Quản trị logistic

Thương hiệu Logictics, các doanh nghiệp Việt năm ra đời sau danh tiếng và kinh nghiệm là rất ít ỏi so với doanh nghiệp quốc tế như: Exel, Maersk, APL có danh tiếng và kinh nghiệm gần 100 năm. Bởi vậy việc tiếp cận các khách hàng lớn là rất khó khăn. - Khả năng hạn chế trong việc thưc hiện các đơn hàng lớn, tham gia các hoạt động Logictics toàn cầu, do tầm bao phủ thấp chỉ là nội đia và các quốc gia lân cận trong khi các đại gia như APL Logisitics là gần 100 quốc gia, Maersk Logisitics,Exel là 60 quốc gia. Điều này làm DN Việt Nam không thể thức hiện các đơn hàng trọn gói từ các tập đoàn đa quốc gia. - Chưa khai thác hết đươc tòan bộ chuỗi cung ứng. Các DN Việt Nam mới chỉ tham gia một phần nhỏ trong chuỗi cung ứng, phổ biến là hình thức giao nhận vận tải ( freight forwarding ). Đây là một mảng rất nhỏ, các DN gom đầy sau đó vận chuyển đến người nhận dỡ hàng và giao lại cho người mua hàng tại kho. Trong khi các công ty lớn nước ngoài cung cấp 1 loạt cá hoạt động đa dạng với giá trị gia tăng cao.

docx11 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3980 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản trị logistic, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Từ khi hình thành đến nay, dịch vụ logistics đã chứng tỏ được sự hữu ích của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ở tất cả các nước trên thế giới. Trên thế giới, dịch vụ logistics rất phát triển và đóng một vai trò quan trọng trong ngành dịch vụ, thu hút một lượng lớn lực lượng lao động, gia tăng lợi nhuận cho các nhà cung cấp và thúc đẩy các ngành khác phát triển. Khái niệm của logistics cũng rất đa dạng, nó được định nghĩa bởi các tổ chức khác nhau. Dưới đây là một số khái niệm: Liên Hợp Quốc: Logistics là hoạt động quản lý quá trình lưu chuyển nguyên vật liệu qua các khâu lưu kho, sản xuất ra sản phẩm cho tới tay người tiêu dùng theo yêu cầu của khách hàng. Ủy ban Quản lý Logistics của Hoa Kỳ: Logistics là quá trình lập kế hoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm soát việc di chuyển và bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm, cũng như các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Hội đồng quản trị Logistics Hoa Kỳ 1988: Logistics là quá trình liên kế hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu, hàng tồn, thành phẩm và các thông tin liên quan từ điểm xuất xứ đến điểm tiêu thụ, nhằm mục đích thỏa mãn những nhu cầu của khách hàng. Trong lĩnh vực quân sự, Logistics được định nghĩa là khoa học của việc lập kế hoạch và tiến hành di chuyển và tập trung các lực lượng, các mặt trong chiến dịch quân sự liên quan đến việc thiết kế và phát triển, mua lại, lưu kho, di chuyển, phân phối, tập trung, sắp đặt và di chuyển khí tài, trang thiết bị. Theo định nghĩa của Oxford thì Logistics được hiểu là một nhánh của khoa học quân sự liên quan đến việc tiến hành, duy trì và vận chuyển phương tiện thiết bị và nhân sự. Luật thương mại Việt Nam năm 2005 (Điều 233): Trong luật thương mại 2005, lần đầu tiên khái niệm về dịch vụ logistics được pháp điển hóa. Luật quy định “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan,các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”. Nội dung Lý thuyết Logistics là quá trình hoạch định, thực thi và kiểm soát một cách có hiệu quả dòng lưu chuyển và dự trữ nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm và các thông tin liên quan từ điểm xuất xứ đến điểm tiêu dùng với mục tiêu thỏa mãn đúng những yêu cầu và đòi hỏi của khách hàng. Mặc dù có nhiều khái niệm về logistics, nhưng nó có thể chia thành 2 nhóm: Theo nghĩa hẹp (định nghĩa theo luật Thương mại 2005): logistics gần như tương tự với hoạt động giao nhận hàng hóa. Theo trường phái này thì bản chất của dịch vụ Logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Theo phạm vi rộng, có tác động từ giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hóa tới tay của người tiêu dùng cuối cùng. Theo phạm vi này thì dịch vụ Logistics gắn liền với cả quá trình nhập nguyên, nhiên vật liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hóa và đưa vào các kênh lưu thông, phân phối để đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Vai trò của logictics trong kinh doanh Logistics liên quan đến kinh doanh từ năm 1950. Điều này chủ yếu là do sự gia tăng trong việc cung cấp, vận chuyển trong một thế giới toàn cầu hóa đòi hỏi phải có những nhà chuyên gia trong lĩnh vực này. Trong kinh doanh, Logistics có thể được hiểu như việc tập trung cả nội lực lẫn ngoại lực bao hàm cả quá trình chu chuyển từ “nhà sản xuất gốc” đến “người tiêu dùng cuối cùng”. Chức năng chính của Logistics bao gồm việc quản lý việc mua bán, vận chuyển, lưu kho cùng với các hoạt động về tổ chức cũng như lập kế hoạch cho các hoạt động đó. Người quản lý Logistics kết hợp kiến thức tổng hợp của mỗi chức năng từ đó phối hợp các nguồn lực trong tổ chức để vận hành. Có hai khác biệt cơ bản của Logistics. Một thì đánh giá một cách lạc quan, đơn giản coi đó như là sự chu chuyển ổn định của nguyên liệu trong mạng lưới vận chuyển và dự trữ. Một thì coi đó là một sự kết hợp các nguồn lực (nhân lực, vật lực…) để tiến hành quá trình. Đối với các doanh nghiệp, Logistics có vai trò rất to lớn. Logistics giải quyết cả đầu ra lẫn đầu vào của doanh nghiệp một cách hiệu quả. Nhờ có thể thay đổi các nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hóa quá trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ…Logistics giúp giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Có nhiều doanh nghiệp thành công lớn nhờ có được chiến lược và hoạt động Logistics đúng đắn, ngược lại có không ít doanh nghiệp gặp khó khăn, thất bại do có các quyết định sai lầm như: chọn nguồn cung cấp tài nguyên sai, chọn sai vị trí, dự trữ không phù hợp, tổ chức vận chuyển không hiệu quả. Ngoài ra Logistics còn hỗ trợ đắc lực cho hoạt động Marketing, đặc biệt là Marketing hỗn hợp 4P. Chính Logistics đóng vai trò then chốt trong việc đưa sản phẩm đến đúng nơi cần đến, đúng thời điểm thích hợp. Cho đến nay, Logistics ngày càng thể hiện rõ tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế hiện đại và có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia và toàn cầu. Những lợi ích mà nó mang lại ngày càng gia tăng. Vai trò của nó được thể hiện cụ thể như ở những điểm sau: - Logistics là công cụ liên kết các hoạt động kinh tế trong một quốc gia và toàn cầu qua việc cung cấp nguyên liệu, sản xuất lưu thông phân phối, mở rộng thị trường. Trong các nền kinh tế hiện đại, sự tăng trưởng về số lượng khách hàng đã thúc đẩy sự gia tăng của các thị trường hàng hóa và dịch vụ trong nước và quốc tế. Hàng loạt các sản phẩm dịch vụ mới đang được xuất hiện khắp các ngõ ngách trên thế giới. Điều này khiến các doanh nghiệp phải mở rộng quy mô và tính phức tạp, phát triển các nhà máy liên hợp thay thế các nhà máy đơn lẻ. Hệ thống Logistics hiện đại đã giúp các hang làm chủ được toàn bộ năng lực cung ứng của mình qua việc liên kết các hoạt động cung cấp, sản xuất, lưu thông, phân phối kịp thời chính xác. Nhờ đó mà đáp ứng được những cơ hội kinh doanh trong toàn cầu. Chính vì vậy, sự phân phối sản phẩm từ các nguồn ban đầu đến các nơi tiêu thụ trở thành một bộ phận vô cùng quan trọng trong GDP ở mỗi quốc gia. Tại Mỹ logistics đóng góp xấp xỉ 9,9% trong GDP. Năm 1999 Mỹ chi khoảng 554 tỷ USD cho vận tải hàng hóa đường thủy, hơn 332 tỷ USD cho chi phí kho dự trữ và, hơn 40 tỷ USD cho quản lý truyền thông và quản lý các quá trình logistics, tổng cộng là 921 tỷ USD. Đầu tư vào các cơ sở vận tải và phân phối, không tính các nguồn công cộng, ươc lượng hàng trăm tỷ USD, cho thấy logistics là một ngành kinh doanh tiềm năng và vô cùng quan trọng. - Tối ưu hóa chu trình lưu chuyển của sản xuất, kinh doanh từ khâu đầu vào đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Logistics hỗ trợ sự di chuyển và các hoạt động quản lý có hiệu quả. Nếu hàng hóa không đến tay người tiêu dùng đúng thời điểm, đúng yêu cầu của khách hàng thì hàng hóa sẽ không bán được, việc không bán được hàng sẽ làm cho các khâu của chuỗi cung ứng bị vô hiệu. - Tiết kiệm và giảm chi phí trong lưu thông phân phối: Với tư cách là các tổ chức kinh doanh cung cấp các dịch vụ logistics chuyên nghiệp, các doanh nghiệp logistics mang lại đầy đủ các lợi ích của các third – party cho các ngành sản xuất và kinh doanh khác. Từ đó mà mang lại hiệu quả cao không chỉ ở chất lượng dịch vụ cung cấp mà còn tiết kiệm tối đa về thời gian và tiền bạc cho các quá trình lưu thông phân phối trong nền kinh tế. - Mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế, góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh đặc biệt trong buôn bán và vận tải quốc tế. Trong thời đại toàn cầu hóa, thương mại quốc tế là sự lựa chọn tất yếu cho mọi quốc gia trong tiến trình phát triển đất nước. Các giao dịch quốc tế chỉ thực hiện được và mang lại hiệu quả cho quốc gia khi dựa trên một hệ thống logistics rẻ tiền và chất lượng cao. Hệ thống này giúp cho mọi dòng hàng hóa được lưu chuyển thuận lợi, suôn sẻ từ quốc gia này đến quốc gia khác nhờ việc cung ứng kịp thời, phân phối chính xác, chứng từ tiêu chuẩn, thông tin rõ ràng... Vai trò của nó còn thể hiện rõ hơn tại các doanh nghiệp vận hành theo cơ chế thị trường: - Logistics nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Quan điểm marketing cho rằng, kinh doanh tồn tại dựa trên sự thỏa mãn nhu cầu khách hàng và cho thấy 3 thành phần chủ yếu của khái niệm này là sự phối hợp các nỗ lực marketing, thỏa mãn khách hàng và lợi nhuận công ty. Logistics đóng vai trò quan trọng với các thành phần này theo cách thức khác nhau. Nó giúp phối hợp các biến số marketing –mix, gia tăng sự hài lòng của khách hàng, trực tiếp làm giảm chi phí, gián tiếp làm tăng lợi nhuận trong dài hạn. - Logistics tạo ra giá trị gia tăng về thời gian và địa điểm: Mỗi sản phẩm được sản xuất ra luôn mang một hình thái hữu dụng và giá trị (form utility and value) nhất định với con người. Tuy nhiên để được khách hàng tiêu thụ, hầu hết các sản phẩm này cần có nhiều hơn thế. Nó cần được đưa đến đúng vị trí, đúng thời gian và có khả năng trao đổi với khách hàng. Các giá trị này cộng thêm vào sản phẩm và vượt xa phần giá trị tạo ra trong sản xuất được gọi là lợi ích địa điểm, lợi ích thời gian và lợi ích sở hữu (place, time and possession utility). Lợi ích địa điểm là giá trị cộng thêm vào sản phẩm qua việc tạo cho nó khả năng trao đổi hoặc tiêu thụ đúng vị trí. Lợi ích thời gian là gía trị được sáng tạo ra bằng việc tạo ra khả năng để sản phẩm tới đúng thời điểm mà khách hàng có nhu cầu, những lợi ích này là kết quả của hoạt động logistics. Như vậy Logistics góp phần tạo ra tính hữu ích về thời gian và địa điểm cho sản phẩm, nhờ đó mà sản phẩm có thể đến đúng vị trí cần thiết vào thời điểm thích hợp. Trong xu hướng toàn cầu hóa, khi mà thị trường tiêu thụ và nguồn cung ứng ngày càng trở nên xa cách về mặt địa lý thì các lợi ích về thời gian và địa điểm do logistics mang trở nên đặc biệt cần thiết cho việc tiêu dùng sản phẩm - Logistics cho phép doanh nghiệp di chuyển hàng hóa và dịch vụ hiệu quả đến khách hàng: Logistics không chỉ góp phần tối ưu hóa về vị trí mà còn tối ưu hóa các dòng hàng hóa và dịch vụ tại doanh nghiệp nhờ vào việc phân bố mạng lưới các cơ sở kinh doanh và điều kiện phục vụ phù hợp với yêu cầu vận động hàng hóa. Hơn thế nữa, các mô hình quản trị và phương án tối ưu trong dự trữ, vận chuyển, mua hàng…và hệ thống thông tin hiện đại sẽ tạo điều kiện để đưa hàng hóa đến nơi khách hàng yêu cầu nhanh nhất với chi phí thấp, cho phép doanh nghiệp thực hiện hiệu quả các hoạt động của mình - Logistics có vai trò hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác trong hoạt động sản xuất kinh doanh, là một nguồn lợi tiềm tàng cho doanh nghiệp: Một hệ thống logistics hiệu quả và kinh tế cũng tương tự như một tài sản vô hình cho công ty. Nếu một công ty có thể cung cấp sản phẩm cho khách hàng của mình một cách nhanh chóng với chi phí thấp thì có thể thu được lợi thế về thị phần so với đối thủ cạnh tranh. Điều này có thể giúp cho việc bán hàng ở mức chi phí thấp hơn nhờ vào hệ thống logistics hiệu quả hoặc cung cấp dịch vụ khách hàng với trình độ cao hơn do đó tạo ra uy tín. Mặc dù không tổ chức nào chỉ ra phần vốn quý này trong bảng cân đối tài sản nhưng cần phải thừa nhận rằng đây là phần tài sản vô hình giống như bản quyển, phát minh, sáng chế, thương hiệu Sự phát triển của ngành Logictics trong những năm gần đây Trước những năm 1950, công việc logistics chỉ đơn thuần là một hoạt động chức năng đơn lẻ. Trong khi các lĩnh vực marketing và quản trị sản xuất đã có những chuyển biến rất lớn lao thì vẫn chưa hình thành một quan điểm khoa học về quản trị logistics một cách hiệu quả. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và quản lý cuối thế kỉ 20 đã đưa logistics lên một tầm cao mới, có thể nói đó là giai đoạn phục hưng của logistics. Các nhân tố dẫn đến sự phát triển của logistics là: - Thương mại hoá thiết bị vi xử lý: trong thời kỳ này, các thiết bị điện tử bước vào giai đoạn thương mại hóa rộng rãi.Giá các sản phẩm trở nên rất rẻ và phù hợp với điều kiện đầu tư của các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính những thiết bị này là cơ sở vật chất hỗ trợ rất nhiều cho nghiệp vụ logistics (trao đổi thông tin, quản lý hàng tồn kho, tính toán các chi phí). Tại các nước phát triển, bộ phận logistics là nơi sử dụng nguồn vật chất máy vi tính lớn nhất trong công ty. - Cuộc cách mạng viễn thông: Cùng với yếu tố trên, những tiến bộ của ngành viễn thông nói chung và công nghệ thông tin nói riêng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động này. Từ những năm 80s, người ta đã sử dụng công nghệ mã vạch (bar code) để cải tiến hoạt động logistics. Trao đổi thông tin điện tử (EDI- electronic data interchange) cũng bắt đầu được sử dụng giữa khách hàng và những nhà cung ứng để truyền đạt và tiếp nhận dữ liệu giữa các cơ sở kinh doanh trong và ngoài công ty. Ngoài ra còn phải kể đến vệ tinh, máy fax, máy photo, và các dụng cụ ghi băng, ghi hình khác. Nhờ những phương tiện này mà người ta có được những thông tin cập nhật trong quá trình thực thi logistics. Có nhiều doanh nghiệp đã sử dụng nối mạng máy tính và dữ liệu kịp thời và chính xác. - Ứng dụng rộng rãi những sáng kiến cải tiến về chất lượng: quan điểm quản trị chất lượng đồng bộ (TQM) là động cơ quan trọng nhất trong việc thúc đẩy hoạt động logistics. Thời kỳ sau Đại chiến thứ II, các doanh nghiệp ngày càng phải quan tâm đến chất lượng hàng hoá và tính hiệu quả của các quy trình sản xuất. Quan điểm “không sai hỏng - zero defects” và “làm đúng ngay từ lần đầu tiên - doing things right the first time” trong TQM đã được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực logistics. Các doanh nghiệp nhận ra rằng sản phẩm tốt mà đến muộn so với yêu cầu hoặc bị hư hại đều không thể chấp nhận được. Việc thực thi kém công việc logistics sẽ làm tổn hại đến sáng kiến cải tiến chất lượng. - Sự phát triển của quan điểm đồng minh chiến lược (Alliances): Sang thập kỷ 80s, các doanh nghiệp bắt đầu nhận thấy rằng phải coi các khách hàng và các nhà cung ứng như là đồng minh chiến lược, những đơn vị cộng tác kinh doanh. Chính sự hợp tác, liên kết giữa các bên là cơ sở để hoạt động logistics đạt được hiệu quả ngày càng cao, giảm sự chồng chéo, hao phí không cần thiết, tập trung vào việc kinh doanh, thúc đẩy thắng lợi chung. Có thể chia quá trình phát triển của logistics kinh doanh trên thế giới thành 5 giai đoạn: workplace logistics (logistics tại chỗ), facility logistics (logistics cơ sở sản xuất), corporate logistics (logistics công ty), supply chain logistics (logistics chuỗi cung ứng), global logistics (logistics toàn cầu). Xem hình 1.1 Logistics tại chỗ là dòng vận động của nguyên vật liệu tại một vị trí làm việc. Mục đích của workplace logistics là hợp lý hoá các hoạt động độc lập của một cá nhân hay của một dây chuyền sản xuất hoặc lắp ráp.Lý thuyết và các nguyên tắc hoạt động của workplace logistics được đưa ra cho những nhân công làm việc trong lĩnh vực công nghiệp trong và sau chiến tranh thế giới thứ II. Điểm nổi bật của workplace logistics là tính tổ chức lao động có khoa học. Logistics cở sở sản xuất là dòng vận động của nguyên liệu giữa các xưởng làm việc trong nội bộ một cơ sở sản xuất. Cơ sở sản xuất đó có thể là 1 nhà máy, 1 trạm làm việc trung chuyển, 1 nhà kho, hoặc 1 trung tâm phân phối. Một facility logistics được nói đến tương tự như là một khâu để giải quyết các vấn đề đảm bảo đúng và đủ nguyên vật liệu để phục vụ cho sản xuất đại trà và dây chuyền lắp ráp máy móc (do máy móc không đồng nhất giữa những năm 1950 và 1960). Logistics công ty là dòng vận động của nguyên vật liệu và thông tin giữa các cơ sở sản xuất và các quá trình sản xuất trong một công ty. Với công ty sản xuất thì hoạt động logistics diễn ra giữa các nhà máy và các kho chứa hàng, với một đại lý bán buôn thì là giữa các đại lý phân phối của nó, còn với một đại lý bán lẻ thì đó là giữa đại lý phân phối và các cửa hàng bán lẻ của mình. Logistics công ty ra đời và chính thức được áp dụng trong kinh doanh vào những năm 1970. Giai đoạn này, hoạt động logistics gắn liền với thuật ngữ phân phối mang tính vật chất. Logistics kinh doanh trở thành quá trình mà mục tiêu chung là tạo ra và duy trì một chính sách dịch vụ khách hàng tốt với tổng chi phí logistics thấp. Logistics chuỗi cung ứng Phát triển vào những năm 1980, quan điểm này nhìn nhận logistics là dòng vận động của nguyên vật liệu, thông tin và tài chính giữa các công ty (các xưởng sản xuất, các cơ sở trong công ty) trong một chuỗi thống nhất. Đó là một mạng lưới các cơ sở hạ tầng (nhà máy, kho hàng, cầu cảng, cửa hàng…), các phương tiện (xe tải, tàu hoả, máy bay, tàu biển…) cùng với hệ thống thông tin được kết nối với nhau giữa các nhà cung ứng của một công ty và các khách hàng của công ty đó. Các hoạt động logistics (dịch vụ khách hàng, quản trị dự trữ, vận chuyển và bảo quản hàng hoá…) được liên kết với nhau để thực hiện các mục tiêu trong chuỗi cung ứng Điểm nhấn trong chuỗi cung ứng là tính tương tác và sự kết nối giữa các chủ thể trong chuỗi thông qua 3 dòng liên kết: - Dòng thông tin: dòng giao và nhận của các đơn đặt hàng, theo dõi quá trình dịch chuyển của hàng hoá và chứng từ giữa người gửi và người nhận - Dòng sản phẩm: con đường dịch chuyển của hàng hoá và dịch vụ từ nhà cung cấp tới khách hàng, đảm bảo đúng đủ về số lượng và chất lượng - Dòng tài chính: chỉ dòng tiền bạc và chứng từ thanh toán giữa các khách hàng và nhà cung cấp, thể hiện hiệu quả kinh doanh. San xuat Ban buon KH Dong thong tin Dong san pham Ban le Dong tien te Dich vu logistics Vị trí của dịch vụ Logistics trong chuỗi cung ứng Tương tự như trong thể thao, ở đây các hoạt động logistics được hiểu như là các trò chơi trong đấu trường chuỗi cung ứng. Hãy lấy chuỗi cung ứng trong ngành máy tính làm ví dụ: đó là 1 chuỗi gồm có HP, Microsoft, Intel, UPS, FEDEX, Sun, Ingram-Micro, Compaq, CompUSA và nhiều công ty khác. Không có ai trong số đó có thể hoặc nên kiểm soát toàn bộ chuỗi cung ứng của ngành công nghiệp máy tính. Xét theo quan điểm này logistics được hiểu là "Quá trình tối ưu hoá về vị trí, vận chuyển và dự trữ các nguồn tài nguyên từ điểm đầu tiên của dây chuyền cung ứng cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế ”. Trong chuỗi cung ứng, logistics bao trùm cả hai cấp độ hoạch định và tổ chức. Cấp độ thứ nhất đòi hỏi phải giải quyết vấn đề tối ưu hoá vị trí của các nguồn tài nguyên. Cấp độ thứ hai liên quan đến việc tối ưu hoá các dòng vận động trong hệ thống. Trong thực tế, hệ thống logistics ở các quốc gia và các khu vực có nhiều điểm khác nhau nhưng đều có điểm chung là sự kết hợp khéo léo, khoa học và chuyên nghiệp chuỗi các hoạt động như marketing, sản xuất, tài chính, vận tải, thu mua, dự trữ, phân phối…để đạt được mục tiêu phục vụ khách hàng tối đa với chi phí tối thiểu. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay đây là khái niệm thích hợp có thể sử dụng. Logistics toàn cầu là dòng vận động của nguyên vật liệu, thông tin và tiền tệ giữa các quốc gia. Nó liên kết các nhà cung ứng của các nhà cung ứng với khách hàng của khách hàng trên toàn thế giới. Các dòng vận động của logistics toàn cầu đó tăng một cách đáng kể trong suốt những năm qua. Đó là do quá trình toàn cầu hoá trong nền kinh tế tri thức, việc mở rộng các khối thương mại và việc mua bán qua mạng. Logistics toàn cầu phức tạp hơn nhiều so với logistics trong nước bởi sự đa dạng phức tạp hơn trong luật chơi, đối thủ cạnh tranh, ngôn ngữ, tiền tệ, múi giờ, văn hoá, và những rào cản khác trong kinh doanh quốc tế. Logistics thế hệ sau, có rất nhiều lý thuyết khác nhau về giai đoạn tiếp theo sau của logistics. Nhiều nhà kinh tế cho rằng: logistics hợp tác (collaborative logistics) sẽ là giai đoạn tiếp theo của lịch sử phát triển logistics. Đó là dạng logistics được xây dựng dựa trên 2 khía cạnh -- không ngừng tối ưu hoá thời gian thực hiện với việc liên kết giữa tất cả các thành phần tham gia trong chuỗi cung ứng. Một số người khác lại cho rằng: giai đoạn tiếp theo là logistics thương mại điện tử (e- logistics) hay logistics đối tác thứ 4 (fourth-party logistics). Đó là hình thức mà mọi hoạt động logistics sẽ được thực hiện bởi nhà các cung ứng logistics thứ 3, người này sẽ bị kiểm soát bởi một “ông chủ” hay còn gọi là nhà cung ứng thứ 4, có quyền như là một tổng giám sát. Những thuận lợi và khó khăn trong sự phát triển ngành Logictics ở Việt Nam Hiện trạng ngành Logictics ở Việt Nam - Theo bản báo cáo “Đánh giá hiệu quả logictics của các quốc gia- Logistics Performance Index” năm 2010 của WordBank vị trí của Việt Nam là 53, kinh tế Logistics trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ởViệt Nam chiếm khoảng 20-25% ( các nước phát triển 12-15%, các nước chưa phát triển 25-30% ). Rõ ràng với nền kinh tế phát triển nhanh và năng động Việt Nam là môi trường thuận lợi cho logicstics phát triển và bùng nổ. Tuy nhiên theo nhiều chueyne gia kinh tế các doanh nghiệp Việt Nam đang phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn và thất thế trên sân nhà. Không chỉ các công ty nước ngoài ngay cả các Cty trong nước có lượng hàng hoá XNK lớn : Vinamilk, Tân Hiệp Phát... cũng lựa chọn nhà thầu Logistics nước ngoài. Vậy đâu là nguyên nhân ? - Theo Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) có khoảng hơn 800 doanh nghiệp hoạt động logistics và có những công ty nhà nước tương đối lớn như Viconship, Vintrans, Vietrans.. tuy nhiên những công ty này vẫn chưa đủ năng lực để tham gia hoạt động logictics toàn cầu, các công ty còn lại chủ yếu hoạt động manh mún, nhỏ lẻ, tản mạn chỉ là các đại lý giao nhận đóng vai trò là người gom hàng và cấp vận đơn hàng, cho thuê kho bãi và vận chuyển nội địa. trong khi các doanh nghiệp nước ngoài là những nhà đầu tư lão luyện với số vốn khổng lồ, danh tiếng lâu năm. Chi phí Logictics Việt Nam là tương đối rẻ xong chất lượng không cao và thiếu tính ổn định. Do trong công nghệ vận tải đa phương thức vẫn chưa kết hợp được một cách hiệu quả các phương tiện vận chuyển, chưa tổ chức tốt các điểm chuyển tải, trình độ cơ giới hoá trong bốc xếp còn kém, trình độ lao động thấp, cư sở hạ tầng thiếu và yếu, công nghệ thông tin lạc hậu xa so với yêu cầu của logistics. Các doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ yếu song tính liên kết để tạo ra sức cạnh tranh còn kém. Nhận thức của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này thường chỉ là kinh nghiệm bản thân, hiểu biết về luật pháp quốc tế, tài chính , chuyên nghành còn thấp dẫn đến tỷ lệ bị phạt hợp đồng còn cao, lãng phí trong tài chính và hoạt động khai thác. Theo Viện Nghiên Cứu Logistics Nhật Bản, Các doanh nghiệp Logistic Việt nam chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu thị trường của Logistics trong nước. Những thuận lợi cho sự phát triển ngành ở Việt Nam và xu thế phát triển - Ở một nền kinh tế đang hội nhập và phát triển nhanh như Việt Nam, sự gia tăng nhanh hàng xuất nhập khẩu, nhập khẩu, nâng cấp cở sở hạ tầng….. cơ hội phát triển Logictics là rất lớn,thêm vào đó vị trí địa lý giao thương khá thuận lợi cũng là một lợi thế nữa. - Theo thỏa thuận gia nhập WTO năm 2013 Việt Nam mới phải mở cửa hoàn toàn dịch vụ Logictics tức là còn 3 năm nữa, đây là khoảng thời gian thuận lợi cho DN Việt Nam phát triển và nắm bắt thị trường trước mở cửa. - Sự quan tâm của nhà nước, ý thức ngày càng cao hơn của các DN kinh tế đang tạo đà cho Logictics phát triển. Sự tham gia của Vinaline, tập đoàn kinh tế biển đầu tầu đang cố giành lại thị phần thị trường Logictics, có kế hoạch phát triển cụ thể từ 2010 đến 2015, sẽ tạo một cú hích lớn cho Logictics VN. Các quy hoạch và trên thực tế đang và sẽ đầu tư phát triển khu cảng nước sâu Cái Mép, cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong, Sân bay quốc tế Long Thành, hành lang đường bộ Đông Tây (EWEC), hành lang Hà Nội - Hải Phòng - Hà Khẩu - Côn Minh….. Xu thế phát triển của họat động Logictics. -Sự tham gia của Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) và Hiệp hội Giao nhận Kho vận Việt  Nam (VIFFAS) nghiên cứu, tham mưu cho Chính phủ trong việc hoàn thiện hành lang, khung pháp lý về quản lý các hoạt động logistics tại Việt Nam; đảm bảo tính nhất quán, thông thoáng,hợp lý trong các văn bản, quy định liên quan đến logistics với mục đích tạo cơ sở cho một thị trường logistics minh bạch, tránh tình trạng chồng chéo, gây ra những ách tắc không đáng có cho hoạt động của doanh nghiệp. Đây sẽ là 2 nhân tố đầu tàu liên kết phối hợp sức mạnh của các đơn vị là các DN Logictics của Việt Nam, các thành viên Vinalines (hiện nay Vinalines có 12 đơn vị thành viên, liên doanh, liên kết hoạt động trong lĩnh vực logistics) thành một sức mạnh tổng hợp, có tầm, có chiều sâu. - Vinalines cũng xác định,t ăng cường các hoạt động liên kết với các tập đoàn kinh doanh logistics quốc tế nhằm tranh thủ công nghệ, vốn, tinh hoa quản trị. Với xu thế logistics là dịch vụ được triển khai trên qui mô quốc tế, để hoạt động mang tính chuyên sâu hơn, Vinalines sẽ tích cực tham gia vào các liên minh logistics toàn cầu, triển khai việc mở văn phòng đại diện tại một số trung tâm thương mại quốc tế. Đây cũng đang là phương hướng phát triển của DN Logictics Việt Nam. - Trong xu thế mới ngành Logictisc Việt Nam đang tích cực hoàn thiện bản thân mạnh mẽ. Với hướng phát triển logistics là dịch vụ được triển khai trên qui mô quốc tế, để hoạt động mang tính chuyên sâu hơnTrong thời gian qua chúng ta đã chậm chân so với các công ty cung cấp dịnh vụ logistics nước ngoài. Nhưng, nền kinh tế Việt Nam đang phát triển với những cơ hội lớn hơn để trở thành một trung tâm trung chuyển, một công trường sản xuất và phân phối hàng hóa trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta vẫn còn rất nhiều cơ hội phát triển và tận dụng. tiềm năng của mình. 3.3 Khó khăn và các khắc phục Nhận thức chưa đầy đủ về logictics. - Như đã nói ở trên nhận thức của các doanh nhiệp Việt Nam về Logictics còn hạn chế và chủ yếu trên quan điểm kinh nghiệm cá nhân, thường chỉ coi Logicstics là vận tải và lưu kho. Thiếu cái nhìn tổng quát về Logictics như một tổng thể kết hợp nhiều hoạt động kinh tế, có tác động qua lại lẫn nhau, bao trùm mọi yếu tố tạo nên sản phẩm từ điểm đầu thu nhập các lượng đầu vào, tạo nên sản phẩm đến điểm cuối người sử dụng. - Nhận thúc chưa đầy đủ về Logictics còn dẫn đến nhưng quy định không chặt chẽ về quản lý nhà nước, thiếu các chính sách có tính vĩ mô, hành lang pháp lý để định hướng phát triển và hộ trợ cho hoạt động Logictics của các doanh nghiệp. Thiếu nguồn nhân lực Logictics. - Ở Việt Nam hiện nay chưa có trường đào tạo Logictics, trong các trường đại học cũng chưa có ngành riêng đào tạo Logictics, mới chỉ có những lớp đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho người đã làm trong nghề và việc này nhờ sự liên kết giữa hiệp hội với các đơn vị nước ngoài phối hợp để đào tạo. Hoạt động Logictics mang tính dây chuyền, nên chỉ thực sự có hiệu quả cao khi nhân lực được đào tạo bài bản và chuyên nghiệp. Cở sở hạ tầng yếu kém. - Hạ tầng Logictics bao gồm hạ tầng giao thông và hạ tầng thông tin. -Về hạ tầng giao thông ở chưa phát triển kịp với sự phát triển của nền kinh tế nếu không muốn nói là lạc hậu, thiếu đồng bộ và xuống cấp.Chất lượng đường bộ thấp, bố trí các trạm thu phí không hợp lý, cảng biển chỉ nhận được tàu trọng tải nhỏ, đướng sắt không có ga hàng hóa hay khu vưc gom hàng tiêu lớn, rộng rãi. Vấn đề này làm gia tăng chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp và ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ. - Hạ tầng cơ sở thông tin, đây luôn là điểm yếu của các DN Việt Nam trong các ngành nghề. Mặc dù đã có ý thức áp dụng CNTT, nhưng so với các công ty nước ngoài thì chúng ta vân kém xa họ. Trong hoạt động Logictics khả năng nhìn thấy và kiểm soát đơn hàng, là một yếu tố được các chủ hàng đánh giá rất cao khi họ lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logisitics cho mình, khả năng này chỉ đạt được khi có một hệ thống cơ sở thông tin tốt, đầy đủ, kiểm soát chặt chẽ quá trình đơn hàng,để trong bất kỳ thời điểm nào, tại bất kỳ nơi khách hàng sử dụng dịch vụ Logictics cũng có thể nắm bắt và có có bất kỳ các loại báo cáo liên quan đến các đơn hàng của mình. Điều này giúp họ tính toán tốt những dự báo, kiểm soát hàng tồn, đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng ở chi phí tối ưu nhất. * Các khó khăn trong Doanh nghiệp - Thương hiệu Logictics, các doanh nghiệp Việt năm ra đời sau danh tiếng và kinh nghiệm là rất ít ỏi so với doanh nghiệp quốc tế như: Exel, Maersk, APL có danh tiếng và kinh nghiệm gần 100 năm. Bởi vậy việc tiếp cận các khách hàng lớn là rất khó khăn. - Khả năng hạn chế trong việc thưc hiện các đơn hàng lớn, tham gia các hoạt động Logictics toàn cầu, do tầm bao phủ thấp chỉ là nội đia và các quốc gia lân cận trong khi các đại gia như APL Logisitics là gần 100 quốc gia, Maersk Logisitics,Exel là 60 quốc gia. Điều này làm DN Việt Nam không thể thức hiện các đơn hàng trọn gói từ các tập đoàn đa quốc gia. - Chưa khai thác hết đươc tòan bộ chuỗi cung ứng. Các DN Việt Nam mới chỉ tham gia một phần nhỏ trong chuỗi cung ứng, phổ biến là hình thức giao nhận vận tải ( freight forwarding ). Đây là một mảng rất nhỏ, các DN gom đầy sau đó vận chuyển đến người nhận dỡ hàng và giao lại cho người mua hàng tại kho. Trong khi các công ty lớn nước ngoài cung cấp 1 loạt cá hoạt động đa dạng với giá trị gia tăng cao. - Thiếu tính liên kết. Các doanh nghiệp logisitics của Việt Nam hoạt động còn rất độc lập thiếu hẳn sự liên kết cần thiết. Khi đối thủ cạnh tranh là các hang lớn với rất nhiều lợi thế về vốn, quy mô, danh tiếng thì việc liên kết lại với nhau là hết sức quan trọng. Các DN logisitics Việt Nam cần ngồi lại và hợp tác để có thể đưa ra thị trường một chuỗi các dịch vụ logisitics tổng thể cho khách hàng. Bởi mô hình dịch vụ tổng thể hay One-stop Shop ( chỉ dừng một lần có thể mua được tất cả những gì mình cần ) là điều khách hàng muốn chứ không phải là các hoạt động nhỏ lẽ và thiếu đồng bộ. - Khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng và nhận thức. Nếu các nhà xuất khẩu Việt Nam xuất khẩu theo điều kiện FOB- người mua chịu trách nhiệm vận tải, hoặc chỉ làm gia công, sản xuất cho nước ngoài thì họ sẽ chỉ định một công ty nước họ để thực hiện Logictics, các DN Việt Nam ngoài cuộc. Theo chiều ngược lại khi Việt Nam nhập khẩu thì sẽ có cơ hội cho DN Logictics Việt Nam, tuy nhiên nếu nhà nhập khẩu là DN đầu tư trực tiếp nước ngoài thì vẫn sẽ là Dn logictics nước ngoài đảm nhận. Trong khi đó DN nhập khẩu trong nước lại thiếu sự quan tâm trong viêc quản lý hiệu quả chuỗi cung ứng, khi thường không có phòng logictics mà được hiểu luôn là phòng xuất nhập khẩu. Họ cho rằng Logictics chỉ là các mảnh ghép của vận tải, lưu kho… hoặc gọi luôn Logictics là hậu cần. Điều này cho thấy DN chưa có nhận thức đúng đủ vê Logictics và gây khó khăn cho DN chào mời dịch vụ Logictics. Các biện pháp khắc phục: - Trước tiên cần có một hệ thống đào tạo nguồn nhân lực hiệu quả, từ các khóa học hay các từ các trường đại học. Nâng cao nhận thức của cả người sử dụng lẫn người cung ứng dịch vụ Logictics tạo môi trường thuận lợi, nền tảng vững chắc cho Logictics phát triển. - Cải thiện cơ sở hạ tầng thông tin, giao thông vận tải. Hạ tầng giao thông đang được nhà nước nâng cấp ngày càng hoàn thiện hơn, tuy nhiên vẫn cần những sân bay, cảng biển hay kho hàng hóa, điểm thông quan thuận lọi về cả vị trí địa lý lẫn thủ tục. Đầu tư công nghệ thông tin như các hệ thống IT, phần mềm TMS (Transort management system,) hoặc WMS để cung ứng dịch vụ tốt hơn, giảm thiểu chi phí, tăng hiệu suất. - Nâng cao tính liên kết các DN cung ứng dịch vụ Logictics, các doanh nghiệp cần hợp tác với nhau để mạnh hơn, cạnh tranh hơn. Không đơn giản chỉ lừ liên kết mà phải là một quá trình tích hợp điểm mạnh và loại bỏ điểm yếu, đòi hỏi doanh nghiệp thực hiện việc tái lập quy trình kinh doanh của mình. Loại bỏ cách hình thức cạnh tranh không lành mạnh, cần có một hiệp hội Logictics rõ ràng hoạt đọng có hiệu quả hoặc là hiệp hội Giao nhận Việt Nam (VIFFAS) cần thể hiện rõ ảnh hưởng hơn trong việc quản lý và liên kết thành viên. Điều này góp phần làm tăng thêm thương hiệu và tiếng nói cũng như khả năng tiếp cạn khách của DN dịch vụ Logictics. -Vai trò của nhà nước là rất quan trọng việc tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng, xây dụng mô hinh One Stop-Shop là điều kiện rất thuận lợi cho Logictics. Xây dựng một tiêu chuẩn thống nhất, một quy chuản cụ thể cho ngành Logictics ở cấp độ quản lý, điều hành , một văn bản luật chính thức giúp nâng cao sự minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, và đặc biệt khuyến khích cho sự phát triển của cà ngành. Chúng ta có thể học hỏi từ các nước và dần dần hoàn thiện một quy chuẩn cho mình. 4. Ví dụ về một doanh nghiệp phát triển ngành Logictics ở Việt nam III. Kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxQuản trị logistic.docx
Luận văn liên quan