Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam

MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 15/6/2004 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2005. Có thể nói, BLTTDS được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển của ba Pháp lệnh trước đó, bao gồm: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, đồng thời tiếp thu những thành tựu lập pháp của nhiều nước trên thế giới. Đây là văn bản có tính pháp lý cao nhất quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án, trong đó có các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện của đương sự. Vấn đề quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện là vấn đề luôn được các nhà nghiên cứu về tố tụng, cơ quan lập pháp của nhiều nước trên thế giới quan tâm. Xét ở Việt Nam hiện nay thì các quy định trong pháp luật tố tụng dân sự của chúng ta về cơ bản đã phần nào thể hiện được vấn đề này. Tuy nhiên, về phương diện lý luận thì nhiều vấn đề về quyền khởi kiện và bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện cũng chưa được giải quyết triệt để. Thực tiễn tố tụng tại Tòa án cũng cho thấy, trong nhiều trường hợp, quyền khởi kiện của đương sự đã không được tôn trọng một cách đúng mức. Một số quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện được quy định trong BLTTDS còn chung chung, thiếu tính cụ thể dẫn tới những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng hoặc dẫn tới những cách hiểu và vận dụng khác nhau. Đây chính là một trong những nguyên nhân của việc “tùy tiện chủ quan” trong việc áp dụng pháp luật, làm cho quyền khởi kiện vụ án dân sự của đương sự không được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng cho thấy một số quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của việc bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự. Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện cả về phương diện lý luận, lập pháp và thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền khởi kiện là một việc làm cấp thiết. Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi đã lựa chọn đề tài “Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam” làm luận văn cao học luật của mình. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Sau khi BLTTDS có hiệu lực, cũng đã có một vài công trình nghiên cứu về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện nhưng các công trình này cũng chỉ đề cập đến một nội dung cụ thể nào đó của quyền khởi kiện hoặc nghiên cứu một cách gián tiếp về quyền khởi kiện của đương sự như luận văn cao học luật với đề tài “Đương sự trong vụ án dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Triều Dương (bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2005); luận văn “Thụ lý vụ án dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Liễu Thị Hạnh (bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2009). Ngoài ra, cũng có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành về một nội dung nào đó của quyền khởi kiện hoặc bình luận về các vụ việc cụ thể liên quan đến quyền khởi kiện. Chẳng hạn như bài viết “Vấn đề khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự” của ThS. Lê Thị Bích Lan đăng tải trên Tạp chí Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội (Số Đặc san về Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005); bài viết “Xây dựng quy định pháp lý đảm bảo quyền khởi kiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh tại toà án” của tác giả Lê Thế Phúc (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6 năm 2007); “Bàn về điều kiện khởi kiện của các tổ chức tín dụng có tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay” của tác giả Trịnh Huy Tân (Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao số 9/2008); “Về việc rút đơn khởi kiện của đương sự trong tố tụng dân sự” của ThS Nguyễn Triều Dương (Tạp chí Tòa án nhân dân số tháng 11/2009); “Về điều kiện khởi kiện tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án trong một vụ án cụ thể” của tác giả Ngô Đình Quyến (Tạp chí Tòa án nhân dân số tháng 3/2008); "Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng”của tác giả Trần Anh Tuấn (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 23/2008) . Việc nghiên cứu cho thấy các công trình trên đây cũng mới chỉ dừng lại ở việc đề cập một cách gián tiếp hoặc nghiên cứu một góc độ hẹp của quyền khởi kiện. Cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự trong tố tụng dân sự. Trước tình hình đó, tôi đã chọn đề tài "Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam" làm luận văn thạc sỹ của mình. Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về quyền khởi kiện và đảm bảo quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự. 3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI * Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ được những vấn đề lý luận cũng như nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện, chỉ ra những điểm còn thiếu sót hoặc chưa hợp lý trong các quy định hiện hành về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng nhằm làm sáng rõ việc bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện trên thực tế. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng hợp, luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện đồng thời nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện trên thực tế. * Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục tiêu này, luận văn phải hoàn thành một số nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự; - Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam có liên quan tới quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện và thực tiễn áp dụng chúng tại các Toà án. Từ đó chỉ ra những điểm bất cập, thiếu hợp lý trong các quy định của pháp luật về quyền khởi kiện cũng như bảo đảm quyền khởi kiện; - Đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện. * Phạm vi nghiên cứu của đề tài Với nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn sẽ không đi sâu nghiên cứu việc bảo đảm giải quyết theo đúng pháp luật và bản chất sự việc, có nghĩa là không xét tới việc giải quyết về nội dung của yêu cầu khởi kiện mà chỉ tập trung nghiên cứu việc bảo đảm quyền khởi kiện dưới góc độ tố tụng dân sự thông qua việc thụ lý, trả đơn hay đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do không đủ điều kiện khởi kiện. Nội dung cốt lõi của luận văn là xoay quanh quyền khởi kiện và việc bảo đảm quyền khởi kiện dưới góc nhìn lý luận, luật thực định và thực tiễn. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ được giới hạn trong phạm vi sau đây: - Lịch sử hình thành và phát triển các quy đinh pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện; - Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện; - Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện thông qua các hoạt động tố tụng dân sự tại Tòa án. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chính sách của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác như phương pháp phân tích hệ thống; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê .v.v. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Những đóng góp của luận văn thể hiện trên một số phương diện sau đây: Thứ nhất: Lần đầu tiên quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về lý luận, luật thực định và thực tiễn thực hiện. Thứ hai: Sau khi BLTTDS có hiệu lực, chưa có công trình nào nghiên cứu, khảo sát chuyên sâu về thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện. Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền khởi kiện nhằm chỉ ra thực trạng bảo đảm quyền khởi kiện cũng như những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện pháp luật. Thứ ba: Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện, nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền khởi kiện trên thực tế. Thứ tư: Luận văn được bảo vệ thành công sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho giảng viên, sinh viên chuyên ngành luật, các cán bộ làm công tác thực tiễn liên quan đến việc khởi kiện, bảo đảm quyền khởi kiện. Ngoài ra, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp liên quan tới việc hoàn thiện pháp luật về quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự. 6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cầu bởi 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự Chương 2: Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự và kiến nghị

doc82 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4432 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n không đúng. Nếu người tiến hành tố tụng có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại thì Tòa án phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, để bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự thì trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tòa án có trách nhiệm phải chuyển giao tài liệu, giấy tờ về việc trả đơn kiện hay đình chỉ vụ án cho đương sự theo quy định của BLTTDS. Ngoài ra, Tòa án còn phải chịu trách nhiệm, giải quyết đúng và kịp thời các khiếu nại, kháng cáo của đương sự, kháng nghị của người có thẩm quyền. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Việc nghiên cứu quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành cho thấy BLTTDS đã ghi nhận quyền khởi kiện và đã có những quy định tương đối hợp lý nhằm bảo đảm cho các chủ thể thực hiện quyền khởi kiện của mình trên thực tế. Pháp luật tố tụng dân sự đã có những quy định hợp lý về điều kiện khởi kiện để quyền khởi kiện của đương sự không bị hạn chế một cách quá đáng. Việc ghi nhận quyền khởi kiện lại, những ngoại lệ về thời hiệu khởi kiện, quyền thoả thuận hoặc lựa chọn Tòa án là những bảo đảm quan trọng để đương sự có thể thực hiện được quyền khởi kiện của mình. Ngoài ra, các quy định của BLTTDS về việc chuyển đơn kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho đương sự biết đã tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự, tránh được tình trạng đương sự phải chạy lòng vòng để nộp đơn khởi kiện, thậm chí dẫn tới mất quyền khởi kiện vì hết thời hiệu. Cơ chế hỗ trợ thông qua người đại diện, người bảo vệ quyền lợi; hỗ trợ tài chính cũng tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho đương sự thực hiện quyền khởi kiện của mình. Việc ghi nhận quyền khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị đối với việc trả lại đơn khởi kiện, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và xoá sổ thụ lý vụ án không đúng cũng là cơ sở quan trọng để quyền khởi kiện được thực thi. Tuy nhiên, việc nghiên cứu cũng cho thấy một số quy định của BLTTDS như hoà giải tiền tố tụng đối với tranh chấp đất đai, quy định căn cứ trả đơn khởi kiện vì thời hiệu khởi kiện đã hết, đương sự không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Toà án cũng chưa thực sự bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự. Thực tế này cho thấy cần phải nghiên cứu thêm để sửa đổi các quy định về điều kiện khởi kiện và trả đơn khởi kiện cho phù hợp hơn. Bên cạnh đó, các quy định về việc người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện các tài liệu, chứng cứ để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp dường như chưa bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự. Do vậy, để bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự thì việc xác định các chứng cứ, tài liệu bắt buộc phải nộp kèm theo đơn kiện cũng cần phải cân nhắc một cách thận trọng. Việc nghiên cứu cũng chỉ ra rằng một số quy định về quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự đã hạn chế quá mức quyền bổ sung yêu cầu của đương sự. Do vậy, cần phải mở rộng hơn quyền này cho phù hợp. Bên cạnh đó, các quy định về thời điểm bị đơn có quyền đưa ra quyền yêu cầu phản tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập cũng cần phải được nghiên cứu sửa đổi theo hướng đáp ứng yêu cầu về quyền tiếp cận công lý của công dân. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy các quy định về chuyển hoá giữa việc dân sự và vụ án dân sự cũng chưa được thiết lập, dẫn tới người có yêu cầu trước đó trong việc dân sự vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình thì phải làm lại toàn bộ thủ tục khởi kiện từ đầu gây mất thời gian và tổn phí. Một số quy định về bảo đảm thông qua hoạt động của Toà án như quy định về sự độc lập của Toà án mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc, trong khi đó các cơ chế về chế độ bổ nhiệm, đãi ngộ - cơ sở để thực thi sự độc lập này vẫn còn chưa được thiết lập trên thực tế. Như vậy, trên cơ sở vận dụng kết quả nghiên cứu lý luận tại Chương 1 để soi sáng luật thực định về vấn đề quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện, Chương 2 của bản luận văn đã chỉ ra được những ưu điểm và nhược điểm cơ bản của pháp luật hiện hành về vấn đề này. Để có cơ sở vững chắc cho việc đề xuất kiến nghị thì việc nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện là hết sức cần thiết. Vấn đề này sẽ tiếp tục được trình bày tại Chương 3 của luận văn. CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN KHỞI KIỆN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện 3.1.1. Về thành tựu đạt được trong việc thực hiện các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện Sau hơn 5 năm thi hành, các quy định của BLTTDS về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Dựa trên cơ sở pháp lý này, các đương sự đã chủ động khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Các Toà án cũng đã thụ lý và giải quyết kịp thời các tranh chấp, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Theo Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành BLTTDS của Tòa án nhân dân tối cao thì Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý và giải quyết một số lượng lớn các vụ việc dân sự, trong đó chủ yếu là các tranh chấp do đương sự khởi kiện. Cụ thể như sau: + Năm 2005, các Toà án đã thụ lý, giải quyết 150195 vụ việc về dân sự, hôn nhân và gia đình; 1495 vụ việc về tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh thương mại và yêu cầu tuyên bố phá sản; 1129 vụ việc về tranh chấp, yêu cầu về lao động. + Năm 2006, các Toà án đã thụ lý, giải quyết 160979 vụ việc về dân sự, hôn nhân và gia đình; 2866 vụ việc về tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh thương mại và yêu cầu tuyên bố phá sản; 1043 vụ việc về tranh chấp, yêu cầu về lao động. + Năm 2007, các Toà án đã thụ lý, giải quyết 105358 vụ việc dân sự; 77561 vụ việc về hôn nhân và gia đình; 4798 vụ việc về tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh thương mại và yêu cầu tuyên bố phá sản; 1275 vụ việc về tranh chấp, yêu cầu về lao động. + Năm 2008, các Toà án đã thụ lý, giải quyết 100539 vụ việc dân sự; 83856 vụ việc về hôn nhân và gia đình; 6034 vụ việc về tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh thương mại và yêu cầu tuyên bố phá sản; 1907 vụ việc về tranh chấp, yêu cầu về lao động. + Năm 2009, Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý giải quyết 214.174 vụ việc [58, tr.9]. Nhìn chung, trong quá trình thụ lý và giải quyết các vụ án dân sự các Tòa án đã có nhiều biện pháp hỗ trợ bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền khởi kiện của mình như niêm yết mẫu đơn khởi kiện công khai tại trụ sở Tòa án, hướng dẫn về cách thức, trình tự viết đơn và thông báo về việc giao nộp các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện đối với từng vụ việc cụ thể, thực hiện việc giải thích rõ quyền, nghĩa vụ của đương sự, tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thực hiện tốt quyền khởi kiện của mình. Ngoài ra, một số Toà án đã lập trang Web để hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện. Về cơ bản việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện của đương sự được dựa trên những căn cứ do luật định như thời hiệu khởi kiện đã hết, sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không đáp ứng được các điều kiện khởi kiện luật định, không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo quy định của pháp luật hay không cung cấp được những chứng cứ, tài liệu cần thiết...v.v. Tuy nhiên, nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện cũng cho thấy những hạn chế, bất cập, vướng mắc nảy sinh. 3.1.2. Về những bất cập, vướng mắc nảy sinh trong việc thực hiện các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện Kết quả nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong BLTTDS cho thấy những hạn chế, bất cập sau đây: - Sự thiếu hiểu biết pháp luật của đương sự về điều kiện khởi kiện dẫn tới yêu cầu khởi kiện chậm được thụ lý hoặc mất quyền khởi kiện Thực tiễn thụ lý các vụ án dân sự cho thấy nhiều trường hợp do nhận thức, hiểu biết pháp luật của đương sự về các điều kiện khởi kiện còn hạn chế dẫn đến việc đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình không đúng, không đầy đủ khi thực hiện quyền khởi kiện. Chẳng hạn như nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhưng đơn khởi kiện không có đầy đủ các nội dung theo quy định của pháp luật, thiếu những tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc khởi kiện hoặc đương sự nộp đơn khởi kiện không đúng Toà án có thẩm quyền, người viết đơn khởi kiện không có đủ tư cách pháp lý khởi kiện nhưng vẫn thực hiện việc khởi kiện tại Toà án. Ngoài ra, việc nghiên cứu cho thấy không ít các trường hợp, do đương sự không biết được các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện. Do vậy, khi đương sự nộp đơn khởi kiện tại Toà án thì thời hiệu khởi kiện đã hết. Khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện vì lý do hết thời hiệu khởi kiện thì đương sự do thiếu hiểu biết pháp luật lại cho rằng Tòa án đã gây khó dễ cho họ và khiếu nại nhiều lần. - Sự thiếu hợp tác của cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ, tài liệu dẫn tới khó khăn cho đương sự trong việc thực hiện quyền khởi kiện Về nguyên tắc, khi Tòa án nhận được đơn khởi kiện thì Tòa án sẽ vào sổ nhận đơn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tiễn cho thấy vẫn còn có những trường hợp khi nhận đơn khởi kiện, cán bộ nhận đơn xét thấy đơn khởi kiện của đương sự về hình thức và nội dung không theo đúng quy định của pháp luật hoặc còn thiếu các tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc thụ lý vụ án. Toà án đã yêu cầu đương sự bổ sung chứng cứ, tài liệu ban đầu để có thể thụ lý vụ án nhưng đương sự không thể bổ sung được do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ các tài liệu, chứng cứ này không có thiện chí cung cấp cho đương sự. Trong khi đó, theo pháp luật hiện hành thì đương sự chỉ có quyền yêu cầu Toà án can thiệp sau khi vụ án đã được Toà án thụ lý và đương sự phải xuất trình được cho Toà án văn bản trả lời của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó về lý do của việc không cung cấp chứng cứ, tài liệu cho đương sự. Thực tế này đã dẫn tới việc đương sự không thể thực hiện được quyền khởi kiện của mình, thậm chí mất quyền khởi kiện do thời hiệu khởi kiện đã hết. - Hiện tượng Toà án chậm thụ lý vụ án mặc dù đương sự đã đáp ứng đủ các điều kiện khởi kiện Theo Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 2008 thì ở khâu thụ lý, khi nhận hồ sơ khởi kiện các Toà án thường lúng túng trong việc xem xét các điều kiện về hoà giải, về thời hiệu khởi kiện vụ án, do đó thời gian thụ lý vụ án bị kéo dài [40, tr.55]. Về nguyên tắc, khi đương sự đưa ra yêu cầu chính đáng đáp ứng được đầy đủ các điều kiện khởi kiện thì Tòa án phải xem xét và giải quyết. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn tồn tại tình trạng chậm thụ lý mặc dù việc khởi kiện của đương sự đáp ứng đầy đủ các điều kiện khởi kiện luật định. Tình trạng này tồn tại thậm chí ngay trong cả những vụ án có sự tham gia của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Luật sư Trần Vũ Hải cũng đã phải bày tỏ sự bức xúc của mình “Có vụ án mà hai tháng trời tôi phải chạy tới, chạy lui, chầu chực mãi ở tòa nhưng cũng không biết tòa có thụ lý đơn kiện hay không? Nếu không thụ lý thì cũng cần phải nói rõ lý do vì sao” [(Báo điện tử -Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh)]. Như vậy, luật pháp dù đã quy định cụ thể về điều kiện thụ lý, thời hạn và thủ tục thụ lý nhưng việc thực thi trên thực tế lại phụ thuộc vào sự nắm vững pháp luật, tinh thần trách nhiệm của cán bộ thụ lý. Thiết nghĩ, việc tập huấn pháp luật, trao đổi kinh nghiệm và áp dụng nghiêm chế tài đối với những hành vi vi phạm pháp luật về điều kiện thụ lý vụ án sẽ là cần thiết để quyền khởi kiện của đương sự được thực thi. - Toà án thụ lý không đúng, xác định sai quan hệ pháp luật tranh chấp, bỏ sót người tham gia tố tụng dẫn tới yêu cầu khởi kiện chậm được xem xét Thực tiễn thụ lý giải quyết tranh chấp dân sự cũng cho thấy nhiều trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền của Toà án nhận đơn, lẽ ra Toà án này phải chuyển đơn khởi kiện tới Toà án có thẩm quyền nhưng do không nắm vững các quy định về điều kiện thẩm quyền theo cấp và theo lãnh thổ nên Toà án nhận đơn vẫn thụ lý vụ án. Việc thụ lý không đúng thẩm quyền dẫn tới Toà án đã thụ lý phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền làm cho yêu cầu khởi kiện chậm được xem xét giải quyết. Ngoài ra, hiện tượng xác định không đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, giải quyết vụ án không đúng thẩm quyền, bỏ sót người tham gia tố tụng, vi phạm về thành phần hội đồng xét xử, vi phạm thủ tục tố tụng vẫn còn tồn tại dẫn tới Toà án cấp trên phải huỷ án để xét xử lại làm cho việc thực hiện quyền khởi kiện bị chậm trễ [31, tr. 6]. Ở đây chúng ta không xét tới những sai lầm của Toà án về nội dung vụ việc nhưng những vi phạm về tố tụng của Toà án cũng có thể làm cho vụ án bị xử đi xử lại nhiều lần làm cho quyền khởi kiện của đương sự chậm được thực hiện. Do vậy, những hiện tượng trên đây cũng cần được chấn chỉnh và khắc phục để quyền khởi kiện của đương sự được bảo đảm thực hiện một cách có hiệu quả. - Tòa án trả lại đơn khởi kiện không đúng pháp luật Tình trạng một số Tòa án không thụ lý và trả lại đơn khởi kiện không đúng đã xâm phạm tới quyền khởi kiện của đương sự. Theo Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 2008 thì một số trường hợp Toà án trả lại đơn khởi kiện không có căn cứ theo quy định tại Điều 168 BLTTDS. Chẳng hạn như trả lại đơn khởi kiện không đúng vì lý do việc khởi kiện đã được đã được cơ quan Bảo hiểm xã hội giải quyết (như vụ kiện giữa bà Nguyễn Thị O kiện Bảo hiểm xã hội tỉnh TQ) hoặc vì lý do Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh đang thụ lý giải quyết vụ việc (như vụ Nguyễn Thanh Q kiện Công ty TNHH thực phẩm JK)[40, tr.55]. Ngoài ra, cũng có những trường hợp việc khởi kiện của đương sự đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật nhưng Tòa án đã không thụ lý vụ việc do nhận thức không đúng về thẩm quyền, về điều kiện khởi kiện. Tình trạng trả lại đơn khởi kiện, “đùn đẩy” trách nhiệm giải quyết tranh chấp giữa Tòa án với các cơ quan hữu quan vẫn còn tồn tại. Vụ kiện tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất giữa gia đình bà Đỗ Thị Yến với gia đình ông Nguyễn Mạnh Khách ở phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy là một ví dụ. Việc tranh chấp xảy ra đã nhiều năm (từ năm 1998) nhưng chưa được giải quyết dứt điểm. UBND quận Cầu Giấy sau nhiều năm giải quyết đã kết luận rằng việc giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân vì gia đình nhà ông Nguyễn Mạnh Khách đã có giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất. Năm 2010, đương sự khởi kiện ra Toà án thì Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy lại căn cứ vào Luật Đất đai năm 2003 để trả lại đơn khởi kiện của bà Yến với lý do đất đang tranh chấp không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên sự việc phải thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND và tiếp tục hướng dẫn nguyên đơn làm đơn yêu cầu UBND quận Cầu Giấy để giải quyết. Nếu căn cứ theo các quy định về điều kiện khởi kiện thì Tòa án cần áp dụng khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 để thụ lý và giải quyết vụ án. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai 2003 thì “Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết”. Như vậy, Toà án vẫn có thể thụ lý giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nếu đất thuộc trường hợp có một trong các loại giấy tờ được coi là hợp lệ theo quy định của pháp luật đất đai chứ không nhất thiết là phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Toà án xác định không đúng thời hiệu khởi kiện nên đình chỉ giải quyết vụ án không đúng dẫn tới đương sự mất quyền khởi kiện Thời hiệu khởi kiện đối với từng loại quan hệ pháp luật tranh chấp đã được quy định cụ thể trong pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Tuy nhiên, khi vận dụng pháp luật thì một số Toà án đã xác định thời hiệu khởi kiện không đúng dẫn tới việc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án sai làm cho đương sự mất quyền khởi kiện. Chẳng hạn như trong vụ kiện người lao động khởi kiện đòi Công ty vật liệu và xây dựng trả 11 tháng tiền lương chờ việc. Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều tính thời hiệu khởi kiện từ thời điểm bắt đầu xảy ra vi phạm (tháng 1/2002), do đó đã quyết định đình chỉ vụ án vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết [31, tr. 6]. Tuy nhiên, hồ sơ vụ án thể hiện nguyên đơn nghỉ việc từ tháng 1/2002 đến tháng 7/2002 không được Công ty trả lương. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 thì trong một quan hệ pháp luật hoặc trong một giao dịch dân sự, nếu hành vi vi phạm xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính từ thời điểm xảy ra vi phạm cuối cùng. Như vậy, thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là từ tháng 7/2003. Tháng 12/2003, người lao động mới khởi kiện là còn trong thời hiệu khởi kiện tranh chấp lao động. Việc Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết là vi phạm quyền khởi kiện của người lao động. Tương tự như trên là vụ kiện của ông N đối với Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng K đòi trả tiền lương làm thêm giờ từ 1/4/2001 đến 30/7/2005. Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 168 BLTTDS và Điều 167 BLLĐ để đình chỉ giải quyết vụ án vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện là không đúng. Ông N vào làm việc tại Công ty ngày 1/4/2001 nhưng đã không được trả tiền lương làm thêm giờ, hành vi đó xảy ra liên tục cho đến khi ông N nghỉ việc. Như vậy, theo quy định trên thì cần xác định thời điểm tính thời hiệu là kể từ ngày xảy ra vi phạm cuối cùng (ngày 7/1/2006). Do vậy, Chánh án TANDTC đã ra Quyết định số 02/KN-LĐ kháng nghị Bản án lao động phúc thẩm số 37/2006/LĐPT ngày 29/11/2006 của TAND thành phố HCM. Quyết định giám đốc thẩm số 05/2007/LĐ-GĐT ngày 8/11/2007 đã huỷ cả án sơ thẩm, phúc thẩm giao cho TAND quận M xét xử sơ thẩm lại từ đầu [44, tr.58]. - Tòa án đình chỉ vụ án vì lý do người khởi kiện không biết hoặc ghi không đúng địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến hậu quả là đương sự mất quyền khởi kiện Hiện nay theo hướng dẫn tại Phần I mục 8.7 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 thì “Nếu người khởi kiện không biết hoặc ghi không đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để ghi trong đơn khởi kiện thì họ phải thực hiện việc thông báo tìm tin tức, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Theo Công văn 109/KHXX ngày 30/6/2006 của Toà án nhân dân tối cao thì đối với những vụ án đã thụ lý thuộc “Trường hợp người khởi kiện không biết hoặc ghi không đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì trả lại đơn khởi kiện cho họ và xoá sổ thụ lý. Đồng thời hướng dẫn họ thực hiện việc thông báo tìm tin tức, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Tuy nhiên, trong thực tiễn thì khi gặp tình huống này một số Toà án đã vận dụng không đúng nên đã ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dẫn tới đương sự mất quyền khởi kiện. Có thể minh hoạ thực trạng này qua vụ án kiện đòi di sản thừa kế sau đây: Theo hồ sơ thì ngày 24/6/2008, ông Nguyễn Văn Huynh khởi kiện xin chia di sản thừa kế đối với khối tài sản bao gồm căn nhà 2 tầng được xây dựng trên tổng diện tích đất là 169 m2 mà bố mẹ ông để lại, ngôi nhà và đất hiện do anh trai ông là ông Nguyễn Văn Hùng quản lý, sử dụng. Ngày 5/7/2008, Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn đã thụ lý vụ án và thông báo cho các bên đương sự biết. Trong quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Văn Hùng khai bố mẹ ông có sinh được ba người con là ông, ông Nguyễn Văn Huynh và cô Nguyễn Thị Huyền (cô Huyền chết năm 2005), cô Huyền cùng chồng sinh sống trong Miền Trung có sinh được một người con là Phạm Đức Anh, nhưng hiện tại không biết chính xác địa chỉ của con và chồng cô Huyền. Ông Nguyễn Văn Huynh cũng thừa nhận là đúng và cũng không biết được địa chỉ của chồng và con cô Huyền. Do hiểu và vận dụng không đúng quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 168 BLTTDS về căn cứ sự việc “Chưa có đủ điều kiện khởi kiện” nên ngày 01/10/2008, Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn đã căn cứ theo quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 168 BLTTDS và khoản 2 Điều 192 BLTTDS để ra quyết định “đình chỉ giải quyết vụ án dân sự”. Ngày 06/10/2008, ông Nguyễn Văn Huynh đã làm đơn kháng cáo đối với quyết định đình chỉ với lý do việc Tòa án nhân dân thị xã Từ sơn ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng, gây thiệt hại cho ông vì sau này ông không có quyền khởi kiện lại vụ án. Bởi vì, theo quy định tại Khoản 1 Điều 193 BLTTDS về hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án thì “Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp quy định tại các điểm c,e và g khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này và các trường hợp pháp luật có quy định khác”. Lẽ ra trong trường hợp này nếu Toà án vận dụng hướng dẫn tại Phần I mục 8.7 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 và Công văn 109/KHXX ngày 30/6/2006 của Toà án nhân dân tối cao để trả lại đơn khởi kiện cho đương sự và xoá sổ thụ lý vụ án thì sẽ bảo đảm hơn quyền khởi kiện của đương sự. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu tại Chương 1 thì ngay cả hướng dẫn thực tiễn này cũng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu về bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự. - Hiện tượng Toà án giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự vẫn còn tồn tại Pháp luật tố tụng dân sự đã quy định tương đối rõ về quyền khởi kiện, phạm vi khởi kiện, hình thức, nội dung đơn khởi kiện của đương sự. Trong trường hợp đơn khởi kiện không có đầy đủ các nội dung đó thì Toà án có quyền thông báo để đương sự sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong thời hạn nhất định. Tại phiên toà thì người khởi kiện vẫn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nhưng không được vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu. Tuy nhiên, trên thực tế hiện tượng Toà án giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự cũng không bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự. Vụ tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Nhanh với bị đơn là ông Hồng Công Luyến do Toà án nhân dân tỉnh T xét xử tại bản án dân sự phúc thẩm số 146/2007/DSPT ngày 14/5/2007 là một điển hình. Trong vụ án này người khởi kiện đã thể hiện rõ yêu cầu đòi bồi thường 1.066 m2 đất, nhưng khi xét xử thì Toà án cấp phúc thẩm lại buộc bị đơn trả cho nguyên đơn 3.815 m2 đất là vượt quá yêu cầu của nguyên đơn [41, tr.3]. Việc giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện cũng phải được xem như không bảo đảm đúng quyền khởi kiện của đương sự. - Tình trạng chậm thông báo thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát gây khó khăn cho công tác kiểm sát việc thụ lý vụ án Theo quy định tại Điều 174 BLTTDS thì trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án Toà án phải thông báo cho Viện kiểm sát về việc Toà án đã thụ lý vụ án. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy công tác kiểm sát thụ lý vụ án của Viện kiểm sát còn có những khó khăn do sự thiếu hợp tác của Toà án. Hiện tượng vi phạm về thời hạn thông báo thụ lý tương đối nhiều (18.035 vụ), nhiều bản thông báo gửi chậm, thường chậm từ 10 – 15 ngày kể từ ngày Toà án thụ lý. Thậm chí thông báo thụ lý không ghi số, ngày, tháng thụ lý, do đó, Viện kiểm sát không có cơ sở để kiểm tra được Toà án có thụ lý đơn kiện đúng thời hạn hay không [33, tr.4]. Như vậy, kết quả nghiên cứu lý luận tại Chương 1, phân tích luật thực định tại Chương 2 của bản luận văn và kết quả khảo sát trên đây về thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện tại Toà án đã cho chúng ta thấy rõ hơn bức tranh về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự ở Việt Nam. Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn luận giải và đề xuất một số kiến nghị sau đây về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện ở Việt Nam. 3.2. Kiến nghị về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện 3.2.1. Các kiến nghị nhằm ghi nhận quyền của đương sự trong việc khởi kiện - Về mở rộng quyền phản tố của bị đơn, quyền đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Theo phân tích tại Chương 2 của luận văn thì pháp luật hiện hành chỉ cho phép bị đơn có quyền phản tố đối với nguyên đơn, trong khi đó người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thể đưa ra yêu cầu chống lại cả nguyên đơn, bị đơn. Đây là một hạn chế của pháp luật, do vậy, cần phải có những quy định bổ sung theo hướng mở rộng hơn quyền phản tố của bị đơn đối với cả yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ngoài ra, theo kết quả nghiên cứu tại Chương 2 của luận văn thì quy định tại Điều 176 BLTTDS về thời điểm bị đơn có quyền phản tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập còn thiếu rõ ràng dẫn tới những cách hiểu và vận dụng khác nhau trong thực tiễn. Việc vận dụng pháp luật theo hướng bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ được thực hiện quyền phản tố và yêu cầu độc lập trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày đương sự nhận được thông báo thụ lý vụ án sẽ không bảo đảm hay nói cách khác là hạn chế quyền phản tố, quyền có yêu cầu của họ. Tuy nhiên, cũng cần phải hài hoà giữa yêu cầu về bảo đảm quyền tiếp cận công lý của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và quyền tranh tụng của nguyên đơn và các đương sự khác. Do vậy, chúng tôi kiến nghị sửa đổi quy định tại Điều 175, Điều 176 BLTTDS theo hướng mở rộng hơn và cho phép bị đơn có quyền đưa ra quyền yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập của mình cho đến trước khi Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đưa vụ án ra xét xử. - Bổ sung quy định về quyền trực tiếp đến Toà án để trình bày yêu cầu Việc nghiên cứu cho thấy một số quy định về thủ tục tố tụng trong BLTTDS và văn bản hướng dẫn hiện nay cũng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu về sự “thuận tiện”, đảm bảo quyền khởi kiện của đương sự. Chẳng hạn, sự thiếu vắng trong các quy định về quyền trực tiếp đến Toà án để trình bày đơn khởi kiện, đơn kháng cáo trong những trường hợp đương sự tàn tật hoặc không biết chữ là chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm quyền khởi kiện. Do vậy, chúng tôi kiến nghị bổ sung quy định về quyền trực tiếp đến Toà án để trình bày yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo trong những trường hợp đương sự là người tàn tật hoặc không biết chữ. Cán bộ Toà án sẽ có trách nhiệm lập biên bản về nội dung khởi kiện hay kháng cáo mà đương sự trình bày để đưa vào hồ sơ vụ án. Ngoài ra, cần bổ sung quy định đương sự có quyền yêu cầu các tổ chức trợ giúp pháp lý trợ giúp trong việc làm đơn khởi kiện, đơn kháng cáo hoặc các giấy tờ khác liên quan tới việc kiện tụng tại Toà án và trách nhiệm của các tổ chức này trong việc trợ giúp miễn phí cho đương sự thuộc những trường hợp nói trên và cho những đương sự thuộc diện nghèo, gia đình chính sách. - Bổ sung quy định về quyền khởi kiện lại trong trường hợp Toà án đình chỉ giải quyết vụ án Theo khoản 1 Điều 193 BLTTDS thì khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đương sự không có quyền khởi kiện lại vụ án đó nếu vụ án sau không có gì khác vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật tranh chấp trừ trường hợp quy định tại các điểm c, e và g khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Tuy nhiên, việc giới hạn một cách thái quá những trường hợp đương sự được khởi kiện lại vụ án là không bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự. Điều 168 và Điều 192 BLTTDS có quy định về việc trả đơn khởi kiện và đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp người khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, chưa đủ điều kiện khởi kiện nhưng đã bỏ sót và không có những quy định về quyền khởi kiện lại vụ án của đương sự trong những trường hợp đương sự đã có đủ hoặc khôi phục năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc đã đủ điều kiện để thực hiện quyền khởi kiện. Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về vấn đề này đã hạn chế quyền khởi kiện lại của đương sự. Do vậy, chúng tôi kiến nghị sửa đổi quy định tại điểm b, điểm đ khoản 1 Điều 168 theo hướng quy định bổ sung về quyền tiếp tục khởi kiện hoặc khởi kiện lại vụ án của đương sự trong trường hợp đương sự đã có đủ hoặc khôi phục năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc đã đủ điều kiện để thực hiện quyền khởi kiện. - Sửa đổi quy định về quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện Theo đó, Điều 218 BLTTDS quy định việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm không được vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện. Tuy nhiên, theo phân tích ở Chương 1 thì hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTPTANDTC là không bảo đảm và hạn chế một cách quá đáng quyền bổ sung yêu cầu của đương sự. Do vậy, chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều 218 BLTTDS theo hướng bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà được chấp nhận nếu không vượt quá quan hệ pháp luật tranh chấp hay không làm phát sinh một quan hệ pháp luật mới cần phải giải quyết. 3.2.2. Các kiến nghị về tính hợp lý của điều kiện khởi kiện, thụ lý vụ án - Sửa đổi quy định về điều kiện thời hiệu khởi kiện Việc Tòa án trả đơn kiện cũng đồng nghĩa với việc Tòa án không chấp nhận giải quyết yêu cầu của đương sự. Do vậy, cần quy định chặt chẽ căn cứ trả đơn và hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để sự sai sót của Tòa án không làm vô hiệu hóa quyền khởi kiện của người khởi kiện. Theo phân tích tại Chương 2 thì việc trả đơn như thời hiệu khởi kiện đã hết, đương sự không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Toà án là không bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự. Thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự cho thấy việc xác định vụ tranh chấp còn thời hiệu khởi kiện hay không cũng không phải là điều dễ dàng, cần phải có chứng cứ, tài liệu để xác định. Nếu cán bộ thụ lý nhận đơn rồi trả lại vì cho rằng thời hiệu khởi kiện đã hết thì trong nhiều trường hợp quyền khởi kiện của đương sự không được bảo đảm. Do vậy, chúng tôi tán đồng với quan điểm sửa đổi BLTTDS (Dự thảo 4 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS) theo hướng không coi căn cứ thời hiệu khởi kiện đã hết là điều kiện khởi kiện. Toà án chỉ kiểm tra các điều kiện khác khi nhận đơn, nếu sau khi thụ lý vụ án mà xác định được chắc chắn là thời hiệu khởi kiện đã hết thì sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Nếu theo phương án này thì quyền khởi kiện của đương sự sẽ được bảo đảm hơn, do họ còn có cơ hội kháng cáo, Viện kiểm sát có thể kháng nghị để xem xét lại ở Toà án cấp phúc thẩm. - Sửa đổi các quy định về điều kiện hoà giải tiền tố tụng Theo Công văn số 116 TANDTC ngày 22 tháng 7 năm 2004, Toà án nhân dân Tối cao thì “Theo tinh thần quy định tại Điều 135 và Điều 136 Luật đất đai năm 2003 thì tranh chấp đất đai nhất thiết phải qua hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp...”. Do vậy, “Kể từ ngày 01/07/2004 trở đi Toà án chỉ thụ lý, giải quyết tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại UBND cấp xã mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí và khởi kiện đến Toà án”. Quan niệm này lại được khẳng định một lần nữa trong bản tham luận của Toà dân sự TANDTC ngày 3/1/2005 theo hướng tất cả các loại tranh chấp về quyền sử dụng đất đều phải qua hoà giải cơ sở tại UBND xã, phường, thị trấn. Dưới góc nhìn bảo đảm quyền khởi kiện thì hoà giải ở cơ sở bắt buộc nhằm tăng cường đoàn kết trong nội bộ nhân dân chỉ nên đặt ra đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất, mốc giới giữa các hộ liền kề. Nếu tất cả các tranh chấp về quyền sử dụng đất đều phải qua hoà giải cơ sở thì dường như gây khó khăn cho người dân khi thực hiên quyền khởi kiện của mình. Ngoài ra, thời hiệu khởi kiện đối với mỗi loại án kiện đã được nhà lập pháp quy định trước trong các văn bản pháp luật. Nếu coi mọi tranh chấp đất đai đều bắt buộc phải thông qua con đường hoà giải cơ sở trước khi khởi kiện ra Toà án thì trong nhiều trường hợp dẫn tới hậu quả là đương sự mất quyền khởi kiện ra Toà án do thời hiệu khởi kiện đã hết [52, tr.52-56]. Từ những phân tích trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi các quy định về điều kiện khởi kiện theo hướng coi việc hoà giải cơ sở chỉ bắt buộc đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất, mốc giới giữa các hộ liền kề nhằm duy trì tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Ngoài ra, cần có quy định bổ sung nhằm bảo đảm hơn quyền khởi kiện của đương sự theo hướng: Nếu hết thời hạn theo Khoản 2 Điều 135 Luật đất đai 2003 (kể từ ngày UBND nhận đơn) mà UBND không tiến hành hoà giải hoặc không có điều kiện hoà giải (bên bị kiện không có thiện chí nên không có mặt hoặc không thể có mặt...) thì đương sự có quyền khởi kiện ra Toà án. Thời gian từ ngày đương sự nộp đơn yêu cầu hoà giải tại UBND cho tới khi khởi kiện ra Toà án không được tính vào thời hiệu khởi kiện. - Sửa đổi quy định về chứng cứ, tài liệu buộc phải nộp kèm theo đơn kiện Theo kết quả nghiên cứu tại Chương 1 và Chương 2 của luận văn thì quy định tại Điều 162, Điều 165 về việc người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện các tài liệu, chứng cứ để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp là chưa bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự. Do vậy, chúng tôi kiến nghị sửa đổi quy định này theo hướng các chứng cứ, tài liệu bắt buộc phải nộp kèm theo đơn kiện chỉ bao gồm những chứng cứ, tài liệu đủ để xác định điều kiện thụ lý vụ án. Các tài liệu, chứng cứ khác đương sự có thể nộp bổ sung trong quá trình giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, cần có những quy định bổ sung theo hướng xác định trách nhiệm của cán bộ thụ lý trong việc hướng dẫn đương sự về việc thực hiện các thủ tục cần thiết như mẫu đơn kiện, các chứng cứ, tài liệu, giấy tờ cần thiết phải nộp cho mỗi loại vụ án. Việc bổ sung quy định về trách nhiệm của Toà án trong việc chuyển đơn khởi kiện cho cơ quan có thẩm quyền nếu sự việc không thuộc thẩm quyền của Toà án nhưng lại thuộc thẩm quyền của một cơ quan Nhà nước khác là cần thiết. Quy định theo hướng này sẽ bảo đảm hơn quyền khởi kiện của công dân, gắn trách nhiệm của Toà án với trong việc bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự, tránh được hiện tượng tranh chấp thuộc thẩm quyền của Toà án nhưng Toà án lại từ chối thụ lý và hướng dẫn đương sự nộp đơn lòng vòng tới cơ quan khác. - Sửa đổi quy định về trả lại đơn khởi kiện khi đương sự không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Toà án Theo quy định tại Điều 169 BLTTDS thì Toà án trả đơn khởi kiện cho đương sự nếu đương sự không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong thời hạn luật định. Xét về thực tế việc đương sự không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo thời hạn được Toà án yêu cầu cũng có thể do có những lý do chính đáng dẫn tới họ không thể thực hiện được việc sửa đổi, bổ sung này. Do vậy, để bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự, tránh việc khi đương sự tiếp tục khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện đã hết thì cần phải sửa đổi quy định tại Điều 169 BLTTDS theo hướng Toà án trả đơn khởi kiện cho đương sự nếu họ không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong thời hạn luật định mà không có lý do chính đáng. Ngoài ra, dựa trên cơ sở những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự tại Chương 1, chúng tôi cho rằng hướng dẫn vận dụng pháp luật trong Phần I mục 8.7 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 và Công văn 109/KHXX ngày 30/6/2006 của Toà án nhân dân tối cao theo hướng trả lại đơn khởi kiện và xoá sổ thụ lý vụ án khi mà người khởi kiện không biết hoặc ghi không đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không đáp ứng yêu cầu về bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự. Chúng tôi cho rằng, đương sự không cố tình hoặc không có lỗi trong việc không biết hoặc ghi không đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì không thể trả lại đơn khởi kiện và xoá sổ thụ lý vụ án. Do vậy, quyền khởi kiện của đương sự sẽ được bảo đảm hơn nếu sửa đổi quy định trên theo hướng trong trường hợp đương sự không cố tình hoặc không có lỗi trong việc không biết hoặc ghi không đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Toà án vẫn thụ lý vụ án và tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án trong thời gian chờ đương sự làm thủ tục thông báo tìm tin tức, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. 3.2.3. Các kiến nghị về cơ chế hỗ trợ đương sự thực hiện quyền khởi kiện - Về thiết lập cơ chế chuyển hoá giữa việc dân sự và vụ án dân sự nhằm bảo đảm hơn quyền khởi kiện của đương sự Theo hướng dẫn tại tiểu mục 7.2 Mục 7 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31 tháng 3 năm 2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì nếu trong quá trình Tòa án giải quyết các việc dân sự không có tranh chấp mà một bên hoặc các bên thay đổi sự thỏa thuận theo hướng có tranh chấp thì Tòa án có thể ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự và hướng dẫn đương sự làm đơn khởi kiện vụ án theo thủ tục chung. Theo nghiên cứu của chúng tôi thì quy định này chưa thực sự bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự nhất là sau này pháp luật phát triển theo hướng bổ sung các việc dân sự do các bên thoả thuận được và yêu cầu Toà án công nhận. Bởi vì, hậu quả của quy định này là người có yêu cầu trước đó trong việc dân sự nếu vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình thì sẽ phải làm lại toàn bộ thủ tục khởi kiện từ đầu gây mất thời gian và tổn phí một cách không cần thiết. Chẳng hạn, như đương sự yêu cầu công nhận thoả thuận về tài sản trong một vụ tranh chấp thừa kế hoặc hợp đồng, yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn nếu một bên thay đổi yêu cầu theo hướng có tranh chấp thì đương sự sẽ phải khởi kiện lại từ đầu. Do vậy, việc thiết lập một cơ chế chuyển hoá giữa việc dân sự và vụ án dân sự trong BLTTDS là cần thiết. - Bổ sung quy định về chỉ định người đại diện trong tố tụng Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành quy định Toà án chỉ định người đại diện cho đương sự trong trường hợp đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhưng không quy định về việc chỉ định người đại diện trong trường hợp đương sự là người bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc là người vắng mặt không có tin tức là một thiếu sót. Thiết nghĩ, trong những trường hợp đương sự là người bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc vắng mặt không có tin tức mà không có người đại diện thì việc chỉ định người đại diện cho họ là hết sức cần thiết. Do vậy, để bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 76 BLTTDS theo hướng Toà án chỉ định người đại diện cho đương sự trong cả trường hợp đương sự là người bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc vắng mặt không có tin tức. - Sửa đổi quy định về điều kiện tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự nhờ người trợ giúp việc khởi kiện Theo quy định tại khoản 1 Điều 63 BLTTDS thì sự tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phụ thuộc vào sự chấp nhận của Tòa án. Quy định này đã làm phức tạp thêm thủ tục giải quyết vụ việc dân sự, tạo ra cơ chế “xin cho” trong TTDS và gây khó khăn cho đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong việc thực hiện quyền khởi kiện. Từ phân tích trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều 63 BLTTDS theo hướng bỏ cụm từ “được Toà án chấp nhận”. Theo đó, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà không cần có sự chấp nhận của Toà án. - Bổ sung, sửa đổi quy định về biện pháp hỗ trợ trong việc bảo vệ, thu thập chứng cứ, tài liệu Sự trợ giúp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án dân sự cũng là một bảo đảm quan trọng để đương sự có thể thực hiện được quyền khởi kiện tại Toà án. Trên đây, chúng tôi đã kiến nghị sửa đổi pháp luật theo hướng các chứng cứ, tài liệu bắt buộc phải nộp kèm theo đơn kiện chỉ cần bao gồm những chứng cứ, tài liệu đủ để xác định điều kiện thụ lý vụ án. Tuy nhiên, xét về thực tế thì trong nhiều trường hợp những chứng cứ, tài liệu ban đầu này lại không do người khởi kiện nắm giữ và cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ các chứng cứ tài liệu này lại không hợp tác với đương sự, dẫn tới việc thực hiện quyền khởi kiện là hết sức khó khăn. Từ phân tích trên, chúng tôi kiến nghị bổ sung vào BLTTDS quy định về quyền yêu cầu Toà án can thiệp ngay lập tức (không cần chờ đợi văn bản trả lời lý do không cung cấp của các chủ thể này) trong việc thu thập các chứng cứ, tài liệu đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý, lưu giữ và chế tài áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức này nếu việc từ chối cung cấp của họ là không có lý do chính đáng. Như vậy, Điều 385 BLTTDS cần được sửa đổi theo hướng: Cá nhân, cơ quan, tổ chức không thực hiện trách nhiệm cung cấp chứng cứ, tài liệu liên quan tới vụ án cho đương sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự hoặc Toà án hoặc có hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng dân sự thì tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị Toà án quyết định phạt cảnh cáo, phạt tiền, tạm giữ hành chính hoặc khởi tố về hình sự theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự cho thấy theo pháp luật hiện hành thì đương sự chỉ có quyền yêu cầu Toà án bảo vệ chứng cứ, tài liệu cùng với việc nộp đơn khởi kiện. Quy định này không đủ hiệu quả để ngăn chặn kịp thời hành vi hủy hoại chứng cứ, tài liệu nhằm gây khó khăn cho việc thực thi quyền khởi kiện. Từ phân tích này kiến nghị tiếp theo là cần sửa đổi pháp luật theo hướng quy định về quyền yêu cầu Toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp cần thiết trước khi khởi kiện vụ án nhằm bảo vệ bằng chứng, ngăn chặn kịp thời hành vi hủy hoại chứng cứ, tài liệu tạo cơ sở cho việc thực hiện quyền khởi kiện tại Toà án. 3.2.4. Kiến nghị về bảo đảm quyền khởi kiện từ phía các cơ quan, tổ chức của Nhà nước - Chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về điều kiện khởi kiện đối với công dân, tăng cường công tác tập huấn chuyên môn, trao đổi nghiệp vụ về thụ lý vụ án dân sự Theo kết quả khảo sát thực tiễn thì quyền khởi kiện không được bảo đảm thực hiện trên thực tế là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước hết, là do sự hạn chế, khiếm khuyết trong chính các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó việc không bảo đảm quyền khởi kiện còn có căn nguyên từ sự thiếu hiểu biết của người dân về các kiến thức cơ bản liên quan đến điều kiện khởi kiện, sự sai sót, lúng túng của các Toà án trong công tác thụ lý vụ án dẫn tới trả đơn, đình chỉ giải quyết vụ án không đúng pháp luật hoặc chậm thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện của đương sự. Thiết nghĩ, để khắc phục vấn đề này cần phải tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về điều kiện, thủ tục khởi kiện trong nhân dân, tăng cường hoạt động của các tổ chức trợ giúp pháp lý trong việc hỗ trợ cho người dân thực hiện quyền khởi kiện. Mặt khác, ngành Toà án cũng cần thường xuyên tổ chức tập huấn chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm trong công tác thụ lý vụ án dân sự và kịp thời có những hướng dẫn cần thiết để giải quyết những bất cập nảy sinh trong thực tiễn. - Bổ sung quy định về cơ chế bổ nhiệm, chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán nhằm tạo cơ sở cho việc bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự Sự độc lập, vô tư khách quan của Tòa án được ghi nhận như những nguyên tắc quan trọng nhằm bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền khởi kiện (Điều 11 và Điều 16 BLTTDS). Tuy nhiên, để bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán, hội thẩm nhân dân thì việc ghi nhận bằng pháp luật như trên vẫn chưa đủ mà cần phải có thêm những cơ chế hỗ trợ khác như về cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán, chế độ đãi ngộ. Từ phân tích này chúng tôi kiến nghị bổ sung quy định về chế độ bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ suốt đời và chỉ bị bãi miễn nếu vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc không đủ tư cách để tiếp tục hành nghề. Ngoài ra, các quy định về một chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với người làm nghề Thẩm phán và cơ chế giám sát, kỷ luật cũng được xem là một giải pháp để bảo đảm thực thi quyền khởi kiện từ phía Toà án. - Nâng cao hiệu quả của công tác kiểm sát trong việc bảo đảm quyền khởi kiện Như đã phân tích ở Chương 1 và Chương 2 thì quyền lực mà không bị giám sát, kiềm chế sẽ dẫn tới lạm quyền. Do vậy, việc ghi nhận quyền tham gia tố tụng của VKS ngay từ khi Tòa án thụ lý vụ án là điều kiện cần thiết để bảo đảm quyền khởi kiện không bị xâm phạm. Một mặt sự tham gia này sẽ hạn chế tối đa việc trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ án không đúng pháp luật, đồng thời thông qua hoạt động kiểm sát của mình VKS có thể kịp thời kháng nghị để quyền khởi kiện được bảo đảm thực hiện. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện cho thấy trong nhiều trường hợp Toà án đã không thông báo kịp thời việc thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát dẫn tới Viện kiểm sát không có cơ sở để kiểm sát việc Toà án thụ lý có đúng thời hạn luật định hay không. Từ góc nhìn này, chúng tôi cho rằng Toà án và Viện kiểm sát cần có sự trao đổi, rút kinh nghiệm trong công tác thông báo thụ lý vụ án. Ngoài ra, việc nghiên cứu cho thấy pháp luật hiện hành cũng chỉ quy định về quyền khiếu nại của đương sự tới Chánh án Toà án đối với trường hợp trả đơn khởi kiện không có căn cứ mà không có những quy định cụ thể về cơ chế kiểm sát đối với vấn đề này. Do vậy, việc mở rộng quyền khiếu nại của đương sự tới Viện kiểm sát, quyền kiến nghị của Viện kiểm sát đối việc trả đơn khởi kiện thiếu căn cứ là bảo đảm cần thiết cho việc thực thi quyền khởi kiện. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Kết quả nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện đã cho thấy những thành tựu cơ bản trong việc thực hiện pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó, việc bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Những hạn chế, bất cập và vướng mắc nảy sinh trước hết là do pháp luật tố tụng dân sự của chúng ta về vấn đề này còn thiếu cụ thể, chưa hợp lý hoặc thiếu vắng những cơ chế cần thiết để bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện của đương sự. Một số quy định của BLTTDS như hoà giải tiền tố tụng đối với tranh chấp đất đai, quy định căn cứ trả đơn khởi kiện vì thời hiệu khởi kiện đã hết, đương sự không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Toà án cũng chưa thực sự bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự. Quy định về quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự đã hạn chế quá mức quyền khởi kiện của đương sự...v.v. Ngoài ra, sự hạn chế trong việc bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện còn có nguyên nhân từ sự thiếu hiểu biết của đương sự về các quy định của pháp luật, sự lúng túng, thiếu sót của các Toà án trong công tác thụ lý vụ án dẫn tới việc trả đơn, đình chỉ giải quyết vụ án không đúng pháp luật hoặc chậm thụ lý giải quyết vụ án. Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn đã luận giải và đề xuất những kiến nghị có giá trị cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền khởi kiện trên thực tế. Những đề xuất này được tiến hành dưới góc độ lập pháp, tổ chức thể chế, cơ chế giám sát hoặc công tác tuyên truyền pháp luật, tổng kết, trao đổi kinh nghiệm. Giải pháp được đưa ra là kết quả của sự kết nối giữa nghiên cứu lý luận, luật thực định và thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trên thực tế. KẾT LUẬN CHUNG Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự, xây dựng tiền đề lý luận cho việc đánh giá các quy định hiện hành về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng. Chương 1 của luận văn đã tập trung phân tích, xây dựng các khái niệm cơ bản về “Quyền khởi kiện” và “Bảo đảm quyền khởi kiện” trên cơ sở tham khảo, kế thừa và phát triển các khái niệm có liên quan của các nhà khoa học trước đó. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng đã làm rõ được cơ sở của quyền khởi kiện, những nội dung cơ bản của bảo đảm quyền khởi kiện. Cụ thể là việc bảo đảm quyền khởi kiện được thực hiện thông qua sự minh bạch hoá và quy định hợp lý các điều kiện thụ lý vụ án, cơ chế hỗ trợ đương sự thực hiện quyền khởi kiện, cơ chế ràng buộc trách nhiệm, giám sát hoạt động tố tụng của Toà án và tạo cơ hội cho đương sự có thể chống lại sự lạm quyền hay vi phạm quyền này từ phía Toà án. Trên cơ sở vận dụng kết quả nghiên cứu lý luận tại Chương 1 để soi sáng luật thực định về vấn đề quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện, Chương 2 của bản luận văn đã chỉ ra được những ưu điểm và nhược điểm cơ bản của pháp luật hiện hành về vấn đề này. BLTTDS đã ghi nhận quyền khởi kiện và đã có những quy định tương đối hợp lý nhằm bảo đảm cho các chủ thể thực hiện quyền khởi kiện của mình trên thực tế. Tuy nhiên, các quy định của Bộ luật này cũng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu về bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự như quy định về điều kiện hoà giải tiền tố tụng đối với tranh chấp đất đai, quy định căn cứ trả đơn khởi kiện vì thời hiệu khởi kiện đã hết, đương sự không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Toà án; quy định về tài liệu, chứng bắt buộc phải gửi kèm theo đơn khởi kiện...v.v. Để có cơ sở vững chắc cho việc đề xuất kiến nghị, luận văn đã tập trung nghiên cứu, khảo sát về thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện. Kết quả nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện đã cho thấy bên cạnh những thành tựu cơ bản trong việc thực hiện pháp luật, việc bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện cũng còn nhiều hạn chế, bất cập và vướng mắc. Những hạn chế, bất cập và vướng mắc nảy sinh trước hết trước hết là do pháp luật tố tụng dân sự của chúng ta về vấn đề này còn thiếu cụ thể, chưa hợp lý hoặc thiếu vắng những cơ chế cần thiết để bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện của đương sự. Ngoài ra, sự hạn chế trong việc bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện còn có nguyên nhân từ sự thiếu hiểu biết của đương sự về các quy định của pháp luật, sự lúng túng, thiếu sót của các Toà án trong công tác thụ lý vụ án dẫn tới việc trả đơn, đình chỉ giải quyết vụ án không đúng pháp luật hoặc chậm thụ lý giải quyết vụ án. Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, kết nối giữa nghiên cứu lý luận, luật thực định và thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện, luận văn đã cố gắng luận giải và đề xuất những kiến nghị có giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền khởi kiện ở Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam.doc