Chuyên mục: Luật dân sựTrường: ĐH Luật Hồ Chí MinhLoại: Đề tài tốt nghiệpFile: docTrình độ: Đại họcSố trang: 69
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Hiểu biết về quyền con người là nền tảng để mỗi người phát triển đầy đủ nhân cách, năng lực của mình và cũng là nền tảng của sự phát triển và tiến bộ của một xã hội. Thế nhưng, "Hàng triệu người sinh ra, rồi chết đi mà không hề biết rằng mình là chủ nhân của các quyền con người ." (Wolfgang Benedek). Kiến thức về quyền con người, quyền công dân quan trọng như vậy cho nên mục tiêu của giáo dục con người phải nhằm " . thúc đẩy sự tôn trọng các quyền cơ bản của con người ." theo Điều 26 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người, năm 1948 của Liên hợp quốc. Vì vậy, việc xây dựng nền văn hóa Quyền con người trên toàn thế giới là đóng góp quan trọng nhất cho các thế hệ hiện tại và tương lai.
Ở nước ta, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn là chế định quan trọng của hiến pháp và là đối tượng chủ yếu của nền hiến pháp dân chủ, hiến pháp xã hội chủ nghĩa . Đảng và nhà nước ta đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về học thuyết quyền con người, quyền công dân trong việc soạn thảo, xây dựng, sửa đổi và ban hành Hiến pháp, luật phù hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn lịch sử. Chính vì thế, vấn đề bảo vệ các quyền của công dân được coi là yêu cầu trung tâm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đổi mới đất nước mối quan hệ pháp lí giữa nhà nước và công dân phải được tăng cường, nhà nước phải có biện pháp phù hợp bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ vững an ninh để nhân dân thực sự trở thành “ người chủ”, còn nhà nước chỉ là “phương tiện” để nhân dân thực hiện quyền lực của mình.
Trong các bản hiến pháp, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được thể hiện tương đối đầy đủ trên các lĩnh vực chính trị, tự do dân chủ, tự do cá nhân, kinh tế, văn hóa – xã hội. Trong đó nhóm quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó có mối liên hệ mật thiết với từng cá nhân, từng công dân.
Trong những năm qua, quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân luôn được Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện để nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình . Tuy nhiên, vẫn không tránh khỏi những thiếu sót, quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân ít nhiều không được bảo vệ, nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ phía nhà nước. Yêu cầu khách quan đặt ra xuất phát từ thực tiễn đáp ứng với yêu cầu dân chủ hóa hiện nay đó là những việc mở rộng và đảm bảo cho công dân thực hiện quyền cơ bản của mình về tự do dân chủ và tự do cá nhân.
Với những lí do trên, em mạnh dạn lựa chọn đề tài “ quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân. Thực trạng và giải pháp”. Do kiến thức thực tiễn còn chưa nhiều, tài liệu hạn chế nên trong bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, rất kính mong nhận được sự đóng ghóp ý kiến của các thầy cô trong tổ bộ môn.
2. Mục đích, ý nghĩa của khóa luận:
Khóa luận giúp người đọc hiểu rõ hơn về quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực tự do dân chủ, tự do cá nhân thông qua việc phân tích khái niệm, nội dung, đặc điểm, ý nghĩa và những qui định của pháp luật.
Khóa luận làm rõ những ưu điểm, hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện quyền đồng thời đề ra những giải pháp mang tính khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền của công dân trên thực tế, để quyền làm chủ của công dân được phát huy tối đa.
3. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện dựa trên cơ sở và phương pháp phân tích các qui định của pháp luật, tình hình thực tiễn áp dụng và phương pháp tổng hơp, đánh giá những ưu điểm, hạn chế. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, khóa luận còn sử dụng một số phương pháp cụ thể như phương pháp, nghiên cứu thống kê, khảo cứu thực tiễn. Các phương pháp được kết hợp với nhau nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
4. Bố cục của khóa luận:
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, nội dung của khóa luận được trình bày trong hai chương:
Chương I: Khái quát chung về quyền cơ bản của công dân.
Chương II: Nội dung quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân. Thực trạng và giải pháp
69 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6884 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội mới”. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 24/NQ-TW, Đảng ta đã tổng kết, đánh giá những thành tựu và nêu rõ những khuyết điểm, đồng thời Bộ Chính trị ra Chỉ thị 37/CT-TW ngày 02/7/1998 Về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Cho đến Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bảy, khoá IX về công tác tôn giáo (Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003) thì quan điểm chính sách của Đảng ta đối với tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm một bước mới phù hợp với sự nghiệp đổi mới đất nước. Đó là: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”. Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là một trong những quyền công dân, quyền chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào, mong muốn cho người dân theo tôn giáo được “phần hồn thong dong, phần xác ấm no”.
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân cũng được đề cập trong Bộ Luật Dân sự, được bảo vệ bằng pháp luật và được cụ thể hoá trong văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Một minh chứng cụ thể là sau 5 năm thực hiện, Nghị định 26/1999/NĐ-CP, ngày 19/4/1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo đã được thay thế bằng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XI thông qua ngày 18/6/2004 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 29/6/2004.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng rõ ràng và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Nhờ có chính sách tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và được bổ sung theo sự phát triển của xã hội nên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn luôn được mở rộng và đảm bảo. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được xây dựng trên cơ sở kế thừa Sắc lệnh 234/SL và được đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn qua nhiều giai đoạn cách mạng thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Những quy định cụ thể trong Pháp lệnh cũng như trong Nghị định 22/2005/NĐ-CP, ngày 01/3/2005 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều trong Pháp lệnh, một mặt tạo cơ sở pháp lý đảm bảo cho mọi công dân thực hiện quyền cơ bản về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quy định rõ ràng hơn, thông thoáng hơn và cởi mở hơn. Công dân có quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào; được bày tỏ đức tin của mình; được thực hiện các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức tôn giáo. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; bảo hộ cơ sở vật chất, tài sản của các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo như chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất, điện, đền, trụ sở của tổ chức tôn giáo, trường lớp tôn giáo; kinh bổn và các đồ dùng thờ cúng của tín ngưỡng, tôn giáo.
Thiết nghĩ không cần nói thêm nhiều mà có thể khẳng định rằng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo là tư tưởng cơ bản của Đảng và Nhà nước ta thể hiện quan điểm trước sau như một: tín ngưỡng hay không tín ngưỡng là sự lựa chọn tự do của con người, bởi vì tôn giáo là niềm tin và tồn tại như một nhu cầu tinh thần của quần chúng. Thái độ của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề tự do tôn giáo luôn luôn rõ ràng và phân minh. Một mặt Đảng và Nhà nước ta tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác lại nghiêm cấm việc kỳ thị hoặc xúc phạm người có tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời cũng nghiêm cấm việc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm và danh dự của công dân hoặc trái với thuần phong mỹ tục.
Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng mà được thể hiện sống động trong cuộc sống hàng ngày. Cho đến nay, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 32 tổ chức tôn giáo và sẽ tiếp tục xem xét theo quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Chúng ta có thể khẳng định rằng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang diễn ra bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Cả nước có khoảng 70.000 chức sắc, nhà tu hành, chưa kể hàng vạn người hoạt động bán chuyên nghiệp của các tổ chức tôn giáo, Việc đào tạo chức sắc của các tôn giáo tiếp tục được quan tâm. Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện có 4 Học viện Phật giáo; 30 Trường Trung cấp Phật học và 4 Trường Cao đẳng Phật học. Giáo hội Công giáo có 6 Đại chủng viện và 2 cơ sở. Viện thánh kinh thần học của Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam)… để đào tạo chức sắc phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ. Các tôn giáo hiện có hàng trăm người đang theo học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước trên thế giới. Cả nước hiện có hơn 24.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được xây dựng mới, xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng hùng hồn về đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ các tôn giáo là những công dân của Việt Nam. Chính vì vậy, các tổ chức tôn giáo, chức sắc và tín đồ đã thể hiện sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, yên tâm sinh hoạt tôn giáo và cùng nhau hưởng cuộc sống thanh bình, trên một đất nước ổn định về chính trị; cùng nhau đoàn kết, đồng lòng vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Theo một thống kê gần đây, tính đến tháng 10/2007, số lượng tín đồ tôn giáo Việt Nam là 23 triệu người, chiếm gần 30% tổng số dân toàn quốc. Ở Việt Nam có mặt hầu hết các tôn giáo lớn với đông đảo tín đồ, chức sắc, nhà tu hành như Phật giáo, Hồi giáo, Công giáo, Cao đài, Tin lành, Hòa hảo…, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Số cơ sở đền thờ tự như: nhà thờ, đền, chùa, thánh thất, miếu mạo…không ngừng gia tăng về số lượng và quy mô. Hàng trăm cơ sở thờ tự được xây dựng mới mỗi năm và hàng nghìn cơ sở được tôn tạo, tu sửa mới. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo và hoạt động đào tạo của các tôn giáo cũng không ngừng phát triển về số lượng và quy mô. Các tôn giáo lớn củaViệt Nam đều có các tờ báo và tạp chí riêng phát hành trên toàn quốc. Trong số 13.000 các loại văn bản pháp luật các loại tính từ năm 1986 đến nay, riêng về lĩnh vực tôn giáo, Nhà nước đã ban hành 85 văn bản có nội dung điều chỉnh về hoạt động tôn giáo, thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của nhân dân (Nguồn: Báo lao động). Những số liệu trên cho thấy rằng việc bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được Nhà nước ta quan tâm, công dân được tự do tín ngưỡng theo hoặc không theo tôn giáo nào, các tôn giáo được bình đẳng trước pháp luật; Những thành quả của Việt Nam trong lĩnh vực tôn giáo là không thể phủ nhận. Thế nhưng các thế lực thù địch vẫn tìm cách vu cáo Nhà nước ta đàn áp tôn giáo, vi phạm dân chủ, nhân quyền, đòi tôn giáo hoạt động không chịu sự quản lý của nhà nước... Khi một số đối tượng lợi dụng tôn giáo hoạt động chống đối chính quyền, vi phạm pháp luật bị cơ quan chức năng Việt Nam xử lý theo quy định của pháp luật thì họ tìm cách xuyên tạc, vu cáo Nhà nước Việt Nam đàn áp tôn giáo, bắt bớ các nhà tu hành vì lý do tôn giáo, can thiệp đòi thả các đối tượng đó...
3. Giải pháp hoàn thiện
Hoạt động tôn giáo ở nước ta, bên cạnh xu hướng tuân thủ pháp luật là chủ yếu, thời gian qua đã xảy ra một số vụ lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để gây rối trật tự công cộng, đi ngược lại lợi ích của cộng đồng; muốn tách khỏi sự quản lý của nhà nước trong các lĩnh vực: Xây dựng, sửa nơi thờ tự, hoạt động lễ hội, quan hệ với các tổ chức, cá nhân, tôn giáo nước ngoài; tranh chấp, khiếu kiện đòi lại nhà, đất và cơ sở thờ tự... Một số hoạt động và hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện, như phát triển đạo Tin lành trái pháp luật ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thành lập hội đoàn, dòng tu... không xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đòi phục hồi các giáo hội đã bị Nhà nước giải thể... Một số đối tượng tổ chức tuyên truyền đạo trái pháp luật, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan. Việc khiếu kiện, tranh chấp liên quan đến đất đai và cơ sở vật chất của tôn giáo ở một số nơi tăng lên, có nơi gay gắt, phức tạp. Một số địa phương, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, một số đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành các hoạt động chống đối, kích động tín đồ, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị. Điển hình, trên địa bàn Tây Nguyên, qua đấu tranh, các lực lượng chức năng của ta đã làm rõ “Tin lành Đề ga” thực chất là một tổ chức phản động đội lốt tôn giáo để lừa bịp, tập hợp lực lượng, phục vụ âm mưu thành lập “Nhà nước Đề ga” độc lập. Vụ giáo xứ Thái Hà đấu tranh đòi đất tại Hà Nội vào năm 2008.
Các tôn giáo ở Việt Nam dù nội sinh hay ngoại nhập, muốn phát triển được đều phải hoà đồng với văn hoá dân tộc và phải chịu sự quản lý của Nhà nước. Đây là yêu cầu khách quan, bởi vì không có một tôn giáo nào đứng ngoài quốc gia, dân tộc và đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc. Lợi ích quốc gia là cao nhất, trong đó có lợi ích của các tôn giáo. Nội dung quản lý nhà nước ở Việt Nam được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước ta xác định rõ quyền hạn hoạt động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo trên các lĩnh vực quản đạo, hành đạo, truyền đạo; nơi thờ tự của các tôn giáo được Nhà nước bảo hộ; việc thành lập tổ chức tôn giáo phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải đúng quy định của pháp luật, phù hợp với đạo đức, văn hoá và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Mọi hoạt động lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc, dân tộc, gây phương hại an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội đều phải bị lên án, đấu tranh ngăn chặn, xử lý nghiêm.
Thời gian tới, chúng ta cần đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng để quần chúng nhân dân, nhất là chức sắc, tín đồ các tôn giáo nắm và hiểu rõ quan điểm, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; thấy rõ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân không chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật mà còn được tôn trọng, bảo đảm thực hiện trong cuộc sống. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng nhân dân Việt Nam; mọi chính sách phát triển kinh tế- xã hội của Đảng, Nhà nước đều nhằm thực hiện "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, trong đó có đồng bào các tôn giáo. Trong công tác tuyên truyền cần chỉ rõ âm mưu, hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo; đồng thời giáo dục để chức sắc, tín đồ thấy rõ trách nhiệm công dân, chủ động đấu tranh với các hoạt động sai trái, vi phạm pháp luật.
Đi đôi với công tác tuyên truyền, cần quan tâm phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các tôn giáo. Cán bộ làm công tác vận động quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo các cấp cần nắm chắc chính sách, pháp luật về tôn giáo; thực sự gần gũi, nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của quần chúng tín đồ; tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để tín đồ, chức sắc các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, vận động đồng bào giáo dân tích cực tham gia các phong trào cách mạng ở địa phương.
Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại để nhân dân thế giới và người Việt Nam định cư ở nước ngoài hiểu rõ, hiểu đúng về chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam, tình hình tôn giáo ở trong nước; chủ động đấu tranh vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phản động, lợi dụng chiêu bài tự do tín ngưỡng, tôn giáo, nhân quyền... để chống phá Nhà nước Việt Nam, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình, gây mất ổn định chính trị-xã hội của đất nước. Đối với số đối tượng lợi dụng tôn giáo ngoan cố chống đối, làm tay sai cho địch cần điều tra làm rõ, xử lý nghiêm.
III. Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân. (Điều 71)
Nội dung
Trong số những quyền của con người thì quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người là một quyền quan trọng bậc nhất. Đây không những là quyền cơ bản của công dân mà còn là quyền cơ bản nhất của con người. Mọi chế độ chính trị dân chủ hiện nay đều phấn đấu để bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân luôn được các bản Hiến pháp của nước ta ghi nhận. Hiến pháp 1992 tiếp tục ghi nhận quyền này nhưng đã có sự phát triển hơn. Theo quy định tại Điều 71 Hiến pháp 1992: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể..Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”. So với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 đã bổ sung quy định mới về trường hợp phạm tội quả tang thì công dân có thể bị bắt ngay mà không cần đợi quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân. Quy định này của Hiến pháp 1992 là hợp lí, vì nếu trong trường hợp phạm tội quả tang mà phải đợi quyết định bắt người của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì sẽ không thể bảo đảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Đồng thời, Hiến pháp 1992 cũng nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân nhằm ngăn ngừa sự vi phạm từ phía cơ quan Nhà nước và những người có thẩm quyền trong việc bắt và giam giữ công dân. Việc nghiêm cấm mọi hình thức xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân là sự đổi mới của Hiến pháp 1992 so với Hiến pháp 1980, xuất phát từ việc nhận thức đúng đắn về danh dự, nhân phẩm của công dân. Quy định này nhằm ngăn ngừa sự vi phạm từ các cơ quan, nhân viên nhà nước, những người có thẩm quyền xâm phạm tính mạng, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Để đảm bảo chặt chẽ hơn quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, Hiến pháp 1992 đã quy định thêm một điều luật mới (Điều 72) so với các bản Hiến pháp trước đây về nguyên tắc suy đoán vô tội. Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay là việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử trái pháp luật gây thiệt hại cho người dân vẫn còn xảy ra ở một số nơi, để bảo vệ toàn vẹn quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, để nâng cao tính bảo đảm pháp lý cho quyền này các nhà lập pháp cần đưa vào trong đạo luật cơ bản nguyên tắc suy đoán vô tội, mặc dù nguyên tắc này đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 72 Hiến pháp 1992 ghi nhận : “ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.Người bị bắt, bị giam giữ,bị truy tố,xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt,giam giữ,truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xủ lý nghiêm minh “. Trong Điều 72 có ba quy định mới dược bổ sung đó là:
+ “ Không ai là bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật “. Quy định này có nghĩa là công dân chỉ bị coi là có tội và phải chịu hình phạt sau khi đã thông qua xét xử và bị tuyên án là có tội bởi một Tòa án có thẩm quyền và bản án đã có hiệu lực pháp luật.Không ai bị coi có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án là nguyên tắc quan trọng của pháp luật hiện đại được nhiều nước trên thế giới công nhận và áp dụng. Ở Việt Nam, quy định này có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Việc bổ sung quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ tính mạng, danh dự và nhân phẩm của con người trong quá trình thực hiện pháp luật. Quy định này đã được cụ thể hóa trong Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền trong lĩnh vực tư pháp.
+ “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự“. Đây là quy định mới của Hiến pháp 1992 nhằm thể hiện trách nhiệm từ phía nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự cho công dân khi Nhà nước làm sai pháp luật. Quy định mới này của Hiến pháp 1992 đã thể hiện bản chất của quan hệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với công dân là cả hai bên đều bình đẳng với nhau về quyền,nghĩa vụ và đều phải chịu trách nhiệm pháp lý khi gây thiệt hại về quyền, lợi ích hợp pháp của nhau. Không chỉ được bồi thường về vật chất mà những người bị bắt,bị giam giữ, bị truy tố, bị xét xử trái pháp luật còn được phục hồi danh dự. Quy định này của Hiến pháp 1992 thực sự đầy đủ và chặt chẽ vì danh dự cũng không kém phần quan trọng so với vật chất và nhiều khi sự tổn hại về danh dự còn hơn cả sự thiệt hại về vật chất. Do đó, khi công dân bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, bị xét xử trái pháp luật thì họ có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phải được phục hồi danh dự. Quy định này cũng nhằm nhắc nhở các cơ quan tố tụng phải luôn tôn trọng pháp luật trong việc thực hiện hoạt động của mình.
+ “ Người làm trái pháp luật trong việc bắt,giam giữ. Truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”. Đây là quy định mới của Hiến pháp 1992,thể hiện thái độ kiên quyết của nhà nước ta đối với những hành vi trái pháp luật của những chủ thể có thẩm quyền trong việc bắt, giam giữ, truy tố và xét xử đã gây thiệt hại cho công dân và những người khác. Đồng thời quy định này cũng nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực Nhà nước cũng như sự tắc trách của các chủ thể này, đề cao hơn nữa trách nhiệm của họ khi thực hiện công việc mà Nhà nước giao.
Như vậy, Hiến pháp 1992 bổ sung quy định tại Điều 72 nhằm nhăn ngừa tình trạng tùy tiện giam giữ, phân biệt đối xử đối với những người chưa bị coi là có tội; ngăn ngừa tình trạng vi phạm quyền con người, quyền công dân, đảm bảo tốt hơn quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân và nâng cao hơn nữa tính chặt chẽ của pháp luật. Đồng thời thể hiện trách nhiệm từ phía nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại cho công dân khi Nhà nước làm sai pháp luật,thể hiện sự bình đẳng trong mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và công dân trong thời đại mới.
Thực trạng
Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được bảo vệ trong thực tế. Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là quyền thiêng liêng cơ bản nhất trong hệ thống các quyền cơ bản của con người. Hiến pháp 1992 đã dành riêng 2 Điều 71 và Điều 72 quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân. Đây là cơ sở quan trọng để đề ra các quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền cơ bản của công dân cũng như quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Đã có rất nhiều văn bản Luật có liên quan được soạn thảo trên thực tế nhằm cụ thể hóa quy định này trong Hiến pháp. Trong đó văn bản thể hiện rõ nhất đó là Bộ Luật hình sự 2003 và Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước số 35/2009/QH12 ngày 18 tháng 6 năm 2009.s
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được quy định cụ thể hơn trong các văn bản pháp luật của nhiều ngành luật khác nhau tạo thành một hệ thống các quy định pháp luật về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín.
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, chủ thể có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với các tội danh như: Tội làm nhục người khác (Điều 121), Tội vu khống (Điều 122), Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính (Điều 226), Tội truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy (Điều 253). Còn trong quá trình tiến hành tố tụng, “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của của họ mà bị đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật” (Điều 7 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
Cùng với pháp luật hình sự, pháp luật dân sự đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín. Có thể nói, pháp luật dân sự quy định chi tiết, cụ thể và đầy đủ nhất về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 31, Điều 37, Điều 38, Điều 611) và các văn bản luật khác như Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 21), Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (Điều 204, Điều 205), Luật báo chí năm 1999 (Điều 9).
Bộ Luật hình sự 2003 quy định khá cụ thể về bảo vệ quyền cơ bản của con người trong pháp luật hình sự. Điều 4 Bộ Luật hình sự quy định: ”Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa”. Như vậy, quyền cơ bản của công dân trong hình sự được bảo vệ và nó như một nguyên tắc chủ đạo trong Bộ Luật mà bất kì cơ quan có thẩm quyền nào cũng phải tuân theo. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân: ” Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình” (.Điều 6 Bộ Luật hình sự 2003). Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân: “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật”(Điều 7 Bộ Luật hình sự 2003). Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình”( Điều 6). Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân: “ Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật” (Điều 7 BLTTHS).
Những năm gần đây việc bắt, giam, giữ là vấn đề thu hút sự chú ý của nhiều cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, và đông đảo quần chúng nhân dân. Việc bắt người tuỳ tiện, bắt oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người không có Lệnh đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Có trường hợp cơ quan cấp dưới giữ người nhưng không báo cáo cơ quan có thẩm quyền, xử lý vụ việc tùy tiện, xâm hại nghiêm trọng đến quyền tự do, quyền được bảo hộ về danh dự, nhân phẩm của con người. Trường hợp của hai chị em cô Hắc Thị Bạch Tuyết và cô Hắc Thị Bạch Thủy tại tỉnh Bình Thuận mà báo chí đã phản ánh là một trong những ví dụ vi phạm pháp luật không đáng xảy ra nếu người thi hành công vụ có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Thật khó tin khi chỉ mới nghi ngờ cô Hắc Thị Bạch Tuyết và em gái là Hắc Thị Bạch Thủy tráo vàng giả mà chủ tiệm vàng Mỹ Kim đã dẫn giải hai cô tới công an thị trấn Chợ Lầu; và tại đây, được công an thị trấn cho phép, chủ tiệm vàng đã tự tiện “giữ” chị em cô Tuyết từ 16 giờ ngày 21/1 đến 2 giờ ngày 22/1/2006, thậm chí còn cởi hết quần áo của các cô để khám xét (1)Theo http//www2.thanhnien.com.vn/phapluat/2006/3/15/142136.tno
Một trường hợp khác xảy ra ngày 18/2/2006 tại quán bia trên đường Mạc Đĩnh Chi, Quận 1, TP.HCM. Đông đảo thực khách tại đây đã rất bất bình trước hình ảnh gây phản cảm: Khoảng ba bốn người (báo chí phản ánh là công an) dẫn giải một người bị còng tay từ trên xe (biển số xanh) bước xuống và vào quán. Mọi người ngồi vào bàn ăn, người thanh niên ngồi bên cạnh, tay phải bị còng chặt vào chân ghế gỗ(2) Theo http//www.vietnamnet.vn/xahoi/2006/02/543042
... Đây là trường hợp do không tôn trọng quyền lợi hợp pháp của người bị dẫn giải, không giữ đúng lề lối, tác phong công an nhân dân nên một số cán bộ, chiến sĩ khi bắt, dẫn giải người vi phạm pháp luật đã xâm hại đến danh dự nhân phẩm của con người, coi thường dư luận xã hội.
Bắt người, tạm giữ, tạm giam oan sai tuy chưa phải là hiện tượng phổ biến nhưng đã xảy ra ở nhiều địa phương, gây nên sự bất bình trong dư luận xã hội, có trường hợp gây ra hậu quả nghiêm trọng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng bắt người tùy tiện, bắt oan sai, không đúng trình tự thủ tục là do trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ trong các cơ quan tố tụng còn hạn chế, ý thức pháp luật chưa được đề cao.
3.Giải pháp hoàn thiện
Để nâng cao hơn nữa và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân trong thời gian tới em mạnh dạn đưa ra những giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, cần tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục tới mọi công dân. Nhất là các chủ thể có liên quan đến các quyền trên như người có thẩm quyền bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, xét xử… Luật cần quy định chặt chẽ hơn nữa về một số vấn đề như đề cao trách nhiệm cá nhân của người ra lệnh bắt, người thi hành lệnh bắt để bắt đúng người phạm tội trnh oan sai, bên cạnh đó cũng cần tôn trọng và bảo đảm những quyền và lợi ích chính đáng của người bị bắt.
Thứ hai, về cơ chế thực hiện Quốc hội cần bám sát thực tiễn cuộc sống, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân, kịp thời thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật để bảo vệ các giá trị nhân văn của con người. Tiếp nhận sự phản hồi từ các cơ quan thực thi pháp luật, các nhà nghiên cứu, ý kiến đóng góp của nhân dân để sửa đổi, bổ sung cho hệ thống pháp luật ngày một hoàn thiện đảm bảo tốt các quyền con người, quyền công dân. Tăng cường công tác giám sát đối với các cơ quan nhà nước đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng. HĐND cần thực hiện tốt chức năng giám sát và hoạt động chất vấn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng tại địa phương để đảm bảo cho các cơ quan này hoạt động có hiệu quả, đúng pháp luật.
Thứ ba, đối với cơ quan công an nói chung và các điều tra viên nói riêng, cần phải thường xuyên học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức chính trị, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật. nắm chắc các quy định của pháp luật về bắt, tạm giữ, tạm giam; hiểu rõ tính chất, mục đích của các biện pháp tạm giữ tạm giam; đảm bảo khi thực hiện bắt người phải có lệnh và có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, hạn chế tình trạng “tiền trảm hậu tấu” khi bắt người; tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam; phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia quá trình bắt, tạm giữ, tạm giam khi giải quyết vụ án.
Thứ tư, đối với Viện kiểm sát chỉ phê chuẩn lệnh bắt khi đã xác định rõ căn cứ chứng tỏ bị can bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động tố tụng. Viện kiểm sát phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra, nghiên cứu kỹ tài liệu vụ án, gặp trực tiếp hỏi kỹ càng điều tra viên, những người có liên quan đến vụ án, và cả người bị bắt về các tình tiết của vụ án để quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn lệnh bắt. Trong trường hợp bắt người không có căn cứ thì Viện kiểm sát kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt. Mỗi kiểm sát viên cần phải luôn đề cao trách nhiệm, ý thức pháp luật, ý thức chính trị trong quá trình thực thi công vụ của mình.
Thứ năm, xử lí nghiêm minh những hành vi vi theo Luật Hình sự, theo Luật Trách nhiệm bồi thường thiệt hại Nhà nước và trên thực tế phải thực hiện đúng bồi thuờng thiệt hại cho người bị hại.
Tóm lại, bảo đảm quyền con người là vấn đề rất quan trọng, luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm, bảo vệ. Bằng nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự... Nhà nước đã chính thức ghi nhận và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, coi đó như những chế định quan trọng và là mục tiêu cuối cùng của chế độ ta. Bộ luật Tố tụng Hình sự của nước ta đã ghi nhận, bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua nhiều chế định khác nhau. Các quy định về bắt người, tạm giữ, tạm giam là một trong các quy định nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân của nhân dân và của cả bị can, bị cáo, của người bị bắt.
IV. Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.
Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật (điều 73)
Nội dung
Kế thừa Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 tiếp tục ghi nhận quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của, quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại và địên tín của công dân. Tuy nhiên, Hiến pháp 1992 đã dành hẳn một điều luật riêng (Điều 73) để quy định về các quyền này chứ không quy định chung cùng các quyền khác như trước đây để thể hiện sự quan tâm hơn nữa của Nhà nước ta đối với các quyền này của công dân. Điều 73 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật ”. So với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 đã có sự đảo trật tự ý của điều luật. Quy định “Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật” được thể hiện ở trước phần “ Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật” là hợp lí hơn. Vì việc khám xét chỗ ở, bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành có thể được quy định chung với nhau mà vẫn thể hiện đầy đủ được nội dung của vấn đề.
Thực trạng
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp hiện nay chúng ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan nhằm bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền thư tín, điện thoại, điện tín của công dân. Cụ thể, chúng ta đã ban hành Bộ luật dân sự 2005, Luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật nhà ở 2005.
Theo quy định Bộ luật dân sự 2005 công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở: “ Cá nhân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Việc vào chỗ của một người phải được người đó đồng ý. Chỉ trong trường hợp pháp luật quy định hoặc có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được tiến hành khám xét chỗ ở của một người, việc khám xét phải theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”. Về quyền thư tín, điện thoại, điện tín của công dân Khoản 3 Điều 38 Bộ luật dân sự 2005: “ Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật…”. Như vậy, Hiến pháp 1992 đã tạo ra kkung pháp lý để quyền cơ bản của công dân được bảo đảm cụ thể trong các ngành luật.
Bộ luật tố tụng dân sự 2003 cũng dành điều luật quy định bảo đảm quyền này của công dân: “Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân. Không ai được xâm phạm chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân.Việc khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện tín, khi tiến hành tố tụng phải theo đúng quy định của Bộ luật này” (Điều 8). Bên cạnh đó, Điều 140 Bộ Luật hình sự 2003 quy định việc khám người, khám chỗ ở, thư tín, điện thoại, điện tín của công dân phải có căn cứ: “Việc khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã. Khi cần phải thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm”.
3.Giải pháp hoàn thiện
Trong thời gian tới để nâng cao hơn nữa quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, thư tín, điện thoại, điện tín của công dân cần tiếp tục thực hiện các biện pháp sau:
Trước hêt, tiếp tục tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong lĩnh vực này nhất là người thực thi và người vi phạm phải nắm được các quy định của pháp luật để tránh các hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Bên cạnh đó cần phải xử lí nghiêm minh những hành vi vi phạm. Việc khám xét về chỗ ở, thư tín, điện thoại, điện tín của công dân phải tuân thủ đúng trình tự quy định của pháp luật.
Một hoạt động rất cần thiêt nữa là cần có cơ chế phối hợp giữa các tổ chức, các đoàn thể xã hội trong việc giám sát các hoạt động trên. Nhằm hạn chế việc vi phạm từ phía cơ quan Nhà nước bảo vệ quyền lợi chính đáng của công dân.
Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật. (Điều 68)
1. Nội dung
Quyền tự do đi lại và cư trú của công dân được Hiến pháp 1992 ghi nhận có sự kế thừa so với các bản Hiến pháp trước đồng thời được mở rộng hơn và có bổ sung nhiều quy định mới. Nếu như các bản Hiến pháp trước đây đều ghi nhận các quyền này cùng với các quyền khác trong một điều luật thì đến Hiến pháp 1992, quyền tự do đi lại và cư trú của công dân đã được tách riêng thành một điều luật, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của nhà nước ta đối với quyền tự do và cư trú của công dân. Điều 68 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật”. Như vậy, Điều 68 đã ghi nhận bốn quyền: quyền tự do đi lại trong nước, quyền tự do cư trú ở trong nước, quyền ra nước ngoài theo quy định của pháp luật. Cũng như Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 1992 cho phép công dân Việt Nam có quyền tự do đi lại và lựa chọn chỗ ở cho bản thân và gia đình ở mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam.
So với Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980, quyền tự do đi lại và cư trú của công dân đã được Hiến pháp 1992 quy định rõ ràng và mở rộng hơn, trong đó quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về nước theo quy định của phap luật là điểm mới so với các Hiến pháp trước đây. Hiến pháp 1959 chỉ quy định chung chung “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền tự do cư trú và đi lại”, Hiến pháp 1980 cũng chỉ quy định “Quyền tự do đi lại và cư trú được tôn trọng, theo quy định của pháp luật”, với nghĩa vụ là tự do đi lại và cư trú ở trong nước chứ không ghi nhận quyền ra nước ngoài của công dân. Hiến pháp 1992 đã ghi nhận quyền tự do đi lại cư trú một cách cụ thể, rõ ràng và mở rộng hơn trong đó có quyền ra nước ngoài của công dân là quyền mới so với Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980: công dân có quyền “ tự do ra nước ngoài theo quy định của pháp luật”. Quy định này đã đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tạo điều kiện để công dân mở rộng quan hệ giao lưu tình cảm, hợp tác kinh tế, văn hóa, mở mang dân trí và phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế, phù hợp với đường lối đối ngoại của nhà nước ta muốn làm bạn với tất cả các nước chứ không phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Đây cũng là sự ghi nhận lại Điều thứ 10 của Hiến pháp 1946 nhưng quy định chặt chẽ hơn: “theo quy định của pháp luật” như phải tuân theo những quy định về xuất cảnh.
Quyền từ nước ngoài trở về nước theo quy định của pháp luật là quyền mới lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp 1992. Việc Hiến pháp 1992 ghi nhận quyền mới này xuất phát từ thực tế khách quan và có liên quan đến số lượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Quy định này là cơ sở pháp lý tạo điều kiện cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài trở về nước với nhiều mục đích khác nhau như thăm viếng, gặp gỡ những người thân và quê hương. Đương nhiên khi thực hiện các quyền này phải tuân theo quy định về nhập cảnh.
2. Thực trạng
Hiến pháp 1992 đã quy định một cách đầy đủ về quyền tự do đi lại và cư trú của công dân so với các bản Hiến pháp trước đây, trong đó việc ghi nhận quyền tự do ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật đã đáp ứng yêu cầu chính đáng của người dân và phù hợp với tình hình mới của đất nước. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp 1992 về quyền tự do đi lại và cư trú hiện nay chúng ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật có liên quan để điều chỉnh đảm bảo quyền cơ bản của công dân và bảo đảm sự quản lý của Nhà nước được chặt chẽ đó là Luật cư trú năm 2006, quy chế pháp chế pháp lí dành cho người nước ngoài… Điều 3 Luật cư trú 2006 quy định: “Công dân có quyền tự do cư trú theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Công dân có đủ điều kiện đăng ký thường trú, tạm trú thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thường trú, tạm trú. Quyền tự do cư trú của công dân chỉ bị hạn chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”. Bên cạnh đó, Nhà nước còn bảo đảm quyền tự do đi lại cư trú của công dân Điều 5 Luật cư trú 2006.
Qua thực hiện Luật Cư trú đã giúp cấp uỷ, chính quyền địa phương, cơ sở nắm được thực trạng hộ khẩu, nhân khẩu, nhân lực lao động... làm cơ sở để xây dựng các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, tổ chức lao động, phục vụ có hiệu quả yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương như: giải quyết vấn đề lao động dân cư, phát triển kinh tế miền núi, thực hiện các dự án định canh, định cư ở các vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện chiến lược kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.
Qua công tác nắm hộ, nắm người lực lượng Công an đã phối hợp với các ngành tham mưu chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách quan trọng của Chính phủ như: Chính sách dự án khu dân cư phát triển kinh tế mới, chính sách quản lý di dịch cư tự do, chính sách kinh tế ở các vùng, miền đặc biệt khó khăn, chính sách giải quyết việc làm, quy hoạch kinh tế vùng...nhằm giảm sức ép dân số ở các đô thị, góp phần đảm bảo công tác định canh, định cư ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất. Thông qua đăng ký, quản lý cư trú đã phục vụ tốt cho công tác phòng chống tội phạm ở địa phương; giúp cho lực lượng Công an các cấp thực hiện tốt công tác điều tra cơ bản địa bàn; quản lý các loại đối tượng, nhất là các loại đối tượng kinh tế, ma tuý; tù tha; đối tượng quản lý theo pháp luật.
Việc tổ chức thực hiện Luật Cư trú đã gắn với thực hiện các nội dung cải cách hành chính, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về cư trú, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; hoàn thiện về tổ chức bộ máy, nâng cao nhận thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác đăng ký, quản lý cư trú, phòng chống những biểu hiện quan liêu, tiêu cực, sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân. Luật Cư trú được phổ biến tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội làm cho cán bộ và nhân dân hiểu và phối hợp thực hiện. Có kế họach tập huấn chuyên sâu cho số cán bộ trực tiếp làm công tác đăng ký, quản lý cư trú và người tham gia đăng ký thường trú, tạm trú, lưu trú, tạm vắng nghiêm túc thực hiện và chấp hành, bảo đảm cho công tác đăng ký, quản lý cư trú có hiệu quả. Tuy nhiên, Luật Cư trú và các văn bản hướng dẫn rất cụ thể và đã được tập huấn, triển khai đến cơ sở. Nhưng ở một số địa phương, cán bộ được phân công trực tiếp làm công tác này lúc đầu vẫn còn lúng túng khi áp dụng thực hiện một số nội dung cụ thể vào thực tế. Một số nơi chưa tập huấn đầy đủ, kỹ lưỡng cho cán bộ đăng ký, quản lý ở cơ sở, một số cán bộ làm công tác đăng ký cư trú còn ngại nghiên cứu các quy định, quy trình; chưa kịp thời bổ sung tăng cường cán bộ chuyên môn để thực hiện nhiệm vụ và chỉnh trang lại nơi tiếp dân, làm việc của bộ phận đăng ký, quản lý cư trú.
Quyền tự do đi lại và cư trú, quyền ra nước ngoài và quyền từ nước ngoài về nước của công dân được tôn trọng, số lượng người Việt Nam đi ra nước ngoài du học, đi xuất khẩu lao động, du lịch, định cư…ở nước ta ngày càng tăng. Cùng với đó số lượng Việt Kiều trở về quê hương cũng rất lớn. Điều đó cho thấy Nhà nước ta đã bảo đảm quyền này của công dân được thực hiện trên thực tế.
3. Giải pháp hoàn thiện
Hiến pháp và hiện thực cuộc sống đòi hỏi cần từ bỏ tư duy quản lý xã hội kiểu cũ cùng chế độ hộ khẩu hiện hành để xác lập tư duy mới mẻ cùng giải pháp mạnh mẽ cho vấn đề đi lại và cư trú của người dân.
Thứ nhất, phải xóa bỏ những giới hạn để trả lại hoàn toàn quyền tự do cư trú của người dân như Hiến pháp quy định. Quy định về kiểm tra nơi cư trú của người dân phải chặt chẽ theo hướng giảm thiểu và ngăn chặn sự lạm quyền của cơ quan và cán bộ công quyền.
Thứ hai, xây dựng và ban hành hai danh mục sau: (1) danh mục nơi chốn địa điểm cấm và hạn chế cư trú của người dân, (2) danh mục đối tượng bị cấm và hạn chế đi khỏi nơi đang thường trú. Việc thay đổi, bổ sung các danh mục này phải được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ và nghiêm ngặt.
Thứ ba, tổ chức cho người dân đăng ký cư trú ở nơi mà thực tế họ đang thường trú theo các nguyên tắc sau: (1) mọi người dân phải đăng ký cư trú ở một nơi đang thường trú, (2) mỗi người không được đồng thời đăng ký thường trú ở hai địa chỉ trở lên, (3) người có nhiều nhà hoặc ở nhiều nơi phải đăng ký cư trú ở nơi thường trú nhiều nhất; đồng thời thông tin cho cơ quan quản lý cư trú về quy luật di chuyển đi lại giữa những nhà hoặc chỗ ở nêu trên, (4) khi thay đổi nơi thường trú phải có phiếu báo nơi cũ và đăng ký cư trú ở nơi thường trú mới.
Những người không đăng ký cư trú có thể thuộc một trong 3 nhóm sau: (1) có vấn đề về tâm thần bị bỏ rơi, không đủ năng lực hành vi công dân, (2) vô gia cư, không còn nơi nương tựa, (3) né tránh sự quản lý của chính quyền, có vấn đề với pháp luật.
Thứ tư, vận động, tổ chức các mô hình nhà ở xã hội cho đối tượng vô gia cư và đối tượng có vấn đề tâm thần bị bỏ rơi để quản lý và bảo đảm các quyền lợi chính đáng của họ như thực hiện quyền cử tri, khám chữa bệnh... Những người đang thụ án tù giam thì nơi cư trú của họ đương nhiên là các nhà tù.
Thứ năm, cần sớm hiện đại hóa công tác quản lý xuất nhập cảnh và đi lại. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa giữa các quốc gia tăng lên khiến quy mô nhịp độ đi lại của người dân cùng sự dịch chuyển lao động giữa các nước - trong đó có Việt Nam - ngày càng tăng cao thì không thể duy trì kiểu quản lý thủ công lạc hậu như hiện nay. Ở trong nước, người đi lại vãng lai ngắn ngày qua nhiều nơi chỉ cần xuất trình giấy tờ có ảnh khi cơ quan chức năng yêu cầu.
Thứ sáu, nên quản lý công dân bằng thẻ công dân (Chứng minh thư) thay cho quản lý hộ khẩu.
Thứ bảy, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Li nông nhưng không li hương. Cần tạo công ăn việc làm tại chỗ cho công dân, giảm hiện tượng người nông dân bỏ ra thành phố quá nhiều gây khó khăn cho cho công tác quản lý nhân khẩu. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần tăng đầu tư, đồng thời thực hiện xã hội hóa lĩnh vực nhà ở, công dân có thể linh động chỗ ở, chỗ làm việc.
Thiết nghĩ, thực hiện tốt các giải pháp cơ bản nêu trên chính là bảo đảm quyền tự do đi lại và cư trú của công dân mà vẫn thực thi được vai trò quản lý của chính quyền; vừa khắc phục được sự nhiêu khê và kém hiệu quả của chế độ hộ khẩu hiện hành, vừa hình thành phương thức quản lý xã hội mới thể hiện được tinh thần dân chủ - văn minh trong quan hệ giữa Nhà nước và công dân.
KẾT LUẬN
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong đó con người là giá trị cao quý nhất, sự phát triển của cá nhân con người về mọi mặt là mục tiêu cao cả nhất. Vì thế các giá trị của con người phải được pháp luật thừa nhận và tôn trọng. Vấn đề bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được coi là yêu cầu trung tâm của nội dung về Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Vì vậy, trong quá trình đổi mới đất nước, mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và công dân phải được tăng cường, Nhà nước phải có biện pháp phù hợp trong việc bảo đảm đầy đủ các quyền làm chủ của nhân dân, giữ vững an ninh để nhân dân thực sự trở thành “người chủ” còn Nhà nước chỉ là “phương tiện” để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân đã được ghi nhận khá đầy đủ và hoàn thiện tạo điều kiện để các quyền này được thực hiện trong thực tế. Thông qua việc ghi nhận các quyền này trong Hiến pháp tạp ra cơ sở pháp lý quan trọng để ban hành ra các đạo luật cụ thể từ đó bảo đảm quyền cơ bản của công dân tự do dân chủ và tự do cá nhân được cụ thể hóa. Vì vậy, Nhà nước cần có sự nhạy cảm với sự phát triển của xã hội để kịp thời luật hóa các nhu cầu mang tính khách quan của công dân thành quyền pháp lý của họ ( ví dụ: Quyền được thông tin, quyền ra nước ngoài và quyền từ nước ngoài trở về được quy định trong Hiến pháp 1992). Các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân được quy định trong Hiến pháp mang tính nguyên tắc, làm cơ sở cho các luật khác cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật, chi tiết hóa trong các lĩnh vực nhất định. Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, các quyền của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân được cụ thể hóa trong các văn bản dưới Hiến pháp như Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết,…Tuy nhiên, để các quyền này được thực hiện tốt hơn trong thực tế cần hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như các biện pháp bảo đảm thực hiện chúng trong thực tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác, F. Engen. Toàn tập, t.I. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, NXBCAND, Hà Nội 2009.
3. PGS.TS Trần Trọng Hựu, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp Việt Nam, Tạp chí Luật học số 1/1994.
4. PGS.TS Đinh Văn Mậu, Quyền lực Nhà nước và quyền công dân NXB chính trị quốc gia.
5. PGS.TS Nguyễn Văn Động, Quyền con gnười, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam.
6. GS.PTS Hoàng Văn Hảo, Hiến pháp Việt Nam về vấn đề quyền con người, quyền công dân, Tạp chí Luật học số 4/1997.
7. Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
8. Nguyễn Bá Diến, Về quyền con người, Tạp chí Luật học số 2/1995.
9. Nguyễn Tiến Đạt, Đại học An ninh nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, Tạp chí Khoa học pháp luật số 3/2006.
10. Hoàng Thị Ngân, HC31A, sự kế thừa và phát triển các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp 2010.
11. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua ngày 9-11-1946).
12. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (Hiến pháp năm 1959).
13. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980.
14. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
15. Luật báo chí 1999.
16. Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo 2004.
17. Luật hình sự 2003.
18. Luật Tố tụng hình sự 2003.
19. Luật Nhà ở 2005.
20. Luật cư trú 2006.
21. Luật dân sự 2005.
22. Nghị định 22/2005/NĐ-CP, ngày 01/3/2005 của Chính phủ .
23. Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.
24. Luật Quốc tịch 2008.
25. Nghị định số 38/2005/NĐ-CP ra ngày 18 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng.
26.
27.
28. http//www.thanhnien.com.vn
29. http//www.vietnamnet.vn
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân Thực trạng và giải pháp.doc