MỤC LỤC
A/ MỞ ĐẦU
B/NỘI DUNG
1. Khái niệm quyền nhân thân
a. Định nghĩa quyền nhân thân.
b.Đặc trưng cơ bản của quyền nhân thân.
2. Phân loại quyền nhân thân
3. Ý nghĩa của bảo vệ quyền nhân thân
4. Các phương thức và biện pháp bảo vệ quyền nhân thân
5. Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bảo vệ quyền nhân thân và những giải pháp nhằm hoàn thiện Luật dân sự
C/KẾT LUẬN
A/ MỞ ĐẦU
Trong các vấn đề của xã hội loài người, quyền con người nói chung và quyền công dân nói riêng là những vấn đề có lịch sử lâu đời cả về phương diện lí luận cũng như thực tiễn. Quyền công dân nói chung được chia làm năm nhóm: Nhóm các quyền chính trị, nhóm các quyền dân sự, nhóm các quyền kinh tế, nhóm các quyền văn hóa và nhóm các quyền xã hội.Pháp luật dân sự là công cụ để thực hiện quyền dân sự của công dân. Mỗi cá nhân đều luôn có nhu cầu đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cơ thể và các nhu cầu về tư tưởng, tinh thần, nó gắn liền với hai loại quyền đó là quyền về tài sản và các quyền về nhân thân. Tuy nhiên lịch sử phát triển của pháp luật dân sự cho thấy trong thời gian qua quyền nhân thân của cá nhân chiếm một vị trí không đáng kể trong sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, hầu như bị các vấn đề về tài sản làm lu mờ, lấn át. Điều này phụ thuộc vào vị trí của con người, sự quan tâm của xã hội đối với con người trong từng chế độ xã hội nhất định.
Quy luật cho thấy khi con ngừơi đã phần nào thỏa mãn những lợi ích về mặt vật chất, người ta sẽ quan tâm nhiều hơn đến những giá trị tinh thần, coi đó là bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống con người và đòi hỏi những giá trị đó ngày càng mở rộng và tôn trọng hơn. Ở nước ta hiện nay, tình trạng quyền nhân thân bị xâm phạm và không được bảo vệ thỏa đáng là khá phổ biến và đang trong tình trạng ngày càng gia tăng. Việc làm cho mỗi cá nhân nhận biết được những giá trị nhân thân của mình và tôn trọng giá trị nhân thân của người khác là một việc làm không hề đơn giản.
Từ những vấn đề lí luận và thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu vấn đề quyền nhân thân của cá nhân là một vấn đề hết sức thiết yếu và cấp bách, từ đó đưa ra những phương án, giải pháp để bảo vệ quyền nhân thân cũng như hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân nhằm đảm bảo hơn công bằng văn minh xã hội.
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4682 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền nhân thân của cá nhân và giải pháp hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Mỗi cá nhân đều luôn có nhu cầu đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cơ thể và các nhu cầu về tư tưởng, tinh thần, nó gắn liền với hai loại quyền đó là quyền về tài sản và các quyền về nhân thân. Tuy nhiên lịch sử phát triển của pháp luật dân sự cho thấy trong thời gian qua quyền nhân thân của cá nhân chiếm một vị trí không đáng kể trong sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, hầu như bị các vấn đề về tài sản làm lu mờ, lấn át. Điều này phụ thuộc vào vị trí của con người, sự quan tâm của xã hội đối với con người trong từng chế độ xã hội nhất định.
Quy luật cho thấy khi con ngừơi đã phần nào thỏa mãn những lợi ích về mặt vật chất, người ta sẽ quan tâm nhiều hơn đến những giá trị tinh thần, coi đó là bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống con người và đòi hỏi những giá trị đó ngày càng mở rộng và tôn trọng hơn. Ở nước ta hiện nay, tình trạng quyền nhân thân bị xâm phạm và không được bảo vệ thỏa đáng là khá phổ biến và đang trong tình trạng ngày càng gia tăng. Việc làm cho mỗi cá nhân nhận biết được những giá trị nhân thân của mình và tôn trọng giá trị nhân thân của người khác là một việc làm không hề đơn giản.
Từ những vấn đề lí luận và thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu vấn đề quyền nhân thân của cá nhân là một vấn đề hết sức thiết yếu và cấp bách, từ đó đưa ra những phương án, giải pháp để bảo vệ quyền nhân thân cũng như hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân nhằm đảm bảo hơn công bằng văn minh xã hội.
B/NỘI DUNG
1. Khái niệm quyền nhân thân
a. Định nghĩa quyền nhân thân.
Quyền nhân thân( Persionality rights) là thuật ngữ pháp lí để chỉ những quyền gắn liền với bản thân của mỗi người, gắn liền với đời sống riêng tư của mỗi cá nhân. Từ xưa đến nay, nói đến quyền nhân thân ngừơi ta thường liên tưởng ngay đến những quyền có liên quan mật thiết đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân. Nói chung, quyền nhân thân là quyền để bảo vệ cái danh của mỗi người bao gồm nhiều khái niệm danh dự, danh vị, danh tiếng , danh hiệu,.. Một xã hội ngày càng phát triển tiến bộ bao nhiêu, nền tự do dân chủ càng được mở rộng bao nhiêu thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu và do đó các quyền nhân thân cũng ngày càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn với các biện pháp bảo vệ ngày càng hiệu quả.
Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với đời sống tinh thần của cá nhân được pháp luật thừa nhân và bảo vệ. Trong lịch sử lập pháp của nước ta nói chung và pháp luật dân sự nói riêng, thuật ngữ quyền nhân thân được ra đời khá muộn. Bộ luật dân sự Việt Nam 1995 là văn bản pháp lí lần đầu tiên đề cập đến quyền nhân thân, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hiện thực hóa quyền con người. Lần đầu tiên pháp luật Việt Nam thừa nhận sự tồn tại tất yếu của những quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân. Điều đó cũng chứng minh được rằng, pháp luật dân sự không chỉ là công cụ để bảo vệ những quan hệ tài sản, bảo vệ những giá trị vật chất mà pháp luật dân sự còn là công cụ hữu hiệu để cá nhân bảo vệ những giá trị tinh thần của mình.
Kế thừa Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 quy định về quyền nhân thân tại Điều 26:" Quyền nhân thân
Quyền nhân thân được quy định trong bộ luật này là quyền dân sựu gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Không ai được lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân của người khác"
Quyền nhân thân được hiểu dưới góc độ pháp luật nói chung đó là một dạng quyền của cá nhân trong lĩnh vực dân sự. Dưới góc độ pháp luật dân sự, quyền nhân thân là tiền đề hình thành nên quan hệ nhân thân. Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị nhân thân của cá nhân, tổ chức. Đây cũng đồng thời là nhóm quan hệ xã hội thứ hai trong hai nhóm quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự. Nếu so sánh với quan hệ tài sản thì quan hệ nhân thân thể hiện những đặc trưng riêng vốn có như được hình thành từ những giá trị nhân thân nên chúng không có nội dung kinh tế, không gắn với quyền lợi về tài sản của chủ thể , không áp dụng biện pháp đảm bảo thực hiện, thiệt hại trong quan hệ nhân thân là yếu tố không định lượng được một cách trực tiếp.
b. Đặc trưng cơ bản của quyền nhân thân.
* Quyền nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất định và nguyên tắc không thể chuyển dịch cho các chủ thể khác
Quyền nhân thân trở thành thuộc tính của chủ thể mà không bị phụ thuộc, chi phối bởi bất kì yếu tố khách quan nào như độ tuổi, trình độ, giới tính,, tôn giáo, địa vị xã hội,... Pháp luật quy định mọi chủ thể đều bình đẳng về quyền nhân thân.
Quyền nhân thân không thể chuyển nhượng cho người khác, nghĩa là quyền nhân thân không thể là đối tượng trong giao dịch dân sự( mua, bán, tặng, cho). Tuy nhiên, tính chất không thể chuyển giao của quyền nhân thân chỉ là tương đối bởi vì trong một số trường hợp quyền nhân thân có thể được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn quyền nhân thân gắn liền với tài sản có thể được phép chuyển giao.
Việc chuyển giao quyền nhân thân còn được thể hiện ở một phía khác đó là trên thực tế có những người nổi tiếng kí những hợp đồng sử dụng hình ảnh với các cơ quan thông tin, xuất bản. Làm thế nào để dung hoà đặc điểm không thể định đoạt của quyền nhân thân với tình trạng giao dịch hợp pháp về hình ảnh ngày càng phát triển? Trong nghiên cứu mới đây về quyền nhân thân, có quan điểm phân loại quyền nhân thân thành quyền nhân thân cơ sở và quyền nhân thân phát sinh. Quyền nhân thân cơ sở tức là quyền nhân thân theo đúng bản chất của nó, không thể chuyển nhượng như đối với hình ảnh hay quyền đối với đời tư; quyền nhân thân phát sinh là quyền khai thác danh tiếng của một cá nhân với mục đích thương mại.
* Quyền nhân thân không xác định được bằng tiền
Giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là những giá trị tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Chính vì vậy, quyền nhân thân không thể bị kê biên. Chủ nợ không thể kê biên quyền nhân thân của con nợ. Có một hệ quả thực tiễn là chủ nợ của một cá nhân không thể đòi nợ gián tiếp bằng cách đặt mình vào vị trí con nợ; ví dụ như một người nào đó bị xâm phạm đời tư có thể được bồi thường thiệt hại theo pháp luật nhưng chủ nợ của con nợ này không thể đặt mình vào vị trí con nợ để đòi bồi thường.
* Hành vi xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân không nhất thiết phải gây ra thiệt hại cho cá nhân đó, nghĩa là thiệt hại không phải căn cứ bắt buộc để xác định trách nhiệm pháp lí đối với người thực hiện hành vi xâm phạm. Trên thực tế, ngay cả trường hợp người bị xâm phạm không bị thiệt hại gì, thậm chí có khi còn có lợi cho họ nhưng về nguyên tắc nếu không có sự đồng ý của cá nhân thì đã bị coi là vi phạm.
* Thệt hại khi quyền nhân thân bị xâm phạm không có tiêu chí cụ thể để định lượng
Quyền nhân thân đối với gắn với những giá trị tinh thần, đối với mỗi cá nhân giá trị đó không có chuẩn mực chung, vì thế thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền nhân thân không thể cân, đo, đong, đếm bằng những đại lượng cụ thể. Đặc trưưng này không loại trừ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại đã gây ra, việc bồi thường thiệt hại khi cá xâm phạm quyền nhân thân mà chỉ mang tính chất " bù đắp" phần nào.
2. Phân loại quyền nhân thân
BLDS 2005 liệt kê tương đối nhiều các quyền nhân thân (từ Điều 26 đến Điều 51), bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền đối với hình ảnh; quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền xác định lại giới tính; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo. Điều 738 và Điều 751 BLDS 2005 còn quy định thêm một số quyền nhân thân như: quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm; quyền đứng tên tác giả trong văn bằng bảo hộ sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng.
Các quyền nhân thân này có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, mỗi tiêu chí thể hiện một khía cạnh pháp lý đặc thù. Thông qua các phân loại này chúng ta sẽ hiểu được rõ nét hơn bản chất pháp lý của từng loại quyền nhân thân, từ đó nhận diện được chính xác các hành vi xâm phạm và đề ra được phương thức bảo vệ thích hợp nhất. Sau đây tôi sẽ trình bày sáu cách phân loại các quyền nhân thân và ý nghĩa của từng cách phân loại đó.
Thứ nhất, dựa vào căn cứ phát sinh mà các quyền nhân thân có thể phân thành nhóm các quyền nhân thân không gắn với tài sản và nhóm các quyền nhân thân gắn với tài sản. Phân loại này được thể hiện tại khoản 1 Điều 15 BLDS 2005. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS 2005. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản này được công nhận đối với mọi cá nhân một cách bình đẳng và suốt đời, không phụ thuộc vào bất cứ hoàn cảnh kinh tế, địa vị hay mức độ tài sản của người đó. Các quyền nhân thân này thể hiện giá trị tinh thần của chủ thể đối với chính bản thân mình, luôn gắn với chính bản thân người đó và không dịch chuyển được sang chủ thể khác.
Ngược lại, các quyền nhân thân gắn với tài sản chỉ được xác lập cùng với sự hình thành của một tài sản vô hình (như tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, …). Đây là quyền nhân thân của chủ thể đối với tài sản vô hình mà người đó sáng tạo ra. Các quyền nhân thân này được quy định tại khoản 2 Điều 738 và mục a khoản 1 Điều 751 BLDS 2005. Trong số các quyền này có một quyền có thể chuyển giao được sang cho chủ thể khác – đó là quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm (theo quy định tại Khoản 1 Điều 742 BLDS 2005).
Việc phân loại này giúp chúng ta định hình rõ căn cứ và thời điểm xác lập các quyền nhân thân. Mỗi một chủ thể đều được công nhận một cách vô điều kiện các quyền nhân thân không gắn với tài sản. Tuy nhiên, để được thừa nhận các quyền nhân thân gắn với tài sản thì chủ thể đó phải chứng minh đươc sự tồn tại của loại tài sản vô hình do chính mình sáng tạo ra. Nếu không có tài sản đó thì không phát sinh các quyền nhân thân của chủ thể có liên quan.
Thứ hai, dựa vào chủ thể mang quyền mà các quyền nhân thân có thể được phân thành hai nhóm là: Nhóm các quyền nhân thân của cá nhân và nhóm các quyền nhân thân của các chủ thể khác (không phải là cá nhân). Các quyền nhân thân của cá nhân bao gồm các quyền nhân thân được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS 2005 và các quyền nhân thân gắn với tài sản được quy định tại Điều 738 BLDS 2005. Các quyền nhân thân của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có thể bao gồm: quyền được bảo vệ danh dự, uy tín (được đề cập đến tại Điều 604 và Điều 611 BLDS 2005). Theo chúng tôi, có thể thừa nhận thêm một số quyền nhân thân của pháp nhân như quyền đối với tên gọi, quyền tự do kinh doanh đối với các chủ thể có đăng ký kinh doanh.
Việc phân loại này giúp chúng ta nhận diện được chính xác nội dung năng lực pháp luật của từng chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự. Mặc dù chỉ là chủ thể hư cấu, chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý, nhưng pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác cũng có “đời sống tinh thần” của riêng mình, có những giá trị phi vật chất, không định giá được và không thể chuyển giao được cho chủ thể khác, và các giá trị đó cần phải được bảo vệ khỏi sự xâm phạm bất hợp pháp.
Thứ ba, dựa vào đối tượng của quyền mà các quyền nhân thân được phân thành 5 nhóm sau đây:
1) Nhóm các quyền cá biệt hoá chủ thể, bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền đối với hình ảnh; quyền xác định lại giới tính; quyền đối với quốc tịch.
2) Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân, bao gồm: quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người.
3) Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể: quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động; quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo.
4) Nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình của cá nhân: quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi;
5) Nhóm các quyền đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ: quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm hay trên văn bằng bảo hộ (đối với sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng), quyền được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.
Trong phân loại này, mỗi nhóm nêu trên có những đặc điểm pháp lý riêng biệt. Nhóm các quyền cá biệt hoá chủ thể được thể hiện dưới hình thức các công cụ cá biệt hoá khác nhau ở mỗi chủ thể (mỗi người có tên gọi và hình ảnh và các yếu tố lý lịch khác nhau). Tập hợp các công cụ cá biệt hoá đó ở mỗi chủ thể sẽ cho ta được sự hình dung bên ngoài về chủ thể đó khác biệt với các chủ thể khác. Quyền “thể hiện mình” được bảo vệ một cách tuyệt đối trước sự xâm phạm của bất kỳ chủ thể khác, và được bảo vệ theo yêu cầu của chủ thể quyền.
Thân thể của mỗi cá nhân không phải là tài sản, mà thuộc về nhân thân của cá nhân đó. Các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân được bảo vệ một cách giống nhau ở mọi cá nhân (tính mạng, sức khoẻ, thân thể của mỗi cá nhân đều được bảo vệ như nhau và đều là vô giá mà không phụ thuộc vào giới tính hay địa vị xã hội) và được bảo vệ một cách tuyệt đối khỏi sự xâm phạm của bất kỳ chủ thể khác, bất kể chủ thể quyền có yêu cầu hay không yêu cầu được bảo vệ.
Nhóm quyền nhân thân liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình được chia thành hai phân nhóm là: nhóm các quyền tạo lập gia đình (quyền kết hôn, quyền ly hôn, quyền nhận nuôi và được nhận làm con nuôi) và nhóm quyền giữa các thành viên trong gia đình (quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình). Các quyền thuộc phân nhóm thứ nhất được bảo vệ một cách tuyệt đối khỏi sự xâm phạm của bất kỳ chủ thể khác. Còn các quyền thuộc phân nhóm thứ hai chỉ được bảo vệ một cách tương đối khỏi sự xâm phạm của các thành viên khác trong chính gia đình đó mà thôi. Các quyền này được xác lập một cách khác nhau ở từng chủ thể, phụ thuộc vào hoàn cảnh gia đình của người đó (đã lập gia đình chưa, có con cái hay không) và phụ thuộc vào địa vị của người đó trong gia đình (là con hay là cha, là chồng hay là vợ). Các quyền này có thể chấm dứt khi các chủ thể trong gia đình không còn nữa.
Nhóm các quyền nhân thân liên quan đến các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ mang đặc điểm của quyền nhân thân gắn với tài sản (xem ở phần trên) và được bảo hộ phụ thuộc vào đặc điểm riêng của từng đối tượng sở hữu trí tuệ.
Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định cơ chế bảo vệ hiệu quả các quyền nhân thân. Đối với các quyền nhân thân thuộc nhóm thứ nhất thì chủ thể quyền chính lại người đánh giá xem các quyền nhân thân của mình có bị xâm phạm hay không, tự quyết định có yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm hay không, và Nhà nước sẽ chỉ can thiệp và bảo vệ khi có yêu cầu. Ví dụ: các nhạc sĩ thường khởi kiện khi chứng kiến ca khúc của mình bị xuyên tạc lời, nhưng một số nhạc sĩ khác thì lại thấy vui vì điều đó, bởi lẽ khi đó họ cảm thấy các ca khúc của mình đã “thực sự đi vào quần chúng, được quần chúng nhắc tới”, và họ không cảm thấy sự xúc phạm trong đó. Trong cuộc sống hàng ngày diễn ra vô số các vụ chửi bới, xúc phạm danh dự của nhau, nhưng số vụ án liên quan đến xâm phạm danh dự mà Toà án phải giải quyết thì không nhiều, bởi lẽ chỉ khi nào có yêu cầu của chủ thể quyền thì Nhà nước mới can thiệp vào. Yêu cầu ở đây có thể là của chính chủ thể quyền hay của những người thân thích (khi chủ thể quyền không còn nữa hoặc không đầy đủ năng lực hành vi dân sự).
Thứ tư, Dựa vào thời hạn bảo hộ mà các quyền nhân thân được phân loại thành hai nhóm: Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn và nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ có thời hạn.
Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền đối với hình ảnh; quyền được bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.
Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ có thời hạn bao gồm: quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền xác định lại giới tính; quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo; quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
Việc phân loại này có ý nghĩa đối với việc bảo vệ quyền nhân thân khỏi sự xâm phạm. Các quyền nhân thân thuộc nhóm vô thời hạn được pháp luật bảo hộ vĩnh viễn. Khi chủ thể không còn nữa thì những người có liên quan được quyền yêu cầu bảo vệ khi có hành vi xâm phạm. Ví dụ: nếu có người tung tin thất thiệt làm tổn hại đến danh dự của một người đã khuất thì những người thân thích của người đó vẫn có quyền yêu cầu chấm dứt hành vi xâm hại và bồi thường thiệt hại. Ngược lại, các quyền nhân thân thuộc nhóm có thời hạn thì chỉ được pháp luật bảo hộ khi chủ thể đó còn sống. Bởi lẽ, khi cá nhân chết đi thì các quyền nhân thân thuộc nhóm này hoặc không thể thực hiện được nữa, hoặc không thể bị xâm phạm nữa. Riêng thời hạn bảo hộ quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm được quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2000. Đặc biệt, quyền được khai tử của cá nhân chỉ được thực hiện khi chính cá nhân đó chết đi. Trình tự và thời hạn khai tử được thực hiện theo quy định riêng của pháp luật.
Đối với các quyền thuộc nhóm vô thời hạn, chúng ta nên lưu ý phân biệt giữa việc thực hiện quyền yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm với việc thực hiện quyền công bố, cho phép sử dụng các thông tin của cá nhân. Sau khi một người chết đi thì những người thân thích được quyền yêu cầu chấm dứt các hành vi xâm phạm đến họ tên, hình ảnh, danh dự, uy tín, bí mật đời tư, tên trên tác phẩm, xâm phạm toàn vẹn tác phẩm của người đó. Tuy nhiên, khác với chính chủ thể quyền nhân thân, những người thân thích này không được quyền thay đổi tên gọi, thay đổi nội dung tác phẩm. Các thông tin cá nhân (bí mật đời tư hay tác phẩm chưa được công bố) mà khi còn sống người đó không muốn tiết lộ (vì lý do hết sức riêng tư) thì sau khi người đó qua đời những người thân thích cũng không được quyền công bố. Điều này thể hiện sự tôn trọng đối với cá nhân đã khuất. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 38 BLDS 2005 lại quy định những người thân thích được quyền cho phép thu thập, công bố bí mật đời tư của cá nhân sau khi cá nhân đó chết đi. Với quy định này thì liệu mỗi người trong số chúng ta khi chết đi có thể yên tâm không khi biết rằng mọi bí mật đời tư của mình sẽ được người khác biết đến? Cũng như vậy đối với các tác phẩm chúng ta không muốn công bố vì được sáng tác dành riêng cho một người yêu quý thì sau này cũng sẽ được công bố rộng rãi ngoài mong muốn của chúng ta?
3. Ý nghĩa của bảo vệ quyền nhân thân
Với tư cách là thành viên của xã hội, từ lúc sinh ra con người đã được hưởng những quyền nhất định thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống bao gồm quyền tự do dân chủ về chính trị, quyền về dân sự, quyền về kinh tế – xã hội v.v… Trải qua quá trình đấu tranh phát triển của xã hội, các quyền của cá nhân ngày càng được phát triển, mở rộng. Trong các quyền dân sự của cá nhân thì quyền nhân thân là một phần rất quan trọng. Quyền nhân thân là một trong những nội dung cơ bản của quyền con người nên đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong pháp luật Việt Nam, các quyền nhân thân được quy định cụ thể trong pháp luật dân sự và chủ yếu là Bộ luật Dân sự (BLDS). Việc Nhà nước ban hành và quy định các quyền nhân thân của cá nhân trong BLDS là sự khẳng định sự của Nhà nước đối với các giá trị của quyền nhân thân.
Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật quy định khác. Theo quy định của BLDS năm 2005, các quyền nhân thân bao gồm: Quyền đối với tên, họ (Điều 26); quyền thay đổi tên họ (Điều 27); quyền xác định dân tộc (Điều 28); quyền được khai sinh (Điều 29); quyền được khai tử (Điều 30); quyền của cá nhân đối với hình ảnh (Điều 31); quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể (Điều 32); quyền hiến bộ phận cơ thể (Điều 33); quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 34); quyền nhận bộ phận cơ thể người (Điều 35); quyền xác định lại giới tính (Điều 36; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 37; quyền bí mật đời tư (Điều 38); quyền kết hôn (Điều 39); quyền bình đẳng của vợ chồng (Điều 40); quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình (Điều 41); quyền ly hôn (Điều 42); quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con (Điều 43); quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi (Điều 44); quyền đối với quốc tịch (Điều 45); quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (Điều 46); quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 47); quyền tự do đi lại, tự do cư trú (Điều 48); quyền lao động (Điều 49); quyền tự do kinh doanh (Điều 50); quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo (Điều 50).
Quyền nhân thân của cá nhân là một trong những quyền dân sự cơ bản của con người được pháp luật bảo hộ. Việc tôn trọng quyền nhân thân của người khác là nghĩa vụ của mọi người và cũng là nghĩa vụ của chính người đó. Khi thực hiện quyền nhân thân của mình về nguyên tắc không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Trong một xã hội lý tưởng, mọi quyền dân sự trong đó có quyền nhân thân của cá nhân sẽ được mọi người tôn trọng, không bị xâm phạm. Tuy vậy, trên thực tế của đời sống xã hội do nhận thức của mỗi người khác nhau nên cũng như các quyền dân sự khác việc xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân là điều không tránh khỏi. Việc xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân không những gây trở ngại cho việc thực hiện các quyền dân sự của cá nhân đó mà còn ảnh hưởng tới trật tự pháp lý của xã hội. Để bảo đảm cho các quyền nhân thân của cá nhân được thực hiện trên thực tế và bảo đảm trật tự pháp lý của xã hội pháp luật quy định người có hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của người khác phải xin lỗi, cải chính hoặc bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp, người có hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của người khác không tự chấm dứt hành vi xâm phạm, không thực hiện trách nhiệm dân sự của họ theo quy định của pháp luật thì cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm được thực hiện các phương thức, biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền nhân thân của mình như tự cải chính, yêu cầu người có hành vi xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm, yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm, chịu trách nhiệm về hành vi trái pháp luật của mình v.v… Ngoài ra, trong phạm vi, chức năng và nhiệm vụ của mình các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết cũng có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc áp dụng các biện pháp hành chính, biện pháp dân sự hoặc hình sự hoặc các biện pháp tư pháp khác theo quy định của pháp luật để ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân. Như vậy, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân là việc cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm, cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện các phương thức, biện pháp do pháp luật quy định để chống lại các hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân, nhằm buộc người có hành vi trái pháp luật phải chấm dứt hành vi xâm phạm và chịu trách nhiệm dân sự về hành vi trái pháp luật của mình.
Khác các quyền dân sự khác, quyền nhân thân thể hiện trong nhiều lĩnh vực đời sống của cá nhân, đặc biệt có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống tinh thần của cá nhân. Mỗi hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người bị xâm phạm. Vì vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân trong trường hợp bị xâm phạm có ý nghĩa rất quan trọng. Trước hết, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có tác dụng kịp thời ngăn chặn các hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân, bảo đảm trật tự pháp lý xã hội và giáo dục ý thức pháp luật làm cho mọi người tôn trọng quyền nhân thân của cá nhân. Mặt khác, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân tạo điều kiện thuận lợi cho các quyền nhân thân của cá nhân được thực hiện trên thực tế, khắc phục những hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt góp phần bảo đảm đời sống tinh thần cho mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho cá nhân lao động và sáng tạo. Tuy vậy, quyền nhân thân của cá nhân có những điểm khác các quyền dân sự khác như không thể trị giá được bằng tiền, không thể chuyển giao cho người khác, trừ những ngoại lệ do pháp luật quy định… Vì vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân trong trường hợp bị xâm phạm có một số khác biệt với việc bảo vệ các quyền dân sự khác như các biện pháp bảo vệ được áp dụng đa dạng, việc khắc phục thiệt hại về quyền nhân thân bị xâm phạm trong một số trường hợp phải do chính những người hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân phải thực hiện, việc bồi thường thiệt hại khắc phục thiệt hại về quyền nhân thân không thể tính toán cụ thể, chỉ là tương đối và mang tính giáo dục là chủ yếu v.v… Ngoài ra, hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân chịu sự ảnh hưởng rất lớn của cả các quy định pháp luật và những điều kiện xã hội. Để nâng cao được hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân ngoài góc độ pháp lý thì vấn đề này cũng cần phải được quan tâm nghiên cứu, xem xét kỹ cả dưới góc độ xã hội.
4. Các phương thức và biện pháp bảo vệ quyền nhân thân
Việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân là một khâu trong cơ chế bảo đảm việc thực hiện quyền nhân thân của cá nhân. Tuy vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân một cách tùy tiện cũng có thể xâm phạm, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác vì vậy pháp luật đã phải quy định các phương thức, biện pháp bảo vệ quyền nhân thân trong trường hợp bị xâm phạm. Theo đó, trong trường hợp quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm chỉ được bảo vệ quyền nhân thân của mình theo những phương thức và biện pháp do pháp luật quy định.
Theo quy định tại Điều 25 BLDS thì cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm có thể bảo vệ quyền nhân thân của mình theo các phương thức khác nhau như tự mình bảo vệ, yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ hoặc buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại. Việc pháp luật quy định cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm có thể bảo vệ quyền nhân thân của mình theo các phương thức khác nhau là cần thiết, tạo điều kiện cho việc bảo vệ quyền nhân thân có hiệu quả. Hơn nữa, các quyền nhân thân của cá nhân bao gồm nhiều quyền khác nhau và các hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân cũng rất đa dạng nên việc pháp luật quy định đa dạng hóa các phương thức bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân là rất cần thiết. Thông thường trong trường hợp quyền nhân thân của mình bị xâm phạm thì trước hết cá nhân tự tiến hành các hành vi bảo vệ cần thiết, tương xứng với hành vi xâm phạm để chống lại hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của mình, ngăn chặn không cho các hành vi đó tiếp tục xảy ra như trực tiếp cải chính, yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm. Việc pháp luật quy định cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm tự bảo vệ quyền nhân thân của mình bảo đảm việc bảo vệ quyền nhân thân được tiến hành kịp thời, ngăn chặn được hậu quả xấu có thể xảy ra và có thể không khoét sâu thêm mâu thuẫn giữa các đương sự, giữ gìn được mối quan hệ bình thường giữa các đương sự. Tuy vậy, việc tự bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân thường chỉ có hiệu quả khi người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân nhận thức được trách nhiệm của họ. Đối với những trường hợp người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân không nhận thức được trách nhiệm của họ thì việc bảo vệ quyền nhân thân theo phương thức này nhiều khi không có hiệu quả. Trong trường hợp này việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân cần phải có sự hỗ trợ bảo vệ của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Theo đó, cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm có thể yêu cầu các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật bảo vệ như yêu cầu tổ hòa giải ở cơ sở, Ủy ban nhân dân các cấp, Tòa án, Viện kiểm sát v.v.. bảo vệ. Các cơ quan, tổ chức này căn cứ vào yêu cầu của đương sự, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã được pháp luật quy định tiến hành các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm như xử lý người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân, buộc họ phải chấm dứt hành vi xâm phạm hoặc bồi thường thiệt hại. Đặc biệt, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân thông qua việc yêu cầu các cơ quan nhà nước như Tòa án, Viện kiểm sát bảo vệ là rất cần thiết bởi các cơ quan này là các cơ quan nhà nước được Nhà nước giao nhiệm vụ quyền hạn bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, trong đó có quyền nhân thân của cá nhân. Hơn nữa, các quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát còn được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước do đó các quyết định liên quan đến việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân của các cơ quan này sẽ được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì có nhiều phương thức bảo vệ quyền nhân thân, tùy quyền nhân thân nào của cá nhân bị xâm phạm, tùy mức độ xâm phạm và thái độ của người có hành vi trái pháp luật mà cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm có thể lựa chọn thực hiện phương thức pháp lý cần thiết, phù hợp để bảo vệ quyền nhân thân của mình.
Quyền nhân thân của cá nhân theo quy định của pháp luật khá đa dạng nên hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân cũng khá đa dạng dưới những hình thức, mức độ khác nhau. Để bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có hiệu quả ngoài việc sử dụng nhiều phương thức bảo vệ khác nhau còn phải áp dụng các biện pháp bảo vệ khác nhau như biện pháp xử lý hành chính, biện pháp xử lý hình sự, biện pháp dân sự, biện pháp xử lý kỷ luật. Trong các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân đó thì biện pháp dân sự là một trong các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân có hiệu quả và được áp dụng phổ biến nhất. Các biện pháp dân sự bảo vệ quyền nhân thân trong trường hợp bị xâm phạm được quy định trong pháp luật dân sự. Theo quy định tại Điều 25 BLDS thì cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm được áp dụng các biện pháp dân sự sau để bảo vệ quyền nhân thân của mình như tự cải chính; yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm; yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.
Tự mình cải chính là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm được áp dụng trong trường hợp người có hành vi trái pháp luật đưa ra những tin tức không đúng xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Đây là biện pháp cho phép người có quyền nhân thân bị xâm phạm kịp thời bảo vệ quyền nhân thân của mình, hạn chế được hậu quả thiệt hại cả về vật chất và tinh thần do những tin tức không đúng ra gây ra.
Yêu cầu người có vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có thể áp dụng trong mọi trường hợp quyền nhân thân bị xâm phạm. So với biện pháp tự cải chính thì biện pháp này được áp dụng trong một phạm vi rộng hơn. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này thông thường chỉ có hiệu quả trong trường hợp người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân sớm nhận thức được hành vi trái pháp luật của họ. Nếu người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân không nhận thức được hành vi trái pháp luật của họ thì người có quyền nhân thân bị xâm phạm phải áp dụng biện pháp bảo vệ khác mới bảo vệ được quyền nhân thân của mình.
Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm cũng là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có thể áp dụng trong mọi trường hợp quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm. Đây là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân có hiệu quả vì sau khi nhận được yêu cầu thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp đủ mạnh do pháp luật quy định buộc người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân chấm dứt hành vi đó. Trên thực tế, biện pháp này thường được người có quyền nhân thân bị xâm phạm áp dụng trong trường hợp đã yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật nhưng không được đáp ứng. Trong các cơ quan Nhà nước áp dụng biện pháp dân sự bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân thì Tòa án là cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân chủ yếu và trong việc áp dụng biện pháp dân sự bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân thì Tòa án áp dụng có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, bảo vệ quyền nhân thông qua việc yêu cầu Tòa án bảo vệ được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ và đòi hỏi người có quyền nhân thân bị xâm phạm yêu cầu Tòa án bảo vệ phải chứng minh được quyền nhân thân của mình, hành vi xâm phạm quyền nhân thân của họ là trái pháp luật.
Yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân được thực hiện khi người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho họ. Nếu có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần thì cá nhân có quyền nhân thân bị xâm có quyền yêu cầu người có hành vi trái pháp luật bồi thường thiệt hại. Nếu người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân không chịu bồi thường thì người có quyền nhân thân bị xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.
Như vậy, theo quy định của pháp luật dân sự thì cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm được thực hiện các biện pháp bảo vệ trên để bảo vệ quyền nhân thân của mình. Việc áp dụng một hay nhiều biện pháp bảo vệ quyền nhân thân hoặc áp dụng biện pháp bảo vệ quyền nhân thân nào là tùy vào trường hợp cụ thể quyền nhân thân bị xâm phạm và do người có quyền nhân thân bị xâm phạm tự lựa chọn quyết định. Tuy nhiên, việc lựa chọn được biện pháp bảo vệ phù hợp sẽ giúp cho việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có hiệu quả.
5. Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bảo vệ quyền nhân thân và những giải pháp nhằm hoàn thiện Luật dân sự
Quyền nhân thân của cá nhân tuy đã được pháp luật bảo hộ và quy định khá cụ thể trong Bộ luật dân sự năm 2005 và nhiều văn bản pháp luật khác tạo thuận lợi cho việc thực hiện trên thực tế. Tuy vậy, do những nguyên nhân khác nhau trong những năm gần đây các hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân vẫn xảy ra nhiều, khá đa dạng, xâm phạm đến nhiều lĩnh vực của quyền nhân thân như quyền của cá nhân đối với tên họ, hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền bí mật đời tư v.v… Tuy chưa có số liệu thống kê cụ thể của một cơ quan,tổ chức nào về tất cả các trường hợp xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân nhưng theo báo cáo tổng kết công tác xét xử của Tòa án nhân dân tối cao hàng năm và theo việc đưa tin của các phương tiện thông tin đại chúng thì trong những năm gần đây dường như các trường hợp xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân ngày một nhiều, có chiều hướng đa dạng và phức tạp. Trong đó, có vụ với những hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân rất nghiêm trọng không chỉ phải xử lý về dân sự mà còn phải xử lý về hình sự như vụ vợ chồng Chu Văn Đức – Trịnh Thị Hạnh Phương ở quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội trong hơn 10 năm đã hành hạ cô gái Nguyễn Thị Bình để lại trên người tới 424 vết thương; vụ Đào Văn Tuyến ở huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang do đam mê cờ bạc thua cờ bạc về ngược đãi vợ là chị Lý Thị Nghi với hành vi lột quần áo nhốt vào chuồng chó, vụ Phạm Thị Mai ở huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh đánh chết con là cháu Phạm Huy Hoàng, 5 tuổi v.v..
Căn cứ vào các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, những người có quyền nhân thân bị xâm phạm đã thực hiện được các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền nhân thân của mình như tự cải chính những tin tức xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của họ, yêu cầu người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của họ chấm dứt hành vi đó, yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, trong đó có việc yêu cầu Tòa án bảo vệ. So với các phương thức bảo vệ quyền nhân thân khác, phương thức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền nhân thân được các chủ thể thực hiện tương đối phổ biến. Các vụ việc dân sự về quyền nhân thân Tòa án đã thụ lý giải quyết ngày một nhiều. Trong đó, có những vụ việc khá phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau và lần đầu Tòa án thụ lý giải quyết nên không tránh khỏi những lúng túng, vướng mắc cả về mặt xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ việc và cả về mặt áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc, do vậy sau khi Tòa án xét xử các đương sự vẫn không đồng ý với quyết định của Tòa án mà còn kháng cáo hoặc khiếu nại qua nhiều cấp Tòa án. Trong các vụ việc này phải kể đến vụ ông Trần Thanh Minh (Chủ tịch Ủy ban nhân phường Phú Hải, thành phố Phan Thiết) khởi kiện ông Đồng Văn Thanh (Bí thư Đảng ủy phường này) tới Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết tỉnh Bình Thuận yêu cầu xin lỗi và bồi thường thiệt hại vì cho rằng tháng 4/2006 ông Thanh “dựng chuyện” cán bộ, nhân dân phường phản ánh về “mối quan hệ không lành mạnh” giữa ông và bà cựu phó chủ tịch HĐND phường, cùng việc hai người hùn vốn kinh doanh Internet để chỉ đạo kiểm tra nhằm mục đích hạ uy tín, xúc phạm danh dự, nhân phẩm và phá hoại hạnh phúc của gia đình ông; vụ ca sĩ Phương Thanh khởi kiện bà Lê Nguyễn Hương Trà (chủ nhân của blog Cogaidolong) đến Tòa án nhân quận Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu phải xin lỗi công khai vì cho rằng bà Lê Nguyễn Hương Trà đã có hai bài viết trong blog của mình về cô với nội dung sai sự thật, xúc phạm tới danh dự, hạ uy tín của cô v.v…
Qua nghiên cứu các quy định của Bộ luật Dân sự về bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân và khảo sát thực tiễn áp dụng chúng cho thấy về cơ bản các quy định của Bộ luật Dân sự đã quy định đủ các phương thức, biện pháp mà người có quyền nhân thân bị xâm phạm được thực hiện để bảo vệ quyền nhân thân của họ trong trường hợp bị xâm phạm. Tuy vậy, thực tiễn cũng cho thấy các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 còn chung chung, mới chỉ mang tính định hướng trong khi đó các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này lại không hướng dẫn cụ thể nên việc thực hiện chúng trên thực tế đã gặp nhiều bất cập, vướng mắc, nhất là trong việc áp dụng các biện pháp bảo vệ cụ thể.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 25 BLDS, khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người có quyền đó được bảo vệ bằng cách tự mình cải chính những tin tức xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của họ mà không nhất thiết phải chờ người có hành vi xâm phạm thực hiện việc cải chính. Việc Bộ luật Dân sự quy định người có quyền nhân thân bị xâm phạm được tự cải chính có tác dụng giúp họ ngăn chặn và khắc phục kịp thời được hậu quả của hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của họ. Để người có quyền nhân thân bị xâm phạm thực hiện được việc tự cải chính thì pháp luật phải quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện việc tự cải chính của người họ nhưng do các văn bản pháp luật liên quan không có quy định, hướng dẫn cụ thể nên việc tự cải chính những tin tức xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân trên thực tế hầu như không thể thực hiện được hoặc có thực hiện thì cũng không hiệu quả. Hơn nữa, về tâm lý thì cũng không mấy ai tin việc cải chính của chính người có quyền nhân thân bị xâm phạm.
Tại khoản 2, khoản 3 Điều 25 BLDS quy định khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người có quyền đó được yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ thông qua việc buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại. Theo quy định này, thì người có quyền nhân thân bị xâm phạm được yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ nhưng cơ quan, tổ chức nào là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền lại chưa được Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này cũng như các văn bản pháp luật có liên quan chỉ rõ. Vì thế trên thực tế đã xảy ra không ít các trường hợp đương sự không xác định được cơ quan, tổ chức nào có thẩm quyền bảo vệ quyền nhân thân của họ. Ví dụ: Theo quy định tại Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết yêu cầu xin xác định lại cha mẹ cho con trong trường hợp có tranh chấp, đối với trường hợp yêu cầu xin xác định lại cha mẹ cho con mà không có tranh chấp thì Tòa án không có thẩm quyền giải quyết. Tuy vậy, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật liên quan lại không quy định, hướng dẫn cơ quan có thẩm quyền giải quyết trường hợp này nên yêu cầu xin xác định lại cha mẹ cho con mà không có tranh chấp của đương sự không có cơ quan nào giải quyết. Theo các điều từ Điều 25 đến Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự thì nhiều vụ việc về quyền nhân thân chưa được quy định cụ thể cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết như yêu cầu bảo vệ tên họ, hình ảnh; yêu cầu bảo vệ bí mật đời tư; yêu cầu bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (không thuộc trường hợp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí) v.v.. Hơn nữa, trong các văn bản pháp luật hiện hành không có quy định về việc bảo vệ quyền nhân thân của người có quyền nhân thân bị xâm phạm trong trường hợp họ đã chết. Tuy dù họ đã chết nhưng việc bảo vệ quyền nhân thân của họ vẫn phải đặt ra vì trong nhiều trường hợp việc xâm phạm đến các quyền nhân thân của họ cũng có những ảnh hưởng xấu nhất định tới những người thân và những người liên quan đến họ. Từ việc pháp luật không quy định cụ thể về thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân, các loại vụ việc Tòa án có thẩm quyền giải quyết nên trong thực tiễn xét xử của Tòa án có việc được Tòa án thụ lý giải quyết, có việc Tòa án không thụ lý giải quyết và quan điểm về thẩm quyền về giải quyết các vụ việc về quyền nhân thân giữa Tòa án cũng rất khác nhau dẫn đến cùng loại vụ việc Tòa án này thì thụ lý giải quyết nhưng Tòa án khác lại không thụ lý giải quyết.
Từ những vấn đề nêu trên, để bảo đảm việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự tôi cho rằng cần phải giải quyết được một số vấn đề cơ bản sau đây:
- Về pháp luật nội dung, cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật Dân sự, Luật hôn nhân và gia đình liên quan đến việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân. Đối với các quy định của BLDS, cần sửa đổi, bổ sung đoạn đầu Điều 25 BLDS theo hướng quy định không chỉ người có quyền nhân thân bị xâm phạm có quyền yêu cầu bảo vệ mà cả người đại diện của họ cũng có quyền yêu cầu bảo vệ và việc yêu cầu bảo vệ được đặt ra trong cả trường hợp người có quyền nhân thân bị xâm phạm đã chết vì như đã nêu trên việc xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân trong nhiều trường hợp không chỉ gây thiệt hại, ảnh hưởng tới quyền lợi của họ mà còn gây thiệt hại, ảnh hưởng xấu tới cả quyền lợi của người thân và người liên quan đến họ. Ngoài ra, cần sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 25 BLDS theo hướng quy định rõ cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân để tạo thuận lợi cho cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm kịp thời thực hiện được việc bảo vệ quyền nhân thân của mình. Đối với Luật hôn nhân và gia đình cần sửa đổi, bổ sung Điều 65 Luật hôn nhân và gia đình theo hướng quy định quyền của cha mẹ trong việc yêu cầu xác định con trong cả trường hợp con đã chết vì đây cũng là vấn đề thuộc về việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân. Trong trường hợp cha mẹ chết thì pháp luật quy định con vẫn có quyền yêu cầu xác định cha mẹ cho mình (Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình) vậy tại sao con chết pháp luật lại không quy định cha mẹ có quyền yêu cầu Tòa án xác định con cho họ?
- Về pháp luật tố tụng dân sự, cần sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự về thẩm quyền của Tòa án hướng Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với việc giải quyết yêu cầu bảo vệ họ tên, hình ảnh, bí mật đời tư, danh dự, nhân phẩm, uy tín, xác định giới tính. Theo quy định tại các điều 26, 31, 36, 37, 38 thì quyền đối với họ tên, hình ảnh, bí mật đời tư, danh dự, nhân phẩm, uy tín và quyền xác định giới tính của cá nhân là những quyền dân sự cơ bản. Việc bảo vệ quyền dân sự thông qua việc yêu cầu Tòa án bảo vệ là một trong các phương thức bảo vệ hữu hiệu nhất. Do vậy, khi các quyền dân sự này này bị xâm phạm thì cá nhân có quyền đó cũng phải được yêu cầu Tòa án bảo vệ. Để kịp thời bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân trước Tòa án phải sửa đổi các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự được quy định tại Phần thứ năm Bộ luật Tố tụng dân sự, xây dựng các quy định về thủ tục rút gọn để giải quyết những việc này. Đồng thời cũng sửa đổi quy định tại Điều 119 BLTTDS theo hướng cho phép Tòa án được chủ động quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 5, 10 và 12 Điều 102 Bộ luật này khi giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân để kịp thời ngăn chặn, khắc phục hậu quả thiệt hại của hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền quyền nhân thân của cá nhân. Mặt khác, theo quy định tại Điều 130 BLTTDS thì người có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự phải nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí, việc thu nộp án phí, lệ phí phải theo trình tự, thủ tục nhất định do vậy trong trường hợp không đáp ứng được yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân trong trường hợp bị xâm phạm. Để tạo điều kiện cho người có quyền nhân thân bị xâm phạm thực hiện ngay được quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ thì cần phải quy định việc miễn nộp tiền tạm ứng án phí cho họ.
Ngoài ra, phải xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Bộ luật Tố tụng dân sự v.v… về trình tự, thủ tục thực hiện việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân. Trong đó, cần chú trọng quy định, hướng dẫn về trình tự, thủ tục tự cải chính; yêu cầu cơ quan, tổ chức khác (ngoài việc yêu cầu Tòa án) bảo vệ vì hiện nay vấn đề này hầu như bị bỏ ngỏ không có văn bản pháp luật nào quy định, hướng dẫn. Thực tế cho thấy, việc bảo vệ quyền nhân thân có nhiều điểm khác với việc bảo vệ các quyền dân sự khác. Trong nhiều trường hợp việc bảo vệ phải được thực hiện kịp thì mới có hiệu quả, nếu bảo vệ chậm sẽ khó khắc phục được hậu quả thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra. Việc xây dựng, ban hành được các văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục tự cải chính và yêu cầu cơ quan, tổ chức khác bảo vệ sẽ có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm kịp thời áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền nhân thân của mình, tránh được sự đùn đẩy trách nhiệm cho nhau giữa các cơ quan, tổ chức.
Bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân là một vấn đề rất quan trọng trong cơ chế bảo đảm quyền dân sự của các chủ thể. Các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về phương thức, biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân tuy đã đầy đủ. Tuy nhiên, để việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân thực sự có hiệu quả trên thực tế ngoài việc phải nâng cao nhận thức của mọi người về việc tôn trọng, bảo vệ các quyền dân sự trong đó có quyền nhân thân của cá nhân thì việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật đã nêu trên là cần thiết vì nó góp phần tạo nên sự đồng bộ của cơ chế bảo hộ và bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể.
C/KẾT LUẬN
Tóm lại, quyền nhân thân là một quyền cơ bản gắn liền với lợi ích của mỗi cá nhân. Khi mà xã hội ngày nay ngày càng phát triển thì việc cần phải có nhận thức đúng về quyền nhân thân cũng như việc bảo vệ quyền nhân thân càng phải được coi trọng. Vấn đề này được đặt ra không chỉ cho các nhà chức trách mà cho toàn xã hội tất cả phải cùng nhau chung sức để góp phần hoàn thiện hơn pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự nói riêng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội ngày càng văn minh, công bằng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình luật Dân sự - Đại học luật Hà Nội- NXB Công an nhân dân.
Bộ luật dân sự 2005.
Bộ luật dân sự 1995.
Luật tố tụng dân sự.
Luật sở hữu trí tuệ 2000.
Báo điện tử VNexpress.
Báo điện tử 24h.
Diễn đàn sinh viên đại học Luật Hà Nội : sinhvienluat.vn.
Bảo vệ quyền nhân thân theo quy định của luật dân sự 2005 – Nguyễn Công Bình
11. Khái niệm và phân loại quyền nhân thân – TS Bùi Đăng Hiếu, Đh luật Hà Nội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quyền nhân thân của cá nhân và giải pháp hoàn thiện.doc