Quy định hiện hành và những hạn chế còn tồn tại của pháp luật hiện hành về thuế về đất đai

Lời nói đầu:1 I. Một sốvấn đề lý luận và quy định hiện hành của pháp luật về thuế đất đai:1 1. Khái niệmthuế đối với đất đai:1 2. Đặc điểmcủa thuế về đất đai:2 3. Các vănbản pháp luật hiện hành điều chỉnh về thuế đối với đất đai:2 4. Nội dungpháp luật thuế hiện hành đối với đất đai:3 4.1. Đốitượng chịu thuế:3 4.2. Chủ thểcó nghĩa vụ nộp thuế:3 4.3. Căn cứphát sinh quan hệ thuế nhà, đất:4 4.4. Căn cứtính thuế nhà, đất:4 4.5. Chế độmiễn giảm thuế nhà đất:5 II. Nhữnghạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về thuế về đất đai:6 1. Bất cậpvề đối tượng chịu thuế:6 2. Bất cậpvề căn cứ tính thuế:6 III. Một số biện pháp nhằm hoàn thiện phápluật thuế về đất đai hiện hành:9 1.Nhữngđiểm mới của Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010:10 2. Cần sớm sửa đổi, bổ sung Luậtthuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993:12 3. Cần ban hành Luật thuế nhà ở:14 Kết luận:15 Tài liệutham khảo. 16

doc17 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2955 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định hiện hành và những hạn chế còn tồn tại của pháp luật hiện hành về thuế về đất đai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu: Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993, Pháp lệnh Thuế nhà, đất năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 1994), và ngay cả Luật Thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hết hiệu lực thi hành đều đã có những đóng góp không nhỏ trong công tác quản lý thuế của nước ta. Các văn bản trên đã ra đời và tồn tại hơn 15 năm, có thể thấy đây là những sắc thuế ít có sự sửa đổi bổ sung nhất trong hệ thống pháp luật thuế hiện hành ở nước ta bởi mục tiêu chủ yếu của Nhà nước khi ban hành các loại thuế này là để thể hiện sự quản lý nhà nước đối với đất đai. Tuy nhiên càng về sau nay những bất cập về pháp luật thuế về đất đai càng bộc lộ rõ so với sự phát triển của kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, việc xem xét đánh giá những bất cập để tìm ra giải pháp sửa đổi, bổ sung cho pháp luật thuế về đất đai của nước ta là vô cùng cần thiết. I. Một số vấn đề lý luận và quy định hiện hành của pháp luật về thuế đất đai: 1. Khái niệm thuế đối với đất đai: Một cách khái quát, thuế về đất đai được hiểu là các loại thuế đánh vào việc sử dụng hoặc có quyền sử dụng đối với đất đai (hoặc đánh vào quyền sở hữu đất) Trang 247 Giáo trình Luật thuế Việt Nam. Đại học Luật Hà Nội, 2008. Việt Nam hiện nay áp dụng hai loại thuế liên quan đến đất đai: thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế nhà, đất. Trước thời điểm 1/1/2004, Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất điều chỉnh việc thu thuế đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có hành vi chuyển quyền sử dụng đất. Từ ngày 1/1/2004 đến 31/12/2008, luật này chỉ còn điều chỉnh đối với cá nhân, hộ gia đình. Kể từ ngày 1/1/2009, thuế chuyển quyền sử dụng đất chính thức chấm dứt hiệu lực điều chỉnh - Thuế sử dụng đất nông nghiệp: là loại thuế thu vào việc sử dụng đất nông nghiệp hoặc việc được giao đất vào sản xuất nông nghiệp. Nếu chủ thể có quyền sử dụng đất nông nghiệp mà không sử dụng thì họ vẫn phải nộp loại thuế này. Trang 249 Giáo trình Luật thuế Việt Nam. Đại học Luật Hà Nội, 2008. - Thuế nhà, đất: là loại thuế thu vào việc trực tiếp sử dụng hoặc việc có quyền sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình. Loại thuế này không thu vào đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản và làm muối. Trang 250 Giáo trình Luật thuế Việt Nam. Đại học Luật Hà Nội, 2008. 2. Đặc điểm của thuế về đất đai: - Thuế về đất đai có sự tham gia của cơ quan nhà nước. So với các loại thuế khác thì ngoài cơ quan quản lý chuyên ngành (kho bạc, cơ quan thuế) thì loại thuế này còn có sự tham gia của cơ quan chính quyền ở địa phương - Ủy ban nhân dân các cấp. - Đối tượng của thuế về đất đai: là quyền sử dụng hoặc việc sử dụng đất. - Cách tính thuế: Thuế về đất đai được tính bằng thóc và thu bằng tiền. 3. Các văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh về thuế đối với đất đai: Thứ nhất: Thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện hành chịu sự điều chỉnh chính của các văn bản pháp luật sau: Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993; Nghị định số 74/CP ngày 25/10/1993 quy định chi tiết thi hành luật thuế sử dụng đất nông nghiệp; Nghị quyết của Quốc hội số 15/2003/QH11 ngày 17/6/2003 về việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp; Nghị định số 129/2003/NĐ-CP ngày 03/11/2003 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết của quốc hội số 15/2003/QH11 ngày 17/6/2003 về việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp. Thứ hai: Thuế nhà, đất hiện hành chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật sau: Pháp lệnh thuế nhà, đất ngày 31/7/1992 sửa đổi bố sung năm 1994; Nghị định số 94/CP ngày 25/08/1994 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về thuế nhà, đất và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thuế nhà, đất; Thông tư số 83-TC/TCT ngày 07/10/1994 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 94/CP ngày 25/08/1994 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về thuế nhà, đất; Thông tư số 71/2002/TT-BTC ngày 19/08/2002 của Bộ tài chính về sửa đổi Thông tư số 83-TC/TCT ngày 07/10/1994 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 94/CP ngày 25/08/1994 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về thuế nhà, đất. Tuy Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đã được đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010 nhưng phải đến ngày 01 tháng 01 năm 2012 Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp mới có hiệu lực thi hành để thay thế cho Pháp lệnh thuế nhà đất năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 1994). 4. Nội dung pháp luật thuế hiện hành đối với đất đai: 4.1. Đối tượng chịu thuế: - Đối tượng chịu thuế của Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp là đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp gồm: đất trồng trọt; đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản; đất rừng trồng. Các đối tượng không phải chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp mà chịu các loại thuế khác gồm đất rừng tự nhiên; đất đồng cỏ tự nhiên; đất dùng để ở, đất chuyên dùng. - Đối tượng chịu thuế của Pháp lệnh thuế nhà, đất là: đất ở; đất xây dựng công trình. Các đối tượng không phải nộp thuế nhà, đất gồm: đất sử dụng vì lợi ích công cộng, phúc lợi xã hội hoặc từ thiện không vì mục đích kinh doanh và đất chuyên dùng vào việc thờ cúng của các tôn giáo, các tổ chức không vì mục đích kinh doanh hoặc để ở. 4.2. Chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế: - Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp quy định tổ chức và cá nhân (gọi chung là hộ nộp thuế) sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp đều phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp. Hộ được giao quyền sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp mà không sử dụng vẫn phải nộp thuế. - Pháp lệnh thuế nhà, đất chỉ quy định thu thuế đối với đất ở, đất xây dựng, đất xây dựng công trình mà tạm thời chưa quy định thu thuế đối với nhà. Theo đó, chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế chỉ bao gồm các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất hoặc trực tiếp sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình. Quyền sử dụng đất phải được thể hiện bằng văn bẳn, là bằng chứng chứng tỏ việc sử dụng đất hợp pháp. 4.3. Căn cứ phát sinh quan hệ thuế nhà, đất: Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nhà, đất đều quy định nghĩa vụ nộp thuế nhà đất của một chủ thể nảy sinh khi chủ thể đó rơi vào một trong hai trường hợp: có hành vi sử dụng trực tiếp đất nông nghiệp, đất ở, đất xây dựng công trình hoặc không có hành vi sử dụng đất nhưng có quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất ở, đất xây dựng công trình. 4.4. Căn cứ tính thuế nhà, đất: Pháp luật hiện hành quy định số thuế phải nộp dựa vào ba yếu tố: diện tích đất; hạng đất (giá đất tính thuế) và mức thuế (định suất thuế) Điều 5 Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp; Điều 6 Pháp lệnh thuế nhà đất; . Diện tích đất tính thuế: Đối với thuế sử dụng đất nông nghiệp: diện tích đất tính thuế là diện tích thực tế sử dụng được ghi trong sổ địa chính của Nhà nước hoặc diện tích được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc diện tích ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Trường hợp địa phương chưa làm sổ địa chính hoặc chưa có kết quả đo đạc được xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì diện tích đất tính thuế là diện tích ghi trong tờ khai của từng hộ nộp thuế. Điều 6 Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp; Điều 6 Nghị định số 74/CP ngày 25 tháng 10 năm 1993; Đối với thuế nhà, đất: diện tích đất để tính thuế đất ở, đất xây dựng công trình bao gồm: diện tích mặt đất xây nhà ở, công trình và các diện tích khác trong khuôn viên đất ở; đất xây dựng công trình bao gồm cả diện tích đường đi lại, diện tích sân, diện tích bao quanh nhà, quanh công trình kiến trúc, diện tích trồng cây, diện tích ao hồ và các diện tích để trống. Điều 5 Nghị định 94/CP ngày 25 tháng 8 năm 1994; Hạng đất: Đối với thuế sử dụng đất nông nghiệp: đất được phân hạng dựa vào các yếu tố như chất đất; vị trí; địa hình; điều kiện khí hậu, thời tiết; điều kiện tưới tiêu; đồng thời tham khảo năng suất bình quân đạt được trong điều kiện canh tác bình thường của năm năm Điều 7 Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp; . Đối với thuế nhà, đất: đất thuộc vùng đô thị, hạng đất được xác định căn cứ vào loại đô thị, loại đường phố, khu phố và vị trí đất. Đối với đất vùng ven đô thị, ven trục giao thông chính và đất thuộc vùng nông thôn, không xác định hạng đất để xác định mức thuế mà căn cứ vào mức thuế sử dụng đất nông nghiệp cao nhất trong vùng. Điều 7 Pháp lệnh thuế nhà, đất; Mức thuế (định suất thuế): Thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế nhà đất đều quy định định mức thuế phân biệt giữa các loại đất dùng vào sản xuất nông nghiệp hay đất ở, đất xây dựng công trình và đều được tính bằng đơn vị kg thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất. Điểm khác biệt giữa hai loại thuế này là thuế nhà, đất thời hạn thu nộp thuế không phụ thuộc vào thời điểm thu hoạch của vụ sản xuất chính như thời hạn thu thuế sử dụng đất nông nghiệp. Nguyên tắc xác định mức thuế nhà đất là: khu vực nào đất đai có khả năng sinh lợi càng lớn thì mức thuế (so với mức thuế sử dụng đất nông nghiệp) càng cao. 4.5. Chế độ miễn giảm thuế nhà đất: Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp và các văn bản hướng dẫn đã quy định các trường hợp được giảm thuế và miễn thuế. Pháp lệnh thuế nhà, đất và và các văn bản hướng dẫn quy định ngoài những trường hợp được được xét miễn giảm thuế đất thì có những trường hợp chỉ được tạm miễn thuế đất đó là: đất xây dựng trụ sở cơ quan hành chính sự nghiệp nhà nước, tổ chức xã hội, công trình văn hóa, đất chuyên dùng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất ở thuộc vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng định canh, định cư, vùng kinh tế mới; đất ở cùa gia đình thương binh liệt sĩ thỏa mãn điều kiện luật định, đất xây dựng cho các đối tượng chính sách xã hội, đất ở của một số đối tượng đặc biệt khác. II. Những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về thuế về đất đai: Bất cập về đối tượng chịu thuế: Hiện nay pháp luật sử dụng đất nông nghiệp hiện hành quy định chỉ có đất trồng trọt, đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, đất rừng trồng phải chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp; còn đất ở và đất xây dựng công trình chịu sự điều chỉnh của Pháp Lệnh thuế nhà đất. Tuy nhiên ta có thể khẳng định rằng Pháp lệnh thuế nhà, đất hiện hành chưa bao quát được hết các đối tượng chịu thuế sử dụng đất. Vẫn còn nhiều loại đất khác chưa có văn bản pháp luật nào quy định phải nộp thuế sử dụng đất. Vì vậy, Nhà nước cần sớm ban hành các văn bản cụ thể về việc tính thuế đối với các loại đất khác mà người sử dụng đất khai thác, sử dụng những thuộc tính có ích của đất nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ cho ngân sách Nhà nước, đồng thời đảm bảo tính hợp lý, bình đẳng giữa các chủ thể sử dụng đất trong việc thực nghĩa vụ đối với Nhà nước.    2. Bất cập về căn cứ tính thuế: Thứ nhất: việc xác định diện tích đất tính thuế còn nhiều bất cập: - Đối với thuế sử dụng đất nông nghiệp: một thực tế là, yêu cầu các tài liệu chứng minh diện tích đất sử dụng thường khó đáp ứng được đầy đủ nên cơ quan thuế chủ yếu dựa vào phần tự kê khai của đối tượng nộp thuế. Do đó khó tránh khỏi kê khai gian lận và mất công cho chi phí xác minh, kiểm tra. trông nghiệp năm 2010 như trên, cụ thể như sau:ất tính thuế do đó n các cấp.t đai sẽ góp phần quan- Đối với thuế nhà, đất: để đảm bảo xác định diện tích tính thuế một cách chính xác thì cần phải có đủ 3 loại tài liệu sau: giấy giao quyền sử dụng đất, bản đồ địa chính của lô đất, số liệu đo đạc thực tế với diện tích đất đang sử dụng. Tuy nhiên việc có được đầy đủ 3 loại giấy tờ trên là không hề đơn giản, bởi vậy cũng giống như đối với việc nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, các trường hợp tính thuế phần lớn cũng căn cứ vào tờ khai của đối tượng nộp thuế. Theo kết quả thống kê của Tổng cục địa chính, diện tích đất thu thuế năm 2001 là 302.000 ha trên tổng diện tích đất chịu thuế là 469.669ha, chiếm 64,1% tổng diện tích đất ở. Điều đó đã cho thấy sự thất thoát lớn cho nguồn thu của ngân sách nhà nước mà một trong những nguyên nhân là do nhiều khu vực chưa có quy hoạch, thậm chí có khu dân cư nằm trong các cơ quan, đơn vị, có những khu vực hộ khẩu biến động liên tục do vậy tình trạng bỏ sót, tính trùng hộ, thừa hộ xảy ra phổ biến. ThS. Phạm Nguyệt Thảo. “Thuế nhà đất – một số bất cập và hướng hoàn thiện”. Tạp chí Luật học số 5/2009; Thứ hai: hạng đất tính thuế phức tạp và không còn tính khả thi: - Đối với thuế sử dụng đất nông nghiệp: cách phân chia hạng đất dựa vào các yếu tố như chất đất; vị trí; địa hình; điều kiện khí hậu, thời tiết; điều kiện tưới tiêu… như đã nêu trên là quá phức tạp và không mang tính khả thi do ở nước ta, điều kiện kỹ thuật, nhân lực còn thiếu và yếu trong khi việc xác định hạng đất theo các căn cứ này lại đòi hỏi phải có sự tham gia của kiến thức khoa học kỹ thuật, của nhiều cơ quan chức năng có liên quan, tốn kém chi phí. Điều đó đã dẫn đến tình trạng trong thực tiễn ở nhiều địa phương việc phân hạng đất chủ yếu được tiến hành trên cơ sở sản lượng thực tế của những năm trước đó. Ngoài ra một số yếu tố hiện nay đã không còn phù hợp khi có chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hiệu quả sử dụng đất thay đổi rất lớn. Ví dụ: đất trồng nông nghiệp xếp hạng 6 nay chuyển sang nuôi tôm, giá trị kinh tế cao hơn nhiều thì số thuế phải nộp quá thấp đối với hạng 6 đã chuyển sang nuôi tôm. Thêm nữa hiện nay quá trình đô thị hóa mạnh đang diễn ra một cách mạnh mẽ, nhiều vùng đất nông thôn ngoại thành trước đây đã trở thành thị trấn của vùng ven đô thị mới hoặc thị trấn liền kề vùng đô thị hóa nhưng đến nay vẫn chưa điều chỉnh kịp thời, thiếu hướng dẫn chi tiết cách phân loại hạng đất gây lúng túng trong việc tổ chức thực hiện. - Đối với thuế nhà, đất: yếu tố hạng đất theo quy định hiện hành được xác định căn cứ vào loại đô thị (từ I đến VI), loại đường phố (dựa vào vị trí đất ở khu vực trung tâm, cận trung tâm hay ven đô), các điều kiện có lợi trong sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt. Với tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ như hiện nay, quy định này từ năm 1994 đã không còn phù hợp, gây khó khăn cho những địa phương mới được xếp hạng lên đô thị loại cao hơn. Thêm nữa việc xác định mức thuế đất dựa vào mức thuế sử dụng đất nông nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn do bản thân mức thuế sử dụng đất nông nghiệp phụ thuộc vào phân hạng đất mà như trên đã phân tích. Điều đó đã dẫn đến tình trạng là trong một khu đất thuộc hai địa phương khác nhau thì mức thuế áp dụng khác nhau do xác định hạng đất nông nghiệp ở hai địa phương không đồng nhất. Việc dựa vào mức thuế sử dụng đất nông nghiệp làm cho giá trị thực của đất ở, đất xây dựng công trình không được phản ánh một cách chính xác. Điều 7 Pháp lệnh sửa đổi bổ sung Pháp lệnh thuế nhà, đất ngày 19/5/1994 quy định: “Đối với đất ở, đất xây dựng công trình thuộc thành phố, thị xã, thị trấn, mức thuế đất bằng 3 lần đến 32 lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp của hạng đất cao nhất trong vùng… Đối với đất ở, đất xây dựng công trình thuộc vùng ven đô thị, ven trục giao thông chính, mức thuế đất bằng 1,5 đến 2,5 lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp của hạng đất cao nhất trong vùng…”. Thực tế đã cho thấy giá đất ở, đất xây dựng công trình cao hơn rất nhiều so với đất nông nghiệp và những lợi nhuận mà nó mang lại có khi gấp hàng trăm lần đất nông nghiệp chứ không chỉ dừng lại ở mức 32 lần. Thứ ba: Bất cấp trong mức thuế (định suất thuế): Thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế nhà, đất là loại thuế được tính bằng đơn vị đơn vị kg thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất nhưng thu thuế tính bằng tiền theo giá thóc tại thời điểm thu thuế. Ta có thể khẳng định việc xác định thuế nhà, đất theo mức thuế tính bằng thóc nhưng thu bằng tiền đã tạo tính luỹ thoái của thuế, đi ngược với chính sách thuế trực thu. Quy định này đã làm thất thu ngân sách nhà nước đồng thời tạo ra tính lũy thoái ngoài mong muốn của thuế nhà, đất với tính chất là một loại thuế trực thu, bởi trong khi giá đất ở, đất xây dựng công trình có xu thế tăng nhanh chóng thì giá thóc tăng không đáng kể, thậm chí giữ nguyên hoặc giảm đi. Việc tính thuế đất bằng thóc theo giá thuế sử dụng đất nông nghiệp vụ cuối năm trước liền kề năm tính thuế đã khiến mức thuế đất tỷ lệ nghịch với giá trị thực tế của đất ở, đất xây dựng công trình. Thêm nữa, mức thuế được tính bằng kg thóc trên 1ha của từng hạng đất căn cứ vào mục đích sử dụng và khả năng thu hoa lợi trên đất đã không còn phù hợp trong điều kiện chính sách tài chính liên quan đến đất đai thực hiện thống nhất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003- sử dụng giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành trong khung giá của Chính phủ làm căn cứ để tính thuế. Thứ tư: bất cập trong quy định về miễn giảm thuế và đặt ra đòi hỏi phải thu thuế đối với nhà ở: Căn cứ áp dụng miễn giảm thuế vẫn còn có những điểm chưa thỏa đáng. Chẳng hạn như có những hộ gia đình, cá nhân với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức lớn nhưng đều được giảm 50% thuế là thiếu hợp lý, thiếu công bằng. Trong khi đó, điển hình như người làm muối với rất nhiều khó khăn nhưng mới chỉ được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với diện tích trong hạn mức, giảm 50% đối với diện tích vượt hạn mức. Theo quy định của Pháp lệnh về thuế nhà, đất hiện hành thì tạm thời chưa thu thuế nhà và chưa quy định về thuế nhà. Tuy nhiên cùng với sự vận động phát triển của nền kinh tế thì sự phân hoá giàu nghèo diễn ra ngày càng rõ nét hơn, có rất nhiều biệt thự, ngôi nhà giá trị được xây dựng. Do đó việc sớm thu thuế đối với nhà sẽ đem lại nguồn thu cho ngân sách mà và đảm bảo thực hiện mục tiêu công bằng xã hội. III. Một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thuế về đất đai hiện hành: Vai trò tích cực của thuế về đất đai đã được thể hiện như tạo nguồn thu cho ngân sách địa phương, giúp điều chỉnh tình trạng đầu cơ đất diễn ra mạnh mẽ ở nước ta. Tuy nhiên, sau gần 20 năm ra đời (Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993; Pháp lệnh Thuế nhà đất năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 1994) các văn bản pháp luật thuế về đất đai đã bộc lộ những thiếu sót, bất cập mà nguyên nhân lớn nhất là do không bắt kịp với quá trình phát triển không ngừng của nền kinh tế nước ta. Đứng trong hoàn cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhu cầu về nhà ở, đất ở ngày càng càng cao, cùng lúc với nhiều nguồn thu ngân sách bị giảm sút do Việt Nam phải đáp ứng những cam kết hội nhập, thì việc cần sớm sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật thuế về đất đai là vô cùng cần thiết. Những điểm mới của Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010: Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010 và sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2012 thay thế cho Pháp lệnh Thuế nhà , đất năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 1994. Sự ra đời của Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp có những điểm mới – khắc phục những hạn chế, bất cập của Pháp lệnh Thuế nhà, đất năm 1992 như sau: Đối tượng chịu thuế đã được quy định rõ: Nếu ở Pháp lệnh Thuế nhà, đất năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 1994) mới chỉ quy định đối tượng chịu thuế là: đất ở, đất xây dựng công trình, thì nay tại Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đã quy định rõ ràng hơn về đối tượng chịu thuế và không chịu thuế. Đối tượng chịu Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp là: đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp (đất xây dựng khu công nghiệp; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất khai thác chế biến khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm) và những loại đất phi nông nghiệp không chịu thuế nhưng lại được sử dụng vào mục đích kinh doanh. Luật mới cũng quy định 7 loại đất không chịu thuế, đó là: đất của cơ sở tôn giáo; đất nghĩa trang; đất sông rạch, mặt nước chuyên dùng; đất đình, đền, miếu am, từ đường, nhà thờ họ; đất trụ sở cơ quan, đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh. Đưa ra căn cứ tính thuế mới: Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 2010 quy định có hai căn cứ để tính thuế là: giá tính thuế và thuế suất. Giá tính thuế đối với đất được xác định bằng diện tích đất thực tế sử dụng nhân với giá của 1m2 đất. Giá của 1m2 đất là giá đất theo mục đích sử dụng do UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương quy định và được ổn định theo chu kỳ năm năm kể từ ngày luật này có hiệu lực. Quy định mới này phù hợp với cách tính của các quốc gia khác (các quốc gia thường quy định căn cứ tính thuế là diện tích đất, giá đất tính thuế và thuế suất). Giá đất tính thuế thường căn cứ vào giá thị trường và thấp hơn giá thị trường hoặc giá do chính quyền địa phương ấn định dựa vào mức giá khung của nhà nước. Mức thuế suất được quy định như sau: diện tích trong hạn mức có thuế suất 0,03%; vượt không quá ba lần hạn mức 0,07%; vượt trên ba lần hạn mức 0,15%. Đất sử dụng không đúng mục đích, chưa sử dụng chịu thuế suất 0,15%. Hạn mức giao đất ở mới sẽ được UBND tỉnh ban hành sau này và áp dụng kể từ ngày luật có hiệu lực. Việc áp dụng hạn mức giao đất cũ, mới sẽ được tính theo hướng có lợi cho người đóng thuế, Chính phủ đã giao cho chính quyền địa phương quyền tự định giá tính thuế trong khi ở Pháp lệnh Thuế nhà, đất thì mức đóng thuế lại do Hội đồng Bộ trưởng quy định. Quy định như vậy sẽ có tác dụng ngăn chặn tình trạng đầu cơ đất đai. Điểm mới đáng lưu ý nhất ở Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 2010 là quy định thu thuế 0,2% đối với đất lấn chiếm. Việc thu thuế đối với đất lấn chiếm không đồng nghĩa với việc công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích lấn chiếm. Tuy nhiên, sinh viên cho rằng việc quy định như vậy rất dễ gây ra những hệ lụy không hay về sau như việc cho rằng đất lấn chiếm bất hợp pháp thành là đất sử dụng hợp pháp. Việc đánh thuế sử dụng đất chỉ hợp lý và hiệu quả khi việc sử dụng đất của chủ thể là hành vi hợp pháp bởi mục tiêu chủ yếu của thuế sử dụng đất phải là tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với đất đai, đảm bảo công bằng xã hội. Do vậy, theo sinh viên thay vì thu thuế đối với đất lấn chiếm, nên chăng có những biện pháp xử lý bằng các chế tài khác như tịch thu hoa lợi có trên đất, thu hồi đất và xử lý hành chính với các chủ thể đó. Tham khảo ThS. Phạm Nguyệt Thảo. “Thuế nhà đất – một số bất cập và hướng hoàn thiện”. Tạp chí Luật học số 5/2009; Một điểm mới nữa là: trường hợp đất của dự án đầu tư phân kỳ theo đăng ký của nhà đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì không coi là đất chưa sử dụng và được áp dụng mức thuế suất 0,03%. Cùng chịu mức thuế suất này còn có đất ở nhà nhiều tầng, nhà chung cư, công trình ngầm; đất sản xuất, đất kinh doanh phi nông nghiệp và đất phi nông nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh. Quy định miễn giảm thuế thay cho tạm miễn thuế với số đối tượng được bổ sung: Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010 đã mở rộng đối tượng được miễn hẳn thuế đất từ 4 đối tượng trong Pháp lệnh thuế nhà, đất năm 1992 lên 9 đối tượng và giảm 50% thuế cho 4 đối tượng Điều 9, Điều 10 Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010; trong đó đáng chú ý nhất là các đối tượng doanh nghiệp sử dụng trên 50% lao động là thương, bệnh binh; đất có nhà vườn được công nhận di tích lịch sử, văn hóa và người nộp thuế gặp khó khăn do sự kiện bất khả kháng cũng được miễn, giảm thuế đất. Điều nay tiếp tục thể hiện rõ tinh thần nhân đạo, công bằng trong việc xây dựng hoàn thiện pháp luật của nước ta. Tóm lại việc ban hành Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010 là một bước phát triển quan trọng đối với việc quản lý thuế ở nước ta. Để việc quản lý, thu thuế được thực hiện một cách tốt nhất, trong thời gian tới đây khi Luật Thuế mới có hiệu lực thi hành cần sớm ban hành Nghị định hướng dẫn chi tiết Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, đồng thời trong thời gian tương lai xa hơn khi nền kinh tế tiếp tục vận động không ngừng chúng ta cũng vẫn cần cập nhật, sửa đổi, bổ sung những quy định cho Luật thuế sử dụng đất phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội. 2. Cần sớm sửa đổi, bổ sung Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993: - Đối tượng chịu thuế sử dụng đất cần xác định: là tất cả các loại đất được sử dụng vào các mục đích khác nhau (mục đích sử dụng hợp pháp).Ngoài ra cũng cần sớm quy định đối tượng không thuộc diện chịu thuế trong một số trường hợp nhất định như: đất giao cho cơ quan nhà nước xây dựng trụ sở, đất phục vụ giao thông công cộng... - Thuế sử dụng đất nông nghiệp cần có sự sửa đổi căn bản các căn cứ tính thuế là diện tích, giá đất, và thuế suất, đảm bảo công bằng trong nghĩa vụ thuế giữa các loại đất và giữa các tầng lớp dân cư nông thôn, thành thị. Các căn cứ sửa đổi này nên được tham khảo theo Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010 như trên, cụ thể như sau: + Diện tích đất tính thuế: là diện tích đất hợp pháp đang sử dụng được xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; +Giá đất tính thuế: do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định phải dựa trên giá trị sử dụng, khả năng sinh lợi nằm trong mối tương quan với giá thị trường tại thời điểm tính thuế. Giá đất tính thuế phải có sự phân biệt dựa trên đặc thù của từng loại đất như đất đô thị; đất khu dân cư nông thôn hay đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản đặt trong mối quan hệ về mặt cung cầu, các yếu tố tự nhiên, yếu tố kinh tế - xã hội cũng như nhu cầu quản lý của Nhà nước để quy định cho phù hợp. Hiện tại, Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất và Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP đang được áp dụng để xác định giá đất, khung giá các loại đất và phương pháp định giá các loại đất cụ thể tại địa phương song do những đặc thù riêng, việc ban hành bảng giá các loại đất cụ thể của một số tỉnh, thành phố chưa thực sự sát với giá thị trường bởi vậy, khi Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp được sửa đổi cũng đòi hỏi pháp luật đất đai phải có những điều chỉnh thích hợp. Tham khảo ThS. Phạm Nguyệt Thảo. “Thuế nhà đất – một số bất cập và hướng hoàn thiện”. Tạp chí Luật học số 5/2009; + Thuế suất, việc áp dụng thuế suất tỷ lệ có phân biệt giữa đất nông nghiệp và đất sử dụng vào mục đích khác, xuất phát từ mục đích thu thuế đối với từng loại đất để giảm động viên với đất nông nghiệp, tăng động viên với đất ở, đất xây dựng công trình. Quy định áp dụng thuế suất tỷ lệ sẽ khắc phục được tính cứng nhắc, bất hợp lý trong việc lấy định suất thuế và mức thuế tính theo mức thuế sử dụng đất nông nghiệp làm căn cứ tính thuế như hiện nay. Hiện tại đã có các ý kiến cho rằng cần bổ sung thêm đối tượng được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp như toàn bộ diện tích đất nông nghiệp phục vụ cho nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm; diện tích đất trồng cây hàng năm có ít nhất một vụ lúa trong năm; diện tích đất làm muối; miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp của hộ nghèo. Ngoài ra, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với diện tích đất nông nghiệp trong hạn mức giao đất nông nghiệp do Nhà nước công bố cho hộ gia đình, cá nhân nông dân được Nhà nước giao đất để sản xuất nông nghiệp; hộ gia đình, cá nhân là xã viên Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp; hộ gia đình, cá nhân là nông trường viên, lâm trường viên. Ngoài ra cũng đã có đề xuất giảm 50% số thuế sử dụng đất nông nghiệp ghi thu hàng năm đối với diện tích đất nông nghiệp của các đối tượng không thuộc diện được miễn thuế nêu trên. Thời hạn miễn, giảm thuế là 10 năm. 3. Cần ban hành Luật thuế nhà ở: Xã hội càng phát triển, nhu cầu về nhà ở ngày càng cao. Nhà ở là một loại tài sản đặc biệt, gắn liền với đất đai và nguồn cung không phải là vô hạn. Bởi vậy, nhà nước phải có sắc thuế đánh vào loại tài sản này và quy định hạn mức sở hữu nhà để tính thuế. Hiện nay Pháp lệnh thuế nhà, đất 1992 với tên gọi như vậy nhưng mới chỉ quy định thu thuế đối với đất ở, đất xây dựng công trình. Và ngay tại Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010 sắp có hiệu lực thi hành cũng chưa thu thuế đối với nhà. Do đó việc ban hành sắc thuế riêng về nhà ở để tăng cường được tiềm lực tài chính của đất nước, hạn chế đầu cơ nhà (đặc biệt là nhà chung cư) và giảm khả năng phân phối, điều hòa lợi ích chính đáng của người dân trong phạm vi toàn xã hội là vô cùng quan trọng. Việc ban hành luật thuế nhà ở là cần thiết để đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước đối với quỹ nhà, khuyến khích việc sử dụng nhà ở tiết kiệm, hiệu quả, góp phần thực hiện công bằng xã hội, đồng thời đem lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Trong Luật nhà ở nhà nước cần quy định hạn mức sở hữu nhà để tính thuế. Nếu trong mức trung bình của xã hội thì mức thuế mang ý nghĩa tượng trưng, chủ yếu thể hiện sự quản lý của nhà nước. Nhưng nếu trên mức trung bình trở lên thì người sở hữu càng nhiều nhà ở thì mức động viên về thuế nhà càng cao. Hiện nay, các quan hệ pháp luật liên quan đến sở hữu nhà ở được điều chỉnh bởi Luật nhà ở ngày 29/12/2005, tạo cơ sở pháp lý cho việc sở hữu nhà ở, phát triển, quản lý việc sử dụng, giao dịch về nhà ở và quản lý nhà nước về nhà ở. Cũng như đối với thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, 3 vấn đề trọng tâm cần quan tâm là: căn cứ tính thuế nhà dựa trên diện tích, giá tính thuế và thuế suất. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có kỹ thuật xác định diện tích tính thuế đảm bảo phù hợp với giá trị, công năng sử dụng của nhà, các công trình gắn trên đất. Việc xác định giá tính thuế cần hợp lý, sát với giá thị trường và phù hợp với đặc thù của từng loại nhà cụ thể. Thuế suất cần được thiết kế theo tỷ lệ phần trăm (%) và ở mức thuế suất thấp bởi sắc thuế này có đối tượng nộp thuế khá đông đảo. Đồng thời cũng cần quy định những trường hợp sở hữu, sử dụng nhà được miễn, giảm thuế trong một số trường hợp nhất định. Ví dụ: nhà của các đối tượng thuộc diện chính sách. Quan trọng hơn cả là do phạm vi chủ thể nộp thuế nhà ở sẽ tương đối rộng nên quy định của pháp luật về thuế nhà cần dễ hiểu, dễ thực hiện; cần triển khai từng bước để tránh ảnh hưởng lớn đối với xã hội. Kết luận: Như chúng ta đã biết, cùng với các sắc thuế khác đánh vào tài sản thì thuế về đất đai là nguồn thu chủ yếu của ngân sách địa phương, nhất là đối với Việt Nam – một quốc gia vẫn chưa quản lý thu nhập cá nhân một cách hiệu quả. Tuy nhiên một số hạn chế trong các quy định của pháp luật thuế về đất đai hiện nay lại đang cản trở hiệu quả trong công tác quản lý, làm thiệt hại một phần không nhỏ nguồn thu từ loại thuế này. Vì vậy, bên cạnh việc người dân nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ đóng thuế của mình thì nhà nước ta cần sớm sửa đổi, bổ sung những thiếu sót, bất cập còn tồn tại trong pháp luật thuế về đất đai. Tµi liÖu tham kh¶o Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb. Công An Nhân Dân, Hà Nội, 2008; Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993 và các văn bản pháp luật liên quan; Pháp lệnh Thuế nhà, đất 1992; Pháp lệnh sửa đổi bổ sung Pháp lệnh thuế nhà đất năm 1992 (năm 1994) và các văn bản pháp luật liên quan; Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010; Phạm Nguyệt Thảo. Thuế nhà đất – Một số bất cập và hướng hoàn thiện, Tạp chí Luật học số 4, 2009; Môc lôc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuy định hiện hành và những hạn chế còn tồn tại của pháp luật hiện hành về thuế về đất đai.doc
Luận văn liên quan