Quy phạm pháp luật xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

Luận văn năm 2010 Chương I. Khái quát về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và quy phạm xung đột 1.1. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài 1.1.1. Khái niệm Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Trước hết, đó là các quan hệ dân sự. Quan hệ dân sự được hiểu theo nghĩa hẹp là những quan hề về tài sản và nhân thân. Tuy nhiên, ở đây, khái niệm “quan hệ dân sự” được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm quan hệ phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Điều này được quy định rất rõ và sử dụng thống nhất trong hai văn bản phát lý quan trong của Tư pháp quốc tế Việt Nam là BLDS 2005 và BLTTDS 2004. Như vậy, quan hệ dân sự là những quan hệ phát sinh giữa các cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác gọi chung là các chủ thể tư. Tuy nhiên, cùng cần lưu ý một điều rằng không phải mọi quan hệ phát sịnh giữa các chủ thể tư đều là quan hệ dân sự , khác quan hệ hình sự giữa hai chủ thể tư. Và ngược lại quan hệ dân sự không phải chỉ có thể phát sinh giữa các chủ thể tư như sứ quán nước lào thuê một số căn hộ của công dân việt nam cho nhân viên của mình cũng là một quan hệ có tính chất dân sự. Việc khẳng định tư pháp quốc tê nghiên cứu các quan hệ pháp luật dân sự cho thấy sự khác biệt rõ nét giữa tư pháp quốc tê và công pháp quốc tế. Nó có đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh riêng và là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, Tư pháp quốc tế còn được phân biệt với luật dân sự là một ngành luật có vị trí trung tâm trong hệ thống pháp luật quốc gia, cũng có đối tượng điều chỉnh là nhóm quan hệ dân sự theo nghĩa rộng phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Điểm khác biệt cơ bản phân biệt giữa tu pháp quốc tế và luật dân sự chính là yếu tố nước ngoài.

doc27 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11520 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quy phạm pháp luật xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yếu tố nước ngoài”. Vấn đề giải quyết quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh. Hiện nay ở Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới có hai phương pháp để giải quyết vấn đề xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế là phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. Trong đó, phương pháp xung đột được xem là phương pháp đặc thù của tư pháp quốc tế với việc sử dụng các QPXĐ để giải quyết vấn đề chọn luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh. QPXĐ sẽ không trực triếp giải quyết quan hệ pháp luật, cụ thể là sẽ không quy định những quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể trong những tình huống cụ thể xác định mà chỉ dẫn chiếu đến luật thực chất của các quốc gia và ở đó có quy định thực tế giải quyết quyền và phân định nghĩa vụ của các bên trong quan hệ. QPXĐ là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần phải áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế. QPXĐ không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên cũng như hình thức và biện pháp chế tài có thể được áp dụng đối với bên đương sự vi phạm pháp luật. Các quy phạm này chỉ quy định việc chọn pháp luật nước này hay nước khác để điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước ngoài. Việc “chọn luật” không thể là tự do tùy tiện mà phải dựa trên những nguyên tắc nhất định. Điều này có nghĩa là việc lựa chọn hệ thống pháp luật nào để áp dụng sẽ không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của tòa án có thẩm quyền, hoặc sẽ không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia quan hệ. Khác với các quan hệ dân sự thông thường, trong quá trình điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, xuất hiện một vấn đề rất phức tạp, đó chính là “sự đụng độ” giữa hai hay nhiều hệ thống pháp luật liên đới. Có ý kiến nhận xét: “Việc quy định luật áp dụng để điều chỉnh các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài không chỉ căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng mối quan hệ mà còn căn cứ vào lợi ích của quốc gia ban hành ra các quy định đó”. Vì thế, trong QPXĐ, việc quy định nguyên tắc “chọn luật” để giải quyết quan hệ dân sự không chỉ tính đến quyền lợi, sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ đó mà còn phải tính đến việc đảm bảo sự bình đẳng và lợi ích của các hệ thống pháp luật liên quan. Như vậy, có thể nói QPXĐ luôn mang tính chất “dẫn chiếu”. Khi QPXĐ dẫn chiếu đến một hệ thống pháp luật cụ thể và các quy phạm thực chất trong hệ thống pháp luật đó được áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật dân sự phát sinh, đó chính là tính chất “song hành” giữa QPXĐ và quy phạm thực chất trong điều chỉnh pháp luật. Cùng với quy phạm thực chất trong hệ thống pháp luật QPXĐ dẫn chiếu tới, rõ ràng QPXĐ đã thể hiện khả năng quy định những quy tắc xử sự cho các bên khi tham gia vào các quan hệ dân sự quốc tế cụ thể. Phân loại QPXĐ Hiện nay tồn tại rất nhiều cách phân loại QPXĐ Căn cứ vào mặt kỹ thuật xây dựng quy phạm, QPXĐ chia thành: QPXĐ một chiều và QPXĐ hai chiều. Đây là một trong những cách phân loại QPXĐ phổ biến trong tư pháp quốc tế hiện nay Quy phạm xung đột một chiều (QPXĐ một bên) là loại quy phạm chỉ ra loại quan hệ dân sự này chỉ được áp dụng luật pháp của một nước cụ thể Ví dụ: khoản 2 điều 769 BLDS:… Ở đây, quy định chỉ rõ, khi một quan hệ pháp luật về hợp đồng phát sinh và quan hệ đó liên quan đến một bất động sản ở Việt Nam thì luật duy nhất được áp dụng là luật Việt Nam mà không có sự lựa chọn nào khác Quy phạm xung đột hai chiều (QPXĐ hai bên) là loại quy phạm chỉ ra nguyên tắc chung để lựa chọn một hệ thống pháp luật nào đó để điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước ngoài Ví dụ: khoản 2 điều 766:… Trong quy phạm này, nếu động sản được chuyển đến Việt Nam thì sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam nhưng nếu động sản được chuyển đến một quốc gia nào khác thì sẽ áp dụng pháp luật của quốc gia đó. Căn cứ vào tính chất, QPXĐ được chia thành hai loại là QPXĐ mệnh lệnh và QPXĐ tùy nghi QPXĐ mệnh lệnh là quy phạm mà trong đó, quy tắc để tiến hành chọn luật mang tính bắt buộc, không cho phép các bên tự thỏa thuận với nhau. Khoản 2 điều 769 về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài liên quan đến bất động sản ở Việt Nam, khoản 1 điều 767 về thừa kế có yếu tố nước nogài theo pháp luật… là những ví dụ điển hình cho QPXĐ mệnh lệnh. QPXĐ tùy nghi là quy phạm cho phép các bên thỏa thuận “chọn luật” để điều chỉnh hoặc cho phép các cơ quan có thẩm quyền được lựa chọn pháp luật để áp dụng. Căn cứ vào nguồn, QPXĐ được chia thành QPXĐ thống nhất và QPXĐ trong nước QPXĐ thống nhất là những quy phạm được các quốc gia thỏa thuận xây dựng trong các điều ước quốc tế (song phương và đa phương) hoặc qua việc thừa nhận các tập quán quốc tế QPXĐ trong nước (QPXĐ thông thường) là các quy phạm được các quốc gia xây dựng trong hệ thống pháp luật nước mình nhằm hướng dẫn các cơ quan có thẩm quyền của nước mình hoặc các bên tham gia trong quan hệ trong việc chọn luật áp dụng để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Các QPXĐ trong nước thường được quy định theo một trong hai cách thức là quy định trong từng văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau hoặc tập hợp trong một đạo luật thống nhất. Như vậy, có thể thấy rằng QPXĐ trong nước chỉ là một bộ phận của hệ thống QPXĐ trong tư pháp quốc tế chứ không phải là tất cả. Đối với tư pháp quốc tế Việt Nam cũng vậy, bên cạnh luật trong nước là một loại nguồn quan trọng của tư pháp quốc tế thì các điều ước quốc tế song phương và đa phương đều chứa đựng các QPXĐ điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh. Việt Nam đã tiến hành ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp trong rất nhiều lĩnh vực với nhiều quốc gia trên thế giới, tạo thành một khối lượng rất lớn các QPXĐ để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Trong phạm vi của đề tài, khóa luận chỉ đi sâu tìm hiều về các QPXĐ trong BLDS Việt Nam và đây chỉ là một bộ phận của hệ thống QPXĐ trong nước. Cấu trức của quy phạm xung đột Theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật thì quy phạm pháp luật thông thường nói chung được cấu thành bởi các bộ phận là: giả định, quy định và chế tài. Tuy nhiên, khác với các quy phạm pháp luật thông thường thì QPXĐ được cấu thành bởi hai bộ phận là phần Phạm vi và phần Hệ thuộc. Và nếu như trong một quy phạm pháp luật thông thường có thể có hoặc không có đầy đủ cả ba bộ phận kể trên thì trong bất kỳ một QPXĐ nào, hai bộ phạn Phạm vi và Hệ thuộc cũng không thể tách rời. Ví dụ: khoản 1 điều 773 quy định:… Trong QPXĐ này, phần Phạm vi quy định quy phạm này áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cụ thể là quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, phần Hệ thuộc quy định pháp luật được áp dụng để điều chỉnh quan hệ này là pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại. Phạm vi là phần quy định QPXĐ này được áp dụng cho loại quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nào, cụ thể là quan hệ hôn nhân hay quan hệ thừa kế, quan hệ hợp đồng hay quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng… Có thể thấy bộ phận này của QPXĐ có điểm tương đồng với phần giả định của những quy phạm pháp luật thông thường, đó là đều đưa ra hoàn cảnh, tình huống để áp dụng quy phạm. Tuy nhiên nếu như trong phần Giả định của quy phạm pháp luật thông thường đưa ra những tình huống, hoàn cảnh thực tế cụ thể có thể xảy ra trong đời song để xác định được phạm vi điều chỉnh của quy phạm đo thì QPXĐ chỉ dừng lại ở việc đưa ra loại quan hệ pháp luật sẽ được quy phạm điều chỉnh. Điều này có thể thấy được tính khái quát rất cao của QPXĐ trong tư pháp quốc tế. Hệ thuộc là phần chỉ ra pháp luật nước nào được áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật đã được nêu ra ở phần Phạm vi. Hiện nay, trong khoa học tư pháp quốc tê tồn tại một số kiểu hệ thuộc cơ bản sau: Luật nhân thân (lex personalis): bao gồm hai loại biến dạng là luật quốc tịch ( lex patriae) là luật của quốc gia mà đương sự là công dân và luật nơi cư trú (lex domicilii) được hiểu là luật của nước nơi mà đương sự có nơi cư trú ổn định. Hai kiểu hệ thuộc này đều thuộc quy chế dân sự của cá nhân (status personalis) của nguyên tắc luật nhân thân được sử dụng rộng rãi trong tư pháp quốc tế của nhiều nước trên thế giới mà chủ yếu là trong các quan hệ dân sự liên quan đến vấn đề nhân thân. Luật quốc tịch của pháp nhân (lex societatis) là luật của quốc gia mà pháp nhân mang quốc tịch. Quy chế pháp lý này của pháp nhân thường được xác định thông qua một trong ba dấu hiệu cơ bản: nơi trung tâm quản lý của pháp nhân; nơi đăng ký thành lập của pháp nhân; nơi pháp nhân tiến hành hoạt động, kinh doanh chính trên thực tế… Luật nơi có vật (lex rei sitae) được hiểu là vật (tài sản) đang ở đâu thì vật của nước đó sẽ được áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến vật (tài sản) đó. Hệ thuộc này thường được áp dụng để giải quyết các quan hệ về sở hữu có yếu tố nước ngoài. Luật do các bên ký kết hợp đồng lựa chọn (lex voluntatis) được áp dụng trong các quan hệ về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, chủ yếu là trong lĩnh vực thương mại và hàng hải quốc tế. Quy định của hệ thuộc này xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của hợp đồng là tự nguyện, tự do ý chí và hoàn toàn bình đẳng thỏa thuận giữa các bên. Luật nơi thực hiện hành vi (lex loci actus): bao gồm rất nhiều loại như Luật nơi ký kết hợp đồng (lex loci contratus), luật nơi thực hiện nghĩa vụ (lex loci soluntiontis), luật nơi thực hiện hành động (lex loci actus)… Luật nơi vi phạm pháp luật (lex loci delicti commissi): được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật được giải quyết theo pháp luật nơi có hành vi vi phạm pháp luật và gây ra thiệt hại. Đây là một hệ thuộc được hình thành từ rất sớm trong tư pháp quốc tế và được ghi nhận trong hầu hết luật của các nước trên thế giới. Ngoài ra còn có một số hệ thuộc khác như luật nước người bán (lex venditoris), luật tiền tệ (lex monetae), luật tòa án (lex fori)… Áp dụng pháp luật nước ngoài Trong thực tế, việc áp dụng các quy phạm xung đột có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Áp dụng pháp luật nước ngoài là “hoạt động thi hành pháp luật quốc gia thông qua việc áp dụng quy định của pháp luật nước ngoài nhằm điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”. Khi xảy ra hiện tường xung đột pháp luật, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ áp dụng pháp luật nước ngoài khi có QPXĐ dẫn chiếu tới. QPXĐ có thể là QPXĐ trong pháp luật Việt Nam, cũng có thể nằm trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Trong trường hợp QPXĐ trong điều ước quốc tế và trong pháp luật Việt Nam đều cùng điều chỉnh một quan hệ hoặc nhóm quan hệ nhất định mà có nội dung khác nhau thì ưu tiên áp dụng quy định của điều ước quốc tế (theo khoản 2 điều 759) Khi QPXĐ dẫn chiếu tới luật pháp nước ngoài thì có nghĩa là dẫn chiếu tới toàn bộ hệ thống pháp luật của nước đó, không loại trừ luật nội dung, luật hình thức hay luật xung đột, cũng không phải chỉ dẫn chiếu đến một số những quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ cụ thể… Như vậy, khi áp dụng pháp luật nước ngoài là áp dụng toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài nên nó phải được giải thích, xác định nội dung và áp dụng để giải quyết vụ việc đúng như quy định của quốc gia đã ban hành. Có thể nói, đây chính là điều kiện tiên quyết để bảo hộ một các thiết thực quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân và pháp nhân nước mình khi các quan hệ pháp luật pháp sinh ở nước ngoài. Pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại BLDS điều 759:… Qua phân tích lý luận và tìm hiểu thực tiễn đều có thể thấy được sự cần thiết của việc áp dụng pháp luật nước ngoài đối với mỗi quốc gia và bản thân mỗi chủ thể trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên việc áp dụng pháp luật nước ngoài luôn gắn liền với việc tôn trọng chủ quyền lãnh thổ quốc gia, đảm bảo sự bình đẳng của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Vì thế, đi kèm với quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, pháp luật Việt Nam cũng đưa ra quy định là việc áp dụng đo hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Đây chính là nội dung của vấn đề “bảo lưu trật tự công cộng” trong tư pháp quốc tế. Có thể hiểu quy tắc “bảo lưu trật tự công cộng” là việc pháp luật nước ngoài sẽ bị gạt bỏ, không được áp dụng nếu việc áp dụng đó dẫn đến hậu quả xấu, tai hại hoặc mâu thuẫn với những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội cũng như pháp luật của nước mình. Nội dung này cũng được quy định tương đối việc áp dụng tập quán quốc tế để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại khoản 4 điều 759. CHƯƠNG 2. Hệ thống quy phạm xung đột trong bộ luật dân sự năm 2005 2.1. Hệ thống các quy phạm xung đột của tư pháp quốc tế Việt Nam trước khi Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời 2.2. Sự ra đời và vai trò của phần thứ bảy trong Bộ luật dân sự 2005 2.3. Các quy phạm xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong Bộ luật dân sự 2005 2.3.1. Các quy phạm xung đột về năng lực chủ thể * Năng lực pháp luật của cá nhân là người nước ngoài Trong quan hệ dân sự, yếu tố chủ thể luôn là yếu tố hàng đầu cần được đề cập đến và được điều chỉnh trong pháp luật, vì chỉ có các chủ thể mới tạo ra quan hệ dân sự. Và trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài là một trong những chủ thể cơ bản. Khi xét đến chủ thể là người nước ngoài thì trước tiên cần xét đến yếu tố năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự vì chính yếu tố này là không thể thiếu và không thể tách rời nhau, tạo thành năng lực chủ thể - khả năng mà Nhà nước cho phép cá nhân, tổ chức nào đó tham gia vào quan hệ pháp luật khi đã thỏa mãn những điều kiện nhất định được pháp luật quy định. Điều 761 quy định… Quy định này đã bổ sung thêm khoản 1 so với quy định về năng lực pháp luật của người nước ngoài của Bộ luật dân sự 1995, khẳng định rằng năng lực pháp luật của cá nhân người nước ngoài sẽ được xác định theo pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch, hay nói cách khác là nước mà người đó là công dân. Quy định này của pháp luật Việt Nam phù hợp với thông lệ của tư pháp quốc tế khi sử dụng một hệ thuộc cơ bản của tư pháp quốc tế là hệ thuộc luật nhân thân, mà cụ thể là hệ thuộc luật quốc tịch. Trong khoa học pháp lý lâu nay, năng lực pháp luật của một cá nhân vẫn được hiểu là “khả năng của cá nhân được hưởng các quyền dân sự và gánh vác các nghĩa vụ dân sự”. Năng lực pháp luật xuất hiện trên cơ sở pháp luật của mỗi quốc gia, vì thế, công dân của mỗi nước khác nhau thì có năng lực pháp luật khác nhau và được hình thành trên những điều kiện khác nhau. Việc quy định năng lực pháp luật của mỗi cá nhân được xác định theo pháp luật của quốc gia mà người đó mang quốc tịch là hoàn toàn hợp lý và khoa học. Quy định như vậy còn cho thấy rõ quan điểm của Việt Nam về vấn đề này, đó là tôn trọng pháp luật của nước mà người nước ngoài đã lựa chọn mang quốc tịch. Ngoài ra, đối với người nước ngoài, pháp luật Việt nam còn quy định “người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt nam như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác”. Quy định này của khoản 2 điều 761 giữ nguyên quy định tại điều 830 BLDS 1995 trước đây. Bằng quy định này, BLDS quy định nguyên tắc đãi ngộ như công dân nước mình cho người nước ngoài tại Việt Nam đối với khả năng có quyền và nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, cũng như ở tất cả các quốc gia khác, không phải bất kỳ lĩnh vực nào, người nước ngoài cũng có đầy đủ quyền và nghĩa vụ dân sự như đối với công dân Việt Nam. Điều này có thể xuất phát từ lý do bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh quốc gia, cũng có thể xuất phát từ nguyên tắc “có đi có lại” trong tư pháp quốc tế. Một trong những biểu hiện rõ nét của sự hạn chế này đối với người nước ngoài là trong vấn đề cư trú, đi lại trên lãnh thổ Việt Nam. Theo quy định tại Pháp lệnh về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam thì người nước ngoài không được cư trú tại khu vực cấm người nước ngoài cư trú, không được đi lại tại những khu vực cấm người nước ngoài đi lại, trừ trường hợp có sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt nam quản lý khu vực cấm đó (Điều 11, 12 của Pháp lệnh). Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài Điều 762 quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài như sau:… Cũng như đối với năng lực pháp luật, năng lực hành vi của cá nhân người nước ngoài được pháp luật Việt nam xác định bằng việc áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch… Tuy nhiên, một điểm khác biệt có thể nhận thấy giữa quy định về năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân là người nước ngoài đó là chế độ đãi ngộ công dân không còn được áp dụng để xác định năng lực hành vi của cá nhân người nước ngoài. Sở dĩ có sự khác biệt này có thể hiểu là do xuất phát từ sự khác biệt giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Nếu như năng lực pháp luật là “khả năng mà nhà nước thừa nhận cho cá nhân bằng những hành vi của chính mình có thể xác lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý”. Năng lực hành vi của một người được hình thành và phát triển gắn liền với môi trường kinh tế - xã hội, văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền. Do vậy, năng lực hành vi của một cá nhân có quan hệ chặt chẽ với truyền thống văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội, hoàn cảnh lịch sử, phong tục tập quán của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Vì thế sẽ là dễ hiểu khi quy định các hệ thuộc như luật quốc tịch, luật nơi cư trú được dùng để xác định năng lực hành vi của nước ngoài. Tuy nhiên đối với việc xác định năng lực hành vi của cá nhân là người nước ngoài, pháp luật Việt Nam vẫn ghi nhận trường hợp ngoài lệ không áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch. Vậy trường hợp ngoại lệ đó là trường hợp nào? Có thể thấy ở ngay khoản 2 của điều luật chính là một ngoại lệ đầu tiên của quy định tại khoản 1. Trong trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trên lãnh thổ Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó sẽ được xác định theo pháp luật Việt Nam. Quy định này sẽ là thuận tiện cho các giao dịch dân sự mà người nước ngoài xác lập, thực hiện tại Việt Nam. Liên quan đến vấn đề năng lực hành vi dân sựu của người nước ngoài, BLDS2005 đồng thời đưa ra quy định về việc xác định người nước ngoài không có, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị mất tích hoặc chết. Điều 763 đưa ra quy tắc xác định… Điều 764:… Đây là những QPXĐ hoàn toàn mới của BLDS 2005 so với BLDS 1995. Những điều luật này cơ bản đã giải quyết được các vấn đề cụ thể đã, đang và sẽ phát sinh trong thực tiễn tư pháp. Trên thực tế, việc xác định người không có năng lực hành vi dân sự, bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng như việc xác định một người mất tích hoặc đã chết là những việc cần thiết và cũng thường gặp trong quan hệ dân sự nói chung và quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói riêng. Nguyên tắc phổ biến được nhiều nước áp dụng để xử lý vấn đề này là nguyên tắc Lex personalis, là pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch, vì vấn đề này trực tiếp liên quan đến nhân thân của người đó. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng đưa ra một quy định khá quan trọng là việc xác định các vấn đề nói trên đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Đây có thể xem là một bước tiến quan trọng trong lý luận và thực tiễn tư pháp quốc tế Việt Nam. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài Bên cạnh cá nhân, pháp nhân nước ngoài cũng là một chủ thể quan trọng trong tư pháp quốc tế. Liên quan đến pháp nhân trong tư pháp quốc tế, có hai vấn đề cần quan tâm là quốc tịch và quy chế nhân thân của pháp nhân. Quốc tịch của pháp nhân xác định quy chế nhân thân của pháp nhân đó, ngược lại, quy chế nhân thân của pháp nhân được hình thành thể hiện sự ràng buộc pháp lý giữa pháp nhân đó với một quốc gia nhất định, chính là quốc gia mà pháp nhân mang quốc tịch. Tức là hai vấn đề này liên quan mật thiết với nhau, đôi khi người ta đồng nhất hai khái niệm này nhưng thực chất đấy là hai khái niệm có sự độc lập tương đối. Quy chế nhân thân xác định địa vị pháp lý nói chung của pháp nhân, giải dáp các vấn đề như doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hay không; thể thức thành lập, giải thể, chấm dứt hoạt động như thế nào… Còn khái niệm quốc tịch thường được dùng để phân biệt giữa pháp nhân của nước sở tại với pháp nhân nước ngoài. Thực tiễn tư pháp quốc tế sử dụng nhiều dấu hiệu để xác định quốc tịch và quy chế nhân thân của pháp nhân, trong đó có ba dấu hiệu cơ bản là: nơi trung tâm quản lý của pháp nhân; nơi đăng ký thành lập của pháp nhân; nơi pháp nhân tiến hành các hoạt động, kinh doanh chính trên thực tế. Pháp luật Việt Nam không có quy định về xác định quốc tịch cho pháp nhân mà chỉ quy định việc xác định năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài tại điều 765:… Quy phạm trên quy định rằng khi xem xét vấn đề năng lực pháp luật của pháp nhân nước ngoài phải căn cứ vào pháp luật của nước nơi pháp nhân đó thành lập. Như vậy, có thể nói BLDS đã gián tiếp thừa nhận nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân tùy thuộc vào nơi thành lập của pháp nhân đó, tức là sử dụng hệ thuộc luật quốc tịch của pháp nhân (lex societatis), không phụ thuộc vào nơi đặt trụ sở chính hay nơi kinh doanh chính của pháp nhân đó. Với tinh thần đó, các xí nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và cả các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng được thành lập theo Luật đầu tư 2005 đều là những pháp nhân mang quốc tịch Việt Nam. Ngược lại, tất cả những pháp nhân không mang quốc tịch Việt Nam đều được coi là pháp nhân nước ngoài. Do các quy định của pháp luật các nước về nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân được hai hay nhiều nước đồng thời coi là pháp nhân mang quốc tịch nước mình trên thực tế. Các quốc gia đã tiến hành ký kết với nhau các điều ước quốc tế nhằm thống nhất nguyên tắc xác định quốc tịch pháp nhân cũng như thừa nhận tư cách pháp nhân của các tổ chức được thành lập và hoạt động theo pháp luật của các nước hữu quan… Khi hoạt động với tư cách pháp nhân nước ngoài ở một quốc gia nào đó, ngoài việc tuân theo quy chế nhân thân xác định địa vị pháp lý do pháp luật của nước mà nó mang quốc tịch thì pháp nhân đó còn phải tuân theo pháp luật của nước sở tại. Khoản 2 điều 765 quy định rõ đối với pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân đó được xác định theo pháp luật Việt Nam, cụ thể là quy định của BLDS VN, LTM, LDN… Quy định này của BLDS là hoàn toàn hợp lý, một mặt sẽ tạo điều kiện thuận tiện, dễ dàng cho các pháp nhân nước ngoài trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam; mặt khác nhằm đảm bảo tính hiệu lực về lãnh thổ của pháp luật Việt Nam, đảm bảo được an ninh, trật tự xã hội trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia… Ngoài ra, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì nhà nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn vào Việt nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật nước ngoài và thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, trong quá trình đầu tư vào Việt Nam, Nhà nước cũng bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác cho pháp nhân nước ngoài. 2.3.2. Quy phạm xung đột về quyền sở hữu tài sản Quá trình phát triển xã hội loài người đã và đang tồn tại nhiều chế độ sở hữu khác nhau. Dựa trên những chế độ sở hữu khác nhau, chế định về quyền sở hữu trong mỗi hệ thống pháp luật cũng sẽ khác nhau. Việc hình thành quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài do đó tất yếu sẽ làm phát sinh xung đột pháp luật về quyền sở hữu. Trong quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, tư pháp quốc tế của hầu hết các nước trên thế giới đều thống nhất sử dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản để giải quyết xung đột. Luật nơi có tài sản không những quy định nội dung của quyền sở hữu mà còn ấn định cả các điều kiện phát sinh, chấm dứt và dịch chuyển quyền sở hữu. BLDS Việt nam cũng dựa trên nguyên tắc chung phổ biến này để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu. Điều 766:… Như vậy, không phụ thuộc vào đối tượng của quyền sở hữu là động sản hay bất động sả, quyền sở hữu và các quyền tài sản sẽ do luật nơi có tài sản điều chỉnh. Tuy nhiên, có thể thấy ngay trong khoản 1 điều 766 có quy định trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này. Đó chính là khoản 2 về quyền sở hữu đối với động sản trên đường vận chuyển và khoản 4 về quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam. Trường hợp ngoại lệ thứ nhất: theo quy định của BLDS thì quyền sở hữu “đối với động sản đang trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, nếu không có thỏa thuận khác”. Như vậy, pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc luật của nước do các bên thỏa thuận được chuyển đến. Có ý kiến cho rằng lựa chọn hệ thuộc Luật nơi tài sản được chuyển đến là một quy định khá đặc thù của BLDS Việt nam. Sở dĩ nhận xét như vậy là vì có nhiều nước trên thế giới sử dụng hệ thuộc luật nơi có động sản được chuyển đi, hay còn gọi luật nước người bán. Hầu hết đó là các nước có nền kinh tế và việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài phát triển, khi quy định như thế, các nước này đã tính đến những lợi ích mà họ có thể có được trong quan hệ hợp đồng. Còn đối với Việt Nam, tính cho đến thời điểm này và sẽ là một thời gian dài nữa trong tương lai vẫn là một nước có tỷ lệ nhập khẩu cao hơn tỷ lệ xuất khẩu, vì thế nếu quy định lựa chọn luật nước người bản để áp dụng sẽ gây nhiều bất lợi cho cá nhân, cơ quan tổ chức trong nước… Trường hợp ngoại lệ thứ hai: trong việc xác định quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam thì nguyên tắc luật nơi có tài sản dường như cũng không được áp dụng mà phải tuân theo pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải của CHXHCN Việt Nam. Khoản 1 điều 4 Luật Hàng không dân dụng 2006 quy định:… Điều 5 của Bộ luật hàng hải Việt Nam quy định: … Như vậy, đối với các quan hệ sở hữu và các quan hệ tài sản trong lĩnh vực hàng không dân dụng và hàng hải quốc tế, hệ thuộc luật của nước nơi có tài sản không được áp dụng mà thay vào đó là hệ thuộc Luật quốc kỳ (lex banderae) hoặc luật nơi đăng ký (lex libri)… Vấn đề xung đột về định danh tài sản Như đã khẳng định ở trên, để giải quyết vấn đề xung đột pháp luật về quyền sở hữu đối với tài sản, trong đó có bất động sản, pháp luật của hầu hết các quốc gia đều ghi nhận nguyên tắc áp dụng của nước nơi có tài sản. Tuy nhiên, một vấn đề khác nảy sinh đó là nếu đối với cùng một tài sản mà quốc gia này thì cho là động sản, nhưng quốc gia khác lại quy định là bất động sản thì sẽ giải quyết như thế nào? Hai khái niệm động sản và bất động sản không phải là đã được hiểu một cách thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện nay trên thế giới. Từ đây phát sinh xung đột pháp luật trong vấn đề định danh tài sản. Việc xác định tài sản là động sản hay bất động sản là tiền đề cho việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài. Pháp luật của đa số các nước trong các đạo luật và các điều ước quốc tế thường ghi nhận là luật nơi có tài sản là hệ thuộc để giải quyết xung đột về định danh tài sản. BLDS Việt Nam cũng quy định “việc phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản” Tóm lại, trong BLDS 2005, hệ thuộc luật nơi có tài sản (lex rei sitae) là hệ thuộc chủ yếu được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu, điều này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên đây không phải là hệ thuộc duy nhất để giải quyết vấn đề này. 2.3.3. Các quy phạm xung đột về thừa kế Điều 767 quy định về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài và điều 768 quy định về thừa kế theo di chúc là các QPXĐ về thừa kế có yếu tố nước ngoài. Về thừa kế theo pháp luật BLDS quy định lựa chọn hệ thuộc luật quốc tịch của người để lại di sản để giải quyết xung đột pháp luật trong trường hợp thừa kế theo pháp luật, khoản 1 điều 767… Nếu trong trường hợp người để lại thừa kế có nhiều quốc tích thì sẽ áp dụng QPXĐ đối với người nước ngoài có hai hay nhiều quốc tích tại khoản 2 điều 760 BLDS:… Như vậy trong trường hợp này có thể hiểu là đối với người để lại thừa kế có nhiều quốc tích thì sẽ áp dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và cư trú trước khi chết; nếu người đó chết tại một quốc gia mà họ không mang quốc tịch thì sẽ áp dụng pháp luật của nước mà họ có quốc tịch và có sự gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân. Riêng đối với di sản là bất động sản, xuất phát từ bản chất tài sản của quan hệ thừa kế cũng như từ tính chất đặc biệt của loại tài sản này nên BLDS đã quy định “quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản”. Đối với các loại quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có liên quan đến bất động sản thì hầu hết áp dụng hệ thuộc Luật nơi có bất động sản, quan điểm này được thể hiện trong nhiều quy phạm pháp luật khác. Ví dụ: khoản 3 điều 104 LHNGĐ:…, khoản 2 điều 769… Về thừa kế theo di chúc Đối với trường hợp người để lại thừa kế có để lại di chúc phân chia tài sản thừa kế, vấn đề trọng tâm chính là hiệu lực của di chúc. Để đảm bảo cho di chúc phân chia di sản có hiệu lực, có hai vấn đề cần quan tâm chính là vấn đề người lập di chúc có đầy đủ năng lực lập di chúc hay không và hình thức của di chúc có hợp pháp hay không. Pháp luật Việt Nam lựa chọn hệ thuộc Luật quốc tịch để giải quyết xung đột pháp luật trong vấn đề xác định năng lực lập di chúc của người lập di chúc. Pháp luật được áp dụng trong trường hợp này chính là luật của nước mà người lập di chúc là công dân. Việc quy định như vậy xuất phát từ chỗ năng lức chủ thể của một cá nhân cũng được xác định trên cơ sở áp dụng pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch (bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi) vì việc lập di chúc là quyền của mọi cá nhân để được định đoạt tài sản của mình và việc lập di chúc là việc cá nhân bằng chính hành vi của mình xác lập và thực hiện quyền đó. Trong trường hợp người lập di chúc có hai hay nhiều quốc tịch thì việc lựa chọn pháp luật để áp dụng cũng được giải quyết như trong mọi trường hợp cá nhân là người nước ngoài có hay hay nhiều quốc tịch nước ngoài. Đối với hình thức của di chúc, pháp luật quy định hình thức của di chúc phải tuân theo pháp luật của nước nơi lập di chúc. Tức là nếu A lập di chúc phân chia di sản ở Hoa Kỳ thì hình thức của di chúc đó phải tuân theo pháp luật của Hoa Kỳ, bất kể A mang quốc tịch Hoa Kỳ hay của một quốc gia nào khác. Quy định này có lẽ vẫn có điểm chưa hợp lý khi mà vì một lý do nào đó, một người không thể kịp trở về quốc gia mà mình mang quốc tịch trước khi chết, như vậy bắt buộc họ chỉ có một lựa chọn duy nhất là phải lập di chúc tuân theo pháp luật của nước mà họ đang có mặt kể cả khi họ không có một sự hiểu biết nào về pháp luật nước này. Có lẽ sẽ là hoựp lý hơn khi quy định cho phép người lập di chúc được quyền lựa chọn hình thức di chúc theo pháp luật của nước nơi lập di chúc hoặc của nuwóc mà người đó là công dân. Ví dụ như đối với di chúc của công dân Việt Nam thì được lập ở Pháp mà hình thức của nó tuân theo pháp luật Việt Nam thì vẫn được thừa nhận. Ngoài việc sử dụng các QPXĐ để giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo luật và thừa kế theo di chúc, pháp luật Việt Nam còn dùng quy phạm thực chất để giải quyết vấn đề “di sản không có người thừa kế”. Đây là một vấn để phức tạp và luôn được chú ý trong tư pháp quốc tế. Việc giải quyết số phận của di sản không có người thừa kế ở Việt Nam được quy định tại khoản 3, 4 điều 767:… Tuy nhiên, có lẽ quy định như thế vẫn là chưa đủ để giải quyết vấn đề “di sản không có người thừa kế”. Vì thế, ngoài quy định nói trên của BLDS, Việt Nam còn tiến hành ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, hôn nhân- gia đinhhf và hình sự với các quốc gia khác như Đức, Nga, Cu ba… Đây là cách giải quyết vấn đề nhanh chóng nhất và thuận lợi nhất giữa các bên hữu quan bởi các hiệp định này chứa đựng các quy phạm thực chất thống nhất, sẽ giải quyết một cách trực tiếp vấn đề “di sản không có người thừa kế” mà không cần thông qua bất cứ một hệ thống pháp luật nào. 2.3.4. Quy phậm xung đột trong lĩnh vực hợp đồng và giao dịch dân sự Chứa đựng từ điều 769 đến 772 Về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài Hợp đồng dân sự trong tư pháp quốc tế là hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài. Dựa trên khái niệm về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại điều 758. Giải quyết xung đột về hình thức của hợp đồng Trong thực tiễn tư pháp quốc tế, nhiều quốc gia trên thế giới (các nước Đông Âu, Bắc Âu, châu Mỹ…) thường ưu tiên áp dụng luật của nước nơi ký kêt hợp đồng để giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của hợp đồng. Trong trường hợp nếu hợp đồng bị coi là bất hợp pháp về mặt hình thức theo luật nơi ký kết nhưng theo luật nhân thân của các bên chủ thể thoặc theo luật tòa án nơi xét xử tranh chấp coi hợp đồng là hợp pháp về mặt hình thức thì hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý. BLDS quy định “hình thức của hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kêt hợp đồng”. Bên cạnh đó, pháp luật Việt nam còn quy định “trong trường hợp hợp đồng được giao kết ở nước ngoài mà vi phạm quy định về hình thức hợp đồng theo pháp luật của nước đó, nhưng không trái với quy định về hình thức hợp đồng theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì hình thức hợp đồng được giao kết ở nước ngoài đó vẫn được công nhận tại Việt Nam. Ví dụ: anh A và anh B đều mang quốc tịch Việt Nam trong một chuyến đi công tác dài ngày cùng nhau ở Thái Lan đã bàn bạc và quyết định anh A bán lại cho anh B chiếc xe máy LX 150 mà anh A là người đứng tên sở hữu. Hợp đồng mua bán đã được lập thành hai bản và mỗi người giữ một bản. Khi trở về Việt Nam, trong quá trình trao đổi để thực hiện hợp đồng mua bán nói trên, hai anh A và B có xảy ra tranh chấp và đưa ra tòa án tỉnh X của Việt Nam yêu cầu giải quyết. Trong quá trình xem xét để giải quyết vụ việc, Tòa án xác định theo quy định của pháp luật Thái Lan về hợp đồng dân sự. Tuy nhiên do cả hai người không tìm hiểu kỳ về pháp luật Thái Lan nên hình thức hợp đồng theo quy định của pháp luật nước này là bất hợp pháp. Tuy nhiên, hình thức của hợp động hoàn toàn phù hợp với pháp luật Việt Nam vì thế hợp đồng vẫn được xem là có giá trị pháp lý và toà án tỉnh X đã áp dụng nững quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng dân sự để giải quyết tranh chấp giữa anh A và anh B. Trong tình huống này, việc áp dụng pháp luật Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong việc giải quyết tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý. Như vậy có thể thấy quy định công nhân giá trị pháp lý của hợp đồng theo một hệ thống pháp luật khác khi hợp đồng bị xem là bất hợp pháp về mặt hình thức theo pháp luật của nơi giao kết hợp đồng là hợp lý, mở ra một hướng giải quyết thuận lợi và dễ dàng cho tranh chấp của các bên khi họ không có điều kiện tìm hiểu về pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng. Quy định như vậy của pháp luật Việt một mặt cũng thể hiện sự tôn trọng việc thỏa thuận và quyền tự do định đoạt của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng. Giải quyết xung đột về nội dung của hợp đồng Về mặt bản chất, hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên chủ thể nhằm xác định các qài cunguyền và nghĩa vụ của họ trong một giao dịch dân sự. Hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài cũng không vượt khỏi bản chất chung đó của một hợp đồng dân sự. Trong một hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, ngoài những vấn đề mà các chủ thể có thể thỏa thuận như đối với một hợp đồng trong nước thì các chủ thể còn có thể thỏa thuận để lựa chọn pháp luật được áp dụng để điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ của mình phát sinh từ hợp đồng. Thông thường các bên sẽ thỏa thuận áp dụng các hệ thống pháp luật có liên quan đến hợp đồng (pháp luật của nước mà một trong các bên chủ thể mang quốc tịch; pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng…), nhưng các chủ thể hay tập quán quốc tê. Thực tế cho thấy có nhiều trường hợp các bên chủ thể lựa chọn luật áp dụng của nước không có mối liên hệ gì với hợp đồng một cách cố tình hay vô tình. Trường hợp vô tình như việc chọn luật áp udnjg là pháp luật của Áo trong hợp đồng giữa Liên đoàn bóng đá Việt Nam với huấn luyện viên Letard người Pháp trước đây là một ví dụ điển hình. Pháp luật Việt Nam không hề có bất kfy một hạn chế nào về hệ thống pháp luật được lựa chọn, do đó có thể hiểu rằng các bên chủ thể có quyền thỏa thuận về bất kỳ hệ thống pháp luật nào. Qua khảo cứu pháp luật của nhiều nước và các điều ước quốc tế cũng cho thấy nội dung tương tự. Xuất phát từ bản chất của hợp đồng như đã nói mà tuyệt đại đa số các nước áp dụng nguyên tắc luật do các bên thỏa thuận để xác định tính hợp pháp về nội dung của hợp đồng. Tuy nhiên, bên cạnh nguyên tắc thỏa thuận, để giải quyết xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng, người ta còn áp dụng Luật nơi ký kết hợp đồng. Tức là một hợp đồng có yếu tố nước ngoài được coi là hợp pháp khi chứa đựng các điều khoản phù hợp với pháp luật do các bên thỏa thuận và đồng thời không trái với quy định pháp luật của nước nơi tiến hành giao kết hợp đồng. Pháp luật Việt Nam quy định nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về nội dung của hợp đồng tại khoản 1 điều 769:… Như vậy, ở Việt Nam việc giải quyết xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng sẽ áp dụng nguyên tắc thỏa thuận dựa trên cơ sở tôn trọng tự do ý chí và thỏa thuận của các chủ thể. Bên cạnh đó, luật của nước nơi thực hiện hợp đồng sẽ được áp dụng để điều chỉnh nội dung của hợp đồng chứ không phải là luật pháp của nơi ký kết hợp đồng. Việc xác định nơi thực hiện hợp đồng trong trường hợp hợp đồng không ghi rõ nơi thực hiện sẽ phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Theo khoản 1 của điều 769 thì chỉ trong trường hợp “hợp đồng được giao kết tại Việt Nam và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam” thì hệ thuộc Luật nơi ký kết hợp đồng mới được áp dụng mà cụ thể ở đây là luật Việt Nam sẽ được áp dụng. Một trường hợp đặc biệt nữa của hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài cần áp dụng nguyên tắc riêng để điều chỉnh chính là hợp đồng liên quan đến tài sản là bất động sản. Như đã khẳng định, bất động sản là một loại tài sản đặc biệt, có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt đối với quốc gia, vì thế khi điều chỉnh những loại quan hệ dân sự có liên quan đến loại tài sản này cần phải có sự cân nhắc. Tương tự như trong các quan hệ về thừa kế, quan hệ sở hữu. nếu như có liên quan đến bất động sản ở Việt Nam, nhà nước ta đều quán triệt một quan điểm duy nhất là quan hệ đó phải tuân theo pháp luật của Việt Nam. Vì thế khoản 2 điều 769 ghi rõ:… Như vậy, đối với trường hợp hợp đồng được giao kết và thực hiện hoàn toàn tại Việt nam và hợp đồng liên quan đến bất động sản ở Việt nam thì toàn án Việt Nam khi thụ lý sẽ luôn áp dụng pháp luật Việt Nam và vô hiệu hóa thỏa thuận chọn luật áp dụng (nếu có) của các bên chủ thế. Vì thế, khi thỏa thuận chọn luật áp dụng, cần thiết phải tìm hiểu một cách thấu đáo tư pháp quốc tế của nước có tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về lao động. Giao kết hợp đồng dân sự vắng mặt Trong giao kết hợp đồng dân sự, trường hợp các bên không có điều kiện gặp mặt nhau để đàm phán về các điều khoản của hợp đồng thì việc các bên có thể thông qua các phương tiện công nghệ thông tin (thư từ, điện tín, điện báo…) để thỏa thuận với nhau là thuận lợi hơn rất nhiều. Vì thế pháp luật đã dự liệu về tình huôngs giao kết hợp đồng dân sự vắng mặt. Đối với giao kết hợp đồng và nơi giao kết hợp đồng trong trường hợp hợp đồng được giao kết vắng mặt, pháp luật Việt Nam quy định tại điều 771:… Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì pháp luật được áp dụng để xác định nơi giao kết hợp đồng dân sự vắng mặt là pháp luật của nước bên đề nghị giao kết hợp đồng (nơi cư trú đối với cá nhân và nơi có trụ sở chính đối với pháp nhân). Để xác định thời điểm giao kết hợp đồng, pháp luật được áp dụng là pháp luật của nước bên đề nghị giao kết hợp đồng nêu bên này nhận được trả lời chấp nhận của bên được đề nghị giao kết hợp đồng. Quy định này của Việt Nam dựa trên cơ sở “thuyết tiếp thu” theo hệ thống pháp luật của các nước châu âu như Đức, Pháp, Ý và pháp luật của các nước XHCN trước đây. Theo đó, thông thường thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định là thời điểm bên đề nghị giao kết nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng của bên được đề nghị. Đây là quy định hoàn toàn mới của BLDS 2005 nhằm xử lý một số tình huống đã phát sinh trong giao lưu dân sự, thương mại, đầu tư quốc tế khi các đối tác từ Việt Nam và các nước khác nhau giao kết hợp đồng thông qua các phương tiện điện tử mà trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài thì loại hợp đồng này lại không xác định được thời điểm và địa điểm cụ thể giao kết hợp đồng. Khi áp dụng những quy định của điều 771 cần lưu ý đến điều 403, 404 về địa điểm và thời điểm giao kết hợp đồng dân sự vì cơ bản điều 771 giải quyết theo hướng của hai điều luật này. Giao dịch dân sự đơn phương Điều 772 được đưa ra xuất phát từ thực tiễn cho tài sản có giá trị đáng kể trong quan hệ quốc tế. Ở Việt Nam tuy chưa xảy ra nhiều quan hệ này nhưng thực tiễn vẫn đòi hỏi có sự điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này vì thực tế đã gặp một số trường hợp, kể cả trường hợp hứa tặng nhà máy được thành lập theo quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sau khi kết thúc thời hạn hoạt động của dự án đầu tư. Việc xác định quyền và nghĩa vụ của bên tự nguyện thực hiện quan hệ giao dịch dân sự đơn phương dưa trên pháp luật của nước nơi cư trú hoặc nơi có hoạt động của bên đó là hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc chungvề giải quyết xung đột và được ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia. 2.3.5. Quy phậm về bồi thươngf thiệt hại ngoài hợp đồng Vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự về quan hệ bồi thường thiệt hại mà trước khi xảy ra thiệt hại, các bên chủ thể là bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại không có thỏa thuận hoặc hợp đồng nào. Vì thế, khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hai trong hợp đồng, vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đươcj giải quyết không trên cơ sở của hợp đồng dân sự (vì không có hợp đồng) mà chỉ gỉai quyết trên cơ sở của pháp luật quy định và thiệt hại thực tế đã xảy ra. Nội dung cơ bản về giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng có yếu tố nươcs ngoài của pháp luật Việt Nam được quy định tại khoản 1 điều 773:… Theo quy định này, khi xảy ra quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì có thể có hai hệ thống pháp luật đượcáp dụng là pháp luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại và pháp luật nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã sử dụng hệ thuộc Luật nơi vi phạm pháp luật Lex loci delicti commissi để giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, kết hợp cả hai trường hợp là luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại. Việc áp dụng luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc luật nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại để giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có những ý ngĩa nhất định: thể hiện tính khách quan, trong trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại không cùng quốc vtịch hoặc nơi cư trú; việc xác định nơi xảy ra thiệt hại là thuận lợi dễ dàng, tạo điều kiện cho việc tòa án có thể dễ dàng trong việc điều tra, thu thập chưng cứ, xác minh về thiệt hại… đồng thời đảm bảo được lợi ích của bên bị thiệt hại, xét về tính chất loại vụ việc thì áp dụng luật nơi xảy ra thiệt hại là thể hiện đúng bản chất của quan hệ… Xét trên thực tế, nếu như hành vi gây thiệt hại và hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại xảy ra ở cùng một nơi thì gần như sẽ không có vấn đề gì phức tạp. Nhưng nếu xảy ra trường hợp hành vi gây thiệt hại diễn ra ở một nơi, nhưng hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại diễn ra ở một nơi, nhưng hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại đó chưa phát sinh ngay mà lại phát sinh ở một nơi khác thì sẽ gỉai quyết như thế nào? Hành vi gây thiệt hại xảy ra ở nước ngài vì thế pháp luật của nước đó có thể được áp dụng để giải quyết quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh; Việt nam là nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi kể trên và theo quy định của Điều 733 thì pháp luật Việt Nam cũng có thể được áp dụng để giải quyết quan hệ này. Vậy pháp luật nào sẽ được áp dụng để giải quyết quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh? Ai là người có quyền đưa ra lựa chọn luật? Theo quy định của pháp luật VN thì hệ thuộc được áp dụng giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là hệ thuộc luật nơi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật cũng đưa ra một số trường hợp ngoại lệ: trường hợp do tàu bay, tàu biển gây ra ở không phận quốc tế hoặc biển cả sẽ áp dụng pháp luật mà tàu bay, tàu biển mang quốc tịch, trừ trường hợp có quy định khác; và trường hợp hành vi gây thiệt hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ CNXHCN VN thì áp dụng pháp luật của VN. 2.3.6. Các QPXĐ trong lĩnh vực SHTT * quyền tác giả có yếu tố nước ngoài Khác với quyền dân sự khác, quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học đều mang tính chất lãnh thổ. Nghĩa là quyền tác giả phát sinh theo pàoáp luật nước cnào thì chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ của nước đó mà thôi. Trong tư pháp quốc tế không có quy phạm pháp luật nào có thể buộc một nhà nước phải mở rộng hiệu lực của luật tác giả đối với những tác phẩm được sáng tạo hoặc được công bố ở ngoài phạm vi lãnh thổ của nước đó. Mỗi quốc gia đều tự quy định các điều kiện bảo hộ củ amình về quyền tác giả. Do đó, quyền tác giả trong tu pháp quốc ế không nghiên cứu về việc lựa chọn luật quốc tịch hay luật nơi cư trú mà chủ yếu đề cấp đến những biện pháp bảo vệ quyền lợi chính đáng của tác giả ở nước ngoài và nước sở tại. Theo quy định của pháp luật việt nam, tác giả là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài có tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học lần đầu tiên đuwọc công bố, phổ biến tại việt nam hoặc được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức nhất định tại Việt Nam đều được nhà nuowcs ta bảo hộ quyền tác giả trừ TH tác phẩm ko được nhà nước bảo hộ. Ở đây, các nhà làm luật đã lựa chọn loại quy phạm xung đột một chiều để giải quyết xung đột về quyền tác giả. Theo Luật SHTT thì tác giả là người nước ngoài sẽ được hưởng các quyền tài sản và nhân thân trong lĩnh vực này như công dân Việt Nam. Đối với các tác phẩm công trình của người nước ngoài được công bô, sử dụng ở Việt Nam dựa trên những cơ sở điều ước quốc tế về quyền tác giả mà VN ký kết hoặc tham gia thì chế độ bảo hộ quyền tác giả được xác định theo ĐƯQT và pháp luật VN. Quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng có yếu tố nước ngoài Cùng với quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với cây trồng là hai bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ bởi các quy định của pháp luật quốc gia và các ĐƯQT. Việc bảo hộ này không chỉ nhằm tạo ra hình thức pháp lý đảm bảo các quyền nhân thân và quyền tài sản của các nhà sáng tạo đôis với các kết quả của sự sáng tạo đó, khích lệ thương mại trung thực từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới. Ở Việt Nam, các quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với cây trồng cho các cá nhân và pháp nhân nước ngoài được quy định chung tại BLDS và quy định cụ thể tại Luật SHTT. Đối với điều 775:… Nhà nước Việt Nam sẽ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và giống cây cho người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài trong các trường hợp: Có đối tượng sở hữu công nghiệp, giống cây trồng được cơ quan có thẩm quyền của VN cấp văn bằng bảo hộ …. công nhận bảo hộ Khi được cấp văn bằng bảo hộ hoặc được công nhận bảo hộ, quyền sở hữu công nghiệp và giống cây trồng của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam sẽ được bảo hộ trên cơ sở pháp luật Việt Nam và các ĐƯQT, trong TH ĐƯQT quy định khác thì áp dụng ĐƯQT. Việc bảo hộ thực hiện trên cơ sở của chế độ đãi ngọ như công dân.. Chuyển giao CN có yếu tố nước ngoài Đối tường của chuyển giao CN có ảnh hưởng lớn đến sản xuất và sự phát triển kinh tế của nước tiếp nhận công nghệ điều 776….. Pháp luật VN quy định rất rồng và tương đối toàn diện các quan hệ chuyển giao công nghệ. Đó là chuyển giao giữa cá nhân, pháp nhân VN với … nước ngoài hiện ngay tại VN. Việc chuyển giao phải tuân theo: Thứ nhất, các quy định từ điều 754 đến 757 BLDS và các quy định khác Thứ hai, các quy định của các ĐƯQT về… Thứ ba, pháp luật nước ngoài nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó ko trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật VN Có thể nhận thấy quy phạm về chuyển giao công ghệ nói trên của BLDS là loại QPXĐ tùy nghi trong tư pháp quốc ế khi quy định cho phép lựa chọn áp dụng pháp luật VN hay nước ngoài để điều chỉnh việc chuyển giao công nghệ có yếu tố nước ngoài nếu việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật VN> 2.3.7. Xác định thời hiệu khởi kiện Điều 777:… Quy định về thời hiệu khởi kiện trong pháp luật của các quốc gia không giống nhau, đương nhiên sẽ làm phát sinh XĐPL về thời hiêuj khởi kiện. Để xử lý vấn đề XĐPL quy định áp dụng về thời hiệu khởi kiện của pháp luật của quốc gia mà pháp luật quốc gia đó đã được áp dụng để điều chỉnh qan hệ dân sự tương ứng. Vì thế, tuy là một quy định mới nhưng việc quy định về thời hiệu khởi kiện tuân theo pháp luật của nước mà pháp luật nước đó đã được lựa chọn để áp dụng điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tương ứng đó là một quy định hết sức khoa học và hợp lý, phù hợp w thông lệ TPQT. Cần làm rõ hơn khái niệm “người VN định cư ở nước ngoài” của BLDS để giúp cho các chủ thể dễ dàng hơn trong việc xác định một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Theo Luật quốc tịch thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài…. Tuy nhiên, về cụm từ “lâu dài” thì chưa có văn bản hướng dẫn nào quy định rõ, bao lâu thì được xem là đủ lâu để trở thành “người VN định cư ở nước ngoài”. Có lẽ pháp luật nên đưa ra một hướng dẫn cụ thể về một khoảng thời gian xác định hợp lú, có thể là từ 10 năm trở lên, để xác định được một người là … : tạo được mối quan hệ gắn bó cần thiết với quốc gia mà họ đang cư trú, tạo được một thói quen, lối sống như người bản xứ cho dù họ có còn giữa quốc tịch VN hay không, kèm theo quy định những điều kiện nhất định (tài sản, công việc, ngôn ngữ…) để một người mang quốc tịch VN được xem là….

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuy phạm pháp luật xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.doc