước sau Roland Barthes vẫn khẳng định một điều rằng Huyền thoại thuộc lĩnh vực ký hiệu học, nó mang cấu trúc của hệ thống ký hiệu, và muốn “tháo dỡ” Huyền thoại thì phải biết được cấu trúc của nó. Mở đầu phần Huyền thoại, ngày nay, R.Barthes đã quan niệm rất rõ rằng: Huyền thoại là một ngôn từ, hay nói khác hơn nó là một lời nói. Huyền thoại là một lời nói, nhưng không phải lời nói nào cũng là huyền thoại, Roland Barthes khẳng định “cần phải nêu lên mạnh mẽ ngay từ đầu rằng, huyền thoại là một hệ thống thông báo, đó là một thông điệp”, do đó huyền thoại không thể là một sự vật, một khái niệm hay một ý niệm, mà đó là một hình thức, một phương thức biểu đạt; “ngôn từ Huyền thoại được tạo nên bởi sự gia công chất liệu của sự vật nhằm hướng tới một thông báo thích hợp”. Huyền thoại không được xác định bằng nội dung của thông điệp mà bằng cách thức nó phát ra thông điệp và phải miêu tả nó như một hình thức. Huyền thoại là một ngôn từ, ngôn từ ấy lại là một thông điệp. Đó là một sự mở rộng trong việc xác định ngôn từ Huyền thoại. Ngôn từ Huyền thoại không nhất thiết phải được phát ra từ miệng, nó có thể được hình thành bằng các chữ viết hoặc bằng các thể hiện: diễn ngôn viết ra, ảnh chụp, điện ảnh, phóng sự, thể thao, quảng cáo, các cuộc biểu diễn…miễn là nó mang trong mình tính chất biểu đạt, thông báo về một điều gì đó. Như vậy từ R. Barthes, ta lại được cung cấp một cách hiểu rộng hơn về ngôn ngữ, diễn ngôn, lời nói… “rằng bất cứ đơn vị hoặc tổng hợp có tính chất biểu đạt nào, dù được thốt ra lời hay nhìn thấy bằng mắt” đều sẽ được hiểu là ngôn ngữ. Thuộc về ngôn ngữ, R.Barthes cho rằng “huyền thoại thuộc về một khoa học tổng quát mở rộng của ngôn ngữ học, và đó là ký hiệu học”. Vì vậy, nghiên cứu huyền thoại, cũng như nghiên cứu lời nói, chính là nghiên cứu các ký hiệu mà Saussure đã chủ trương trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương. Ferdinand de Saussure (1857-1913) là nhà ngôn ngữ học Thuỵ Sĩ, người mở đường cho ngôn ngữ học hiện đại và sáng lập ngành ngôn ngữ học cấu trúc, tuy rằng từ “cấu trúc” chưa một lần nào được ông nói đến. Trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (Cours de linguistique générale, 1916) xuất bản ba năm sau khi ông qua đời, Saussure dùng hai từ phân biệt “langage” và “langue”, trong khi tiếng Việt và tiếng Anh chỉ có một từ tương đương là “ngôn ngữ” hoặc “language”. Ngôn ngữ (langage) là hoạt động nói năng, không chỉ bao gồm ngôn ngữ nói mà rộng hơn (người ta có thể nói với nhau bằng các động tác...). Ngôn ngữ (langue) là tập hợp các ký hiệu được một cộng đồng sử dụng để liên lạc, trao đổi với nhau, như tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung... Cùng với các khái niệm langage và langue là khái niệm “lời nói” (parole); đó là việc sử dụng cụ thể các ký hiệu ngôn ngữ trong ngữ cảnh nhất định. Ngôn ngữ học chỉ là một nhánh của ký hiệu học nói chung, nhưng là nhánh quan trọng và được phát triển mạnh mẽ nhất [19;385]. Trong ngôn ngữ (langue), ông phân biệt hai mặt: cái biểu đạt (le signifiant) và cái được biểu đạt (le signifié). Cái được biểu đạt là khái niệm về một sự vật, một đối tượng nào đó được hình thành trong đầu thông qua cái biểu đạt; còn cái biểu đạt là âm thanh của một từ phát ra để chỉ khái niệm kia. Mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt là một mối quan hệ có tính chất võ đoán và vô cớ hoàn toàn. Chẳng hạn, chúng ta không thể giải thích lý do vì sao lại dùng từ gấu để chỉ một loài động vật, và cũng chẳng thể giải thích vì sao tiếng Anh lại dùng từ Bear để chỉ con gấu, còn tiếng Pháp lại dùng từ ours… Theo R.Barthes, nếu như trong ngôn ngữ thông thường chỉ có hai vế: cái biểu đạt biểu thị cái được biểu đạt theo một đường đơn giản, thì trong mọi hệ thống ký hiệu học, không chỉ có hai mà là ba vế khác nhau; vế thứ nhất không dẫn thẳng đến vế thứ hai mà thông qua mối tương quan giữa hai vế ấy, “vậy là có cái biểu đạt, cái được biểu đạt và ký hiệu, nó là tổng kết hợp của hai cái kia.…mọi ký hiệu học đều đưa ra mối quan hệ giữa hai vế, một cái biểu đạt và một cái được biểu đạt. Mối quan hệ ấy dựa trên những đối tượng thuộc loại khác biệt, và vì thế nó không phải là một sự ngang bằng mà là một sự tương đương”. Để giải thích cho vấn đề trên, ông đưa ra một số ví dụ, xin được trình bày một ví dụ của ông, chẳng hạn bó hoa hồng: ông để cho bó hoa hồng biểu thị tình yêu say đắm; ở đây không chỉ có cái biểu đạt (những bông hồng) và cái được biểu đạt (tình yêu say đắm); mà nói đúng ra ở đây chỉ có những bông hoa hồng đã “thấm đượm tình yêu”; nhưng trên bình diện phân tích, rõ ràng có ba vế, vì những bông hồng thấm đượm tình yêu hoàn toàn có thể phân tích thành những bông hồng và tình yêu say đắm, hai vế: những bông hồng và tình yêu say đắm đã tồn tại độc lập trước khi kết hợp với nhau để tạo thành đối tượng thứ ba là ký hiệu. Và đúng như vậy, ông nói rằng: “trên bình diện cuộc sống trải nghiệm, tôi không thể tách những bông hồng ra khỏi thông điệp chúng mang theo, thì cũng vậy, trên bình diện phân tích, tôi lại không thể lẫn lộn những bông hồng với tư cách cái biểu đạt và những bông hồng với tư cách ký hiệu: cái biểu đạt thì rỗng, ký hiệu thì đầy, nó là một ý nghĩa”. Xem Huyền thoại như một dạng thức ký hiệu học, R.Barthes phân tích rằng, giống như ký hiệu, Huyền thoại cũng có dạng thức ba chiều: cái biểu đạt, cái được biểu đạt và ký hiệu. Nhưng huyền thoại là một hệ thống đặc biệt ở chỗ đó là một “hệ thống ký hiệu thứ hai”, được xây dựng từ một chuỗi ký hiệu tồn tại trước nó . Cái là ký hiệu (nghĩa là tổng kết hợp của một khái niệm và một hình ảnh) trong hệ thống thứ nhất nay chỉ là cái biểu đạt trong hệ thống thứ hai. Một ví dụ quan trọng trong hai ví dụ mà Roland Barthes đã dùng để minh họa cho sự chuyển hóa từ ký hiệu thành cái biểu đạt trong hệ thống huyền thoại đó là: trang bìa tạp chí Paris-Match đăng hình một thanh niên da đen mặc bộ quân phục Pháp giơ tay chào theo kiểu nhà binh, đôi mắt ngước nhìn lên. Đó đã là nghĩa của hình ảnh. Nhưng ông cũng nhận ra rằng, hình ảnh ấy lại đưa đến một sự biểu đạt nữa: “biểu đạt rằng nước Pháp là một Đế quốc lớn, rằng tất cả con dân của Pháp, không phân biệt màu da, đều phụng sự trung thành dưới lá cờ của Pháp, rằng chẳng có lời lẽ nào đáp lại bọn gièm pha cái gọi là chủ nghĩa thực dân tốt hơn là nhiệt tình của anh da đen kia phục vụ những kẻ bị coi là áp bức mình”. Vậy là ngay lúc này đã hiện ra một hệ thống ký hiệu gia tăng: có cái biểu đạt được tạo thành bởi hệ thống ký hiệu trước (một anh lính da đen chào kiểu nhà binh Pháp), có cái được biểu đạt (sự hỗn hợp có dụng ý giữa tính chất Pháp và tính chất nhà binh), và cuối cùng là có sự hiện diện của cái được biểu đạt thông qua cái biểu đạt.[19;302] Roland Barthes đã hình dung và sơ đồ hóa ký hiệu Huyền thoại. Sơ đồ hiển thị có hai hệ thống ký hiệu chèn lên nhau. Hàng thứ nhất và hàng thứ hai của sơ đồ hợp thành hệ thống ngôn ngữ; hàng thứ hai và hàng thứ ba hợp thành hệ thống huyền thoại. Cái ký hiệu của hệ thống thứ nhất trở thành cái biểu đạt mà huyền thoại sử dụng để xây dựng hệ thống của riêng mình: CÁI BIỂU ĐẠT – CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT – KÝ HIỆU. R.Barthes gọi hệ thống thứ nhất là ngôn-ngữ-đối-tượng (langue-objet), vì nó là ngôn ngữ mà huyền thoại dùng để xây dựng hệ thống của mình, còn huyền thoại là siêu-ngôn-ngữ (méta-langage), vì nó là ngôn ngữ thứ hai, trong đó người ta nói về ngôn-ngữ-đối-tượng. Sau khi phác thảo ra sơ đồ trên, Roland Barthes bắt đầu định danh cho các vế trong hệ thống huyền thoại để tiến tới phân tích từng vế. Và sự định danh các vế của ông được chúng tôi thêm vào ngay trong sơ đồ trên (trong dấu ngoặc đơn sau mỗi vế). Trước hết về CÁI BIỂU ĐẠT trong huyền thoại có thể được nhìn từ hai quan điểm: nó vừa là vế kết thúc của hệ thống ngôn ngữ và vừa là vế khởi đầu của hệ thống huyền thoại, như vậy thì phải có hai cái tên cho nó: trên bình diện ngôn ngữ, ông gọi cái biểu đạt là nghĩa; trên bình diện huyền thoại, ông gọi cái biểu đạt là hình thức. Đối với CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT, chẳng có sự mập mờ nào nên ông gọi nó là khái niệm. Vế thứ ba là mối quan hệ qua lại giữa hai vế đầu, trong hệ thống ngôn ngữ nó là ký hiệu, nhưng không thể dùng lại từ đó trong hệ thống huyền thoại, vì để tránh sự mập mờ vốn là nét đặc thù của huyền thoại, nên trong hệ thống huyền thoại, ông gọi vế thứ ba là sự biểu đạt. Sau khi sơ đồ hóa và định danh, Roland Barthes chuyển sang phân tích từng vế của hệ thống huyền thoại. Trước hết là CÁI BIỂU ĐẠT của huyền thoại, nó xuất hiện một cách mập mờ: khi nó là nghĩa thì nó đầy ắp, còn khi nó là hình thức thì nó trống rỗng. Khi cái biểu đạt là nghĩa thì nó là một câu chuyện đầy đủ, nêu “dứt khoát một tri thức, một quá khứ, một ký ức, một lĩnh vực so sánh các sự kiện, các ý niệm, các quyết định”. Nghĩa sẽ là trọn vẹn nếu như huyền thoại không nắm bắt lấy nó và đột nhiên biến nó thành một “hình thức trống rỗng, ký sinh”, cũng có nghĩa là “gạt bỏ tính ngẫu nhiên” của nó. Tuy nhiên, Roland Barthes cũng lưu ý rằng: hình thức không hề loại bỏ nghĩa mà nó chỉ làm nghèo nghĩa đi, đẩy xa nghĩa ra và nắm lấy nghĩa để sử dụng theo cách của mình. Nghĩa vẫn tồn tại nhưng bị tước đi giá trị và hình thức sẽ nhờ vào đó mà tự nuôi dưỡng mình. Đối với hình thức, nghĩa giống như một kho dự trữ câu chuyện, khi cần thì nó sẽ nhanh chóng gọi ra và khi không cần thì nó cũng nhanh chóng gạt đi: “điều cần thiết là hình thức phải không ngừng có thể bắt rễ lại trong nghĩa và tìm nguồn sống ở đó: nhất là cần thiết nó có thể ẩn náu trong nghĩa”. Nó giống như một trò chơi trốn tìm giữa nghĩa và hình thức, và chính cái trò chơi thú vị ấy xác định huyền thoại. Tiếp đến là CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT, theo Roland Barthes, nó là một khái niệm, một câu chuyện diễn ra ở ngoài hình thức và sẽ tiếp thu một cách trọn vẹn hình thức kia. Bản chất của cái được biểu đạt là vừa có tính lịch sử (vì có tính lịch sử nên khái niệm huyền thoại không cố định, nó có thể biến đổi và cũng có thể biến mất, vì lịch sử có thể hủy bỏ chúng đi rất dễ dàng) nhưng lại vừa mang trong mình cái ý định, và chính nó là động cơ cho huyền thoại phát ra: theo như ví dụ đã dẫn ở trên thì tính chất đế quốc Pháp chính là xung năng của huyền thoại. Theo Roland Barthes, khái niệm nó không hề trừu tượng như hình thức mà nó đầy ắp một tình huống, qua nó có cả một câu chuyện mới được cấy vào huyền thoại, hay nói khác hơn lồng vào trong khái niệm là một nhận thức nào đó về thực tại. Đối với ví dụ anh da đen chào cờ: với tư cách là hình thức thì nghĩa trong đó chẳng đáng kể nhưng với tư cách là khái niệm thì nó lại được kết nối với toàn bộ thế giới: “với Lịch sử đại cương nước Pháp, với những cuộc phiêu lưu thuộc địa của nó, với những khó khăn của nó hiện nay”. Roland Barthes chỉ ra rằng, trong huyền thoại, một cái được biểu đạt có thể có nhiều cái biểu đạt, như về tính chất của đế quốc Pháp ông có thể tìm thấy cả ngàn hình ảnh khác để biểu đạt điều đó chứ không chỉ là hình ảnh của anh da đen chào kiểu nhà binh. Cũng có nghĩa là khái niệm nghèo hơn cái biểu đạt rất nhiều và khái niệm thường trở đi trở lại, và chính cái tình trạng lặp đi lặp lại của khái niệm qua nhiều hình thức khác nhau sẽ giúp các nhà huyền thoại học giải mã huyền thoại, bởi vì khi một hành vi nào đó được nhấn mạnh nó sẽ làm lộ ra cái ý định của hành vi đó. Như vậy, nếu muốn giải mã huyền thoại thì cần phải gọi tên các khái niệm. Những từ ngữ có trong Từ điển không thể dùng để gọi tên khái niệm vì nó là do Từ điển cung cấp nên nó không có tính lịch sử, không phù hợp với định nghĩa về khái niệm, như vậy sự xuất hiện của thuật ngữ mới là không tránh khỏi (ví dụ như : tính chất đế quốc Pháp), và thuật ngữ mới này phải được “xây dựng trên một quy tắc tương xứng hết sức hợp lẽ”. Cuối cùng là SỰ BIỂU ĐẠT, nó là sự kết hợp giữa hai vế đầu và cũng là vế duy nhất thực sự hoàn thành một cách trọn vẹn, đầy đủ. Roland Barthes đã chỉ ra tính chất của sự biểu đạt (do tính hai mặt: vừa trống rỗng vừa đầy ắp của cái biểu đạt quyết định). Huyền thoại là ngôn từ căn bản được xác lập bởi ý định của nó cho nên nó có tính chất đòi hỏi, căn vặn, tức là huyền thoại luôn xuất phát từ một khái niệm lịch sử cụ thể, nó trực tiếp nổi lên từ chuyện xảy ra ngẫu nhiên (như huyền thoại anh da đen chào cờ xuất phát từ việc đế quốc bị đe dọa) và nó thúc người tạo ra nó phải tiếp nhận tính chất nhập nhằng lan rộng của nó. Và lời nói căn vặn của huyền thoại cũng đồng thời là lời nói ngưng kết: tức nó “điêu ngoa” ở chỗ sau khi nó tác động buộc người sáng tạo phải tạo ra huyền thoại thì nó “đờ ra, nó hóa trắng ra” và thành kẻ vô can. Roland Barthes còn nhấn mạnh đến một yếu tố nữa của sự biểu đạt, đó chính là lý do khơi gợi ra nó. Ông cho rằng, huyền thoại không bao giờ hoàn toàn tùy tiện mà nó luôn nảy sinh từ một lý do khơi gợi, và cái lý do khơi gợi huyền thoại cũng hết sức vụn vặt. Huyền thoại thường được khơi gợi từ sự không trọn vẹn của cuộc sống: “huyền thoại thích ứng hơn với những hình ảnh nghèo nàn, không trọn vẹn, ở đó nghĩa đã được gột rửa sạch dầu mỡ, hoàn toàn sẵn sàng cho sự biểu đạt: các biếm học, các mô phỏng, các biểu tượng,v.v…”. Roland Barthes chỉ ra rằng: “Huyền thoại là hệ thống văn tự tượng hình thuần túy, ở đấy các hình thức vẫn có lý do khơi gợi từ khái niệm chúng muốn thể hiện, song chúng không hề, thậm chí còn xa mới phủ kín toàn bộ sự thể hiện ấy”. Lý do khơi gợi chỉ là những cái vụn vặt làm nên huyền thoại chứ không thể hiện được huyền thoại. Roland Barthes cũng đưa ra một khẳng định chắc chắn rằng: nếu căn cứ vào bản chất của ký hiệu, vào ý thức huyền thoại hóa của con người thì bất cứ sự vật hay hiện tượng gì cũng đều có thể trở thành lý do khơi gợi của huyền thoại. Qua sự phân tích cấu trúc huyền thoại trên, Roland Barthes đã tiến tới vạch trần bản chất của huyền thoại: “Huyền thoại không che giấu gì cả mà cũng chẳng công bố gì hết: nó làm biến dạng; huyền thoại chẳng phải là điều dối trá mà cũng không phải là chuyện thú nhận: đó là sự chuyển hướng”. Roland Barthes đã đưa chúng ta đến với chính nguyên tắc của huyền thoại: “nó biến đổi lịch sử thành bản chất tự nhiên”. Từ đó, ông phê phán cách thức sai lầm của những người tiếp nhận huyền thoại, chính sự sai lầm ấy đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của huyền thoại. Họ đọc huyền thoại không phải như một động cơ mà như một lẽ phải: “tất cả diễn ra như thể hình ảnh gợi ra khái niệm một cách tự nhiên, như thể cái biểu đạt tạo lập được cái biểu đạt: huyền thoại hiện hữu ngay từ lúc tính chất đế quốc Pháp chuyển sang trạng thái bản chất tự nhiên: huyền thoại là một ngôn từ được minh chứng hết mức”. Roland Barthes cũng lý giải rằng, sở dĩ đọc giả tiếp nhận huyền thoại một cách hồn nhiên như vậy bởi vì họ không thấy ở huyền thoại hệ thống ký hiệu mà chỉ thấy nó là hệ thống quy nạp và huyền thoại được đọc như một hệ thống sự việc trong khi nó chỉ là hệ thống ký hiệu. Đi sâu giải mã cấu trúc ký hiệu huyền thoại, Roland Barthes cũng chỉ ra đặc thù của huyền thoại: “huyền thoại luôn luôn là sự đánh cắp ngôn ngữ (language)”. Như vậy có thứ ngôn ngữ nào không bị huyền thoại đánh cắp không? Roland Barthes cho rằng “có lẽ chỉ độ không là có thể cưỡng lại được với huyền thoại”, ta bắt gặp lại tinh thần trong tác phẩm “Độ không của lối viết”, “độ không” là tinh thần vượt thoát khỏi những ràng buộc xã hội để đạt đến tự do của Lối viết, ở đây “độ không” được xem như tinh thần giải huyền thoại, chống lại sự cuồng tín. Nhưng lại có một điều đau lòng mà Roland Barthes cũng đã minh chứng rằng:“độ không của lối viết” là điều không bao giờ đạt được, không thể nào có được, cho nên bất cứ ngôn ngữ nào cũng trở thành mồi của huyền thoại: từ ngôn ngữ cụ thể (langue, thứ ngôn ngữ thường xuyên bị huyền thoại đánh cắp hơn cả), đến ngôn ngữ toán học và ngay cả ngôn ngữ thơ ca, là thứ ngôn ngữ luôn cố hết sức để cưỡng lại huyền thoại. Nhưng càng cưỡng lại thì nó lại càng trở thành con mồi lý tưởng của huyền thoại: “sự lộn xộn bề ngoài của các ký hiệu, diện mạo thơ ca của trật tự bản chất, bị huyền thoại bắt lấy, bị biến thành cái biểu đạt trống rỗng. Nó sẽ dùng để biểu đạt thơ ca”. Như vậy thì việc trừ khử huyền thoại từ bên trong là khó có thể, bởi chính cái hành động thực hiện để thoát ra khỏi huyền thoại đến lượt nó lại trở thành mồi của huyền thoại: “huyền thoại luôn luôn có thể chung cục biểu đạt sự việc người ta cưỡng lại nó”. Từ đó, Roland Barthes đã chỉ ra một cách để trừ khử huyền thoại: nếu huyền thoại đánh cắp ngôn ngữ thì chúng ta đánh cắp lại huyền thoại, lấy nó làm cái biểu đạt để tạo thành một chuỗi ký hiệu thứ ba, và huyền thoại tái tạo ấy sẽ là một huyền thoại thật sự: nhằm để biến cái huyền thoại đầu tiên trở thành một thứ ngây ngô. Ông lấy ví dụ cho việc này từ tác phẩm Bouvarrd và Pécuchet của Flaubert: ông phân tích rằng sự biểu đạt của tác phẩm chính là “lối khoa trương của Bouvarrd và Pécuchet”. Và Flaubert đã can thiệp vào huyền thoại ấy bằng cách: lấy lối khoa trương của Bouvarrd và Pécuchet làm hình thức để xây dựng hệ thống mới, và Flaubert sẽ tự đề xuất một khái niệm dựa vào cái huyền thoại mà Bouvarrd và Pécuchet đã xây dựng cho họ đó là: “bản tính háo hức của họ, là tình trạng không thỏa mãn của họ, là sự chuyển đổi liên miên thử nghiệm hết lĩnh vực này sang lĩnh vực khác của họ”. Còn sự biểu đạt cuối cùng đó chính là tác phẩm, là Bouvarrd và Pécuchet đối với chúng ta. Roland Barthes đi nghiên cứu cấu trúc và định nghĩa huyền thoại là để đưa đến cho công chúng một cái nhìn sáng rõ về huyền thoại, cung cấp cho chúng ta một bài học về việc nhìn nhận và thưởng thức mọi thứ trong cuộc sống xã hội, giúp chúng ta nhận rõ điều kiện lịch sử của chính mình. Roland Barthes đã bóc trần một cách tinh vi các thủ đoạn chế tạo huyền thoại, qua đó, ông cung cấp cho chúng ta một “vũ khí tự vệ” để không bị các chuyên gia sáng tạo huyền thoại đánh lừa. Roland Barthes chỉ trích huyền thoại vì nó là một hình thức không có nội dung, nó không sáng tạo ngôn ngữ mà nó chỉ làm biến dạng ngôn ngữ để phục vụ cho cái lợi riêng của nó, nó bắt sự vật phải nói chếch đi. Thêm nữa, huyền thoại có tính chất gian dối khi đi che đậy những dấu vết của sự hình thành nó và tự ban cho nó cái vẻ tự nhiên. Cuộc sống hiện đại xuất hiện quá nhiều ký hiệu tới mức thừa thãi. Do đó, Roland Barthes muốn kìm hãm sự lan tràn của nó bằng cách đưa ra những giai đoạn hình thành của huyền thoại để vạch trần bộ mặt của nó đối với ngôn ngữ. Đó là tất cả những gì Roland Barthes muốn và đã làm được. Qua đó, ông cho thấy sự cần thiết của huyền thoại học với những chuyên gia giải mã huyền thoại. Tuy nhiên, ông cũng đề cập đến những khó khăn nhất đinh mà một nhà huyền thoại học phải đối mặt. Huyền thoại lan tràn và chiếm được số đông người sử dụng, như vậy khi nhà huyền thoại học đi giải huyền thoại cũng tức là tự tách mình ra khỏi tất cả những người sử dụng huyền thoại. Đối với một bộ phận công chúng đặc biệt nào đấy thì được, nhưng khi huyền thoại liên quan đến cả một tập thể thì nhà huyền thoại học phải xa lánh cả cộng đồng. Và có thể đi xa hơn là nhà huyền thoại học bị loại khỏi lịch sử mà ông muốn nhân danh chính nó để hành động. Thêm một loại trừ nữa đe dọa nhà huyền thoại học đó là: “ông ta luôn có nguy cơ làm bay biến cái hiện thực mà ông nghĩ là muốn che chở”. Dù gì đi nữa thì những huyền thoại như chiếc xe DS là một đối tượng về phương diện công nghệ, nó mang trong nó sự tiến bộ của công nghệ, và cái hiện thực ấy, nhà huyền thoại học không thể nói về nó được. Đó là những khó khăn mang tính thời đại, nhưng nhà huyền thoại học, trong nỗ lực của mình, vẫn luôn tìm kiếm “một sự dung hòa giữa hiện thực và con người, giữa miêu tả và giải thích, giữa đối tượng và tri thức”. Và Roland Barthes khẳng định, đấy là điều mà chúng ta phải làm. 3.3. ĐÓNG GÓP CỦA ROLAND BARTHES QUA NHỮNG HUYỀN THOẠI VÀ Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM VỚI CÔNG CHÚNG VIỆT NAM Viết Những huyền thoại là Roland Barthes đã xác định một vị trí cho mình, vị trí của một nhà huyền thoại học, như ông đã nói, tự xem mình đứng bên ngoài và là “kẻ thù” của tất cả những quan niệm chính thống về chính trị, văn hóa, xã hội. Khi mà Huyền thoại tung hoành trong cuộc sống xã hội hiện đại khiến công chúng quên đi rằng nó chỉ là “doxa”, cũng chỉ là những quan niệm khả hữu về một vấn đề nào đó, thì trách nhiệm của nhà huyền thoại học được đặt ra. Với Những huyền thoại, Roland Barthes không thể xóa sổ khả năng chi phối của “doxa”, nhưng ông đã làm suy yếu đi cái quyền năng của nó bằng cách xác định vị trí và sử tính của nó. Ở Những huyền thoại, Roland Barthes đã phê phán ý hệ tư sản theo hướng marxist. Ông phê phán xã hội của chúng ta, một môi trường ưu đãi cho những huyền thoại hoành hành, môi trường của một “chế độ tư hữu nhất định” và một “ý hệ nhất định”, hiện tượng “thoát danh” có chủ ý che giấu đi tất cả những gì liên quan chặt chẽ sâu xa đến ý hệ, để chỉ bày ra những cái dễ dàng diễn tiến không gặp phải phản kháng nào. Ngay cả nghệ thuật được mệnh danh là lĩnh vực tiên phong cũng trở thành một dấu ngoặc đơn cho một ý hệ tư sản bao trùm; “nghệ thuật tiền phong chỉ đưa thành đối tượng của mình con người bị bỏ rơi, mà trốn tránh hiện tượng con người tha hóa (một khái niệm trọng tâm của chủ nghĩa Marx)”[19;13]. Với Những huyền thoại, Roland Barthes đã sử dụng cách nhìn và phương pháp phê phán marxist, nhưng ông không phải là một nhà marxist, trong bài báo ngắn “Tôi có phải là người marxist hay không?” đăng trên Lettres nouvelles tháng 7,8 năm 1955, ông đã khẳng định rằng: “…chủ nghĩa Marx không phải là một thứ tôn giáo, mà là một phương pháp giải thích và hành động”. Với Những huyền thoại, Roland Barthes đã vạch mặt, chỉ tên và phê phán nghiêm khắc cái quá trình nơi cái võ đoán hoành hành vô lối, cái quá trình trong đó văn hóa chỉ chực chờ có cơ hội biến mình thành cái “tự nhiên” và được chấp nhận rộng rãi mà không có một sự phản kháng nào. Những huyền thoại bao gồm rất nhiều tầng nghĩa, trong đó có cả ý tưởng mọi ký hiệu học đều cần phải trở thành một sự “phá dỡ ký hiệu” (sémioclastie) [19;14]. Những huyền thoại như là một bộ sưu tập các văn bản tham luận chiến, cung cấp những chân lý thực cho nền văn hóa đại chúng, trong đó, Roland Barthes tham gia với tất cả các câu hỏi chính trị quan trọng. Ông tìm thấy huyền thoại ở khắp mọi nơi, ngay cả ở những nơi khó nhất, ngay cả những huyền thoại ẩn giúp duy trì các hiện trạng, và trong Những huyền thoại chúng đều được vạch trần. Trong Những huyền thoại, Roland Barthes đã tiếp thu lý thuyết ký hiệu học và mô hình nhị phân của F.Saussure. Tuy nhiên, qua cách Roland Barthes lựa chọn hệ thống kí hiệu huyền thoại đa dạng lĩnh vực để mô tả và phân tích, ta nhận thấy rằng ông là một trong những người đầu tiên phát hiện ra những hạn chế trong lí thuyết của Saussure: lý thuyết của Saussure chủ yếu chỉ tập trung ở lĩnh vực ngôn ngữ - lĩnh vực ông xem là thuộc kí hiệu cũng là lĩnh vực trung tâm của hệ thống kí hiệu trong thế giới này; Cách phân tích của Saussure là phân tích đồng đại, nhìn nhận kí hiệu ngôn ngữ trong trạng thái tĩnh, tách nó ra khỏi sự phát triển của lịch sử. Roland Barthes đã không đóng khung kí hiệu học ở vấn đề ngôn ngữ, ông đã đưa kí hiệu học sang mảnh đất của văn hóa và văn học. Nhờ Roland Barthes mà thế giới ký hiệu học được mở rộng và được nhìn nhận thấu đáo hơn. Mặt khác, khi đặt hệ thống huyền thoại phong phú của Roland Barthes trong mối quan hệ với triết học, chúng ta cũng thấy một cách nhìn rất mới mẻ của ông lúc bấy giờ: thế giới lúc này không phải là thế giới nhất nguyên, một hệ thống logic phân tầng nữa mà là mô hình phi trung tâm, không phân cấp, một hệ thống mở mang tính vô tận, tiềm tàng. Nói như Gilles Deleuze, đó là hệ thống “đa phức” và “tăng sinh”. Ở điểm này, tư tưởng của Roland Barthes theo xu hướng hậu hiện đại [22]. Những huyền thoại là một sự ứng dụng lý thuyết ký hiệu vào đời sống văn học, điều mà trước đây chưa ai từng làm, và đây cũng là một đóng góp cơ bản của Roland Barthes cho văn học. Ông phân tích cấu trúc ký hiệu huyền thoại và đưa đến cho công chúng bài học về sự nhìn nhận và thưởng thức huyền thoại. Roland Barthes đi phân tích huyền thoại nhưng cũng vừa là sáng tạo huyền thoại. Ông đã phát hiện những huyền thoại ở chỗ không ai ngờ, nhìn nhận thế giới kí hiệu ở nơi người ta ít thấy. Roland Barthes đã đặt huyền thoại trong mối liên hệ với kí hiệu học và tư tưởng marxist, soi chiếu những vấn đề tưởng như đã cũ dưới một thứ ánh sáng mới, Roland Barthes đã kết nối một khái niệm truyền thống với một hướng nghiên cứu mới và một hệ tư tưởng tiên tiến lúc bấy giờ [22]. Đây cũng chính là một đóng góp quan trọng của Roland Barthes cho việc nghiên cứu huyền thoại. Những đóng góp trên của Roland Barthes cho thấy tâm huyết của ông đối với đất nước và thời đại mình sống. Những huyền thoại, ra đời ở Pháp nhưng công dụng của nó lại phổ biến trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Trên lĩnh vực tư tưởng, Những huyền thoại mở ra một chân trời nhận thức mới cho công chúng Việt Nam về những vấn đề xã hội hiện đại. Xã hội Việt Nam đang tiến lên hiện đại hóa, những huyền thoại hiện đại xuất hiện cũng không ít và chúng ta vẫn đón nhận nó như chính công chúng Pháp của những năm 50, như vậy thì tác phẩm của Roland Barthes sẽ là một sự đánh động, thức tỉnh tư tưởng để ta nhìn nhận lại mọi vấn đề đã và đang diễn ra trong xã hội hôm nay. Có thể dẫn ra một vài huyền thoại trong xã hội Việt Nam hiện đại như : huyền thoại cụ rùa ở Hồ Gươm, vì cụ có liên quan đến truyền thuyết của Vua Lê Lợi mà cho đến hôm nay người dân Việt Nam vẫn sùng bái cụ như một vị thần và tạo nên một sự mê tín đến mức cực đoan : rất nhiều người cho rằng mỗi lần cụ nổi lên là điềm báo may mắn, nhưng khổ thay dạo gần đây cụ rất hay nổi lên mà cũng chẳng đem đến một điềm gì, và dân ta cũng chẳng tìm được số thông điệp ứng với tần suất nổi của cụ. Hay như huyền thoại xe Honda ở Việt Nam : đây là hãng xe xuất hiện đầu tiên và lâu đời nhất Việt Nam, có thể nói là nó ăn sâu vào tâm thức tiêu dùng của người Việt đến nỗi từ xe máy được thay luôn bằng từ xe Honda (có ai hỏi anh đi bằng gì tới, trả lời : tôi đi Honda tới mà có khi hãng xe anh ta dùng không phải của Honda), điều đó tạo nên một sự thuận lợi cho nền sản xuất và tiêu thụ của Honda : xe Honda ở những đại lý khác nhau thì giá cả cũng rất khác nhau, có đại lý đôn giá lên rất nhiều nhưng dân ta vẫn đổ xô và sẵn sàng bỏ tiền ra để mua vì một sự tin tưởng tuyệt đối vào chất lượng. Và sẽ còn rất nhiều huyền thoại khác nữa... Tất cả là do cái cách ta đọc và tiếp nhận huyền thoại như thế nào thôi. Chúng ta tiếp nhận mọi vấn đề một cách chủ động chứ đừng nên mặc nhiên, mù quáng. Và cũng nên lắm, nhìn huyền thoại hiện đại dưới cái nhìn ký hiệu học như Roland Barthes đã đưa ra. Trên lĩnh vực văn học, Những huyền thoại của Roland Barthes đã gợi mở một phương pháp sáng tác mới cho văn học Việt Nam, đặc biệt là tiểu thuyết : phương pháp sáng tác huyền thoại, đây là một phương pháp còn khá mới mẻ và chưa được vận dụng hiệu quả lắm trong các truyện kể và tiểu thuyết Việt Nam. Và đây cũng là một phương pháp sáng tác mà các nhà nghiên cứu tiểu thuyết ở ta đang dành một sự quan tâm lớn. Những huyền thoại sẽ mở ra một hướng tìm tòi phát triển, đổi mới hình thức thể loại, nhất là thể loại tiểu thuyết luôn phải đối mặt với nguy cơ mất dần độc giả trước sự phát triển mạnh mẽ của điện ảnh và truyền hình, trong các nhà văn Việt Nam ta, góp phần đưa nền văn xuôi đương đại Việt Nam phát triển năng động hơn và sáng tạo ra nhiều tác phẩm đạt hiệu quả nghệ thuật hơn. *Tiểu kết : Với những tư tưởng mới mẻ và đặc sắc, Những huyền thoại không chỉ cung cấp những quan điểm lý luận mà còn là một món ăn tinh thần hấp dẫn cho độc giả. Không còn nằm trên bề mặt lý thuyết, Những huyền thoại đi sâu vào khai phá thực tiễn cuộc sống, có lẽ vì thế mà nó dành được sự quan tâm của một lượng lớn độc giả. Huyền thoại luôn có mặt trong mọi thời đại, như vậy giá trị của tác phẩm là muôn thuở. Bất cứ lúc nào ta cũng có thể mang bài học huyền thoại ra và soi chiếu vào thực tế xã hội, đấy cũng là điều hữu ích giá trị nhất mà Roland Barthes để lại cho chúng ta qua tác phẩm này của ông. MỤC LỤC Trang DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................... 7 4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................ 7 5. Kết cấu khóa luận................................................................................................... 8 CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU VỀ ROLAND BARTHES VÀ HAI TÁC PHẨM ĐƯỢC DỊCH Ở VIỆT NAM: ĐỘ KHÔNG CỦA LỐI VIẾT (LE DEGRÉ ZÉRO DE L’ÉCRITURE) VÀ NHỮNG HUYỀN THOẠI (MYTHOLOGIES) 1.1. Thân thế và sự nghiệp Roland Barthes............................................................. 10 1.2. Giới thiệu hai tác phẩm: Độ Không Của Lối Viết và Những Huyền Thoại ............................................................................................................................ ................ 14 1.2.1. Bối cảnh ra đời tác phẩm................................................................................. 14 1.2.2. Về bản dịch........................................................................................................ 16 1.2.2.1. Độ không của lối viết (Le degré zéro de L'écriture)......................... 17 1.2.2.2. Những huyền thoại (Mythologies)....................................................... 19 1.2.3. Tóm tắt tác phẩm............................................................................................... 20 1.2.3.1. Độ không của lối viết (Le degré zéro de L'écriture)......................... 20 1.2.3.2. Những huyền thoại (Mythologies)....................................................... 22 CHƯƠNG 2 QUAN NIỆM CỦA ROLAND BARTHES TRONG TÁC PHẨM ĐỘ KHÔNG CỦA LỐI VIẾT (LE DEGRÉ ZÉRO DE L’ÉCRITURE) 2.1. Roland Barthes và khái niệm Lối viết – một trong ba chiều của Hình thức nghệ thuật 25 2.2. Ba khu vực lớn của lối viết.................................................................................. 29 2.2.1. Các Lối viết chính trị................................................................................... 29 2.2.2. Lối viết của Tiểu thuyết.............................................................................. 31 2.2.3. Lối viết Thơ................................................................................................. 36 2.3. Con đường dẫn đến “Độ Không Của Lối Viết” và “Tấn Bi Kịch Của Lối Viết” 39 2.4. Những đóng góp của Roland Barthes qua cuốn Độ không của lối viết và ý nghĩa của tác phẩm với công chúng Việt Nam..................................................................................................... 47 CHƯƠNG 3 QUAN NIỆM CỦA ROLAND BARTHES TRONG TÁC PHẨM NHỮNG HUYỀN THOẠI (MYTHOLOGIES) 3.1. Sự giải mã những huyền thoại xã hội tư sản và ý muốn “tóm bắt sự lạm dụng ý hệ ẩn nấp” 50 3.2. Cấu trúc của ký hiệu huyền thoại và bài học về “Trông Nhìn và Thưởng Thức” 58 3.3. Đóng góp của Roland Barthes qua Những Huyền Thoại và ý nghĩa của tác phẩm với công chúng Việt Nam 68 KẾT LUẬN................................................................................................................. ...... 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC [1] Theo GS Phùng Văn Tửu trong bài viết Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn học, trích đăng trong cuốn Những huyền thoại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflv_ngon_ngu_hoc_23__7844.pdf
Luận văn liên quan