LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam ra đời vào tháng 07/2000 đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính (TTTC) trong nước, qua mười năm hoạt động đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế Việt Nam. Trong thời gian gần đây TTCK Việt Nam đã có sự phát triển nhanh chóng góp phần không nhỏ trong việc huy động vốn cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên quy mô TTCK còn nhỏ bé, chính sách quản lý, điều hành, giám sát còn nhiều yếu kém đã và đang mang lại nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư (NĐT) khi tham gia kinh doanh chứng khoán. Hơn nữa hàng hóa trên TTCK còn quá đơn điệu, ngoài cổ phiếu và trái phiếu thì vẫn chưa có nhiều sản phẩm khác. Tại các nước có TTTC phát triển thì việc giảm thiểu rủi ro thông qua các công cụ chứng khoán phái sinh như: hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, bán khống ngày càng được sử dụng rộng rãi như là những công cụ chủ yếu và không thể thiếu được trong việc quản lý rủi ro. Trong thời gian gần đây TTCK Việt Nam đã có những biến động bất thường khó dự đoán, thị trường liên tục mất điểm khiến đa số các NĐT đều thua lỗ. Khi TTCK trong giai đoạn suy thoái những NĐT nhỏ lẻ không thể trụ vững trên thị trường, họ ồ ạt bán chứng khoán để bảo toàn vốn làm cho thị trường càng trở nên trầm trọng hơn dễ dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ. Vì vậy việc áp dụng các công cụ chứng khoán phái sinh đặc biệt là quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam giúp các NĐT có thêm công cụ để hạn chế rủi ro cho các NĐT là vô cùng cần thiết. Đó là lý do tôi chọn đê tài “Quyền chọn chứng khoán: điều kiện, khả năng và giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề cơ bản về quyền chọn, thị trường quyền chọn, nghiên cứu một số mô hình tổ chức giao dịch quyền chọn chứng khoán tiêu biểu trên thế giới.
- Nghiên cứu các điều kiện để áp dụng quyền chọn trên TTCK.
- Nghiên cứu lịch sử hình thành phát triển của TTCK Việt Nam, thực trạng TTCK Việt Nam hiện nay từ đó đánh giá các điều kiện để phát triển giao dịch quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp để áp dụng giao dịch quyền chọn vào TTCK Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các lý luận cơ bản về quyền chọn chứng khoán, các điều kiện để áp dụng quyền chọn chứng khoán và khả năng áp dụng quền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: các lý luận về quyền chọn chứng khoán, TTCK Việt Nam, thị trường quyền chọn Mỹ, thị trường quyền chọn Châu Âu.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như phân tích-tổng hợp, thống kê-mô tả, so sánh-đối chiếu, phương pháp quan sát thực tế để khái quát vấn đề cần nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài với tên gọi: “Quyền chọn chứng khoán: điều kiện, khả năng và giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán Việt Nam”, được kết cấu thành 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền chọn và điều kiện để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào TTCK
Chương 2: Điều kiện để phát triển giao dịch quyền chọn chứng khoán: thực trạng tại Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam
117 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3091 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quyền chọn chứng khoán: Điều kiện, khả năng và giải pháp để áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệc ứng dụng giao dịch quyền chọn cần có sự chuẩn bị chu đáo và thời điểm thích hợp. Việc ứng dụng giao dịch quyền chọn ở TTCK Việt Nam cũng cần có thời điểm thích hợp và phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết về mọi mặt.
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và phát triển TTCK. Việc nghiên cứu phát triển công cụ tài chính đồng hành với thị trường nói chung, quyền chọn nói riêng là việc làm vô cùng cần thiết. Trong thời gian qua tốc độ phát triển của TTCK Việt Nam khá nhanh, TTCK Việt Nam đã có những dấu hiệu hết sức lo ngại như giá chứng khoán tăng giảm đột biến, chỉ số VN- Index tăng giảm thất thường dẫn đến nhiều NĐT thua lỗ nặng. Do đó nhu cầu về quyền chọn càng trở nên cấp bách. Việc áp dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam là điều kiện khách quan tất yếu để có thể phát triển TTCK Việt Nam nói riêng và thị trường vốn nói chung, là một công cụ cần thiết cho các NĐT, DN và cho cả nền kinh tế nên cần được triển khai sớm.
Tuy nhiên, những mặt trái của sản phẩm phái sinh cũng là điều mà các nhà hoạch định chính sách phải tính đến như: Có thể gây ra thua lỗ lớn do việc sử dụng các công cụ đòn bẩy hay vay mượn; rủi ro do đối tác không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; tiềm ẩn rủi ro rất lớn đối với những nhà đầu tư nhỏ, thiếu kinh nghiệm. Giá trị danh nghĩa quá lớn: rủi ro dẫn đến thua lỗ lớn mà nhà đầu tư không thể bù đắp được. Khả năng dẫn đến phản ứng dây chuyển phá hủy hàng loạt khi có khủng hoảng kinh tế. Giá trị danh nghĩa quá lớn dẫn tới việc làm méo mó thị trường vốn thực. Nhà đầu tư bắt đầu nhìn vào thị trường các công cụ phái sinh để quyết định mua hoặc bán chứng khoán, như vậy cái mà ban đầu được xem là thị trường là để chuyển rủi ro trở thành một chỉ số hướng dẫn thị trường. Đòn bẩy nợ trong nền kinh tế: việc gia tăng đòn bẩy nợ trong nền kinh tế làm nền kinh tế thực không đủ khả năng để tài trợ cho nghĩa vụ nợ và điều chỉnh những hoạt động kinh tế thực, điều này có thể gây ra suy thoái hay khủng hoảng kinh tế
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp về tổ chức và quản lý sàn giao dịch và một số giải pháp về phát triển TTCK năm đáp ứng những yêu cầu cơ bản cho việc hình thành thị trường quyền chọn chứng khoán. Việt Nam cần lập ra cho mình một kế hoạch hành động cụ thể với những bước đi thận trọng với mục tiêu là phát huy một cách tối đa vai trò của thị trường quyền chọn chứng khoán đối với nền kinh tế xã hội.
Trên cơ sở tham khảo mô hình tổ chức sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán tại một số nước trên thế giới, Việt Nam có thể xây dựng cho mình một mô hình sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán dựa vào quy mô và điều kiện hiện tại. Chúng ta có thể thí điểm triển khai quyền chọn sau đó đánh giá kết quả thực hiện, rút ra kinh nghiệm để từ đó có thể áp dụng rộng rãi trên TTCK cho toàn bộ chứng khoán.
3.2. Một số giải pháp để áp dụng quyền chọn quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam
3.2.1 Giải pháp về xây dụng và hoàn thiện khung pháp lý
3.2.1.1 Hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK
Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán ra đời đã tạo điều kiện hình thành khuôn khổ pháp luật trong việc quản lý, giám sát thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoạt động thị trường: công khai, công bằng, minh bạch và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các NĐT.
TTCK muốn thu hút được nhiều NĐT, trước hết phải tạo cho NĐT tâm lý được kinh doanh một cách công bằng trên thị trường. TTCK ổn định và phát triển là thị trường ít xảy ra gian lận, phạm pháp; mọi hành vi sai phạm phải bị xử lý nghiêm minh, chính xác. Thị trường đó chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở có một hệ thống pháp luật hoàn thiện. Còn rất nhiều việc phải làm để xây dựng hành lang pháp lý nhằm tăng cường tính minh bạch, giảm rủi ro cho thị trường và tính cấp bách của vấn đề này không cho phép kéo dài hơn nữa. Chẳng hạn như:
- Đẩy mạnh việc triển khai thực thi Luật Chứng khoán thông qua việc ban hành và triển khai các văn bản dưới luật hướng dẫn; hoàn thiện cơ chế đấu giá theo hướng ngày càng công khai và minh bạch hơn.
- Ban hành quy chế quản trị công ty áp dụng cho các công ty niêm yết, CTCK và công ty quản lý quỹ đầu tư. Áp dụng các chuẩn mực quốc tế trên cơ sở hệ thống kế toán và kiểm toán tốt.
- Cải cách thủ tục hành chánh, minh bạch hoạt động quản lý, giám sát thị trường của các cơ quan quản lý.
- Cải tiến phương thức phát hành trái phiếu theo lô lớn, tăng cường hình thức phát hành thông qua đấu thầu, bảo lãnh để niêm yết trên TTCK.
- Tiêu chuẩn hóa hoạt động của Trung tâm lưu ký chứng khoán và các thành viên lưu ký. Từng bước phát triển và hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ của Trung tâm lưu ký chứng khoán theo các chuẩn mực quốc tế.
- Để hạn chế tình trạng giao dịch nội gián, lạm dụng thông tin từ việc cổ phần hoá DN do khép kín quá trình cổ phần hoá, từ định giá đến xác định NĐT, cần xem xét chuyển Uỷ ban chứng khoán thành một cơ quan nhà nước độc lập, tách các sàn giao dịch chứng khoán khỏi Uỷ ban chứng khoán. Trong trường hợp các trung tâm giao dịch tách khỏi Uỷ ban chứng khoán nhưng vẫn là DN nhà nước thì các vấn đề tổ chức, cán bộ vẫn do bộ chủ quản quyết định. Khi đó tác dụng không như mong đợi.
- Hoàn thành việc xây dựng đề án thành lập cơ quan giám sát tài chính tiền tệ độc lập.
3.2.1.2 Xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động quyền chọn chứng khoán
Điều quan trọng nhất để phát triển thị trường quyền chọn chứng khoán là hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ. Bởi giao dịch công cụ tài chính phái sinh này không thể là việc hình thành cung - cầu một cách bản năng tự nhiên của các chủ thể trong nền kinh tế. Thị trường dịch vụ tài chính là một trong những bộ phận quan trọng bật nhất trong nền kinh tế, cần phải được phát triển lành mạnh, hoạt động có hiệu quả và trong khuôn khổ pháp luật cho phép vì lợi ích vĩ mô và toàn cục. Như vậy, môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực pháp lý cao là điều kiện cần cho sự hình thành và phát triển của thị trường quyền chọn chứng khoán.
Quyền chọn chứng khoán là một công cụ phái sinh và là công cụ phái sinh phức tạp nhất trong số các sản phẩm phái sinh hiện nay. Vì vậy để phát triển được sản phẩm này, Chính phủ và các ban ngành có liên quan cần phải chuẩn bị xây dựng một cơ sở pháp lý chặt chẽ và hợp lý. Hệ thống khung pháp lý là cơ sở quan trọng nhất quy định nguyên tắc tổ chức và hoat động của thị trường phái sinh và tạo nên những rào chắn bảo vệ sự lành mạnh của thị trường tài chính, đồng thời các văn bản pháp luật cũng là cơ sở quan trọng cho dịch vụ mới ra đời. Xây dựng được khung pháp lý mang tính thực tiễn, thống nhất và khoa học. Hệ thống văn bản pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở thực tế, căn cứ vào hoạt động của TTCK và có thể điều chỉnh được thị trường theo hướng bao quát, toàn diện và kịp thời.
Từ tính chất phức tạp của các hợp đồng quyền chọn, ngoài việc ban hành mới và bộ sung hoàn thiện các văn bản pháp luật để quy định nguyên tắc và tổ chức hoạt động của thị trường này, thì việc điều hành và giám sát hoạt động của thị trường cũng rất cần thiết để đảm bảo được tính hiệu quả, công bằng, lành mạnh, bảo vệ được quyền lợi chính đáng của NĐT, dung hòa lợi ích của tất cả những chủ thể tham gia thị trường. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện, hiệu lực pháp lý cao và có tính tiên liệu sẽ là nền tảng vững chắc để mọi tác nhân có thể an tâm tham gia vào các giao dịch trên thị trường.
Cần phải xây dựng những nền tảng cốt lõi và cần thiết về bộ máy điều hành TTCK và thị trường quyền chọn tương lai nhằm có thể kiểm soát và dự báo dược các tình thế trước khi đưa quyền chọn chứng khoán ra thị trường. Cần phải có các văn bản pháp luật, các quy định cho các đối tượng tham gia vào thị trường này điển hình như: người mua, người bán, người môi giới, các chứng khoán cơ sở, các công ty thanh toán bù trừ…. nhằm giúp cho TTCK hoạt động hiệu quả hơn.
Hơn nữa, do tính chất phức tạp của giao dịch, khiến hoạt động của công cụ quyền chọn chứng khoán càng nhạy cảm với những hành vi gian lận, tiêu cực. Trên thị trường này có nhiều đối tượng tham gia như: NĐT, nhà đầu cơ, nhà môi giới…Mỗi người tham gia trên thị trường đều vì những mục đích, lợi ích và sự hiểu biết khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, nguy cơ rủi ro cũng như khả năng thu lợi trên hợp đồng quyền chọn là rất lớn. Đặc tính đó khiến cho thị trường phái sinh dễ xảy ra các hoạt động kiếm lời không chính đáng thông qua các hoạt động gian lận, mua bán tay trong, gây thiệt hại các NĐT, thậm chí cho các nhà môi giới – làm trung gian trong các hợp đồng quyền chọn. Bên cạnh đó, để thị trường quyền chọn chứng khoán phát huy vai trò là một trong những công cụ phòng ngừa rủi ro, tránh các hành vi tiêu cực từ mặt trái của sản phẩm phái sinh như lừa đảo, trốn thuế, làm sai lệch thông tin, thao túng TTCK… trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho hoạt động giao dịch này, Chính phủ, Bộ Tài chính, UBCKNN cần xây dựng cho được các quy định ràng buộc, các yêu cầu về: Nội dung của Hợp đồng quyền chọn; Điều kiện đối với các chứng khoán cơ sở; Quy định về giới hạn giá và số lượng hợp đồng quyền chọn giao dịch để tránh tình trạng thao túng thị trường; Điều kiện về công bố thông tin, đảm bảo tính chuẩn xác và minh bạch trên thị trường…Qua đó, nhằm mở cửa thị trường cho tất cả các NĐT, các định chế trung gian triển khai các hợp đồng quyền chọn chứng khoán nhằm đãm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường.
3.2.1.3 Xây dựng việc tổ chức và quản lý sàn giao dịch quyền chọn
Nhằm phát triển, áp dụng được công cụ quyền chọn vào TTCK ở Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải xây dựng hình thức tổ chức và quản lý của sàn giao dịch. Cơ cấu tổ chức này bao gồm SGDCK; Các công ty môi giới (CTCK); Các cơ quan quản lý và giám sát; trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ và các đối tượng tham gia thị trường. Bên cạnh đó cũng phải xây dựng cho được các nguyên tắc hoạt động ; quy trình thực hiện giao dịch; và các quy định cho từng đối tượng tham gia thị trường một cách rõ ràng.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thông qua những quy tắc, và điều lệ Sàn Giao dịch. Những quy tắc và điều lệ này ban hành những quy định có liên quan đến nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, việc bổ nhiệm các thành viên của sàn giao dịch. Đồng thời, UBCKNN có trách nhiệm soạn thảo điều lệ và chuẩn mực chung cho thị trường quyền chọn, từ đó, các SGDCK, trung tâm lưu ký – thanh toán bù trừ sẽ ban hành các quy định cho các hoạt động giao dịch trên sàn, bao gồm các biểu mẫu, các quy định trong hợp đồng, giá thực hiện, hạn mức thực hiện, phương thức đặt lệnh, ký quỹ, và thanh toán hợp đồng….
SGDCK là một tập thể chịu trách nhiệm quản lý và điều hành Sàn giao dịch và được giám sát bởi UBCKNN. Nó đáp ứng được chiến lược được đề ra của sàn giao dịch, đồng thời đặt ra được những tiêu chuẩn và thi hành những quyết định liên quan đến phát triển thị trường. Bên cạnh đó, Sở giao dịch sẽ quy định các điều kiện cho các loại cổ phiếu mà giao dịch quyền chọn được phép, trước tiên là những cổ phiếu của các công ty lớn, có tỷ suất sinh lợi cao, khối lượng giao dịch đáng kể và đạt được tính thanh khoản theo yêu cầu để duy trì việc niêm yết quyền chọn. Ngoài ra Sở giao dịch cũng quyết định CTCK nào được phép tham gia vào thị trường quyền chọn này dựa theo năng lực và uy tín của công ty đó.
Các CTCK đóng vai trò là các công ty môi giới làm nhiệm vụ thực hiện các yêu cầu của NĐT. Công ty môi giới có trách nhiệm giao dịch các lệnh nhận được ở mức giá tốt nhất có thể và đặt lệnh trực tiếp hay chuyển lệnh về cho các nhân viên nhập lệnh tại Sở giao dịch để thực hiện giao dịch. Doanh thu của các CTCK là phần hoa hồng nhận được cho mỗi giao dịch thành công.
Cơ quan quản lý và giám sát có trách nhiệm giám sát, hướng dẫn các hoạt động giao dịch đảm bảo đúng nguyên tắc và pháp luật, có quyền xác nhận tư cách thành viên của các CTCK thành viên, có nhiệm vụ theo dõi và phát hiện các sai phạm liên quan đến các CTCK thành viên, kiểm tra và thông báo đến Sở giao dịch những giao dịch có dấu hiệu bất thường. Đồng thời, cơ quan quản lý và giám sát sẽ kiểm tra tính chính xác của những thông tin được đưa lên thị trường thông qua các CTCK nhằm đảm bảo tính trung thực, minh bạch của thông tin cho thị trường. Cơ cấu tổ chức của cơ quan này bao gồm có các bộ phận như bộ phận điều hành thị trường; bộ phận giám sát giao dịch; bộ phận giám sát thành viên; bộ phận giám sát thông tin…với mục đích chính là quản lý và giám sát các giao dịch trên sàn nhằm bảo vệ các NĐT, đảm bảo cho thị trường phát triển đúng theo định hướng mà Nhà nước và Chính phủ đã đề ra.
Trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ là nơi nhận lưu giữ các chứng khoán, nhận ký quỹ và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch quyền chọn. Các NHTM đáp ứng đủ các điều kiện của UBCKNN sẽ thực hiện dịch vụ lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán và quyền chọn. Mọi giao dịch thành công trên sàn đều được thông báo đến Trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ, sau đó trung tâm sẽ tiến hành thanh toán và thực hiện hợp đồng theo nguyên tắc giao dịch của Sở giao dịch đề ra cùng với các CTCK thành viên.
Vì lợi ích của các đối tác trong giao dịch, lợi ích chung của nền kinh tế những giao dịch phức tạp của thị trường phải đi đôi với khả năng quản lý của bộ máy điều hành, giám sát thị trường và hệ thống pháp luật điều chỉnh tương xứng với sự phát triển của thị trường qua từng giai đoạn.
Các lệnh đặt mua, đặt bán phải xác định nhà môi giới, mã chứng khoán cơ sở, loại hợp đồng quyền chọn, thời gian đáo hạn, giá thực hiện, giá chuyển nhượng, khối lượng giao dịch và được gởi đến Sở giao dịch thông qua các CTCK.
3.2.2 Giải pháp về tổ chức quản lý của các cơ quan chức năng
3.2.2.1 Nâng cao vai trò và trách nhiệm của một số cơ quan chức năng có liên quan.
Để nâng cao vai trò và trách nhiệm của một số cơ quan chức năng trong việc điều hành và quản lý TTCK tại thị trường Việt Nam, về cơ bản chúng ta cần thực hiện một số điểm sau đây:
− Nâng cao vai trò của UBCKNN để đủ sức vận hành, quản lý và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn đồng thời thực hiện các ý tưởng về xây dựng và phát triển TTCK Việt Nam trong thời gian sắp tới. Chúng ta cần phải cử các cán bộ có trình độ sang các nước đã triển khai thành công nghiệp vụ quyền chọn chứng khoán để học hỏi kinh nghiệm từ đó đưa ra lộ trình cũng như mô hình phát triển cho quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam.
− Cúng cố cơ cấu tổ chức của SGDCK. SGDCK phải đủ sức kiểm soát các rủi ro, giám sát các giao dịch nội gián và các giao dịch bất thường bằng những công cụ hiện đại và công nghệ tiên tiến nhằm củng cố lòng tin cho các NĐT.
− Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm đối với từng bộ phận, từng cá nhân trong công tác quản lý hoạt động TTCK, tránh tình trạng chốn tránh đùn đẩy trách nhiệm khi xẩy ra các vấn đề phát sinh
− Đẩy mạnh hoạt động và tăng cường vai trò của các hiệp hội trong việc hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước trên các phương diện: xây dựng khuôn khổ pháp lý, đào tạo nhân lực, giám sát sự tuân thủ quy định pháp luật của các thành viên tham gia TTCK.
3.2.2.2 Nâng cao hiệu quả quản lý giảm sát của cơ quan quản lý nhà nước.
TTCK Việt Nam là một thị trường còn non trẻ, các nhà quản lý còn chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý và điều hành. Tuy nhiên, khi Việt Nam đã hội nhập vào nền kinh tế quốc tế thì năng lực quản lý của nhà nước đối với TTCK cần được nâng cao. Để có thể đáp ứng được yêu cầu quản lý của mình nhà nước cần:
− Nâng cao năng lực và trình độ nguồn nhân lực của nhà nước. Quan tâm nhiều hơn nữa đến vấn đề tuyển dụng nhân sự. Có chính sách tiền lương thỏa đáng để chiêu mộ và gìn giữ nhân tài. Có chương trình, kế hoạch đào tạo dài hạn cả trong và ngoài nước cho cán bộ, công nhân viên,…
− Tăng cường năng lực quản lý của nhà nước, đảm bảo sự quản lý linh hoạt, nhạy bén đối với TTCK. Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh, điều tiết thị trường thông qua các chính sách, công cụ kinh tế – tài chính tiền tệ như các chính sách về thuế, lãi suất, đầu tư và các công cụ tài chính khác.
− Chính phủ, Bộ Tài chính và UBCKNN cần phối hợp chặt chẽ trong việc hoàn thiện khung pháp lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý TTCK.
− Xây dựng và áp dụng các tiêu chí giám sát hoạt động của TTCK; phát triển kỹ năng giám sát thích hợp để phát hiện được các giao dịch bất thường; nâng cao kỹ năng điều tra chuyên sâu các giao dịch nội gián, thao túng thị trường.
− Phối hợp giữa công tác giám sát và công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các thành viên thị trường; áp dụng nghiêm các chế tài dân sự, hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK.
3.2.2.3 Nới lỏng vai trò điều hành của Nhà Nước vào thị trường tài chính.
Hoạt động giao dịch phải thật sự có ý nghĩa trong điều kiện tình hình biến động của thị trường hoàn toàn khách quan. Các NĐT, DN, những người kinh doanh chứng khoán, ngoại tệ,… dựa vào những phán đoán về diễn biến của thị trường, họ sẽ lựa chọn các phái sinh, quyền chọn thích hợp để thực hiện những mục tiêu cụ thể của mình là kinh doanh hay hạn chế rủi ro.
Trong bối cảnh hội nhập ở nước ta hiện nay, theo lộ trình hội nhập mà nước ta đã cam kết với WTO, nhà nước cần nới lỏng dần chính sách can thiệp trực tiếp vào thị trường. Đối với TTCK tập trung, biên độ giao động của chứng khoán cũng cần được nâng dần theo mức độ phát triển của thị trường từ mức +/-5% ở HOSE và +/-7% ở HASTC hiện nay. Điều này sẽ đảm bảo giá cả chứng khoán phản ảnh đúng cung cầu trên thị trường. Khi đó, rủi ro đối với giao dịch chứng khoán sẽ dần hiện rõ, gây ra những thiệt hại lớn hơn, buộc các DN, cá nhân, NĐT phải quan tâm đến các hợp đồng quyền chọn để bảo hiểm, giảm thiểu rủi ro cho chính mình.
3.2.2.4 Nâng cao hiệu quả thị trường thông qua việc công khai hóa và minh bạch hóa thông tin.
TTTC Việt Nam mới chỉ tăng tốc phát triển trong một thời gian ngắn, vấn đề truyền thông tài chính cũng đã bắt đầu nhận được sự quan tâm của xã hội. Nhưng nhìn chung, truyền thông tài chính ở Việt Nam chỉ mới phát triển sơ khai, hầu như là mang tính tự phát, thiếu sự quản lý, ràng buộc trách nhiệm từ các cơ quan quản lý nhà nước. Với một TTTC bậc cao như thị trường quyền chọn, thông tin càng đóng một vai trò quan trọng trong các quyết định đầu tư, phòng ngừa rủi ro của DN, NĐT…Do đó, để phát triển thị trường quyền chọn, đặc biệt là quyền chọn quyền chọn chứng khoán, cần chấn chỉnh và thúc đẩy truyền thông tài chính phát triển. Thông tin tài chính cần được công khai, minh bạch hóa. Nhà nước cần tiếp tục ban hành các qui chế, thông tư, hướng dẫn…chi tiết hơn việc công bố thông tin ra TTCK cũng như chế tài nghiêm khắc đối với các vi phạm về công bố thông tin.
Ngoài ra, cần thúc đẩy các nguồn thông tin đa dạng, đầy đủ và cần thiết đến với mọi đối tượng tham gia thị trường. Trước mắt, nên thành lập các tổ chức chuyên nghiên cứu phát triển các công cụ dự báo giá và công bố kết quả dự báo giá cả, đặc biệt là giá của một số mặt hàng quan trọng như ngoại tệ, chứng khoán, vàng, xăng dầu… qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc qua các tạp chí chuyên ngành để các NĐT có cơ sở phân tích, đánh giá và đưa ra các quyết định kinh doanh hay phòng ngừng rủi ro cho riêng mình.
3.2.2.5 Thay đổi một số qui định về hạch toán kế toán.
Các vấn đề về hạch toán quyền chọn nói riêng và các công cụ phái sinh nói chung hiện nay còn khá mới mẻ ở nước ta. Do đó, nhà nước nên điều chỉnh, hoàn thiện các vấn đề pháp lý về hạch toán, xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch hợp đồng quyền chọn, phái sinh là một nghiệp vụ kinh doanh tài chính mang tính chất phòng ngừa rủi ro của các DN không thuộc các tổ chức tài chính tín dụng, bảo hiểm, kinh doanh. Trên cơ sở này, Bộ tài chính xác định phí giao dịch quyền chọn là một khoản chi phí hợp lý, hợp lệ được tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế. Điều này sẽ góp phần khuyến khích các DN sử dụng công cụ quyền chọn nhiều hơn, trong đó có quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn cổ phiếu.
3.2.3 Nhóm giải pháp phát triển thị trường
3.2.3.1 Tăng cung- cầu hàng hóa cho TTCK
Về cung hàng hóa.
Việc tăng cung hàng hóa cho TTCK tập trung trong thời gian tới, cả trước mắt và lâu dài, chắc chắn phụ thuộc vào nguồn cung hàng cổ phiếu của các DN nhà nước CPH. Để gia tăng lượng cung hàng hóa cho TTCK Việt Nam trước tiên cần kiên quyết hơn trong công tác CPH DN nhà nước, gắn CPH DN nhà nước với việc niêm yết đồng thời trên TTCK.
Nhà nước cần tích cực hơn trong việc tác động cũng như lựa chọn một số DN có quy mô lớn, có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng phát triển tốt để CPH và niêm yết ngay trên TTCK. Chính phủ cần có chỉ đạo sát sao cũng như các ngành các cấp có liên quan cần phải quyết liệt thực hiện kế hoạc CPH DN nhà nước theo đúng tiến độ và gắn kết với TTCK một cách công khai, minh bạch. Tập trung CPH các DN và các tổng công ty lớn, các NHTM, mở rộng việc chuyển đổi các DN có vốn đầu tư nước ngoài thành các công ty cổ phần kết hợp với việc chào bán ra công chúng. Việc IPO những DN lớn là tạo thêm hàng hóa chất lượng cho thị trường. Điều quan trọng là nên có cách thức mới trong việc IPO để vừa bảo đảm cam kết với giới đầu tư, vừa để các đợt IPO lớn ổn định hơn và không tạo ra sức ép về cung cầu hàng hóa cho thị trường trong từng thời điểm.
Ngoài ra nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích, thu hút nhiều loại hình DN tham gia vào TTCK, đặc biệt là tạo điều kiện để các DN vừa và nhỏ làm ăn hiệu quả tham gia niêm yết. Áp dụng các ưu đãi cho cho các đối tượng sắp tham gia vào thị trường bằng công cụ về thuế, về các chính sách ưu đãi khác nhằm tạo sự thuận lợi cho các DN này tham gia thị trường. Tiếp tục khuyến khích các DN tư nhân nói riêng và các DN niêm yết nói chung bằng cách gia hạn ưu đãi thuế thu nhập DN khi niêm yết Nhà nước muốn có nguồn thu ngân sách lớn thì phải kích thích cho TTCK phát triển vì đây là nơi tạo ra nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, UBCKNN cũng tạo môi trường thông thoáng cho các DN sắp niêm yết trên sàn, hạn chế tối đa các thủ tục rườm rà, không cần thiết nhằm giúp các DN tham vào thị trường một cách dễ dàng hơn.
Chúng ta cũng cần quan tâm đến vấn đề xác định giá trị DN. Cho phép các DN đánh giá lại tài sản và thương hiệu đúng giá trị đích thực thông qua các công ty định giá với những quy định cụ thể và chặt chẽ, nên tổ chức đấu giá công khai trên thị trường theo tình thần nghị định 109/2007/NĐ-CP. Có thể mời các công ty định giá nước ngoài tham gia, điều này góp phần làm gia tăng uy tín cổ phiếu công ty trên thị trường.
Phát triển hàng hóa cho TTCK không chỉ là gia tăng số lượng mà còn phải nâng cao chất lượng các công ty niêm yết. Các công ty niêm yết phải là các công ty lành mạnh về tài chính, công khai minh bạch đối với cổ đông và kinh doanh ổn định có hiệu quả. Đây là những nhân tố vô cùng quan trọng để tạo lòng tin cho các NĐT.
Về cầu hàng hóa
Sự tham gia của các NĐT ngày càng tăng sẽ góp phần tăng tính thanh khoản và hiệu quả của TTCK, từ đó khuyến khích các DN tăng cường sử dụng kênh TTCK để huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. TTCK muốn thành công phải dựa trên sự cân bằng cung cầu. Lực lượng các NĐT tham gia trên TTCK còn quá nhỏ so với quy mô dân số 86 triệu người, đa số tham gia theo phương thức ngắn hạn và nhỏ lẻ. Cần mở rộng phạm vi các định chế trong nước tham gia vào thị trường như các công ty bảo hiểm, bảo hiểm xã hội đồng thời khuyến khích các NĐT nước ngoài tham gia thị trường như mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu đối với các NĐT nước ngoài trên TTCK Việt Nam, tiến tới xóa bỏ giới hạn về tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các cổ đông nước ngoài đối với những ngành, lĩnh vực mà nhà nước không cần nắm quyền kiểm soát.
3.2.3.2 Cải tiến các phương thức phát hành trái phiếu, tạo sức hấp dẫn cho trái phiếu
Thị trường cổ phiếu phát triển đến đâu thì Chính phủ cũng nên quan tâm đến sự phát triển của thị trường trái phiếu. Điều này đáp ứng phần lớn nhu cầu của các NĐT muốn tham gia thị trường nhưng ngại rủi ro, xem mức độ an toàn của chứng khoán là yếu tố quyết định sự lựa chọn của chính mình. Do đó, cần cải tiến phương pháp phát hành trái phiếu Chính phủ, tăng cường phát hành theo phương pháp đấu thầu, đa dạng hóa các kỳ hạn của trái phiếu Chính phủ, triển khai phát hành trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển, trái phiếu địa phương, trái phiếu công trình, đô thị lên niêm yết và giao dịch trên TTCK. Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu nhằm cung cấp đều đặn khối lượng trái phiếu cho TTCK.
3.2.3.3 Chủ động giới thiệu, quảng bá thông tin về các sản phẩm, dịch vụ quyền chọn đến khách hàng
Ngày nay, TTTC cạnh tranh ngày một gay gắt. Các định chế tài chính chuyên nghiệp như NHTM, CTCK xuất hiện ngày càng nhiều. Việc tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ cơ bản của mỗi tổ chức tài chính là cần thiết để có thể thu hút các đối tượng khách hàng. Đối với công cụ quyền chọn, một trong những loại hình dịch vụ mới, khá phức tạp đối với khách hàng, việc làm này càng trở nên cần thiết, thiết thực hơn, nhằm tạo ra sự nhận thức và hiểu biết cho khách hàng, nhà phát hành và nhà hoạch định chính sách về công dụng, lợi ích và cách thức sử dụng các công cụ quyền chọn, từ đó phát triển nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ này.
Để thực hiện điều đó CTCK cần rút kinh nghiệm và thay đổi cách tiếp thị chào bán các sản phẩm phái sinh nói chung và quyền chọn nói riêng, theo hướng là lựa chọn và huấn luyện kiến thức tiếp thị, bán hàng cho những nhân viên thật sự am hiểu về sản phẩm để trực tiếp giới thiệu và chào bán cho khách hàng. Ngoài ra, về lâu dài, các CTCK cần lập ra bộ phận chuyên phân tích, tư vấn và hỗ trợ cho khách hàng tìm kiếm thông tin, cách thức sử dụng các công cụ quyền chọn cho cả hai mục tiêu kinh doanh và hạn chế rủi ro.
Phối hợp với các bộ, ngành như Bộ Tài Chính, Giáo Dục, Truyền Thông, NHNN, UBCK…để tăng cường hơn nữa công tác quảng bá và giới thiệu sản phẩm quyền chọn đến các khách hàng DN và NĐT, trong đó chú trọng đầu tư cho hình thức quảng bá trên internet…
Tổ chức các buổi tư vấn hướng dẫn thực hành tham gia vào giao dịch quyền chọn chứng khoán cho các DN, NĐT. Trong đó đưa ra cho các tình huống mẫu để khách hàng thử ứng dụng. Từ đó, phân tích cho các khách hàng thấy lợi ích của việc sử dụng công cụ quyền chọn trong bảo hiểm rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận trong các hoạt động đầu tư của mình.
3.2.3.4 Cải thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống giao dịch, hệ thống đăng ký-lưu ký-thanh toán bừ trừ chứng khoán.
Đây là giải pháp tạo ra động lực cho việc ứng dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam. Việc cải thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống giao dịch bao gồm những công việc cụ thể như sau:
- Cần có những thay đổi căn bản để đáp ứng yêu cầu của giới đầu tư như: giảm thời gian thanh toán giao dịch chứng khoán nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường, rút ngắn thời hạn thanh toán từ T+3 xuống T+2 và T+1.
- Tăng biên độ giá: việc tăng biên độ giá chứng khoán là một trong những bước đi cần thiết trong tiến trình hoàn thiện hóa TTCK Việt Nam. Trên thị trường các nước trong khu vực, biên dộng dao động giá được áp dụng thường là 10% hoặc thậm chí không có biên độ dao động. Khi TTCK Việt Nam đã hội tụ đủ những điều kiện phát triển ,biên độ dao động có thể cũng được áp dụng ở mức 10%. Đối với NĐT việc tăng biên độ dao động cũng cho phép đưa ra nhiều lựa chọn khác nhau trong quá trình đặt lệnh và do đó nâng cao tính tự chủ và bản lĩnh kinh doanh của họ.
- Tăng cường củng cố sơ sở hạ tầng, phát triển mạnh hệ thống công nghệ thông tin ngành chứng khoán, đẩy mạnh giao dịch qua internet. Hệ thống giao dịch và công bố thông tin của cả SGDCK HCM và Hà Nội còn nhiều hạn chế. Do đó, chúng ta cần xây dựng một cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin một cách hiệu quả bằng các biện pháp cụ thể như sau:
+ Ứng dụng và hoàn thiện hệ thống giao dịch tự động hiện đại vận hành tại SGDCK TP HCM và Hà Nội. Kết nối mạng diện rộng giữa hệ thống giao dịch của các Sở, Sàn giao dịch với các CTCK thành viên. Xây dựng hệ thống giám sát tự động kết nối với các hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký, thanh toán,…
+ Đảm bảo có một hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng và truy cập dễ dàng cho các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các NĐT. Mở rộng phạm vi thông tin cần công bố trên cơ sở xây dựng cở sở dữ liệu thông tin đầy đủ.
+ Tự động hóa hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Thực hiện dịch vụ lưu ký cho các chứng khoán chưa niêm yết. Giảm thời gian thanh toán giao dịch chứng khoán nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường. Thực hiện nối mạng giữa các thành viên lưu ký và các Sở, Sàn giao dịch để cung cấp chính xác, kịp thời những thông tin có liên quan.
- Hệ thống bù trừ thanh toán chứng khoán là một trong số cấu thành nên cơ sở hạ tầng của TTCK, nó đóng vai trò trọng yếu trong việc hoàn tất các giao dịch chứng khoán, theo đó các bên mua và bán chứng khoán được đảm bảo đầy đủ quyền lợi và đồng thời cũng phải thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với các đối tác giao dịch. Kết hợp hệ thống lưu ký chứng khoán, hệ thống bù trừ thanh toán chứng khoán được xem là yếu tố nền tảng, có ý nghĩa quyết định tới sự thành công và hiệu quả của bất kỳ một TTCK nào. Tuy nhiên với một môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và pháp lý đặc thù riêng của Việt Nam thì để phát triển một hệ thống bù trừ thanh toán phù hợp thì phải có những điều hỉnh cần thiết nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống này.
+ Trước tiên phải thành lập tổ chức chuyên nghiệp hoạt động độc lập cung cấp dịch vụ về lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán nhằm đảm bảo tính nhanh chóng, chính xác công bằng và giảm thiểu rủi ro trong thanh toán chứng khoán, quản lý thống nhất các hoạt động giao dịch, thanh toán, cầm cố, lưu ký và khách hàng. Đồng thời dễ dàng hơn trong việc giám sát thanh tra, kịp thời can thiệp và ngăn chặn các hành vi gian lận trong giao dịch chứng khoán.
+ Thứ hai phải tạo được các yếu tố thị trường đồng bộ cho phép các NĐT là các tổ chức tài chính, tín dụng, ngân hàng, các NĐT lớn tham gia trực tiếp vào hệ thống bù trừ thanh toán chứng khoán. Có như vậy mới có thể kiểm soát năng lực tài chính của các đối tượng này khi tham gia TTCK.
3.2.3.5 Triển khai nghiệp vụ bán khống trên TTCK
Bán khống là một chiến lược được thực hiện dựa trên dự đoán về một thị trường giá xuống. NĐT vay cổ phiếu từ các nhà môi giới, sau đó bán ở một mức giá và mua lại ”như kỳ vọng” ở mức giá thấp hơn. Nếu giá cổ phiếu mua lại với giá thấp hơn giá đã bán khống, giao dịch sẽ kiếm được lợi nhuận. Việc thực hiện nghiệp vụ bán khống sẽ thu hút được các NĐT tham gia thị trường, đặc biệt là cải thiện mạnh mẽ tính thanh khoản của thị trường- điểm yếu của các thị trường mới nổi như Việt Nam. Bán khống là xu thế tất yếu để đảm bảo lợi ích của các NĐT, cũng như các tổ chức môi giới chứng khoán chuyên nghiệp.
3.2.4 Giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
3.2.4.1 Tăng cường công tác đào tạo nghiên cứu và tuyên truyền
Con người đóng vai trò quyết định trong mọi hoạt động. Do đó, việc đào tạo và đào tạo lại là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, nhất là trong lĩnh vực năng động như chứng khoán và các công cụ tài chính phái sinh. Quá trình đào tạo không chỉ cho những nhà phân tích, nhà môi giới, nhà quản lý mà cho quảng đại công chúng. Việc đào tạo phải có sự kết hợp giữa những yêu cầu thực tế đặt ra với việc đào tạo nguồn nhân lực ở các trường đại học trong và ngoài nước. Hình thức đào tạo cũng cần đa dạng như chính khoá, hội thảo, đào tạo từ xa,… nhằm đáp ứng nhu cầu của các đối tượng và thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức về TTCK cho công chúng.
Để đáp ứng được yêu cầu về nhân lực cho TTCK thì chương trình đào tạo trong các trường đại học cần chú trọng đến các môn học liên quan đến TTCK. Nội dung của chương trình phải đáp ứng những tiêu chuẩn tiên tiến nhất.
Ngoài ra, cần thường xuyên phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng thông qua các chuyên mục về tìm hiểu kiến thức chứng khoán trên đài phát thanh, truyền hình, internet,… Đây là kênh tuyên truyền nhanh nhất đến quảng đại công chúng đầu tư.
3.2.4.2 Phát triển đội ngũ hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và các công cụ tài chính phái sinh
Các CTCK, các ngân hàng cần lựa chọn các cá nhân để làm việc trong lĩnh vực này dựa trên: Nền tảng đào tạo, nền tảng cá nhân và khả năng phát triển.
- Nền tảng đào tạo: Người ta thường cho rằng người có học vị cao phù hợp với công việc này. Tất nhiên, có được bằng cấp đó là rất tốt nhưng chưa hẳn là đủ và cũng chưa hẳn là chỉ những người đó mới phù hợp. Thực tế, một trực giác tốt để nhận biết nhanh còn quan trọng hơn nền tảng đào tạo, đôi khi tài sản quan trọng nhất của một chuyên gia là “giác quan” nhạy bén, hay có thể nói là họ có sở trường trong lĩnh vực này. Thực tế cho thấy nhiều người thành công trên lĩnh vực này là những người biết nắm bắt, xử lý thông tin, biết phân tích và ra quyết định đúng lúc. Một bộ phận kinh doanh quyền chọn tốt cần có những con người có các nền tảng khác nhau với thế mạnh của họ có thể bổ sung cho nhau và những điểm yếu của mỗi người được người khác bù đắp.
- Nền tảng cá nhân: Cá tính mỗi con người cũng đóng góp đáng kể cho nghề nghiệp kinh doanh công cụ phái sinh. Đây là hoạt động chịu nhiều áp lực, những người kinh doanh trong lĩnh vực này thường rất muốn kiếm được nhiều lợi nhuận, nhưng nếu họ qua đề cao chủ nghĩa cá nhân có thể dẫn đến những sai lầm lớn. Việc cư xử công bằng, không độc đoán và không quá dựa trên lợi nhuận sẽ tạo được môi trường làm việc lành mạnh để các giao dịch viên có thể đạt kết quả tốt.
- Khả năng phát triển: Đây là vấn đề rất khó đánh giá khi bắt đầu lựa chọn một nhân viên giao dịch vì không biết người đó có đủ năng lực, kinh nghiệm, đủ minh mẫn để cạnh tranh khi thị trường phát triển hay không. Vì vậy, ngoài khả năng của người đó, các tổ chức này phải thường xuyên tổ chức các buổi huấn luyện, đào tạo về nghiệp vụ, thi sát hạch cho các nhân viên của mình nhằm nâng cao tay nghề và cập nhật kiến thức cho họ.
Các CTCK phải chủ động tuyển dụng có chọn lọc một đội ngũ nhân viên tư vấn có năng lực thực sự, có ý thức, tác phong năng động, hoạt bát, có đạo đức nghề nghiệp tốt. Đây là một trong những vấn đề khó khăn đối với các CTCK hiện nay khi mà vấn đề nhân sự trong lĩnh vực tài chính trở nên khan hiếm trong thời gian qua. Định kỳ, các CTCK nên tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm về nghiệp vụ chuyên môn, để các nhân viên nghiệp vụ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, tức là không chỉ đào tạo theo hướng chuyên nghiệp, mà còn phải đào tạo song phương theo hướng đào tạo và tự đào tạo. Bên cạnh đó, các CTCK cần phải tổ chức các buổi tư vấn, thuyết trình, giải đáp những thắc mắc để nâng cao kiến thức và kinh nghiệm cho các NĐT. Các CTCK cũng cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với các nhân viên tư vấn làm tốt chuyên môn, nhằm khuyến khích họ phát huy hơn nữa năng lực của mình.
3.2.5 Các nhóm giải pháp khác
3.2.5.1 Học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới
Đây là giải pháp vô cùng quan trọng trong việc ứng dụng các giao dịch quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam. Chúng ta có thể học hỏi và áp dụng kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới về các lĩnh vực như: việc tổ chức sàn giao dịch, nguyên tắc, cơ chế và quy trình giao dịch; việc xây dựng chính sách phát triển và quản lý thị trường; việc xây dựng khuôn khổ pháp luật cho TTCK; việc đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức quản lý,… và đặc biệt là các bài học kinh nghiệm như đã nêu ở mục 1.3.3 của chương I.
3.2.5.2 Giải pháp để tiến tới thành lập một sàn giao dịch quyền chọn niêm yết tập trung
Để thị trường quyền chọn thực sự phát triển và trở thành một trong những trụ cột của thị trường tài chính, khi thị trường quyền chọn và các giao dịch quyền chọn đạt đến độ chín mùi cần thiết, bên cạnh một thị trường quyền chọn phi tập trung, nhà nước cần tiến hành tham khảo, học hỏi kinh nghiệm từ các sàn giao dịch quyền chọn lớn trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ, để thành lập một sàn giao dịch quyền chọn tập trung chính thức (giống như một sàn giao dịch chứng khoán niêm yết tập trung) như ở các nước có TTTC phát triển, với các tài sản cơ sở ở đây có thể là cổ phiếu, trái phiếu, ngoại tệ, chỉ số chứng khoán, vàng, lãi suất... Điều này sẽ làm tăng tính thanh khoản, khối lượng giao dịch trên thị trường quyền chọn cũng như thị trường các tài sản cơ sở, đặc biệt là TTCK; dần dần tiến đến chuyên nghiệp hóa, tạo thuận tiện, phổ biến và đưa thị trường quyền chọn trở thành một một trong những thị trường thiết yếu trên thị trường tài chính.
Việc xây dựng hệ thống kỹ thuật công nghệ cho sàn giao dịch quyền chọn tập trung đòi hỏi sự đầu tư lớn và đồng bộ. Các nhà quản lý có thể dựa vào kinh nghiệm xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật công nghệ cho SGDCK và tham khảo từ các sàn giao dịch quyền chọn tập trung ở các nước, kết hợp với khả năng, tình hình thị trường hiện tại để trang bị hệ thống kỹ thuật công nghệ phù hợp với điều kiện nước ta. Các hệ thống lưu ký, giao dịch, thanh toán bù trừ, hệ thống kết nối với các thành viên (NHTM, CTCK môi giới quyền chọn)… cần được trang bị đồng bộ, thống nhất, giúp đơn giản hóa các qui trình giao dịch, đồng thời tăng tính chính xác, thanh khoản và độ an toàn cho các NĐT tham gia thị trường.
Về phía các CTCK: ngoài các giải pháp đã nêu ở trên, khi một sàn giao dịch quyền chọn tập trung được thành lập, cũng giống như TTCK; các hoạt động giao dịch, chuyển nhượng quyền chọn sẽ diễn ra. Các CTCK sẽ đóng vai trò là thành viên của sở giao dịch quyền chọn, đứng ra môi giới và thu phí đối với các giao dịch chuyển nhượng quyền chọn đối với khách hàng. Khi đó, phí môi giới quyền chọn cần được các CTCK tính toán kỹ lưỡng để có thể bù đắp được các khoảng chi phí đầu tư đã bỏ ra, đảm bảo khả năng cạnh tranh và bước đầu thu lợi nhuận. Trong điều kiện các giao dịch chuyển nhượng quyền chọn mới bắt đầu hình thành, các CTCK nên chào một mức phí cạnh tranh, để bước đầu thu hút được khách hàng, giúp cho NĐT làm quen cũng như hứng thú hơn với việc tham gia giao dịch các quyền chọn tập trung, đóng vai trò tích cực trong việc phát triển một thị trường giao dịch quyền chọn tập trung chính thức.
3.3. Mô hình dự kiến của sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam
Trên cở sở nghiên cứu mô hình thì trường quyền chọn của các nước trên thế giới tác giả đề xuất mô hình quyền chọn chứng khoán cho TTCK Việt Nam trên cơ sở nền tảng hiện tại.
3.3.1 Môi trường giao dịch
Việt Nan cần xây dựng một hệ thống chương trình tự động riêng cho thị trường giao dịch quyền chọn chứng khoán, tại đó toàn bộ lệnh sẽ thực thi thông qua hệ thống điện tử được nhập từ các CTCK, đóng vai trò là môi giới của các NĐT.
SGDCK sẽ quy định các điều kiện cho các loại cổ phiếu được phép giao dịch quyền chọn, trước mắt là các loại chứng khoán của những công ty lớn, tình hình tài chính ổn định, hoạt động kinh doanh phát triển tốt, khối lượng giao dịch nhiều và tính thanh khoản cao. Cụ thể khi bắt đầu triển khai thí điểm chúng ta có thể chọn ra 50 cổ phiếu đang có mức vốn hóa thị trường lớn nhất, tính thanh khoản cao, tình hình tài chính ổn định, gồm các cổ phiếu sau:
Bảng 3.1: Danh mục 50 mã chứng khoán có mức vốn hóa lớn nhất thị trường
Nguồn: Công ty CP Chứng khoán Hòa Bình
Thời gian giao dịch cần được quy định tương thích với thời gian giao dịch các chứng khoán cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán hợp đồng quyền chọn của NĐT.
Ủy ban chứng khoán nhà nước có trách nhiệm soạn thảo điều lệ và chuẩn mực chung cho thị trường quyền chọn chứng khoán, từ đó các SGDCK, trung tâm lưu ký- thanh toán bù trừ sẽ ban hành các nguyên tắc, quy định cho các hoạt động giao dịch trên sàn, bao gồm các mẫu biểu, quy mô hợp đồng, giá thực hiện, hạn mức thực hiện, phương thức đặt lệnh, ký quỹ và thanh toán hợp đồng đáo hạn...
3.3.2 Nhà tạo lập thị trường, nhà môi giới quyền chọn.
Với quy mô TTCK Việt Nam, trong thời gian đầu tập trung áp dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán thì các CTCK, Công ty đầu tư tài chính có thể đóng vai trò nhà môi giới quyền chọn và nhà tạo lập thị trường.
Do những đặc điểm riêng biệt của giao dịch quyền chọn chứng khoán, các nhà môi giới quyền chọn chứng khoán sẽ có chức năng tư vấn về giao dịch quyền chọn, môi giới quyền chọn, nhập lệnh giao dịch, thông báo kết quả giao dịch cho NĐT và hưởng phí hoa hồng từ các NĐT.
3.3.3 Mô hình tổ chức và phương thức giao dịch dự kiến sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam.
TTCK Việt Nam hiện nay quy mô còn khá hạn chế, trong giai đoạn đầu ứng dụng quyền chọn chứng khoán nên kết hợp sàn giao dịch quyền chọn chung với sàn giao dịch chứng khoán hiện nay.
Sau đây là quy trình vận hành dự kiến sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam:
NĐT
Bộ phận nhận lệnh
CTCK
Bộ phận giao lệnh
Những người môi giới trên sàn
(5)
TRUNG TÂM LƯU KÝ, THANH TOÁN BÙ TRỪ
Người môi giới(đại diện cty Chứng khoán)
SÀN GIAO DỊCH
(1)
(10)
(2)
(9)
(3)
(8)
(7)
(4)
(6)
Hình 3.1: Quy trình vận hành dự kiến sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam
Cũng giống như giao dịch mua bán chứng khoán, NĐT phải mở tài khoản giao dịch quyền chọn tại một CTCK và trước khi giao dịch NĐT phải ký quỹ tương ứng, sau đó ủy nhiệm cho CTCK tiến hành thực hiện mua hoặc bán quyền chọn cụ thể với mức giá cụ thể hay giá yết trên sàn.
Sau khi các bên mở tài khoản tại CTCK, đóng tiền ký quỹ và hoàn tất giấy tờ theo yêu cầu của CTCK, tiến trình mua bán được tiến hành như sau:
Bên mua và bên bán quyền chọn chứng khoán đặt lệnh mua bán tại bộ phận nhận lệnh của CTCK.
Bộ phận nhận lệnh của CTCK sau khi nhận lệnh của NĐT tiến hành kiểm tra, đối chiếu với số dư tài khoản của NĐT và nếu phù hợp với các điều kiện quy định bộ phận này sẽ ghi các chi tiết mua/bán quyền chọn chứng khoán vào phiếu lệnh và chuyển phiếu lệnh cho bộ phận giao lênh.
Bộ phận giao lệnh chuyển phiếu lệnh cho người môi giới trên sàn của mình (người đại diện cho CTCK mà các bên mở tài khoản).
Người môi giới này giới thiệu lệnh với những người môi giới khác.
Những người môi giới này sẽ thực hiện thi hành lệnh đó.
Sau khi thực hiện hoàn tất các giao dịch mua/bán quyền chọn, kết quả giao dịch sẽ được thông báo về Trung tâm lưu ký – thanh toán bù trừ và bộ phận nhận lệnh CTCK để bộ phận này thông báo cho người mua/bán quyền chọn tương ứng. Các NĐT sẽ ký gửi phí quyền chọn cho bộ phận nhận lệnh các CTCK. Sau đó bộ phận này của bên mua/bán quyền chọn sẽ thanh toán phí quyền chọn và tiền ký quỹ cho Trung tâm lưu ký – thanh toán bù trừ.
Người môi giới trên sàn nhận thông báo xác nhận lệnh đã thi hành.
Thông báo xác nhận sẽ được chuyển lại cho Bộ phận giao lệnh của CTCK.
Bộ phận giao lệnh xác nhận vào hệ thống theo dõi của mình chuyển sang bộ phận nhận lệnh
Bộ phận nhận lệnh thông báo và xác nhận cho khách hàng là lệnh mua bán đã được thi hành.
Trên đây chỉ là mô hình dự kiến trong giai đoạn đầu khi mới thành lập thị trường quyền chọn chứng khoán, đến khi thị trường vận hành tốt, chúng ta sẽ mở rộng đối tượng tham gia cũng như chứng khoán cơ sở để thỏa mãn nhu cầu của thị trường.
Phát triển các nhà tạo lập thị trường:
Nhà tạo lập thị trường có vai trò rất quan trọng, có ảnh hưởng to lớn đến tính thanh khoản của quyền chọn, yếu tố góp phần quan trọng vào tính thành công của thị trường giao dịch quyền chọn tạp trung. Nhà tạo lập thị trường có thể có các tổ chức như CTCK, các Ngân hàng hay các công ty tài chính… và có thể là các cá nhân khi thị trường phát triển đến một mức độ nhất định.
Phí giao dịch, phí thanh toán và hoa hồng.
Phí giao dịch và phí thanh toán là khoản phí phải trả cho các CTCK, các nhà môi giới quyền chọn. Khoản phí này được tính bằng một tỷ lệ dựa trên trị giá Hợp đồng quyền chọn. Mức phí tối thiểu và tối đa do các CTCK, SGDCK và trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ quy định. Tùy theo mỗi CTCK mà tỷ lệ phần trăm này sẽ có sự thay đổi nhằm tạo sự cạnh tranh giữa các CTCK.
Đối với các CTCK thực hiện chức năng nhà tạo lập thị trường, khoản phí này sẽ nộp cho SGDCK căn cứ vào từng hợp đồng giao dịch.
Nếu các hợp đồng quyền chọn được thực hiện thì NĐT phải trả thêm một khoản hoa hồng cho các nhà môi giới thực hiện việc mua bán quyền chọn chứng khoán. Đối với quyền chọn không thực hiện khi đáo hạn thì không phải trả khoản phí này.
Yết giá.
Giá hỏi mua, chào bán và giá giao dịch cần được công bố theo nguyên tắc chung và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng của SGDCK và các CTCK thành viên.
Đối với các sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán trên thế giới, muốn biết được thông tin yết giá trực tuyến người sử dụng phải trả phí. Tuy nhiên đối với thị trường mới như ở Việt Nam, các SGDCK nên yết giá công khai trên cơ sở không thu phí cho tất cả thông tin để kích thích thị trường phát triển.
Cơ chế quản lý giám sát.
Quản lý và giám sát là khâu rất quan trọng trong việc tổ chức hoạt động của sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán, quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động của sàn giao dịch.
Mục tiêu chính của hệ thống quản lý giám sát giao dịch trên sàn là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các NĐT, bảo đảm cho thị trường hoạt động công bằng và hiệu quả, giảm thiểu những rủi ro và ngăn chặn những rủi ro hệ thống.
Ở Việt Nam, UBCKNN sẽ thiết lập các quy định và quy trình áp dụng cho các thành viên tham gia sàn giao dịch quyền chọn. Các bộ phận của cơ chế quản lý giám sát bao gồm:
- Bộ phận giám sát giao dịch: có nhiệm vụ theo dõi và phát hiện các giao dịch bất thường, giám sát các giao dịch có dấu hiệu liên quan đến giao dịch nội gián, lũng đoạn thị trường, tung tin đồn thất thiệt và các giao dịch mang dấu hiệu của các hành vi bị cấm và hạn chế khác.... để tiến hành điều tra xác định mức độ vi phạm, áp dụng các biện pháp xử lý.
- Bộ phận giám sát thành viên: có nhiệm vụ theo dõi và phát hiện các sai phạm liên quan đến những CTCK thành viên, có chức năng kiểm tra, thanh tra khi thu thập được những bằng chứng chính xác, báo cáo sang bộ phận xử lý và công bố thông tin.
- Bộ phận giám sát thông tin và công bố thông tin: có nhiệm vụ quản lý tất cả các thông tin liên quan đến giao dịch quyền chọn trên thị trường, có chức năng kiểm tra tính xác thực của các thông tin từ các CTCK thành viên. Đồng thời bộ phận giám sát và công bố thông tin có trách nhiệm cung cấp ra bên ngoài những thông tin giao dịch trên hệ thống công bố thông tin.
- Bộ phận xử lý: Bộ phận này căn cứ vào những báo cáo vi phạm được gửi từ các bộ phận trên mà tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật. Sau đó báo cáo UBCKNN, cũng có thể đưa ra những kiến nghị phù hợp với tình hình thực tế phát sinh để xem xét, sửa đổi các văn bản pháp quy phù hợp với tình hình thực tế.
KẾT LUẬN
Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đặc biệt là kể từ khi gia nhập vào WTO. Hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức đối với nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam TTCK cũng đang có sự phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh này đã bộc lộ những rủi ro tiềm ẩn cho công chúng đầu tư, đặc biệt là NĐT nhỏ lẻ. Đã đến lúc cần phải có công cụ bảo vệ cho họ và việc xây dựng thị trường quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết. Nó cũng tạo thêm một sân chơi mới cho các NĐT và góp phần nâng cao tính cạnh tranh của TTCK Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Chương I của luận văn đã nêu những vấn đề tổng quan về quyền chọn chứng khoán. Ngoài ra cũng sơ lược về quá trình phát triển và tổ chức hoạt động của một số thi trường quyền chọn chứng khoán phổ biến trên thế giới.
Ở Chương II đã trình bày khát quát về lịch sử phát triển của TTCK Việt Nam từ khi thành lập đến nay và sự cần thiết phải áp dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam. Bên cạnh đó cũng phân tích thực trạng các loại quyền chọn đang phát triển ở Việt Nam hiện nay và đánh giá thực trạng các điều kiện để có thể áp dụng quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam.
Trong Chương III đưa ra những nhận định về khả năng áp dụng quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam và những giải pháp nhằm phát triển, lành mạnh hóa TTCK và các giải pháp nhằm xây dựng, tạo tiền đề để phát triển công cụ quyền chọn vào TTCK hiện nay.
Dù đã rất cố gắng, nhưng do thời gian nghiên cứu có hạn, cũng như người viết còn nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tế cũng như tính mới mẻ của đề tài. Vì vậy, luận văn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết và sai sót, tác giả rất mong nhận được sự thông cảm và chỉ dẫn góp ý của Quý Thầy Cô và các độc giả quan tâm để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
TS. Phạm Văn Hùng (2008), Giáo trình thị trường vốn, NXB Đại học KTQD.
TS Nguyễn Văn Tiến (2003), Quyền chọn tiền tệ, NXB Thống kê
PGS.TS. Bùi Kim Yến (2008), Giáo trình TTCK, NXB GTVT
TS. Bùi Lê Hà; TS. Nguyễn Vǎn Sơn; TS. Ngô Thị Ngọc Huyền; ThS. Nguyễn Thị Hồng Thu (2000), Giới thiệu về thị trường Future & Option, NXB Thống kê
TS Nguyễn Minh Kiều(2009), Nghiệp vụ kinh doanh và đầu tư chứng khoán, NXB Thống kê
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2006), Luật chứng khoán.
Quyết định số 128/2007/QĐ-TTg ngày 02/08/2007 của thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
Thông tư số 38/2007/TT-BTC ngày 18/04/2007 của Bộ tài chính hướng dẫn về công bố thông tin trên TTCK
Thông tư số 09/2010/TT-BTC ngày 15/01/2010 của Bộ tài chính hướng dẫn về công bố thông tin trên TTCK
Quyết định số 106/QĐ-UBCK ngày 08/02/2010 của UBCKNH về việc ban hành Quy định hướng dẫn về yêu cầu hệ thống công nghệ thông tin của CTCK.
Bành Thơ (2009), Chứng khoán phái sinh nhìn từ góc độ quản lý, Tạp chí chứng khoán số 10/2009.
TS Nguyễn Minh Phong (2007), nhận diện rủi ro trong đầu tư chứng khoán, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội
Phòng CSTT- Vụ CSTT - NHNN, Nghiệp vụ tài chính phái sinh và thực trạng sử dụng tại Việt Nam.
Các trang web:
Ủy ban chứng khoán nhà nước
Bộ tài chính
SGDCK TP HCM
SGDCK TP Hà Nội
Tạp chí chứng khoán
Tin nhanh Việt Nam
Thời báo kinh tế Việt Nam
Saga Việt Nam
Công ty CP chứng khoán Kim Long
Chicago Board Options Exchange
Euronext N.V.
London International Financial Futures and Options Exchange
Tiếng Anh
John c.Hull, Options, future and Other Derivatives, Sixth Edition, Prentice Hall, 2006.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH112.doc