LỜI MỞ ĐẦU
Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặcbiệt quan trong. Hiến pháp năm 1992 cũng nêu rõ vị trí và tính chất của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Khác với nghị viện Tư sản, Quốc hội nước ta thực sự đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là cơ quan đại biểu của nhân dân theo kiểu công xã Pari mà C.Mac coi là một tập thể làm việc “vừa lập pháp, vừa hành pháp”. Đây là một tổ chức chính quyền thể hiện rất rõ tính chất đại diện và tính chất quần chúng. Các đại biểu Quốc hội là những công nhân, nông dân, trí thức và những người lao động ưu tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước được nhân dân tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nắm vững tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Do đó, quyết định mọi vấn đề được sát và hợp với quần chúng đồng thời có điều kiện thuận lợi để vận động quần chúng thi hành tốt các qui định của Nhà nước
10 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3494 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quốc hội - Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hộii chủ nghĩa Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặcbiệt quan trong. Hiến pháp năm 1992 cũng nêu rõ vị trí và tính chất của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Khác với nghị viện Tư sản, Quốc hội nước ta thực sự đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là cơ quan đại biểu của nhân dân theo kiểu công xã Pari mà C.Mac coi là một tập thể làm việc “vừa lập pháp, vừa hành pháp”. Đây là một tổ chức chính quyền thể hiện rất rõ tính chất đại diện và tính chất quần chúng. Các đại biểu Quốc hội là những công nhân, nông dân, trí thức và những người lao động ưu tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước được nhân dân tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nắm vững tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Do đó, quyết định mọi vấn đề được sát và hợp với quần chúng đồng thời có điều kiện thuận lợi để vận động quần chúng thi hành tốt các qui định của Nhà nước
Nhận thức được tầm quan trọng của Quốc hội, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Quốc hội- cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã họi chủ nghĩa Việt Nam”
B/ NỘI DUNG
I/ Giải thích thuật ngữ
Quyền lực nhà nước là sức mạnh của nhà nước có thể bắt các chủ thể khác trong quốc gia ( các tổ chức, cá nhân, giai cấp, tầng lớp) phải phục tùng ý chí của nó. Nhờ có quyền lực này mà nhà nước có đủ khả năng làm dịu xung đột ấy trong vòng “trật tự”. Cũng nhờ có quyền lực đó mà nhà nước có thể thực hiện và bảo vệ được quyền lợi và địa vị thống trị của giai cấp thống trị, có thể điều hành, tổ chức và quản lý xã hội, làm cho xã hội phát triển theo chiều hướng như mong muốn. Quyền lực chỉ do các cơ quan nhà nước thực hiện, và nó được phân chia cho các cơ quan đó. Quốc hội chính là cơ quan quyền lực nhà nươc cao nhất, giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong tổ chức bộ mấy nhà nước ta.
II/ Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thống nhất. Tính quyền lực nhà nước của Quốc hội thể hiện ở thẩm quyền của Quốc hội và được cụ thể hoá thành các chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được Hiến pháp quy định. Trong Hiến pháp năm 1946, thẩm quyền của Quốc hội được quy định chung tại Điều 23 là “Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài”. Ngoài quy định chung tại Điều 23, nhiệm vụ và quyền hạn của Nghị viện còn được thể hiện tại Điều 25 “Nghị viện không chỉ thay mặt cho địa phương mình mà còn thay mặt cho toàn thể nhân dân”; Nghị viện nhân dân có quyền bỏ phiếu bầu Chủ tịch nước tại Điều 45; bầu cử Thủ tướng và các bộ trưởng tại Điều 47 và chế độ trách nhiệm của Thủ trưởng, bộ trưởng trước Nghị viện nhân dân tại Điều 54.
Hiến pháp năm 1959 khẳng định “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”[1]. Như vậy, so với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã có bước phát triển mới qua việc khẳng định “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”[2].
Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định vị trí của Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất” của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như Hiến pháp năm 1959 đã quy định. So với hai bản Hiến pháp trước đây, điểm mới thứ nhất rất quan trọng là lần đầu tiên, Hiến pháp năm 1980 quy định chức năng đại diện của Quốc hội, theo đó “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân”. Đây chính là căn cứ pháp lý quan trọng để cụ thể hóa chức năng đại diện của Quốc hội trong Luật tổ chức Quốc hội năm 1981.
Điểm mới thứ hai là mở rộng phạm vi thẩm quyền của Quốc hội trong việc thực hiện chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Theo Điều 82 của Hiến pháp năm 1980, “Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hóa, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân”. Như vậy, về mặt pháp lý, thẩm quyền của Quốc hội trong lĩnh vực này là rất rộng và được quy định khá rõ ràng hơn so với Hiến pháp năm 1959.
Điểm mới thứ ba là lần đầu tiên, Hiến pháp năm 1980 đã xác định tính chất và đặc điểm chức năng giám sát của Quốc hội là “giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” Quy định này là căn cứ pháp lý quan trọng để phân định rõ hoạt động giám sát của Quốc hội với các hình thức giám sát khác việc thi hành pháp luật ở nước ta.
Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định vị trí của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội có ba chức năng cơ bản là lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của đất nước.
Điểm sửa đổi quan trọng trong Hiến pháp năm 1992 là bãi bỏ quy định Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết của Hiến pháp năm 1980.
Đến năm 2001, Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung, trong đó có một số quy định mới điều chỉnh nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội nhằm khẳng định vai trò của Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Cụ thể là ở Điều 84 của Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 quy định Quốc hội: “phân bổ ngân sách trung ương”; “quyết định chính sách tôn giáo của Nhà nước”; “phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” và “phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký”[3]
Vai trò của Quốc hội còn được tăng cường trong việc xem xét và quyết định các vấn đề về nhân sự cấp cao. Trước năm 2001, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều giao cho cơ quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng Nhà nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội. Điều khỏan sửa đổi của Hiến pháp năm 1992 đã bãi bỏ thẩm quyền này của Uỷ ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm Quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền quyết định nhân sự cấp cao của nhà nước. Trong Báo cáo trình Quốc hội về vấn đề này, Uỷ ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 cho rằng đây là vấn đề quan trọng, phải thuộc thẩm quyền của Quốc hội, không nên giao cho cơ quan khác thực hiện. Về mặt thời gian, mỗi năm Quốc hội họp hai kỳ, thời gian giữa hai kỳ họp không dài. Do đó, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức những người giữ các chức danh này không nhất thiết phải tiến hành trong thời gian Quốc hội không họp. Như vậy, việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh sau khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi vào năm 2001 là hoàn toàn thuộc thẩm quyền của Quốc hội, thể hiện tinh thần và mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Quốc hội nước ta có ba chức năng: lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
1/Chức năng lập hiến và lập pháp
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, thông qua Luật và sửa đổi Luật. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, qui định các vấn đề quan trọng nhất về quyền lực Nhà nước và cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hoá - xã hội, về cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước, về quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân… Hiến pháp và Luật thể hiện đường lối cơ bản và những chủ trương lớn của Đảng đã được Nhà nước thể chế hoá và có hiệu lực thi hành trên toàn lãnh thổ nước ta. Luật là văn bản có hiệu lực pháp lý cao sau Hiến pháp.
Các văn bản qui phạm pháp luật khác do các cơ quan nhà nước ban hành phải căn cứ vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội và không được trái với tinh thần, nội dung của Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội.
2/ Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, qui định những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Những vấn đề quan trọng của đất nước do Quốc hội quyết định gồm có:
về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương: Quốc hội bầu, miễn nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội, thành lập Chính phủ, bầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương...
về lĩnh vực kinh tế- ngân sách: Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương; chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, quyết định đại xá;
vấn đề chiến tranh và hoà bình, Quốc hội quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
về đối ngoại, Quốc hội phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên theo tờ trình của Chủ tịch nước.
3/ Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của Nhà nước đúng pháp luật vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đối tượng giám sát của Quốc hội là việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; hoạt động của các cơ quan Nhà nước ở trung ương là Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các cơ quan này chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Quốc hội hoạt động theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Các vấn đề được Quốc hội quyết định đều phải được tập thể các đại biểu Quốc hội xem xét và chỉ được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết đồng ý, trừ trường hợp sửa đổi Hiến pháp là phải có hai phần ba tổng số đại biểu tán thành.
Hiến pháp năm 1992 quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó phải kể đến nguyên tắc tập trung dân chủ mà nội dung của nguyên tắc này là quyền lực nhà nước phải được triển khai thống nhất, xuyên suốt... và quyền lực đó phải chịu sự giám sát của nhân dân hay của các cơ quan đại diện.
Trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa Quốc hội và các thiết chế nhà nước khác được xác định ở chỗ Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm những người đứng đầu các cơ quan khác của nhà nước; nhiệm kỳ hoạt động của các cơ quan nhà nước do Quốc hội thành lập là theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Do được Quốc hội bầu và có thể bị Quốc hội bãi miễn, nên có thể thấy rằng sự tồn tại của chính các cơ quan khác của nhà nước ở trung ương là phụ thuộc vào sự tín nhiệm của Quốc hội và của nhân dân. Mặt khác, mỗi cơ quan nhà nước khi được thành lập có phạm vi thẩm quyền nhất định và có tính độc lập trong việc tổ chức thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong phạm vi thẩm quyền đó.
Cụ thể hóa quy định Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, điều khoản sửa đổi của Hiến pháp năm 1992 quy định Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ có quyền trực tiếp hủy bỏ những văn bản trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội còn những văn bản trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì chỉ có quyền đình chỉ và trình lên Quốc hội xem xét việc hủy bỏ trong kỳ họp gần nhất (Điều 91 khoản 5 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội còn được quy định chi tiết hơn trong Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội (2003), theo đó, quyền giám sát tối cao của Quốc hội được thực hiện qua các cơ quan của Quốc hội và của đại biểu Quốc hội.
Điểm mới so với trước đây là quy định Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Căn cứ để Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét và trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm là phải có kiến nghị của ít nhất hai mươi phần trăm (20%) tổng số đại biểu Quốc hội hoặc kiến nghị của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội về việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
C/ Kết luận
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Theo Hiến pháp quy định thì Quốc hội được quyền phân công quyền lực nhà nước cho Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,… và cho chính Quốc hội khi thực hiện chức năng lập hiến. Quốc hội được quyền quyết định nhân sự cấp cao của Nhà nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước… Đó là những quyền cực kỳ quan trọng và cao nhất, Chính phủ và Tòa án nhân dân tối cao không có được các quyền đó.
Tuy vậy, sau khi Hiến pháp đã được ban hành, Quốc hội cũng vẫn phải tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh chức năng hiến định đã được phân công, không được can thiệp hoặc làm thay chức năng riêng có cao nhất của Chính phủ và của Tòa án nhân dân tối cao.
Tương tự như vậy, Quốc hội và Chính phủ cũng phải tôn trọng chức năng xét xử của Tòa án, tôn trọng phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án; Quốc hội và Tòa án cũng phải tôn trọng chức năng quản lý hành chính nhà nước cao nhất của Chính phủ, mọi người tham gia giao thông cũng phải tuân theo cái gậy chỉ đường của chiến sĩ cảnh sát giao thông.
Tóm lại, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất cũng vẫn phải chấp hành nghiêm chỉnh chức năng đã được phân công, tôn trọng chức năng của các cơ quan khác, không can thiệp hoặc làm thay chức năng của các cơ quan khác
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Tập I, Trường ĐH Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân
Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, TS. Nguyễn Thị Hồi, NXB Tư pháp- 2005
Quốc hội Việt Nam-60 năm hình thành và phát triển- NXB chính trị Quốc gia, HN 2006.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( những khía cạnh pháp lý theo Hiến pháp và luật tổ chức Quốc hội 1992)- PTS Nguyễn Đăng Dung, NXB pháp lý
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quốc hội- cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hộii chủ nghĩa Việt Nam.doc