Quyền được học tập của trẻ em và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện

Bài tập học kỳ quyền trẻ em: Lời nói đầu Giáo dục là một trong những chính sách hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chú trọng. Bởi vì, "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện; có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (Điều 2 Luật giáo dục năm 2005). Với ý nghĩa đó, trẻ em có quyền được tiếp cận một nền giáo dục cơ bản, có chất lượng để trở thành công dân có đức, có tài, nắm chắc khoa học kỹ thuật và công nghệ mới phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quyền học tập là một quyền tối quan trọng, là loại quyền trong lĩnh vực văn hóa và liên quan đến tất cả các quyền kinh tế, xã hội. Xét theo khía cạnh nào đó, đây cũng là quyền dân sự và quyền chính trị bởi quyền giáo dục được xem là trung tâm để thực thi một cách có hiệu quả tất cả các quyền trên. Đây là một quyền đương nhiên mà em được hưởng, mọi trẻ em không phân biệt điều kiện và hoàn cảnh đều được bình đẳng về cơ hội học tập, được tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Song vẫn còn nhiều vấn đề cần có sự quan tâm của cả xã hội, của mỗi gia đình trong việc chăm sóc, tạo điều kiệ cho trẻ em – những mầm non tương lai của đất nước được học tập để trở thành những công dân có ích cho xã hội. Chính vì vậy, em xin chọn đề tài: “Quyền được học tập của trẻ em và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện” Mục lục I. Một số lý luận về quyền trẻ em và quyền . 1.Quyền trẻ em . 2.Quyền được học tập của trẻ em . 2.1 Trẻ em có quyền được học tập . 2.2.Trẻ em học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả học phí . II. Trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện . III.Thực tiễn về quyền được học tập và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện IV.Kết luận

doc13 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 14126 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền được học tập của trẻ em và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Giáo dục là một trong những chính sách hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chú trọng. Bởi vì, "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện; có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (Điều 2 Luật giáo dục năm 2005). Với ý nghĩa đó, trẻ em có quyền được tiếp cận một nền giáo dục cơ bản, có chất lượng để trở thành công dân có đức, có tài, nắm chắc khoa học kỹ thuật và công nghệ mới phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quyền học tập là một quyền tối quan trọng, là loại quyền trong lĩnh vực văn hóa và liên quan đến tất cả các quyền kinh tế, xã hội. Xét theo khía cạnh nào đó, đây cũng là quyền dân sự và quyền chính trị bởi quyền giáo dục được xem là trung tâm để thực thi một cách có hiệu quả tất cả các quyền trên. Đây là một quyền đương nhiên mà em được hưởng, mọi trẻ em không phân biệt điều kiện và hoàn cảnh đều được bình đẳng về cơ hội học tập, được tạo điều kiện để ai cũng được học hành.   Song vẫn còn nhiều vấn đề cần có sự quan tâm của cả xã hội, của mỗi gia đình trong việc chăm sóc, tạo điều kiệ cho trẻ em – những mầm non tương lai của đất nước được học tập để trở thành những công dân có ích cho xã hội. Chính vì vậy, em xin chọn đề tài: “Quyền được học tập của trẻ em và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện” Trong quá trình tìm hiểu tư liệu chắc chắn không khỏi nhầm lẫn và thiếu sót. Vì vậy em rất mong thày ( cô) thông cảm. Em xin chân thành cảm ơn! Một số lý luận về quyền trẻ em và quyền được học tập của trẻ em Quyền trẻ em Quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng ngày nay trở thành vấn đề quan tâm của cộng đồng quốc tế. Trẻ em ở tất cả các nước trên thế giới vẫn còn sống trong những điều kiện khó khăn và chúng cần được quan tâm đặc biệt. Quyền trẻ em là tất cả những gì cần có để trẻ em được sống và phát triển một cánh toàn diện, lành mạnh và an toàn .Về mặt bản chất quyền trẻ em là quyền con người được cụ thể hóa cho phù hợp nhu cầu và đặc trưng phát triển và tính cách cuộc sổng của trẻ em. Trẻ em là chủ thể của hiện tại và là những người xây dựng tương lai. Đó là những đối tượng dễ bị tổn thương và có ảnh hưởng lâu dài về cả mặt sức khỏa cũng như tâm lí . Việc nghi nhận quyền trẻ em nhằm đảm bảo cho trể em không chỉ là đối tượng tiếp thu thụ động với người lớn mà trở thành chủ thể có quyền, có khả năng tạo dựng cuộc sống phù hợp dảm bảo lợi ích được phát triển một cách toàn diện của trẻ em. Việc quy định quyền của trẻ em còn là cơ sở đề các nhà làm luật xây dựng các biện pháp để đảm bảo việc trẻ em được hưởng đúng các quyền đó. Trẻ em là người chưa phát triển toàn diện về thể lực và trí tuệ, chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Do đó, để trẻ em làm chủ các quyền phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em thì Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam quy định các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em, trong đó lựa chọn 10 nhóm quyền cơ bản nhất, đặc trưng nhất đối với trẻ em. Luật đã quy định trẻ em có 10 quyền cơ bản của trẻ em từ Điều 10 đến Điều 20 của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 bao gồm các quyền như sau : Quyền được khai sinh và có quốc tịch ; Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng ;Quyền sống chung với cha mẹ ; Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự ; Quyền được chăm sóc sức khoẻ ; Quyền được học tập;Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch ; Quyền được phát triển năng khiếu; Quyền có tài sản; Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội. Quyền được học tập của trẻ em Giáo dục là một trong những chính sách hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chú trọng. Bởi vì, "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện; có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (Điều 2 Luật giáo dục năm 2005). Với ý nghĩa đó, trẻ em có quyền được tiếp cận một nền giáo dục cơ bản, có chất lượng để trở thành công dân có đức, có tài, nắm chắc khoa học kỹ thuật và công nghệ mới phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo điều 59 hiến pháp năm 1992 qui định : “ học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. Công dân có quyền học văn hóa và học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng. Nhà nước có chính sách học phí, học bổng, nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hóa và học nghề phù hợp” Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 xác định giáo dục tiểu học ở Việt Nam là phổ cập bắt buộc và miễn phí. Phổ cập giáo dục tiểu học vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của trẻ em. Điều 1 luật phổ cập giáo dục tiểu học còn xác định rõ: “ Nhà nước thực hiện chính sách giáo dục tiểu học bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 5 đối với tất cả các trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi”. Như vậy, mọi trẻ em trong độ tuổi qui định đều có quyền và nghĩa vụ học tập để đạt được trình độ giáo dục phổ cập. Ngoài ra, khoản 3 điều 6 luật này còn qui định “ trẻ em có khả năng phát triển đặc biệt thì được học lớp 1 trước 6 tuổi hoặc học vượt lớp nhằm tạo điều kiện bồi dưỡng cho những học sinh có năng khiếu được phát triển tài năng”. Trẻ em có quyền được học tập Quyền học tập là một quyền tối quan trọng, là loại quyền trong lĩnh vực văn hóa và liên quan đến tất cả các quyền kinh tế, xã hội. Xét theo khía cạnh nào đó, đây cũng là quyền dân sự và quyền chính trị bởi quyền giáo dục được xem là trung tâm để thực thi một cách có hiệu quả tất cả các quyền trên. Theo khoản 1 điều 20 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 trong đó nêu rõ “ mọi người đều có quyền được học tập, giáo dục phải miễn phí, ít nhát là các bậc tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là bắt buộc, giáo dục kĩ thuật và dạy nghề phải mang tính phổ thông và giáo dục đại học hay cao học phải theo nguyên tắc công bằng cho bất cứ ai có khả năng”. Như vậy, quyền được học tập là một trong những quyền trẻ em được hưởng, được xã hội tạo điều kiện để cho học tập. Theo khoản 1 Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em có quyền được học tập”. Đây là một quyền đương nhiên mà em được hưởng, mọi trẻ em không phân biệt điều kiện và hoàn cảnh đều được bình đẳng về cơ hội học tập, được tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Ngoài trẻ em bình thường thì tất cả trẻ em khuyết tật, trẻ em bị HIV, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em lang thang...cũng đều được học chương trình giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông. Tuy nhiên, chương trình học của các em sẽ được điều chỉnh phù hợp, linh hoạt với từng trẻ em trên cơ sở động viên, khuyến khích trẻ em học tập tích cực, hiệu quả. Trẻ em dân tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình cùng Tiếng Việt để thực hiện phổ cập giáo dục bậc tiểu học. Theo thông tư về giáo dục hòa nhập cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, mọi trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được học tập bình đẳng trong các cơ sở giáo dục quốc dân. Bên cạnh những qui định cho các trường hợp chung, luật phổ cập giáo dục tiểu học còn qui định các trường hợp điều kiện bảo đảm quyền được phổ cập giáo dục tiểu học cho các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Trẻ em vì lý do sức khỏe vì hoàn cảnh gia đình khó khăn đặc biệt hoặc ở vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh, vùng hải đảo và vùng có khó khăn có thể được phổ cập giáo dục tiểu học ở độ tuổi lớn hơn ( điều 6 và điều 8 luật phổ cập giáo dục). Nhà nước và xã hội có trách nhiệm quan tâm , giúp đỡ, tạo điều kiện cần thiết để trẻ em là con em liệt sĩ, thương binh nặng, trẻ em tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt đạt được trình độ giáo dục tiểu học. Ngoài giáo dục tiểu học còn có các bậc học khác mà trẻ em cũng được quyền tiếp cận như giáo dục mầm non , giáo dục phổ thông. Theo điều 28 luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em “ cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục phổ thông phải có điều kiện cần thiết về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để bảo đảm chất lượng giáo dục”. “Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, trợ cấp xã hội để thể hiện công bằng xã hội trong giáo dục”. Ngay cả những trẻ chưa thành niên vi phạm pháp luật, nhà nước ta cũng dành cho các em một sự giáo dục đặc biệt thông qua các trường giáo dưỡng. Theo qui định tại điều 64 luật giáo dục năm 2005, trường giáo dưỡng có nhiệm vụ giáo dục người chưa thành niên vi phạm pháp luật để các đối tượng này rèn luyện phát triển lành mạnh. Học tập để đạt trình độ phổ cập trung học cơ sở là quyền và nghĩa vụ của công dân nói chung, trẻ em nói riêng. Điều 11 luật giáo dục năm 2005 qui định cùng với giáo dục tiểu học , giáo dục trung học cơ sở là cấp học phổ cập, nhà nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo dục, bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục trong cả nước. Việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở đã được Đảng và nghị quyết của Quốc hội ban hành số 41/QH10 ngày 9/12/2000. Thực hiện chủ trương đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88/ CP ngày 22/11/2001 về thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở theo đó đối tượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở là thanh niên, thiếu niên Việt Nam trong độ tuổi từ 11 đến hết 18 tuổi, đã tốt nghiệp tiểu học, chưa tốt nghiệp trung học cơ sở. Mục tiêu của phổ cập giáo dục trung học cơ sở là bảo đảm cho hầu hết thanh niên, thiếu niên sau khi tốt nghiệp tiểu học tiếp tục học để đạt trình độ trung học cơ sở trước khi hết tuổi 18, đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,bồi đưỡng nhân tài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2.2.Trẻ em học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả học phí Theo quy định của pháp luật, giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc đối với mọi trẻ em từ sáu tuổi đến mười bốn tuổi (từ lớp 1 đến lớp 5). Vì vậy " Mọi công dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập" (Khoản 2 Điều 11 Luật giáo dục năm 2005). Trẻ em tại cơ sở giáo dục mầm non có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo mục tiêu, kế hoạch giáo dục mầm non của bộ giáo dục và đào tạo, được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không không phải trả tiền tại cơ sở y tế công lập, được giảm phí đối với các dịch vụ giải trí, công cộng ( điều 84 luật giáo dục năm 2005). Khoản 2 Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả học phí”. Qui định trên thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cơ hội và quyền học tập của mọi trẻ em, không phân biệt trẻ em gái hay trẻ em trai, trẻ em sinh ra trong gia đình khá giả với trẻ em nghèo, trẻ em bình thường với trẻ em khuyết tật, bị HIV, trẻ em lang thang...tất cả các em đều được đến trường học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả phí. Đồng thời, đây là chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với các em để trẻ em nào cũng được đến trường, được sự dạy dỗ của thày cô. Chính vì vậy, pháp luật nước ta cũng nghiêm cấm hành vi cản trở việc học tập của trẻ em. Thể hiện ở điều 10 NĐ số 36/2005/NĐ-CP ngày 17/8/2005 qui định chi tiết một số điều của luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 qui định những hành vi bị coi là cản trở việc học tập của trẻ em. 1. Dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc sử dụng vật chất, uy quyền để ép buộc trẻ em phải bỏ học, nghỉ học. 2. Dụ dỗ, lôi kéo trẻ em bỏ học, nghỉ học. 3. Bắt trẻ em bỏ học, nghỉ học để gây áp lực, khiếu kiện, biểu tình trái pháp luật. 4. Phá hoại cơ sở vật chất, trang thiết bị học tập, giảng dạy trong các cơ sở giáo dục. 5. Cố tình không thực hiện nghĩa vụ đóng góp theo quy định, không bảo đảm thời gian, điều kiện học tập cho trẻ em. II. Trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện Bên cạnh việc qui định trực tiếp quyền được học tập của trẻ em, các văn bản pháp luật của VIệt Nam cũng chú ý đến việc qui định các chính sách để bảo vệ quyền đó nhất là trách nhiệm , nghĩa vụ của gia đình, nhà trường, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Hiến pháp năm 1992 đã đề cao trách nhiệm của gia đình, cha mẹ trong việc giáo dục con cái “ cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành những người công dân tốt” (điều 64). Điều 34 luật hôn nhân và gia đình 2000 cũng nêu rõ: “ cha mẹ có nghiã vụ chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất trí tuệ và đạo đức. Trong bậc tiểu học, điều 18 luật phổ cập giáo dục tiểu học qui định trách nhiệm của cha mẹ người đỡ đầu của trẻ em là ghi tên cho con hoặc trẻ em được đỡ đầu đi học tại trường, lớp tiểu học trên địa bàn cư trú nơi thuận tiện nhất, tạo điều kiện để con hoặc trẻ em được đỡ đầu hoàn thành giáo dục tiểu học, kết hợp với nhà trường, tổ chức xã hội trong việc giáo dục con cái hoặc trẻ em được đỡ đầu thực hiện giáo dục gia đình theo những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Với các bậc học khác, cha mẹ, người giám hộ cũng có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc, tạo điều kiện cho con em hoặc người được giám hộ được học tập, rèn luyện , tham gia các hoạt động của nhà trường ( điều 94 luật giáo duc năm 2005). Khoản 1 Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Gia đình, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập; học hết chương trình giáo dục phổ cập; tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn”. Như vậy, trách nhiệm giáo dục trẻ em trước tiên thuộc về gia đình cụ thể là cha mẹ, người giám hộ trong việc tạo điều kiện cho trẻ em thực hiện quyền học tập, học hết chương trình giáo dục phổ cập và cho trẻ học ở trình độ cao hơn. Bởi vì, trẻ em được sinh ra và nuôi dạy trong môi trường gia đình. Các thành viên trong gia đình đều phải có trách nhiệm chăm sóc cho các em lớn khôn về mặt thể chất và trí tuệ, đồng thời có trách nhiệm dạy bảo các em những điều tốt đẹp, đạo nghĩa giáo dục các em biết quan tâm, tôn trọng cuộc sống của những người khác trong gia đình và cộng đồng. Do đó, trách nhiệm cha mẹ trong việc đảm bảo học tập của trẻ em đó là: Thứ nhất, cần tạo môi trường chăm sóc thuận lợi, cha mẹ nên một bầu không khí yêu thương, đoàn kết, gắn bó quan tâm giữa các thành viên gia đình, cho dù cuộc sống còn nhiều vất vả, nhưng khi có trẻ em trong gia đình thì các thành viên phải cố gắng bỏ qua những mâu thuẫn, xích mích để cho trẻ em luôn luôn có cảm tưởng rằng ngôi nhà của mình chính là tổ ấm. Từ đó, các em sẽ chú tâm vào việc học tập hơn, nhiều trẻ em chỉ vì cha mẹ cãi nhau mà buồn chán dẫn đến tâm lý chán nản, bỏ bê việc học hành, tệ hơn là các em bị bạn xấu dụ dỗ bỏ học đi lang thang. Thứ hai, tạo điều kiện cho trẻ em được học tập, phát huy khả năng của trẻ. Cha mẹ phải quan tâm, lắng nghe và trò chuyện với trẻ để hiểu và giúp đỡ trẻ trong học tập Cha mẹ có thể cùng học với trẻ, xây dựng thời khóa biểu cho trẻ để trẻ nghiêm túc, tập trung trong học tập hơn. Với những trẻ em có thiên hướng xuất hiện một số năng khiếu, cha mẹ phải biết phát hiện, khuyến khích tạo mọi điều kiện để ươm mầm tài năng. Việc chăm sóc phát triển trí tuệ cho trẻ em có quan hệ chặt chẽ với việc giáo dục, xã hội hoá trẻ em. Quan điểm giáo dục hiện nay coi gia đình là một trong ba môi trường giáo dục trẻ em. Tuy nhiên gia đình vẫn là trường học đầu tiên và suốt đời  của mỗi con người. Đó là bởi vì gia đình có trách nhiệm, là tình cảm và cũng là quyền uy (ông bà, cha mẹ, anh, chị). Gia đình thực hiện chức năng giáo dục thông qua 3 giai đoạn phát triển của trẻ em: từ 1-3 tuổi, từ 3-6 tuổi và từ 6-18 tuổi. Cả ba giai đoạn trên, trẻ em được giáo dục, dậy dỗ của gia đình, lớn lên chịu ảnh hưởng các chuẩn mực trong gia đình và dần dần tiếp cận các chuẩn mực ngoài xã hội. Thứ ba, để thực hiện tốt chức năng giáo dục, mỗi thành viên trong gia đình tuỳ thuộc vị trí của mình ( ông, bà, cha, mẹ, anh, chị) phải trở thành những tấm gương sáng cho con trẻ học tập, làm theo. Hiện nay, phong trào: ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền đang thực sự phát huy hiệu quả, tác động quan trọng trong giáo dục của gia đình. Những hành vi mà trẻ tiếp nhận, học tập trong gia đình không chỉ là những kinh nghiệm của người lớn mà bằng cả những tình cảm của những người thân yêu nhất. Gia đình thông qua thái độ, tình cảm, tâm lý, mối liên hệ thường xuyên bền vững với trẻ em, khéo léo truyền thụ cho chúng những hành vi ứng xử trong nhà và ngoài xã hội. Không thể có sự hình thành và phát triển nhân cách đầy đủ và hoàn thiện nếu không có một môi trường giáo dục gia đình thuận lợi. Tùy vào khả năng của trẻ mà có cách thức cũng như lựa chọn trong việc học tập của trẻ. Nhiều gia đình luôn muốn con mình học thật nhiều để biết nhiều thứ theo kịp bạn bè, rồi phải học ở trường danh tiếng giáo dục tốt mà không để ý đến khả năng của trẻ. Do đó, cha mẹ cần quan tâm đến trẻ nhiều hơn để nắm bắt khả năng học tập của trẻ từ đó có phương pháp cho trẻ học tập phù hợp. Thứ tư, cha mẹ phải có trách nhiệm cho con em mình được đến trường học tập. Trước tiên cần phải đăng kí khai sinh cho trẻ, nhiều bậc cha mẹ nhất là vùng sâu, vùng xa do hiểu biết kém hoặc ở vùng xa xôi ngại đi đăng kí cho con nên con đến tuổi đi học mà vẫn chưa có giấy khai sinh cho trẻ dẫn đến nhiều trường hợp trẻ không được đến trường. Bên cạnh đó, cũng có những gia đình vì hoàn cảnh khó khăn mà bắt con mình phải bỏ học ở nhà giúp đỡ gia đình. Nhiều em mơ ướ được đến trường, được đi học như bao bạn khác mà không thành hiện thực được, tuổi các em phải được đi học, đến trường đó là quyền của các em vậy mà các em phải ở nhà trông em, phải lao động giúp gia đình. Những vùng dân tộc vẫn còn những hủ tục lạc hậu đó là bắt trẻ em gái ở nhà, không cho đi học, điều này khiến cho trẻ không được đến trường như bao trẻ khác. Mọi trẻ em đều được đến trường học tập không phân biệt nam nữ, giàu hay nghèo, có bệnh HIV hay không bệnh....tất cả các em đều được học tập như trẻ em bình thường khác. Chính vì vậy, trách nhiệm của gia đình trong việc bảo đảm việc học tập của trẻ em là rất lớn. Thực tiễn về quyền được học tập và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện Hiện nay, tình trạng trẻ em nghèo, trẻ em vùng sâu, vùng xa không được đến trường là khá lớn. Có em thì chỉ học đến bậc tiểu học là phải nghỉ để ở nhà lo giúp cha mẹ mặc dù các em rất muốn đến trường, đến lớp học cùng bạn bè. Mong ước của các em chỉ là mong sao được ăn ngon hơn một chút, được mặc đẹp hơn một chút và được cắp sách đến trường vì một ngày mai tươi sáng hơn. Những mong muốn bình dị ấy thật bình dị và đó cũng là quyền của bao trẻ em bình thường khác nhưng thật lớn đối với trẻ em nghèo, trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam. Các em chỉ dám nghĩ mà không dám mơ bởi khi sinh ra, các em đã cảm nhận được cái nắng, cái mưa của cuộc đời và chưa đến tuổi thành niên đã phải đương đầu với những nỗi vất vả ấy. Cái nghèo, cái khổ khiến các em phải thiệt thòi nhiều thứ mà trong đó quyền được học tập là thứ quan trọng nhất. Đó là những thứ mà các em đáng có, sẽ phải có khi được sinh ra trong một xã hội văn minh này. Nhưng thay vì “trẻ em như búp trên cành, biết ăn ngủ biết học hành là ngoan” thì các em phải lao động, dốc hết sức lực của những đứa trẻ non nớt. Tuổi của các em không phải là lứa tuổi phải lao động nặng, lẽ ra phải được vui chơi, học tập. Nhưng thực tế đời sống đã đẩy các em đến với những con đường không thẳng với những bước chân không nhẹ nhàng. Hay những ngày nắng gắt, một nhóm trẻ tranh nhau đánh giày, nhặt ve chai, bán báo… để mong kiếm được từng đồng cho cuộc sống mưu sinh. Vậy nguyên nhân từ đâu? Ai có trách nhiệm trong cuộc sống đầy gian khổ, đối mặt với cuộc sống hàng ngày của các em đây? Gia đình hay toàn xã hội? Thực tế, một số cha mẹ chỉ lo làm việc như thế nhưng ít ai quan tâm tới việc học hành của chúng. Có đứa không biết chữ, có đứa mới chỉ học xong bậc tiểu học phải nghỉ để đi kiếm thêm tiền, đi xa nhà vào đời với biết bao cám dỗ. Có đứa hiếu học nhưng ngày ngày đến trường với suy nghĩ liệu mình có đi đến cuối được con đường học vấn hay không? Làm như thế nào đây? Làm gì để tiếp tục học, tiếp tục thực hiện những ước mơ, hoài bão mà em đã vẽ và ấp ủ. Không chỉ các trẻ em bình thường không được học tập mà cả các em bị nhiễm HIV cũng đang rơi vào tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử gây trở ngại cho việc học tập của trẻ em nhiễm HIV rất nổi cộm ở các nhà trường, song chủ yếu là do người lớn chứ trẻ em thì rất vô tư. Chỉ có rất ít trường học ở Việt Nam hiện nay chấp nhận dạy dỗ trẻ em nhiễm HIV hòa nhập với trẻ em bình thường, còn đại đa số là không chấp nhận. Nhưng việc không chấp nhận này không phải do các thày cô giáo mà do sức ép của các bậc phụ huynh, nhiều người lôi kéo nhau tạo nên làn sóng phản đối quyết liệt, không cho trẻ “có HIV” được học chung với con em mình. Ngay tại Hà Nội, một vị đại biểu quốc hội cũng đã từng công khai phát biểu: “Nếu tôi có cháu, tôi cũng không cho cháu tôi học ở lớp có trẻ nhiễm HIV”. Nếu chúng ta không kịp thời có ngay những biện pháp ngăn chặn thì tình trạng kỳ thị, ngăn cản việc học tập của trẻ “có HIV” sẽ bùng nổ thành “đại dịch” và đương nhiên sẽ thành vấn đề nghiêm trọng. Các em bị HIV cũng có quyền được học tập như bao trẻ em bình thường khác. Kết luận Để thế hệ trẻ hôm nay thực sự là những chủ nhân tương lai của đất nước, trách nhiệm đầu tiên là của mọi gia đình, gia đình phải thực sự là tổ ấm, là nơi nuôi dưỡng, hình thành nhân cách con trẻ, là thành trì an toàn, phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình và trẻ em. Cha mẹ phải tạo điều kiện cho con em mình học tập để trở thành những công dân có ích cho xã hội. Tài liệu tham khảo 1.Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 2004– NXB Lao động 2. Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 – NXB tư pháp 3. Luật giáo dục năm 2005 ( sửa đổi, bổ sung năm 2009)- NXB Lao động 4. NĐ số 36/2005/NĐ-CP ngày 17/8/2005 qui định chi tiết một số điều của luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 qui định những hành vi bị coi là cản trở việc học tập của trẻ em. 5. Lê thị Mai Hường – Quyền trẻ em trong lĩnh vực giáo dục theo Công ước của Liên Hợp Quốc năm 1989 và pháp luật Việt Nam – HN 2011 Mục lục Một số lý luận về quyền trẻ em và quyền ..............................................1 1.Quyền trẻ em.........................................................................................1 2.Quyền được học tập của trẻ em...........................................................2 2.1 Trẻ em có quyền được học tập...........................................................3 2.2.Trẻ em học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả học phí.......................................................................................................5 II. Trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện.........................7 III.Thực tiễn về quyền được học tập và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện............................................................................................10 IV.Kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuyền được học tập của trẻ em và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện.doc