A. Mở bài:
B. Phần nội dung:
I. Khái niệm và phân loại quyền nhân thân.
1. Khái niệm quyền nhân thân
2. Phân loại quyền nhân thân:
II. Quyền nhân thân theo quy định của Bộ luật dân sự. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.
1. Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể.
2. Quyền của cá nhân đối với họ, tên.
3. Quyền xác định dân tộc.
4. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
5. Qui định về quyền hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến xác sau khi chết.
6. Qui định về quyền xác định lại giới tính Điều 36 BLDS.
7. Quyền bí mật đời tư.
8. Quyền nhân thân về hôn nhân và gia đình theo quy định trong BLDS.
C. KẾT BÀI
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4144 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quyền nhân thân theo quy định của Bộ luật dân sự. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
người đó được ghi trong giấy khai sinh.
Tên của một người theo truyền thống, phong tục của Việt Nam thường bao gồm họ, tên đệm và tên gọi. Họ của một người thường theo họ cha hoặc họ mẹ của người đó. Theo quy định của Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch thì pháp luật cũng không quy định việc khai sinh cho trẻ bắt buộc phải có họ. Do vậy, việc lựa chọn họ cho trẻ theo họ cha hoặc họ mẹ hoặc một họ khác hoặc không có họ là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người đi đăng ký khai sinh cho trẻ.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định tên khai sinh của một người cũng có những khó khăn, phức tạp đặc biệt là trong trường hợp người đó không được đăng ký khai sinh. Trên thực tế đã có những trường hợp do điều kiện hoàn cảnh mà rất nhiều em bé không được khai sinh ví dụ như Báo Pháp Luật TP.HCM ngày 18-1 có bài “Một phường có hơn 400 trẻ “vô danh” phản ánh phường Bình Hưng Hòa A (quận Bình Tân, TP.HCM) có hơn 400 trẻ em chưa có giấy khai sinh. Hầu hết cha mẹ của các em là công nhân, người lao động có hộ khẩu ở tỉnh, không có tiền về quê làm thủ tục khai sinh cho con… Có em sắp thi đại học vẫn chưa có giấy khai sinh. Nhiều em không được nhận vào học tại các trường công mà phải học ở các lớp học tình thương.
Quyền đối với họ tên là một quyền nhân thân của cá nhân. Cá nhân có quyền nhân thân này kể từ khi sinh ra. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền nhân thân này lại không phụ thuộc vào cá nhân, là những em bé không có năng lực hành vi dân sự mà hoàn toàn phụ thuộc vào người khác, những người có quyền và trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ. Trong trường hợp trẻ em không được đăng ký khai sinh do lỗi của người lớn thì rõ ràng quyền và lợi ích của trẻ em đã bị xâm phạm. Vậy ai sẽ chịu trách nhiệm trong những trường hợp này và vấn đề trách nhiệm dân sự như bồi thường thiệt hại có được đặt ra hay không?
Không những thế, trong trường hợp trẻ em đã trở thành người lớn và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự mà vẫn chưa được đăng ký khai sinh thì có thể tự đi đăng ký khai sinh cho mình không? Nghị định 158 chỉ quy định trường hợp đăng ký khai sinh cho trẻ em trong đó quy định rõ người đi đăng ký khai sinh phải là người khác và thủ tục đăng ký khai sinh phải cần những giấy tờ nhất định. Như vậy, nếu pháp luật không có quy định và giải thích rõ ràng thì người không được khai sinh đó mãi vẫn là người không có họ, tên và không được tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cũng như các quan hệ pháp luật khác. Và như vậy, quyền nhân thân của cá nhân sẽ chỉ là những quyền khách quan do pháp luật quy định mà sẽ không thể trở thành những quyền năng chủ quan, cụ thể của cá nhân. Theo em, để khắc phục tình trạng này, pháp luật cần quy định rõ hơn về trách nhiệm của người không thực hiện việc khai sinh cho trẻ cũng như cần bổ sung thêm trường hợp một người có thể tự đi đăng ký khai sinh cho chính mình.
Ngoài ra, trên thực tế còn diễn ra nhiều trường hợp người này sử dụng họ, tên của người khác trong các quan hệ xã hội cũng như quan hệ dân sự. Việc sử dụng này không những gây tổn hại cho danh dự, uy tín mà còn gây thiệt hại về tài sản của cá nhân. Hành vi này bị coi là hành vi bất hợp pháp và sẽ phải chịu một trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.
3. Quyền xác định dân tộc.
Quyền xác định dân tộc là một quyền nhân thân của cá nhân được pháp luật công nhân và bảo vệ. Theo quy định của BLDS năm 2005, Điều 28 thì cá nhân sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là dân tộc của cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ để theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha đẻ, mẹ đẻ.
Việt Nam là một quốc gia của 54 dân tộc cùng chung sống hoà thuận, trong đó dân tộc Kinh chiếm 86% dân số; 53 dân tộc còn lại có số lượng dao động trên dưới 1 triệu người như Tày, Nùng, Thái , Mường, Khmer cho đến vài trăm người như dân tộc ơ Đu và Brâu.
Khác với quyền đối với họ, tên, dân tộc của cá nhân được xác định theo dân tộc của cha hoặc của mẹ chứ không được hoàn toàn tự do lựa chọn và dân tộc của cá nhân cũng sẽ được ghi vào giấy khai sinh khi trẻ đựơc đăng ký khai sinh.
Cũng giống như họ, tên, việc xác định dân tộc cho trẻ gặp khó khăn khi trẻ sinh ra bị bỏ rơi hoặc không xác định được cha, mẹ. Theo quy định của khoản 3 Điều 16 Nghị định 158 thì trong trường hợp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi thì phần cha, mẹ, dân tộc được bỏ trống. Quy định này tạo thuận lợi cho việc đăng ký khai sinh cho trẻ được dễ dàng cũng như tạo được sự chính xác khi xác định dân tộc cho trẻ. Tuy nhiên, quy định này lại có điểm hạn chế trong trường hợp sau đó không thể xác định được cha, mẹ đẻ của trẻ cũng như trẻ không được nhận làm con nuôi thì trẻ sẽ lớn lên và sẽ mãi mãi không có dân tộc và như vậy thì quyền nhân thân của cá nhân cũng không thể thực hiện được. Trong trường hợp này, pháp luật nên quy định dân tộc của trẻ được xác định theo dân tộc Kinh hoặc theo dân tộc chiếm đa số ở địa phương nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi. Khi đó mỗi cá nhân đều có được một dân tộc nhất định và sau này khi xác định được cha, mẹ của trẻ thì có thể xác định lại dân tộc theo quy định của pháp luật.
Vấn đề xác định lại dân tộc cũng là một trong những nội dung quyền nhân thân của cá nhân. Theo quy định của Bộ luật dân sự thì người đã thành niên, cha đẻ và mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong hai trường hợp:
- Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ, nếu cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau.
- Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ trong trường hợp làm con nuôi của người thuộc dân tộc khác mà được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi do không biết cha mẹ đẻ là ai.
Nhà nước Việt Nam thi hành chính sách bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển đồng đều , Chính phủ Việt Nam ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi. Chính vì vậy, để hưởng lợi từ những chính sách của Nhà nước, trên thực tế có nhiều trường hợp muốn thay đổi dân tộc từ dân tộc này sang dân tộc khác. Trong trường hợp này pháp luật nước ta quy định rất chặt chẽ, các cá nhân không có quyền thay đổi dân tộc mà chỉ có quyền xác định lại dân tộc theo những trường hợp do pháp luật quy định. Hơn nữa, chủ thể yêu cầu xác định lại dân tộc cũng rất hạn chế bao gồm người đã thành niên, cha đẻ và mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên. Và trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên yêu cầu xác định lại dân tộc cho người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi trở lên thì phải được sự đồng ý của người chưa thành niên đó. Tuy nhiên, quy định này của BLDS cũng có những điểm chưa thật hợp lý:
Thứ nhất, Điều luật quy định người đã thành niên có quyền yêu cầu xác định lại dân tộc. Tuy nhiên có trường hợp người đã thành niên lại mất năng lực hành vi dân sự thì người đó lại không thể tự mình thực hiện được quyền yêu cầu mà phải cần có sự tham gia của người giám hộ.
Thứ hai, Điều luật quy định cha đẻ và mẹ đẻ của người chưa thành niên có quyền yêu cầu. Quy định này được hiểu là phải có sự yêu cầu của cả cha và mẹ của người chưa thành niên trong trường hợp yêu cầu xác định lại dân tộc cho con. Điều này cũng gây khó khăn trong trường hợp cha, mẹ đã ly hôn, một bên ở nước ngoài hoặc một bên đã chết…
Thứ ba, Điều luật quy định giám hộ của người chưa thành niên có quyền yêu cầu nhưng không quy định người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có quyền yêu cầu dẫn đến trên thực tế có những trường hợp không xác định được người nào là người có quyền yêu cầu trong trường hợp người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự cần xác định lại dân tộc.
Vì vậy để quy định hợp lý và chặt chẽ hơn, điều luật cần quy định người có quyền yêu cầu xác định lại dân tộc bao gồm: người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; cha, mẹ của người chưa thành niên hoặc người giám hộ.
4. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác.
Hình ảnh của cá nhân thuộc lĩnh vực riêng tư của mỗi người. Tuy nó không có gì bí mật, cần phải hạn chế sử dụng nhưng một khi muốn sử dụng những hình ảnh của cá nhân ai đó, nhất là sử dụng khai thác vào mục đích kinh doanh (như in lịch, in bìa sách, bao bì mẫu quảng cáo…) thì đều phải hỏi ý kiến “người chủ” hình ảnh đó. Bởi về nguyên tắc, mọi cá nhân đều có quyền đối với hình ảnh của mình. Mỗi người đều có quyền cho hay không cho người khác sử dụng hình ảnh của mình. Nếu chưa được sự đồng ý mà sử dụng đã là vi phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
Khái niệm hình ảnh của cá nhân được hiểu là bao gồm mọi hình thức nghệ thuật ghi lại hình dáng của con người như ảnh chụp, ảnh vẽ, ảnh chép và suy rộng ra có thể bao gồm cả bức tượng của cá nhân đó hoặc cả hình ảnh có được do ghi hình (quay video). Đối với mỗi loại hình nghệ thuật cũng bao gồm nhiều loại khác nhau.
Ví dụ: ảnh chụp có thể bao gồm ảnh chân dung, ảnh nghệ thuật, ảnh tư liệu, ảnh phóng sự… đều có thể chụp lại hình ảnh của con người; ảnh vẽ có thể bao gồm vẽ truyền thần, vẽ ký hoạ …
BLDS không quy định rõ như thế nào là đồng ý. Đồng ý ở đây được hiểu là có sự thoả thuận giữa người sử dụng hình ảnh của cá nhân với cá nhân có hình ảnh đó hay chỉ cần việc sử dụng hình ảnh không có sự phản đối của người có hình ảnh thì được hiểu là người đó đương nhiên đồng ý. Theo em, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân vào bất kỳ mục đích gì mà không xin phép đều bị coi là vi phạm quyền nhân thân về hình ảnh của cá nhân dù việc sử dụng đó có thể mang lại lợi ích hay gây thiệt hại cho người có hình ảnh. Còn việc người có hình ảnh đó có khởi kiện hay không thì đó lại là quyền của chủ thể trong quan hệ về tố tụng dân sự và người đó có quyền lựa chọn.
Còn làm sao để được sự đồng ý thì hiện nay luật chưa “đả động” tới. Điều 31 BLDS nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó. Có việc này xảy ra tất nhiên phải bồi thường thiệt hại về tinh thần. Nhưng trường hợp không gây ra thiệt hại thì sao?
Trong thực tế lâu nay việc sử dụng “ảnh chùa” đã trở thành thói quen của mọi người. Cùng lắm người nào “biết điều” cũng chỉ hỏi ý kiến của người sáng tác (chụp, vẽ ảnh) chứ ít khi chịu tìm đến hỏi ý kiến của “nhân vật trong ảnh”. Bởi người ta vẫn thường đinh ninh rằng người có hình ảnh được sử dụng để “lăng - xê” mình trước xã hội đã là… “khoái” lắm rồi, cần gì phải hỏi ý kiến. Nhưng một khi chuyện lỡ rồi, người có hình ảnh đó lại tìm cách làm khó dễ, việc xin lỗi không thôi chưa đủ. Tuỳ theo giá trị sử dụng hình ảnh trong việc kinh doanh mà người có hình ảnh đòi phải thanh toán bằng một khoản tiền vài triệu đồng, có khi vài chục triệu và vừa rồi có vụ yêu cầu của phía chủ ảnh lên đến hàng trăm triệu đồng.
Thử đặt câu hỏi, người sáng tác chụp ảnh đạt yêu cầu chỉ được trả thù lao cùng lắm vài trăm ngàn hay vài triệu đồng mà nhân vật trong ảnh lại ra giá tới hàng trăm triệu đồng thì có quá đáng không? Dù sao một khi không có luật định thì mạnh ai nấy đòi, đòi cho bằng thích, đến khi vụ việc phải kéo nhau đến toà án thì toà cũng chỉ theo thông lệ là… “việc dân sự muốn xử sao cũng được”
Lại thử đặt câu hỏi trong tình hình hiện nay nếu áp dụng gắt việc này thì mỗi ngày toà phải xử bao nhiêu vụ người trong ảnh kiện báo chí và mỗi ngày báo chí phải tốn bao nhiêu tiền để bù cho cái thông lệ sử dụng ảnh mà chưa được sự đồng ý của người ta.
Tóm lại, quyền nhân thân trong đó có quyền của cá nhân đối với họ tên, hình ảnh, dân tộc thuộc nhóm quyền tuyệt đối, thể hiện sự công nhận của Nhà nước đối với các giá trị tinh thần của cá nhân. Bất kỳ hành vi xâm phạm quyền nhân thân nào cũng sẽ phải chịu một trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm đó có thể là trách nhiệm hình sự, hành chính hay dân sự. Theo quy định của BLDS thì khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm cá nhân có quyền:
1. Tự mình cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai.
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.
Một số vụ xài ảnh bị kiện:
- Tháng 1-2003, cô Phan Thị Như Quỳnh gửi đơn khiếu nại Tổng cục Du lịch Việt Nam và tác giả Vũ Quốc Khánh vì sử dụng bức ảnh “Nụ cười Việt Nam” có ảnh của cô mà không xin phép. Bức ảnh này được nghệ sĩ nhiếp ảnh Vũ Quốc Khánh chụp năm 1994, đến năm 2000 được Tổng cục Du lịch Việt Nam chọn làm biểu tượng “Việt Nam! Điểm đến của thiên niên kỷ mới!”
- Đầu năm 2004, gia đình bé Minh Khôi kiện Công ty Biti’s, đòi bồi thường thiệt hại 154 triệu đồng vì Biti’s xài trái phép ảnh của bé Minh Khôi in trên bìa lịch, tập quảng cáo. Tháng 9-2004, TAND quận 6 (TP.HCM) buộc Biti’s phải xin lỗi công khai gia đình bé Khôi, chấm dứt vô điều kiện việc sử dụng trái phép hình ảnh của bé và bồi thường gần ba triệu đồng.
- Tháng 2-2004, Công ty Điện toán và Truyền số liệu VDC (Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam) xài không xin phép ảnh “Hai bà cháu” trên thẻ gọi điện thoại 1717. Đây là bức ảnh được nghệ sĩ Mạnh Đan chụp năm 1982. Sau đó, VDC phối hợp với đơn vị thiết kế mẫu đến, gặp gia đình thân nhân người được chụp ảnh để nhận lỗi, thoả thuận bồi thường…
- Tháng 12-2004, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Văn Trí phát hiện bức ảnh in trên tờ vé số An Giang chính là tấm ảnh có tên “Hoa sen” mà ông chụp ở Đồng Tháp Mười. Ông Trí đã hỏi Công ty Xổ số kiến thiết An Giang và Công ty cổ phần In An Giang, được các nơi này cho biết lấy bông sen trên đĩa vi tính, không đề tên tác giả nên không biết và “mong tác giả thông cảm”!
- Tháng 4-2006, luật sư Phạm Thành Long khiếu nại sân bay Tân Sơn Nhất dùng bức ảnh “Áo dài” của ông làm pano ở đường vào sân bay. Bức ảnh này được ông chụp nhân ngày khai giảng tại cổng trường Trần Phú (Hà Nội), sau đó được công bố lần đầu vào ngày 6-9-2004 trên mạng. Ông đã đăng ký bảo hộ quyền tác giả đối với bức ảnh tại Cục Bản quyền (Bộ Văn hoá – Thông tin). Trước đó, bức ảnh từng bị … “xài chùa” 14 lần khiến ông phải khiếu nại nhiều tờ báo và doanh nghiệp. Kết quả, một doanh nghiệp của Nhật đã phải bồi thường…
5. Qui định về quyền hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến xác sau khi chết.
Việc hiến tặng bộ phận cơ thể hay hiến xác cho khoa học hay chữa bệnh là việc làm cao thượng của người quá cố, là một quyền dân sự thể hiện sự tự định đoạt của cá nhân, cần phải được mọi người trong xã hội tôn trọng. Nhưng sự toàn vẹn cơ thể người chết là một vấn đề nhạy cảm đối với bản thân người chết cũng như đối với gia đình họ. Dân gian rất kiêng kỵ “cái chết không toàn thây” nên dù cho việc hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến xác của người chết là một nghĩa cử cao thượng đi nữa, thì cũng rất dễ bị những người thân thích nhất phản đối, dẫn đến việc khó mà lấy được xác hoặc bộ phận trên cơ thể của người chết. Cả về pháp lý và về đạo lý, người ta không thể kiện ra tòa để yêu cầu một phán quyết ngay lập tức của tòa án về việc buộc những người thân của người chết phải giao xác người. Cho dù đã cầm được một quyết định có hiệu lực của tòa án, cơ quan thi hành án cũng khó có thể cưỡng chế thân nhân người chết phải giao xác chết, trong khi gia đình của họ đang tổ chức việc tang. Nếu cứ cưỡng chế để buộc những người này phải giao thi thể của người chết, thì không phù hợp với tình cảm và đạo lý con người. Do đó, việc hiến tặng xác và bộ phận cơ thể như đã nói trên vừa phải được sự đồng ý của người quá cố trước khi chết, đồng thời phải không có sự phản đối của những người thân thích của người chết.
Điều 34 của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) quy định: “Cá nhân có quyền hiến bộ phận cơ thể của mình hoặc hiến xác sau khi chết vì mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học…”. Tuy nhiên, quy định tại Điều 34 của BLDS 2005 về cá nhân được hiến còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Có cách hiểu cho rằng, cá nhân ở đây có thể là bất kỳ ai không phân biệt họ bao nhiêu tuổi, miễn là họ không bị nhược điểm về thể chất, tâm thần và tự nguyện, quan điểm khác lại cho rằng cá nhân hiến bộ phận cơ thể ở đây phải là người đã thành niên - mới có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Sở dĩ có các cách hiểu khác nhau như vậy bởi vì trong Bộ luật chưa quy định điều kiện cụ thể với cá nhân ở đây là gì về độ tuổi, về năng nhận thức, về sức khoẻ… Như vậy, chúng ta thấy Bộ luật quy định cũng rất chung chung về việc cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể khi còn sống hoặc sau khi chết mà không quy định cụ thể về độ tuổi, sức khoẻ đối với người hiến.
Về nội dung và về kỹ thuật liên quan đến vấn đề này, cần phải sửa đổi và bổ sung những điểm sau đây:
a) Điều kiện về năng lực chủ thể.
Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết là một quyền nhân thân quan trọng, mặc dù là quyền nhưng không phải cá nhân nào muốn thực hiện cũng được mà cá nhân đó phải đạt được những điều kiện nhất định, trong đó một điều kiện không thể không nói đến đó là điều kiện về độ tuổi và điều kiện về khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi.
Như chúng ta đã biết, điều kiện về độ tuổi là một dấu hiệu định lượng quan trọng để xem xét cá nhân đó có đủ khả năng thực hiện quyền hiến mô, bộ phận cơ thể hay không. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ở các nước trên thế giới có sự quy định khác nhau về độ tuổi đối với người hiến bộ phận cơ thể khi còn sống, đặc biệt là hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết.
Ví dụ: ở nước ta, Điều 5 của Luật Hiến, lấy ghép mô bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác”.
b) Điều kiện về trình tự.
Những người có đủ điều kiện có quyền bày tỏ nguyện vọng hiến mô, bộ phận cơ thể của mình với cơ sở y tế, khi nhận được thông tin của người hiến mô, bộ phận cơ thể, cơ sở y tế có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người. Sau khi nhận được thông báo về trường hợp hiến xác, bộ phận cơ thể người, Trung tâm điều phối quốc gia về bộ phận cơ thể có trách nhiệm thông báo cho cơ sở y tế có đủ điều kiện về trang thiết bị, về đội ngũ cán bộ y tế để tiến hành các thủ tục đăng ký cho người hiến. Khi nhận được thông báo của Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người, cơ sở y tế này có trách nhiệm trực tiếp gặp người hiến để tư vấn thông tin có liên quan đến hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể và hướng dẫn việc đăng ký hiến theo mẫu đơn; thực hiện việc kiểm tra sức khoẻ cho người hiến (đến đây, người hiến mô, bộ phận cơ thể người để được hiến phải đảm bảo được điều kiện về sức khoẻ).
Một vấn đề đặt ra là liệu điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết vào mục đích nghiên cứu khoa học có khác gì với điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết vì mục đích chữa bệnh không? ở đây, chúng ta có thể dễ dàng trả lời được là giữa chúng có sự khác nhau bởi mục đích của chúng là khác nhau. Vì vậy, có thể thấy có nhiều trường hợp không đủ điều kiện để hiến mô, bộ phận cơ thể vì mục đích chữa bệnh, nhưng vẫn có thể hiến và được sử dụng và mục đích nghiên cứu khoa học.
c) Điều kiện về sức khỏe.
Việc hiến mô, bộ phận cơ thể nói chung cũng như việc hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc mang lại hay kéo dài sự sống cho người bệnh. Thực tế trên thế giới và ở Việt Nam cũng đã xảy ra những trường hợp việc lấy, ghép nhầm mô, bộ phận cơ thể của người hiến bị bệnh (nan y) cho người bệnh đã gây ra những cái chết rất thương tâm hoặc trường hợp bác sĩ lấy nhầm bộ phận cơ thể của người hiến dẫn tới tính mạng của người hiến bị đe dọa nghiêm trọng. Do đó, để bảo đảm tính mạng, sức khoẻ cũng như tinh thần cho người hiến, Luật đã đưa ra những quy định về hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết phải được kiểm tra sức khoẻ, tuy nhiên lại chưa quy định cụ thể người hiến cần phải đáp ứng được điều kiện gì về sức khoẻ. Vì vậy cần quy định cụ thể về điều kiên về sức khỏe của người hiến.
Ví dụ: trong việc thực hiện kỹ thuật cấy ghép thận, gan… cho người bệnh thì trong Quyết định này có chỉ rõ là người hiến về sức khoẻ không bị mắc các bệnh nan y như: viêm gan B, nhiễm HIV,…
d) Một số kiến nghị.
* Về trình tự, thủ tục đối với người hiến xác, bộ phận cơ thế sau khi chết:
Cần phải sớm có quy định pháp luật về trình tự thủ tục đối với việc hiến mô, bộ phận cơ thể người cho mục đích nghiên cứu khoa học cũng như quy định về điều kiện đối với các tổ chức nhận xác, bộ phận cơ thể người để nghiên cứu khoa học. Quy định này rất quan trọng bởi, hiến xác, bộ phận cơ thể người vì mục đích chữa bệnh là biện pháp ngăn chặn hậu quả, thì nghiên cứu khoa học lại giúp phát hiện và phòng ngừa bệnh tật.
* Về năng lực chủ thể của người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết:
Về độ tuổi của người hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết trường hợp người chết mà không có thẻ đăng ký hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người sau khi chết, theo em Luật không nên giới hạn độ tuổi là đủ 18 tuổi trở lên mà người dưới 18 tuổi cũng có thể được chấp nhận nếu được gia đình hoặc người giám hộ hợp pháp của người đó đồng ý.
Về năng lực chủ thể của người hiến là cần thiết trong trường hợp người đó hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc đăng ký hiến sau khi chết. Tuy nhiên, trường hợp mà người chết không để lại di chúc mà gia đình họ làm đơn hiến mô, bộ phận cơ thể của con mình nhằm mục đích cứu chữa người bệnh thì vấn đề năng lực nhận thức của người đó lại không nên đặt ra, bởi cho dù người đó có thể bị rơi vào trường hợp bị tâm thần hoặc mất năng lực hành vi đi chăng nữa thì cũng không có nghĩa là bộ phận cơ thể nào của họ cũng bị ảnh hưởng hoặc không sử dụng được để cứu chữa người bệnh.
* Về sức khỏe đối với người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết:
Sức khỏe là điều kiện vô cùng quan trọng đối với người hiến trong quá trình hiến mô, bộ phận cơ thể người nhằm cứu chữa người bệnh. Do vậy có thể dễ dàng nhận thấy sức khỏe là điều kiện tiên quyết và quan trọng đối với mục đích cứu chữa bệnh, bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của người hiến mà nó còn ảnh hưởng đến sức khỏe của người nhận ghép. Tuy vậy, nếu sử dụng xác, bộ phận cơ thể vào mục đích nghiên cứu khoa học thì không nhất thiết phải bắt buộc điều kiện về sức khỏe của người hiến, bởi vì đích cuối cùng của nghiên cứu khoa học là nhằm tìm nguyên nhân và cách thức phòng ngừa bệnh tật để cứu chữa người bệnh. Vì vậy, dù là người có bệnh hay không có bệnh mà hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nhằm mục đích giảng dạy và nghiên cứu khoa học thì đều có thể nhận được.
* Một số kiến nghị liên quan khác:
Bên cạnh những kiến nghị trên để hoàn thiện pháp luật về điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết, chúng ta cần phải quan tâm đến những vấn đề sau:
Nên nghiên cứu quy định về điều kiện và trình tự, thủ tục cho phép người bị tuyên tử hình có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết, đây là một việc làm rất nhân văn và mang tính nhân đạo sâu sắc. Vì thế nên có quy định về điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể đối với tử tù trong trường hợp họ muốn hiến, ngoài những điều kiện chung về độ tuổi, năng lực nhận thức, sức khỏe… thì cần phải có những quy định đầy đủ hơn nữa về vấn đề này.
Luật cũng nên quy định về điều kiện hiến, nhận, sử dụng mô, bộ phận cơ thể sau khi chết để nghiên cứu khoa học một cách chặt chẽ bởi: thứ nhất, hiến xác, bộ phận cơ thể là một trong hai mục đích quan trọng được ghi nhận trong BLDS 2005 (đó là mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa học); thứ hai, quy định đầy đủ về vấn đề này nhằm tránh việc các tổ chức, cá nhân lợi dụng để bí mật bán mô, tạng vì mục đích thương mại. Đồng thời cũng nên quy định những trường hợp mà người hiến xác, bộ phận cơ thể người vì mục đích chữa bệnh, nghiên cứu khoa học nhưng mục đích đó không được thực hiện, thì gia đình người hiến có thể được lấy lại xác để mai táng theo nghi lễ truyền thống hoặc hoả thiêu. Các văn bản dưới Luật cũng cần phải quy định rõ vấn đề này.
6. Qui định về quyền xác định lại giới tính Điều 36 BLDS.
a) Xác định lại giới tính của một người bị khuyết khiếm (sinh học) về giới, muốn có sự can thiệp bằng y học để xác định đúng giới tính của mình. Đây là một việc rất cần thiết, là một quyền nhân thân chính đáng của cá nhân. Còn thay đổi giới tính là trường hợp một người có giới tính bình thường, nhưng không chấp nhận giới tính tự nhiên của mình mà muốn thay đổi hiện trạng đó để chuyển sang giới tính khác. Theo em, không nên thừa nhận quyền tự do thay đổi giới tính đối với những người bình thường mà chỉ nên dừng lại ở việc cho phép cá nhân được phép xác định lại giới, tính nếu họ bị dị tật bẩm sinh, vì các lẽ sau:
- Một là, việc thay đổi giới tính của một người sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nhiều vấn đề pháp lý phức tạp. Dĩ nhiên, nếu việc đó là cần thiết và mang lại một hiệu quả xã hội thiết thực cho cá nhân và cho xã hội thì cho dù có phức tạp cũng nên làm. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, việc thay đổi giới tính cũng chẳng để làm gì cả. Pháp luật trong trường hợp này cần phải thể hiện tốt chức năng bảo vệ, ổn định trật tự xã hội mà ngăn cấm các trường hợp thay đổi giới tính chỉ vì ham muốn cá nhân.
- Hai là, việc một người bình thường muốn thay đổi giới tính là một tình trạng bệnh tâm lý, nên dùng các biện pháp chữa bệnh lý hoặc các liệu pháp thích ứng khác, chứ không nên cứ cho thay đổi giới tính là xong. Ai cũng biết việc thay đổi giới tính sẽ tạo ra các hệ quả rất lớn về những biến đổi cơ thể, như người có giới tính bị thay đổi sẽ không thể thực hiện được các chức năng của giới tính mới (ví dụ: người đàn ông bị thay đổi thành đàn bà thì không thể mang thai và sinh con). Người thay đổi giới tính phải thường xuyên tiêm vào người các chất nội tiết tố cần thiết để “nuôi’ diện mạo mới của mình cũng như để duy trì thể trạng của một con bệnh được ghép một bộ phận cơ thể người khác trên cơ thể của mình (hầu như phải uống thuốc và tiêm thuốc suốt đời). Cơ thể tự nhiên bình thường của tạo hóa dành cho con người là một cơ thể hoàn hảo nhất, không cần thiết phải có sự can thiệp của con người, trừ những trường hợp bị khuyết tật bẩm sinh. Do đó, không nên qui định mở đường cho sự can thiệp sâu bằng các biện pháp y khoa vào giới tính của cá nhân, với tư cách là một giá trị nhân phẩm chung của con người trong xã hội.
- Ba là, điều kiện kinh tế và tâm lý của xã hội Việt Nam chưa cho phép tự do thay đổi giới tính. Trong quan hệ ứng xử xã hội, như trong tình yêu, trong quan hệ giữa họ hàng thân thích với nhau mà có người thay đổi giới tính, thì họ sẽ nên gọi như thế nào? Con cái hoặc anh chị em, bạn bè của người thay đổi giới tính sẽ kêu họ là cha, anh, chú, cậu đối với một cô gái đã được thay đổi giới tính để thành đàn ông? Những người thân sẽ có tâm trạng và tình cảm như thế nào, nếu người thân của họ thay đổi giới tính? Chắc chắn việc thay đổi về giới tính sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm, tâm lý và quan hệ thân thích giữa người thay đổi giới tính với cha, mẹ hay con cái của họ. Chưa kể việc thay đổi giới tính là cách thức lẩn tránh pháp luật trong việc kết hôn giữa những người đồng giới. Trong khi đó, để có thể thay đổi giới tính người ta phải là người có khả năng kinh tế lớn, giàu có vì chi phí rất lớn và những tổn phí để duy trì tình trạng này đến suốt cuộc đời. Pháp luật quá mở rộng quyền tự do thay đổi giới tính thì có thể sẽ xảy ra hậu quả xã hội và các hậu quả pháp lý khó lường.
Từ ba luận điểm trên, em cho rằng không nên thừa nhận quyền tự do thay đổi giới tính tại Việt Nam mà chỉ nên cho phép xác định lại giới tính như qui định của là phù hợp, nhưng phải kèm theo những điều kiện và thủ tục chặt chẽ hơn để phòng ngừa những trường hợp lợi dụng qui định này để thay đổi giới tính.
Theo tinh thần của Điều 36 BLDS, cá nhân có quyền xác định lại giới tính, nhưng xét về mặt pháp lý thực chất là thay đổi giới tính có điều kiện. Bởi lẽ, theo qui định của điều luật, nhà làm luật thừa nhận “cá nhân có quyền xác định lại giới tính… khi giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học… thì được xác định lại giới tính theo qui định của pháp luật cũng có nghĩa là cho phép cá nhân được thay đổi giới tính xét về mặt pháp lý, trừ trường hợp có kèm những thủ tục pháp lý cần thiết để kiểm soát việc cho phép xác định lại giới tính. Theo tinh thần của điều luật như vừa nêu, thì người ta sẽ dễ dàng lợi dụng qui định này để thay đổi giới tính vì 2 lý do sau:
- Giới tính là một yếu tố thuộc về đời tư. Do đó, rất khó phát hiện và khó chứng minh về việc họ có thực tế thay đổi giới tính hay không để làm chứng, khi được yêu cầu làm chứng về việc chứng minh có sự thay đổi giới tính mà không tuân thủ các qui định của pháp luật.
- Sau khi phẫu thuật thay đổi giới tính, thì những “bằng chứng” hay “dấu vết” đó không còn nguyên tình trạng ban đầu, trong khi người ta cũng không biết chính xác là liệu trước đó, đương sự có bị “dị tật bẩm sinh” hoặc bị khiếm khuyết về giới tính “mà chưa thể xác định chính xác giới tính” thật sự hay không. Nếu hồ sơ sức khỏe hoặc bệnh án bị làm sai lệch hay ghi không trung thực, thì cơ quan có thẩm quyền cũng khó có thể kiểm tra, xác minh được.
Hai yếu điểm nói trên tạo sơ hở để cho nhiều người lợi dụng để dễ dàng thay đổi giới tính cũng như tạo ra một cơ hội thuận lợi mở đường cho các chuyên gia giải phẫu thẩm mỹ, các cơ sở chữa bệnh thiếu nghiêm túc và thiếu trách nhiệm mở ra các dịch vụ về lĩnh vực này. Để tránh khả năng lợi dụng điều luật nhằm thay đổi giới tính trái pháp luật đối với trẻ sơ sinh, thì nội dung Điều 36 BLDS phải được sửa đổi, bổ sung thêm các điều kiện để có thể xin xác định lại giới tính, chẳng hạn như phải có kết luận pháp y hoặc kết luận của một Hội đồng y khoa gồm các bác sỹ chuyên khoa có liên quan. Việc xác định lại giới tính cũng chỉ nên cho phép thực hiện tại các cơ sở chữa bệnh của Nhà nước hoặc các cơ sở y tế được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe có liên quan đến việc điều chỉnh lại giới tính.
b) Việc cho phép một người có quyền xác định lại giới tính cũng phải tính đến ý chí tự nguyện của người đó hoặc của người đại diện hợp pháp của cá nhân trong trường hợp họ là người chưa thành niên, cũng như bằng chứng thể hiện sự đồng ý đó.
Điều 36 BLDS không qui định nếu người muốn xác định lại giới tính là người chưa thành niên thì ai sẽ là người quyết định việc xác định lại giới tính cho họ và nếu họ đạt đến độ tuổi nhất định thì họ có quyền thể hiện ý chí của mình hay không? Theo em, chỉ cho phép cha, mẹ (trong trường hợp không còn cha, mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng biểu lộ ý chí thì do ông bà nội và ông bà ngoại có năng lực hành vi dân sự đầy đủ) được quyết định việc xác định lại giới tính cho con (cháu) chưa thành niên và nếu người có giới tính cần xác định lại từ đủ 9 tuổi trở lên, thì phải có ý kiến của người đó. Theo Điều 36 BLDS thì nhà làm luật chỉ thừa nhận quyền được xác định lại giới tính là quyền của cá nhân đương sự mà không tính đến trường hợp thay đổi giới tính của người chưa thành niên. Như vậy, trong nhiều trường hợp, cá nhân không có khả năng biểu hiện ý chí, thì quyền này không thể được thực hiện. Vì thế, cần sửa đổi, bổ sung điều luật theo hướng xác định rõ khi cho phép người chưa thành niên cần được xác định lại giới tính thì ai có quyền cho phép, quyết định và hình thức thể hiện sự quyết định đó là hình thức gì. Theo em, nên chỉ dành cho cha, mẹ hoặc trong trường hợp không có cha mẹ, thì chỉ có ông bà nội và ông bà ngoại mới có quyền quyết định; nếu đó là người chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên, thì việc xác định lại giới tính của người đó phải có ý kiến của họ. Việc xác định lại giới tính không nên và không cần thiết đặt ra đối với người thành niên không có khả năngnhận thức và điều khiển hành vi của mình. Nếu họ có trí tuệ minh mẫn thì mới để cho họ tự mình quyết định.
Từ hai luận điểm nêu trên, nên sửa đổi, bổ sung Điều 36 BLDS như sau:
“Cá nhân có quyền xác định lại giới tính.
Người thành niên có quyền tự mình quyết định việc xác định lại giới tính cho mình. Người chưa thành niên muốn được thay đổi giới tính phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ. Nếu người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc cha mẹ bị tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ thì việc xác định lại giới tính của người đó phải được sự đồng ý của ông bà nội, ông bà ngoại. Trong trường hợp người chưa thành niên từ đủ chín tuổi trở lên thì phải có ý kiến của họ về việc đồng ý cho xác định lại giới tính của mình.
Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính, khi có sự kết luận của pháp y có thẩm quyền. Chỉ có những cơ sở y tế được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe có liên quan mới được phép thực hiện phẫu thuật xác định lại giới tính.
Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo qui định của pháp luật”.
Qui định này vừa bảo đảm quyền được xác định lại giới tính của người chưa thành niên, tôn trọng ý chí cá nhân của họ nếu họ đã đạt được một độ tuổi nhất định có thể nhận thức được phần nào hậu quả của việc xác định lại giới tính (tương tự như việc hỏi ý kiến của người làm con nuôi theo qui định Điều 71 Luật Hôn nhân và Gia đình,…); đồng thời, qui định này cũng thể hiện quan điểm hạn chế tối đa các trường hợp thay đổi giới tính không cần thiết, kiểm soát chặt chẽ việc thay đổi giới tính của các cá nhân trong xã hội cũng những hoạt động bất hợp pháp của những cơ sở y tế thiếu nghiêm túc.
Đồng thời với việc qui định hạn chế thay đổi giới tính và các thủ tục bắt buộc phải tuân thủ khi muốn xác định lại giới tính, thiết nghĩ pháp luật cũng cần chuẩn bị biện pháp đồng bộ và các chế tài thích ứng khi cá nhân và cơ sở y tế vi phạm các thủ tục về thay đổi giới tính. Chẳng hạn, nếu cá nhân vi phạm thủ tục thay đổi giới tính thì có được xin đăng ký lại giới tính hay không? Nếu cho đăng ký lại giới tính thì có bị xử lý hành chính hay không? Trong trường hợp các cơ sở y tế (trong nước) thay đổi giới tính của người có yêu cầu xác định lại giới tính mà việc đó là không đúng thủ tục hoặc thuộc trường hợp không có quyền được thay đổi giới tính, thì biện pháp chế tài nào sẽ được áp dụng?…
7. Quyền bí mật đời tư.
Có ý kiến cho rằng bí mật đời tư của cá nhân được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người (thông tin, tài liệu, hình ảnh về cá nhân, việc làm, tình yêu, gia đình, các mối quan hệ… gắn liền với một cá nhân) mà người này giữ kín, không muốn để lộ cho người khác biết. Nói nôm na, bí mật đời tư có thể hiểu là chuyện riêng của người này mà không muốn cho người khác biết. Thế nên bất cứ ai thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư cá nhân người khác (không cần phân biệt những thông tin, tư liệu ấy đang được cá nhân đó giữ bí mật hay đã được cá nhân đó để lộ ra) mà không được sự đồng ý của cá nhân đó đều là xâm phạm bí mật đời tư.
Thế nhưng có không ít ý kiến lại cho rằng hiểu như thế thì hầu như cái gì cũng có thể bị coi là bí mật đời tư của cá nhân bởi phần lớn sự việc, sự kiện xảy ra trong cuộc sống đều xuất phát và gắn liền với cá nhân. Hiểu như thế sẽ không khớp với thực tế, pháp luật và không còn “đất sống, đất viết” cho nhiều người, nhất là nhà báo, nhà nghiên cứu…
Cho đến nay, pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về bí mật đời tư là gì, phạm vi của bí mật đời tư là như thế nào, mà chỉ có một số quy định như trong Bộ luật Dân sự (Ðiều 38), Luật Giao dịch điện tử (khoản 2 Điều 46) quy định quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư cá nhân phải được người đó đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; thư từ, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn, bí mật và việc kiểm soát các loại này được thực hiện khi pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Riêng Bộ luật Hình sự (Điều 125) có quy định: Người nào có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì tùy trường hợp sẽ bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 5 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm, phạt tù đến hai năm.
Những khiếm khuyết nói trên đã dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định bí mật đời tư của cá nhân và phạm vi của nó. Điều đáng nói là một khi pháp luật chưa xác định được rõ ràng những khái niệm này thì việc bảo vệ quyền bí mật đời tư, xử lý các trường hợp được xem là xâm phạm bí mật đời tư không khỏi dẫn đến những tranh cãi, bất nhất, không nghiêm minh.
Trong hoàn cảnh pháp luật hiện chưa có quy định rõ ràng về khái niệm và phạm vi “bí mật đời tư của cá nhân” thì xét ở góc độ nghĩa của từ ngữ theo từ điển tiếng Việt, bí mật đời tư của cá nhân được hiểu là những gì thuộc về đời sống riêng tư của cá nhân (thông tin, tư liệu…) được giữ kín, không công khai, không tiết lộ ra. Còn nếu các thông tin, tư liệu cá nhân đã được công khai, lộ ra thì không còn là bí mật đời tư nữa. Do đó, cần hiểu bí mật đời tư của cá nhân là những thông tin, tư liệu mà chỉ mỗi cá nhân đó biết và quyết giữ bí mật. Còn nếu đó là chuyện diễn ra nơi công cộng, là chuyện mà cá nhân đó đã để lộ ra cho người khác biết thì không còn là bí mật đời tư nữa.
Lý giải thêm vấn đề này, có ý kiến viện dẫn Thông tư số 09/2005/TT-BCA ngày 5-9-2005 của Bộ Công an quy định về nơi công cộng là: “Các khu vực, địa điểm phục vụ chung cho mọi người như vỉa hè, lòng đường, quảng trường, cơ sở kinh tế, văn hóa, nơi sinh hoạt cộng đồng; tại khu vực trụ sở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội hoặc tại những nơi công cộng khác”.
Trên cơ sở đó, ý kiến này đã cho rằng bất cứ cá nhân nào, nhất là người của công chúng như văn nghệ sĩ mà xuất hiện ở nơi công cộng (như cách hiểu nói trên) và có lời nói, hành động hoặc không hành động gắn liền với việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một sự việc, sự kiện nào đó thì những gì liên quan đến họ không còn là bí mật đời tư nữa.
Ví dụ: Nghệ sĩ C nói về một vấn đề riêng tư tại nhà riêng và lưu giữ tại nhà đó thì người khác muốn sử dụng để đăng báo phải xin phép nghệ sĩ đó. Thế nhưng nếu những thông tin đó, nghệ sĩ ấy công khai tại quảng trường, nhà hát thì không còn là bí mật đời tư nữa và nếu người khác thu thập, công bố mà không có ý kiến của người đó thì không xem là xâm phạm bí mật đời tư.
Trong lúc chờ đợi các nhà làm luật, hướng dẫn luật có thẩm quyền có giải pháp thỏa đáng về vấn đề này, ca sĩ, diễn viên...nói riêng và những người bị xâm phạm quyền bí mật đời tư (tùy theo nội dung bị xâm phạm là gì) có thể áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Báo chí, Luật Giao dịch điện tử… để bảo vệ mình. Nếu như báo, đài… đưa tin, viết bài về mình không đúng sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thì có quyền căn cứ vào các luật này để yêu cầu cải chính, xin lỗi, đăng lời phát biểu của mình, đòi bồi thường thiệt hại. Nếu yêu cầu đó không được chấp nhận thì có quyền khiếu nại đến cơ quan quản lý nhà nước về báo chí hoặc khởi kiện tại tòa án có thẩm quyền.
8. Quền nhân thân về hôn nhân và gia đình theo quy định trong BLDS.
Từ thời cổ đại, hôn nhân và gia đình (sau đây gọi chung là gia đình) luôn đóng một vai trò quan trọng trong hình thành, nuôi dưỡng và phát triển nhân cách con người, là nơi hội tụ các giá trị đạo đức, phong tục, tập quán truyền thống và hiện đại. Bất kỳ một cá nhân nào với tư cách là chủ thể cơ bản của xã hội đều mang dấu ấn từ gia đình.
Ở Việt Nam, trong lịch sử và hiện tại, gia đình đã luôn được xác định là thiết chế xã hội rất quan trọng - Tế bào của xã hội. Do vậy, dù ở bất cứ giai đoạn phát triển nào, chế độ xã hội nào, gia đình luôn được Nhà nước quan tâm tác động bằng chính sách, điều chỉnh bằng pháp luật. Quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam cũng được đặt trong tiến trình đó và mang những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, mức độ công nhận và thực thi quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ vào bản chất của chế độ xã hội qua mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.
Thứ hai, quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam thường được đặt trong lợi ích chung của gia đình và xã hội.
Thứ ba, quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam không phải là điều “mới lạ” so với nền văn hóa truyền thống của Việt Nam, nhưng cũng có sự “xung đột” nhất định bởi yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng.
Thứ tư, quyền con người về hôn nhân và gia đình gắn bó chặt chẽ với các quyền con người về dân sự và chính trị khác.
a)Những nội dung cơ bản về quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình theo quy định trong BLDS.
* Pháp luật công nhận và bảo vệ quyền kết hôn của công dân.
Cá nhân đủ điều kiện kết hôn có quyền tự do kết hôn ở Việt Nam. Việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện quyết định. Các hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc cảm trở trong kết hôn bị nghiêm cấm và bị xử lý pháp luật (dân sự, hành chính, hình sự) theo hành vi và mức độ vi phạm;
Pháp luật không phân biệt đối xử trong kết hôn. Cá nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn thì có quyền kết hôn không phụ thuộc vào địa vị, thành phần xã hội, giới tính, dân tộc, tôn giáo và quốc tịch. Trên thực tế hôn nhân trộn lẫn các yếu tố địa vị, thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo và quốc tịch là rất phổ biến ở Việt Nam và được pháp luật việt bảo vệ. Riêng quyền kết hôn của những người cùng giới Nhà nước Việt Nam chưa thừa nhận vì yếu tố văn hóa và tính tự nhiên trong quan hệ hôn nhân.
Để bảo thực chất của quan hệ hôn nhân, loại trừ định kiến xã hội theo quan niệm “trai năm thê, bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng” pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận quan hệ hôn nhân 1 vợ - 1 chồng, các hành vi “đa thê” hoặc “đa phu” bị nghiêm cấm. Ngoại trừ, các trường hợp do hậu quả của chế độ cũ để lại (chế độ hôn nhân 1 vợ - 1 chồng dưới chế độ XHCN được thiết lập ở Việt Nam từ sau ngày 13/1/1960 ở miền Bắc XHCN và được áp dụng thống nhất trong cả nước từ ngày 25/3/1977).
*Pháp luật công nhận và bảo vệ quyền bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân.
Điều 40 BLDS “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự, cũng nhau xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, bền vững, hạnh phúc”.
* Pháp luật công nhận và bảo vệ quyền ly hôn của vợ chồng.
Theo BLDS ly hôn là quyền tự do cá nhân của vợ, chồng. Vợ chồng có quyền yêu ly hôn khi thấy tình cảm giữa vợ chồng không còn và việc duy trì hôn nhân là không cần thiết và không có lợi cho gia đình. Việc ly hôn chỉ bị hạn chế trong trường hợp người chồng có yêu cầu ly khi người vợ đang mai thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Mục đích của qui định này là gắn trách nhiệm của người chồng trong việc tạo điều kiện cho người vợ thực hiện chức năng làm mẹ. Quyền yêu cầu ly hôn của người phụ nữ không bị hạn chế ngay carkhi đang mai thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Vợ chồng đã ly hôn được tự do về nhôn nhân có quyền kết hôn với người khác mà không phải chịu ràng buộc nào đối với quan hệ hôn nhân đã chấm dứt;
* Công nhận và bảo vệ quyền được làm cha, làm mẹ và làm con
Quyền được làm cha, làm mẹ và làm con vừa là quyền tự nhiên và là quyền pháp lý của công dân. Pháp luật Việt Nam công nhận và bảo vệ quyền này thông qua hai căn cứ phát sinh dựa trên sự kiện sinh đẻ và nuôi con nuôi.
b) Hiện trạng công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người trong hôn nhân và gia đình ở Việt Nam.
Không thể phủ nhận Việt Nam là một trong những quốc gia tôn trọng và tích cực thực hiện nhất về công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau việc công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người còn nhiều bất cập cần được khắc phục:
Thứ nhất, Việt Nam vẫn là một trong các nước nghèo và là đất nước nông nghiệp, do vậy sự khó khăn về kinh tế xã hội và sự tồn tại những định kiến xã hội đãcó những ảnh hưởng không nhỏ đến công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình.
Thứ hai, hệ thống qui phạm pháp luật của Việt Nam về quyền con người trong hôn nhân và gia đình đã có nhưng phần nhiều mới dừng lại ở nguyên tắc rất khó thực thi trong tình huống cụ thể xuất phát từ cuộc sống.
Thứ ba, do quan niệm truyền thống về hành vi ứng xử trong gia đình nên việc các thành viên trong gia đình xâm phạm đến quyền của nhau ít được quan tâm phát hiện và xử lý hơn giữa những chủ thể không có quan hệ hôn nhân và gia đình. Nhận thức phổ biến trong xã hội là chấp nhận hoặc bỏ qua hành vi cha mẹ áp đặt cho con, chồng cho vợ…
Thứ tư, công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến về quyền con người trong hôn nhân và gia đình còn chưa linh hoạt, đa dạng và hiệu quả. Sự hiểu biết của xã hội nói chung, từng người dân, từng thành viên gia đình nói riêng về quyền con người trong hôn nhân và gia đình còn nhiều hạn chế trong nhận thức và hành vi.
Thứ năm, hiệu quả hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình còn chưa cao ở một số lĩnh vực, một số cơ quan nhất định.
c) Một số kiến nghị.
Thứ nhất, cụ thể hóa hơn nữa các qui định pháp luật hiện hành về quyền con trong hôn nhân và gia đình theo hướng thực tế hơn có tính áp dụng đúng với thực tế hơn. Đặc biệt các quyền về sở hữu, quyền làm mẹ, làm cha, làm con, quyền khai sinh, quyền kết hôn với người nước ngoài, quyền về quốc tịch của con có cha mẹ là người không có quốc tịch, mang quốc tịch nước khác hoặc nhiều quốc tịch, xử lý hành vi phạm và bảo vệ nạn nhân của hành vi xâm phạm quyền …
Thứ hai, cần phải nâng cao vị thế kinh tế và vai trò xã hội của các thành viên gia đình dễ bị tác động bởi định kiến xã hội phụ nữ, con… để họ độc lập hơn trong xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền cho mình.
Thứ ba, xác định rõ trách nhiệm công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình là trách nhiệm chung của toàn bộ hệ thống chính trị, cơ quan Nhà nước và nhân viên của hệ thống chính trị, cơ quan Nhà nước mà không phải riêng thành tố tổ chức hoặc cơ quan Nhà nước nào. Trong đó, phải xác định rõ cơ quan Nhà nước đóng vai trò quản lý, thực thi, tổ chức, phối hợp thực hiện quyền con người về hôn nhân và gia đình.
Thứ tư, cần tạo ra cơ chế linh hoạt, đa dạng hơn nữa trong công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình. Bên cạnh cơ chế chính thức (hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức có thẩm quyền) cần khuyến khích và tạo điều kiện cho các thiết chế không chính thức công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình (gia đình, dòng họ, chức sắc tôn giáo, tổ chức phi chính phủ, dịch vụ, tư vấn hỗ trợ pháp lý…).
Thứ năm, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến về quyền con người nói chung, quyền con người về hôn nhân và gia đình nói riêng theo hướng thiết thực, chiến lược và hiệu quả hơn. Đặc biệt phải đưa môn học về quyền con người, trong đó có quyền con người về hôn nhân và gia đình vào chương trình đòa tạo bắt buộc của hệ thống các trường chuyên nghiệp trở lên và là nội dung bắt buộc trong môn giáo dục công dân ở phổ thông.
KẾT BÀI
Sự nhận thức quyền con người của Đảng và Nhà Nước ta là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa về quyền con người hiện nay. Cùng với đó là sự ghi nhận quyền con người trong hiến pháp năm 1992 và quyền nhân thân trong BLDS. Đây là điểm tiến bộ trong lịch sử lập hiến của Việt Nam. Nhờ có sự thay đổi hợp lý đó mà Việt Nam mới có thể tham gia vào nền kinh tế thị trường, và được gia nhập vào tổ chức mậu dịch quốc tế (WTO). Tuy việc ghi nhận quyền nhân thân trong BLDS còn những điểm hạn chế, bất cập, thậm chí có những quyền chưa thể áp dụng trong đời sống thực tế được. Song những điểm hạn chế đó chỉ mang tính nhất thời mà thôi. Vì mọi quá trình phát triển của sự vật điều đi từ thấp đến cao, từ hạn chế đến tiến bộ. Và chắc rằng trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay thì Đảng và Nhà Nước ta sẽ có những thay đổi trong quan niệm,và cách thức ghi nhận các quyền con người và quyền công dân sẽ phù hợp với đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội, giáo dục, chính trị…hơn. Để tạo điều kiện cho Việt Nam giao lưu phát triển kinh tế với toàn thế giới. Và nếu thực hiện như vậy thì Việt Nam sẽ bảo đảm được kinh tế Việt Nam theo nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa; dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Quyền nhân thân trong BLDS, đã chứng tỏ Việt Nam luôn bảo đảm nhân quyền cho mọi người, và đặc biệt hơn là đã khẳng định thêm nhân quyền luôn được Việt Nam tôn trọng và bảo vệ nó. Mọi ý kiến cho rằng Việt Nam vi phạm nhân quyền chỉ là họ chưa hiểu hết vấn đề nhân quyền tại Việt Nam hoặc là sự xuyên tạc, phá rối và vu cáo Đảng và Nhà Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà thôi.
Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế thế giới hiện nay, việc liên kết, hợp tác giữa các nước trong khu vực và trên thế giới là yêu cầu khách quan đối với sự phát triển của mỗi nước, dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi. Với tinh thần đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời chúng ta cũng luôn luôn mong muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước, tạo mọi điều kiện cho sự hợp tác đó đạt được kết quả như mong muốn của mỗi bên. Thế nhưng, nhân dân Việt Nam quyết không chấp nhận việc lợi dụng những vấn đề hợp tác đó vào mục đích chính trị, can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta trong giải quyết các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã và đang làm tất cả những gì có thể làm được nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, đồng thời góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề dân chủ, nhân quyền trên thế giới hiện nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quyền nhân thân theo quy định của Bộ luật dân sự Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.doc