I. Khái quát chung về bị can, bị cáo.
1. Khái niệm bị can
2. Khái niệm bị cáo
II. Các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo.
1. Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của bị can.
1.1 Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì.
1.2. Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
1.3. Quyền được trình bày lời khai.
1.4. Quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
1.5. Quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
1.6. Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
1.7. Quyền được nhận các quyết định và văn bản tố tụng.
1.8. Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
1.9. Các nghĩa vụ tố tụng.
2. Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của bị cáo.
2.1. Quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng.
2.2. Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ
2.3. Quyền được tham gia phiên tòa.
2.4. Quyền được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của pháp luật.
2.5. Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
2.6. Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
2.7. Quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại tòa.
2.8. Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án.
2.9. Quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án.
2.10. Quyền khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
2.11. Nghĩa vụ của bị cáo
III. Việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo.
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5783 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề số 1 : Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo.
I. Khái quát chung về bị can, bị cáo.
1. Khái niệm bị can
Một người chỉ có thể bị khởi tố với tư cách bị can trong vụ án hình sự khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội.
Việc xác định một người có tư cách bị can từ khi nào là rất quan trọng. Vì khi một người phát sinh tư cách bị can đồng nghĩa với việc người đó sẽ có các quyền và nghĩa vụ của bị can. Người đó sẽ bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng được phép tiến hành với bị can theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thì bị can là người bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị can sẽ tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra, Viện kiểm sát đình chỉ vụ án, Tòa án đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với bị can hoặc tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố về hình sự thì họ sẽ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án, điều này không đồng nghĩa với việc xác định họ là người có tội. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Điều 9 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự ( BLTTHS ) 2003 thì: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Trong tố tụng hình sự chưa có một khái niệm chính thức nào về địa vị pháp lý của bị can. Nhưng dựa vào những điểm đã phân tích ở trên ta có thể thấy : Địa vị pháp lý của bị can là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đã bị khởi tố về hình sự trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. Các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được phép tiến hành các biện pháp tố tụng nhất định đối với bị can để xác định sự thật. Bị can được pháp luật quy định cho các quyển tố tụng để họ có thể tự bảo vệ mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình không bị xâm phạm.
2. Khái niệm bị cáo
Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 BLTTHS 2003 thì: Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Năm 1974, trong bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của TANDTC đưa ra định nghĩa pháp lý về khái niệm bị cáo. Theo đó “bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước Tòa án nhân dân. Trong giai đoạn xét xử Tòa án nhân dân chỉ được đưa một người ra xét xử với tư cách bị cáo nếu Viện kiểm sát nhân dân đã truy tố người đó trước Tòa án nhân dân, nếu Viện kiểm soát không truy tố thì Tòa án nhân dân không được xét xử một người với tư cách là bị cáo trừ những người mà Tòa án nhân dân xét xử về những việc hình sự nhẹ”. Kể từ thời điểm Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị can trở thành bị cáo. Cũng giống như khái niệm bị can, bị cáo cũng là khái niệm mang tính hình thức, căn cứ vào văn kiện tố tụng áp dụng đối với người đó. Một người sẽ trở thành bị cáo khi bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, quyết định đó có thể đúng nhưng cũng có thể sai. Vì vậy, khái niệm bị cáo không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm. Trên thực tế bị cáo cũng có thể không phải là chủ thể của tội phạm và ngược lại. Bị cáo cũng không phải là người có tội, bị cáo chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội và bản án đó có hiệu lực pháp luật
II. Các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo.
1. Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của bị can.
1.1 Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì.
Đây là quyền đầu tiên của bị can được pháp luật quy định. Quyền này thể hiện tính chất quan trọng của việc một ngượi bị nghi ngờ phạm tội cần phải biết mình bị khởi tố về những tội gì. Bởi vì mục đích của việc tiến hành các trình tự tố tụng là nhằm xác định một người có phạm tội hay không và nếu phạm tội thì phải chịu hình phạt như thế nào. Do vậy người bị nghi ngờ phạm tội cần phải biết rằng mình bị khởi tố về tội gì để họ có thể tự bào chữa để gỡ tội cho mình. Nếu không biết mình bị khởi tố về tội gì thì họ khó có thể đưa ra các chứng cứ gỡ tội cho mình cùng những lời bào chữa.
Trên thực tế, việc đảm bảo quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì của bị can vẫn chưa thực sự được đảm bảo. Có thể có nhiều lí do dẫn đến tình trạng trên nhưng lí do chủ yếu nhất vẫn là việc Người tiến hành tố tụng ( NTHTT) vẫn chưa giải thích cụ thể cho bị can biết về quyền và nghĩa vụ của mình cũng như việc nhận thức pháp luật của bị can chưa cao. Điều đó khiến cho bị can nhiều khi đã nhận được quyết định khởi tố bị can nhưng vẫn chưa thực sự nắm rõ mình bị khởi tố về tội gì. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ của bị can cũng như tự bào chữa cho mình gây khó khăn hơn cho công tác điều tra, xác định sự thật của vụ án.
Theo quy định tại BLTTHS 2003 thì: “Bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì”. Bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì mà không phụ thuộc quá nhiều vào các Cơ quan tiến hành tố tụng( CQTHTT), NTHTT. Việc thực hiện và bảo đảm tốt quyền này của bị can sẽ tạo điều kiện cho CQTHTT, NTHTT nhanh chóng kịp thời điều tra, xác minh sự thật vụ án góp phần giảm bớt những oan sai trong việc thụ lí và giải quyết các vụ án hình sự.
1.2. Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Khi biết mình bị khởi tố về tội gì thì bị can sẽ rất mong muốn biết được mình có những quyền và nghĩa vụ gì để thực hiện nhằm gỡ tội cho mình. Và để đảm bảo cho bị can biết được mình có những quyền và nghĩa vụ gì thì BLTTHS 2003 đã quy định cụ thể là bị can có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Việc đảm bảo quyền này của bị can có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo quyền con người của bị can cũng như góp phần nhanh chóng kịp thời giải quyết vụ án, xác minh sự thật vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ của bị can không phải lúc nào cũng được đảm bảo. Để thực hiện tốt quyền này của bị can thì CQTHTT và NTHTT đều phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình là giải thích rõ cho bị can biết mình có quyền và nghĩa vụ gì.
1.3. Quyền được trình bày lời khai.
Bị can có quyền trình bày lời khai về những vấn đề liên quan trong vụ án mà họ bị khởi tố. Đây là quyền chứ không phải nghĩa vụ của bị can. Nhiều khi bị can đã sử dụng quyền này để khai báo những tình tiết có lợi cho mình nhằm chứng minh mình vô tội hoặc phạm tội ở mức độ nhẹ hơn tội đã bị khởi tố hay đưa ra những tình tiết, lí do để được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Cũng có trường hợp bị can từ chối không khai báo về hành vi của mình. Tuy nhiên trong trường hợp mà họ từ chối khai báo hay khai báo gian dối thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó. Ngược lại, nếu bị can có thái độ khai báo thành khẩn thì đó lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.
Trong trường hợp nào thì cơ quan điều tra cũng cần phải tôn trọng quyền được trình bày lời khai của bị can. Bởi vì qua chính lời khai của bị can – người bị cho là đã thực hiện hành vi trái pháp luật ta có thể xác định được sự thật một cách khách quan, không phiến diện. Thực tế hiện nay cho thấy, quyền được trình bày lời khai của bị can chưa thực sự được đảm bảo. Vẫn có những trường hợp bị can bị ép phải khai báo hay bị mớm cung, bức cung nhằm buộc tội bị can phải thừa nhận đã thực hiện hành vi cấu thành tội phạm theo ý chủ quan của NTHTT.
1.4. Quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Theo quy định tại BLTTHS năm 1988 thì bị can có quyền đưa ra “chứng cứ và những yêu cầu”, còn theo quy định mới của BLTTHS 2003 thì bị can có quyền đưa ra “tài liệu, đồ vật, yêu cầu”. Như vậy đã có sự thay đổi của pháp luật từ việc bị can có quyền đưa ra chứng cứ thì nay chuyển thành những tài liệu, đồ vật. Sự thay đổi này trong quy định của pháp luật là hoàn toàn hợp lí, góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật nước ta. Bởi vì khi bị can cung cấp cho cơ quan điều tra những tài liệu, đồ vật thì không phải mọi tài liệu, đồ vật đó đều là chứng cứ trong vụ án. Khi cơ quan điều tra nhận được các tài liệu, đồ vật đó thì họ phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định các tài liệu đồ vật đó có phải là chứng cứ vụ án hay không. Và chỉ khi các tài liệu đồ vật đó đáp ứng được các yêu cầu theo quy định của pháp luật thì chúng mới trỏ thành chứng cứ trong vụ án.
Hiện nay quyền này của bị can vẫn chưa thực sự được đảm bảo. Nguyên nhân xuất phát từ chính những NTHTT khi họ không thấy hết được tầm quan trọng của việc đảm bảo thực hiện tốt quyền này. Do vậy, trong nhiều trường hợp, NTHTT đã vị phạm một cách nghiêm trọng khi không xem xét một cách khách quan những chứng cứ hay những yêu cầu mà bị can đưa ra mà đã vội vàng bác bỏ khi thấy chúng không phù hợp với hướng điều tra của mình.
1.5. Quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch.
Người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch là những chủ thể có vai trò rất quan trọng trong việc xác định sự thật vụ án. Sự thật vụ án chỉ được xác định một cách chính xác nếu các chủ thể nêu trên thực hiện tốt được vai trò của mình trong mỗi giai đoạn của tố tụng hình sự. Bởi vậy, việc thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch để đảm bảo vụ án được điều tra xét xử một cách công khai minh bạch, sự thật của vụ án được xác định một cách khách quan, công bằng là điều rất cần thiết.
Bị can có quyền đề nghị thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ rõ rang để cho rằng họ không thể vô tư trong khi làm nhiệm vụ và việc họ tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng có thể làm cho vụ án được giải quyết theo hướng không có lợi cho bị can. Khi các CQTHTT nhận được yêu cầu thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch của bị can thì cần phải xem xét, giải quyết yêu cầu đó nếu thấy yêu cầu là có căn cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
1.6. Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Đây là một quyền quan trọng của bị can trong tố tụng hình sự. Bị can có quyền tự bào chữa. Theo đó thì bị can có quyền dùng những lí lẽ và chứng cứ để gỡ tội và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tham gia tố tụng. Quyền tự bào chữa không phải là một quyền độc lập, tách rời với các quyền khác của bị can mà quyền bào chữa chính là sự tổng hòa các quyền của bị can trong tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bởi vì khi tham gia vào quá trình tố tụng, ngoài việc bị can đưa ra những lí lẽ, chứng cứ để gỡ tội cho mình thì bị can còn thực hiện quyền tự bào chữa của mình thông qua việc thực hiện các quyền như quyền trình bày lời khai, quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu… Việc thực hiện các quyền này của bị can không chỉ nhằm gỡ tội cho bị can mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác của bị can. Thông qua quyền tự bào chữa của bị can thì Nhà nước đã cho phép bị can tự vệ, chống lại sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Ngoài quyền tự bào chữa, bị can còn có quyền nhờ người khác bào chữa cho mình. Quyền này thể hiện sự đảm bảo của pháp luật cho quyền bào chữa của bị can. Pháp luật đảm bảo cho bị can được người khác bào chữa cho mình nếu không thể tự mình bào chữa. Người được bị can bào chữa phải là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 305 BLTTHS thì trong trường hợp bị can là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì người đại diện hợp pháp của bị can đó có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho bị can. Khoản 2 điều 305 BLTTHS quy định trong trường hợp bị can là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ.
Bị can và người đại diện của họ có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa được đoàn luật sư cử bào chữa cho bị can. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và đảm bảo quyền bào chữa của bị can. Hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển thì quyền tự bào chữa hay nhờ người khác bào chữa của bị can ngày càng được đảm bảo tốt hơn.
1.7. Quyền được nhận các quyết định và văn bản tố tụng.
Theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 49 BLTTHS 2003 thì khi tham gia vào quá trình tố tụng, bị can có quyền được nhận các quyết định và văn bản tố tụng. Các quyết định và văn bản tố tụng như: quyết định khởi tố bị can, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự.
Các quyết định và các văn bản tố tụng trên có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị can. Việc pháp luật quy định bị can có quyền được nhận các quyết định và văn bản tố tụng nhằm đảm bảo cho bị can có thể thực hiện tốt quyền bào chữa và các quyền tố tụng khác của mình.
1.8. Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Không phải trong mọi trường hợp mọi quyết định và hành vi tố tụng của CQTHTT, NTHTT đều đúng theo quy định của pháp luật. Do vậy, để đảm bảo thực hiện tốt các quy định của pháp luật cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can thì pháp luật đã cho phép bị can có quyền khiếu nại các quyết định và hành vi tố tụng của CQTHTT, NTHTT. Theo quy định tại Điều 328 BLTTHS 2003 thì bị can chỉ có quyền khiếu nại trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng mà bị can cho rằng có vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, Điều 328 cũng quy định, trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, dịch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà bị can không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời điểm khiếu nại.
Theo quy định tại Điều 329 BLTTHS 2003 thì đối với khiếu nại về quyết định, hành vi tố tụng của Điều tra viên, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra do Thủ trưởng Cơ quan điều tra xem xét và giải quyết trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại thì bị can có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhân được khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cùng cấp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra và các quyết định của cơ quan điều tra đã được Viện kiểm sát phê chuẩn do Viện kiểm sát cùng cấp giải quyết trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì bị can có quyền khiếu nại đến viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên phải xem xét và giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Theo quy định tại Điều 330 BLTTHS 2003 thì khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Phó viện trưởng Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát giải quyết trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì bị can có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
1.9. Các nghĩa vụ tố tụng.
Bị can có các quyền trong tố tụng hình sự thì cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Khoản 3 Điều 49 BLTTHS 2003 quy định: “bị can phải có một đơn giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có lí do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã”. Như vậy, trong trường hợp bị can được tại ngoại, khi cần sự có mặt của bị can để tiến hành các hoạt động điều tra hoặc các hoạt động điều tra hoặc các hoạt động tố tụng khác thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải triệu tập bị can. Bị can có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát. Việc triệu ập bị can phải tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 129 BLTTHS 2003. Giấy triệu tập bị can phải ghi rõ họ tên, chỗ ở của bị can, thời gian, địa điểm bị can phải có mặt, gặp ai và trách nhiệm về việc vắng mặt không có lý do chính đáng. Giấy triệu tập bị can này sẽ được gửi cho chính quyền xã, phường thị trấn nơi bị can cư trú hoặc cho cơ quan, tổ chức nơi bị can làm việc. Cơ quan tổ chức nhận được giấy triệu tập phải có trách nhiệm chuyển ngay giấy triệu tập cho bị can. Và bị can khi nhận được giấy triệu tập phải ký nhận và có ghi rõ ngày giờ nhận được. Người chuyển giấy triệu tập cho bị can còn có nghĩa vụ chuyển phần giấy triệu tập cho bị can còn có nghĩa vụ chuyển phần giấy triệu tập có ký nhận của bị can cho cơ quan đã triệu tập bị can. Nếu trong trường bị can đã nhận được giấy triệu tập nhưng không kí nhận thì người chuyển giấy triệu tập phải lập biên bản về việc đó và gửi cho cơ quan triệu tập bị can. Nếu bị can vắng mặt thì có thể giao giấy triệu tập cho một người đã thành niên trong gia đình để ký xác nhận và chuyển cho bị can.
Trong trường hợp bị can vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải. Việc áp giải bị can cũng phải tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 130 BLTTHS. Trong trường hợp bị can bị truy nã. Còn trong trường hợp bị can bị tạm giam thì việc triệu tập bị can của cơ quan tiến hành tố tụng sẽ không được thông qua Ban giám thị trại tạm giam.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án có thể triệu tập bị can để giải quyết vấn đề dân sự hoặc cam đoan trước khi quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn như cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm bị can sẽ có mặt khi được triệu tập giúp cho quá trình xét xử thuận lợi. Trong trường hợp Tòa án cần triệu tập bị can mà bị can lợi dụng sơ hở pháp luật, không có mặt theo giấy triệu tập sẽ làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án của Tòa án.
2. Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của bị cáo.
2.1. Quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng.
Quyền đầu tiên của bị cáo là quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử là quyền quan trọng của bị cáo. Vì quyết định đưa vụ án ra xét xử có vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Quyết định đó sẽ khiến người bị buộc tội chuyển từ tư cách bị can sang tư cách bị cáo. Và bị can dựa vào quyết định đưa vụ án ra xét xử sẽ có thể biết được mình bị đưa ra xét xử với tội danh gì, thời gian, địa điểm mở phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký tòa án tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, người bào chữa, người phiên dịch, những người được triệu tập để xét hỏi tại phiên tòa, vật chứng cần xem xét tại phiên tòa.
Bị cáo có thể thực hiện được các quyền của mình như: quyền tham gia phiên tòa, quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, quyền đưa ra những tài liệu, đồ vật, yêu cầu, đặc biệt là xem xét những vật chứng mới có ý nghĩa với việc xác minh sự thật vụ án và quan trọng nhất là quyền tự bào chữa.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có đầy đủ các nội dung theo quy định tại điều 178 BLTTHS 2003. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 182 BLTTHS thì quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa. Trong trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo thì quyết định đưa vụ án ra xét xử sẽ được giao cho người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử cũng cần phải được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc nơi làm việc cuối cùng của bị cáo. Những quy định này của pháp luật để đảm bảo cho bị cáo sẽ nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Nếu CQTHTT, NTHTT không đảm bảo thực hiện tốt quyền này của bị cáo thì bị cáo có quyền yêu cầu hoãn phiên tòa.
Trong quá trình xét xử, khi có lý do hợp pháp và xét thấy cần thiết hoặc không cần thiết phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì CQTHTT, NTHTT có thể ra quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của bị cáo thì bị cáo cũng có quyền được nhận quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Quyết định này phải được gửi ngay cho bị cáo cũng như Viện kiểm sát cùng cấp hay trại tạm giam nơi bị cáo đang bị tạm giam.
Ngoài ra bị cáo còn có quyền được nhận quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật.
2.2. Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Khi người bị buộc tội tham gia tố tụng với tư cách bị cáo thì họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ tương ứng với tư cách bị cáo. Do vậy họ cũng cần được CQTHTT, NTHTT giải thích cho họ hiểu về quyền và nghĩa vụ của mình.
Bị cáo tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định của Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Theo quy định tại điều 201 BLTTHS 2003 về thủ tục bắt đầu phiên tòa thì Chủ tọa phiên tòa là người giải thích cho bị cáo cũng như những người được triệu tập có mặt tại phiên tòa về quyền và nghĩa vụ của họ.
2.2. Quyền được tham gia phiên tòa.
Đây là quyền vô cùng quan trọng của bị cáo trong tố tụng hình sự. Phiên tòa là nơi diễn ra hoạt động thẩm vấn, xét xử công khai. Bản án, quyết định của Tòa án phải dựa trên những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy quyền tham gia phiên tòa sẽ tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện các quyền bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình. Đây không chỉ là quyền của bị cáo mà còn là vấn đề có tính nguyên tắc.
Việc bị cáo tham gia phiên tòa là quyền nhưng cũng là nghĩa vụ. Điều 187 BLTTHS 2003 quy định về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa đã quy định:
“Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải theo thủ tục quy định tại Điều 130 của Bộ luật này; nếu bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa.
Nếu bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh.
Nếu bị cáo trốn tránh thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị cáo.”
Pháp luật quy định sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa xét xử sẽ đảm bảo cho bị cáo thực hiện tốt việc bảo vệ quyền lợi của mình. Hơn nữa, sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa còn thể hiện tính công khai minh bạch khi xét xử, đảm bảo được quyền bình đẳng trước Tòa án của bị cáo.
Theo khoản 2 Điều 187 BLTTHS thì tòa án xét xử vắng mặt bị cáo trong trường hợp bị cáo là người bị kháng cáo, kháng nghị là phù hợp. Nhưng trong trường hợp bị cáo là người có kháng cáo thì không hợp lý. Việc bị cáo vắng mặt mà không có lý do chính đáng sẽ gây trở ngại cho việc xét xử của Tòa án thì cần phải coi là bị cáo đã từ bỏ việc kháng cáo của mình và phiên tòa phúc thẩm sẽ bị hủy bỏ.
2.3. Quyền được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 42 BLTTHS 2003 thì NTHTT phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu: họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, là người đại diện hợp pháp, người thân thích của người đó hoặc của bị can, bị cáo; họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó hoặc có căn cứ rõ rang khác để cho rằng họ không thể vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
Nếu người tiến hành tố tụng thuộc một trong các trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng mà không từ chối thì bị cáo có quyền yêu cầu thay đổi NTHTT. Vì bị cáo là đối tượng bị đưa ra xét xử, là đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự. Do đó, việc xét xử như thế nào có ảnh hưởng rất lớn đến quyền và nghĩa vụ của bị cáo, nên bị cáo có quyền yêu cầu thay đổi NTHTT. Quyền này của bị cáo thể hiện sự khách quan trong quá trình xét xử. Đây là sự thể hiện nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự: bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng.
Bị cáo cũng có quyền yêu cầu thay đổi người giám định, người phiên dịch. Họ là những chủ thể có vai trò quan trọng trong việc xác minh sự thật vụ án. Cũng như những người tiến hành tố tụng khác, khi người giám định, người phiên dịch thuộc trường hợp phải từ chối tham gia tố tụng mà không từ chối thì bị cáo có quyền yêu cầu thay đổi người giám định, người phiên dịch.
Bị cáo có yêu cầu thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch trước hoặc tại phiên tòa xét xử. Khi có yêu cầu thì Chánh án tòa án, Hội đồng xét xử phải xem xét và quyết định, trong trường hợp cần thiết thì phải hoãn phiên tòa.
2.5. Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Quyền bào chữa của bị cáo là tổng thể các quyền năng mà pháp luật quy định cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần để họ sử dụng nhằm chống lại một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác của bị cáo.
Quyền tự bào chữa được thực hiện ngày từ khi một người bị khởi tố về hình sự. Khi họ trở thành đối tượng bị buộc tội thì quyền bào chữa được thực hiện trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử dưới nhiều hình thức khác nhau. Điều 217 BLTTHS 2003 có quy định: sau khi kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội thì bị cáo có quyền trình bày lời bào chữa của mình. Trong trường hợp bị cáo có người bào chữa thì người bào chữa sẽ bào chữa cho bị cáo và bị cáo bổ sung ý kiến bào chữa.
Hội đồng xét xử phải tôn trọng quyền bào chữa của bị cáo. Vì tôn trọng quyền bào chữa của bị cáo không chỉ là đảm bảo quyền lợi cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo và dân chủ trong tố tụng hình sự mà còn đảm bảo cho việc xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ nhất.
2.6. Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Tại phiên tòa xét xử, bị cáo có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật. Trong quá trình điều tra, bị can cũng có quyền đưa ra những tài liệu, đồ vật nhưng những tài liệu, đồ vật đó có thể chưa phải là những tài liệu, đồ vật quan trọng hoặc là chưa đưa ra vì chưa tìm được. Và đến khi bị đưa ra xét xử thì những tài liệu, đồ vật mà bị cáo đưa ra thường là những tài liệu, đồ vật mới được tìm thấy hoặc là rất quan trọng đối với vụ án, có ý nghĩa gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Hội đồng xét xử phải kiểm tra, xác minh và đánh giá các đồ vật, tài liệu đó có phỉa là chứng cứ quan trọng trong vụ án không và giá trị của chúng trong việc xác minh sự thật vụ án.
Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của bị cáo cần được đảm bảo trong suốt quá trình xét xử từ khi bắt đầu phiên tòa đến phần xét hỏi tại phiên tòa cũng như phần tranh luận tại phiên tòa. Đảm bảo tốt quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của bị cáo trong quá trình xét xử sẽ góp phần đảm bảo việc xác định sự thật vụ án, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
2.7. Quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại tòa.
Quyền này cho phép bị cáo đưa ra những ý kiến, lập luận của mình và đối đáp với những ý kiến không thống nhất của chủ thể khác. Theo quy định tại Điều 218 BLTTHS thì bị cáo có quyền trình bày ý kiến cảu mình về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình. Kiểm sát viên sẽ đưa ra những lập luận đối đáp của mình đối với từng ý kiến.
Đồng thời việc đưa ra ý kiến, tranh luận tại phiên tòa thì bị cáo cũng có thể đưa ra các yêu cầu như: yêu cầu người làm chứng, xét hỏi thêm…
2.8. Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án.
Theo quy định tại Điều 220 BLTTHS 2003 thì sau khi những người tham gia tranh luận không trình bày gì thêm, Chủ tọa phiên tòa sẽ tuyên bố kết thúc phần tranh luận và bị cáo sẽ được nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án. Quyết định của Hội đồng xét xử sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự… của bị cáo nên có ý nghĩa rất quan trọng. Pháp luật quy định cho bị cáo nói lời sau cùng là tạo điều kiện, cơ hội cho bị cáo được bày tỏ thái độ, nguyện vọng của mình trước khi Hội đồng xét xử đưa ra những quyết định đối với vụ án.
Khi nói lời sau cùng, bị cáo có quyền trình bày mọi vấn đề liên quan đến vụ án và bày tỏ thái độ của mình đối với việc buộc tội. Pháp luật quy định trong khi bị cáo nói lời sau cùng thì Hội đồng xét xử không được phép đặt câu hỏi. Quy định này nhằm nhấn mạnh việc Hội đồng xét xử cần phải chú ý và tôn trọng quyền nói lời sau cùng của bị cáo. Nhưng để tránh cho việc bị cáo trình bày dài dòng hay không trình bày vấn đề chính thì luật cũng quy định Hội đồng xét xử có quyền yêu cầu bị cáo không được trình bày những điểm không liên quan đến vụ án nhưng không được hạn chế thời gian với bị cáo.
2.9. Quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án.
Kháng cáo là quyền cho phép bị cáo chống lại bản án và quyết định của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật và đòi xét xử lại. Theo đó, bị cáo có quyền kháng cáo bản án, các quyết định đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Theo quy định tại Điều 233 BLTTHS 2003 thì bị cáo phải gửi đơn đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án phúc thẩm. Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam thì ban giám thị trại tạm giam phải đảm bảo cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo. Bị cáo cũng có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm về việc kháng cáo. Trong trường hợp này, Tòa án phải lập biên bản về việc kháng cáo đó theo quy định tại điều 98 BLTTHS.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo sẽ được tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Và nếu đơn kháng cáo của bị cáo được gửi qua đường bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trong trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua ban giám thị trại giam thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị trại giam nhận được đơn. Các quy định này nhằm đảm bảo sự công bằng, khách quan trong việc kháng cáo của bị cáo.
Tuy nhiên Điều 235 BLTTHS 2003 cũng quy định việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận nếu có lý do chính đáng. Tòa án cấp phúc thẩm sẽ thành lập một Hội đồng xét xử gồm 3 Thẩm phán để xem xét lý do kháng cáo quá hạn. Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn của bị cáo.
2.10. Quyền khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Cũng giống như bị can, khi bị cáo nhận thấy các quyết định, hành vi của CQTHTT, NTHTT vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì bị cáo có quyền khiếu nại. Bị cáo có quyền khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án, phó chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký tòa án.
Đối tượng của khiếu nại là các quyết định không thuộc đối tượng của kháng cáo như: quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa.
Bị cáo cũng có quyền khiếu nại hành vi của người tiến hành tố tụng nếu các hành vi đó là trái pháp luật. Theo đó, bị cáo có quyền khiếu nại các hành vi của Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký tòa án nếu các hành vi đó là trái pháp luật xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của bị cáo, ảnh hưởng đến việc xác minh sự thật vụ án.
Khiếu nại trong giai đoạn xét xử chủ yếu liên quan đến các quyết định, hành vi tố tụng của Tòa án nên chủ thể giải quyết khiếu nại chủ yếu là Tòa án mà người đại diện là Chánh án. Theo quy định tại Điều 331 BLTTHS, khiếu nại quyết định hành vi tố tụng của Thẩm phán, Phó Chánh án trước khi mở phiên tòa do Chánh án tòa án giải quyết trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu bị cáo không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền tiếp tục khiếu nại với Tòa án cấp trên trực tiếp. Tòa án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền và nhiệm vụ giải quyết trong thời hạn 15 ngày. Quyết định giải quyết khiếu nại của Tòa án cấp trên là quyết định cuối cùng và không thể bị khiếu nại.
Đối với khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án thì do Tòa án cấp trên giải quyết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định này là quyết định cuối cùng, không thể bị khiếu nại tiếp và bị cáo có nghĩa vụ phải chấp hành.
Khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì về mặt nguyên tắc bị cáo không thể kháng cáo và phải chấp hành nhưng vẫn có thể khiếu nại. Việc giải quyết khiếu nại trong trường hợp này được giải quyết theo trình tự, thủ tục quy định tại Chương XXX- thủ tục Giám đốc thẩm và Chương XXXI – Thủ tục tái thẩm của BLTTHS 2003.
Thời hiệu khiếu nại của bị cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc biết được hành vi, quyết định của CQTHTT, NTHTT là có vi phạm pháp luật. Trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan mà người bị kết án không thực hiện được quyền khiếu nại của mình thì thời gian gặp trở ngại đó không được tính vào thời hiệu khiếu nại.
2.11. Nghĩa vụ của bị cáo
Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, trong trường hợp vắng mặt không có lí do chính đáng thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã ( Khoản 3 Điều 50 Bộ Luật TTHS)
III. Việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo.
1. Cần sửa đổi bổ sung một số quy định của pháp luật chưa phù hợp với tình hình hiện nay.
- Quy định của pháp luật về thời điểm xác định tư cách bị can cho người bị khởi tố.
- Quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS trong phần chuẩn bị xét xử.
- Quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa.
- Sửa đổi Điều 196 về giới hạn của việc xét xử.
2. Nâng cao kiến thức pháp luật cho những người tham gia tố tụng, đặc biệt là bị can, bị cáo.
Những người tham gia tố tụng và đặc biệt là bị can, bị cáo là những người có quyền và lợi ích hợp pháp bị ảnh hưởng nhiều nhất trong tố tụng hình sự. Nhưng nhiều khi do không hiểu biết về pháp luật mà chính bản thân họ đã không thực hiện các quyền của mình và tự mình đánh mất những quyền và lợi ích hợp pháp mà mình được hưởng. Do vậy, cần thường xuyên tuyên truyền, nâng cao kiến thức pháp luật cho người dân. Đối với những người đã là bị can, bị cáo thì cần những NTHTT phải đảm bảo thực hiện đúng trách nhiệm thông báo cụ thể về các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo cho họ biết.
3. Nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ những người tiến hành tố tụng.
Chúng ta cần có các biện pháp nhằm nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ những NTHTT, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng; đạo đức nghề nghiệp, lối sống và trách nhiệm cho những NTHTT đặc biệt là các cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân. Cần phải tiếp tục kiện toàn về tổ chức, tăng cường hơn nữa công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án trong sạch, vững mạnh; có lộ trình từng bước đảm bảo đủ về số lượng; đảm bảo phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, trình độ năng lực, chuyên môn nghiệp vụ, nhất là đối với Thẩm phán. Xây dựng phương án đào tạo nguồn cán bộ, Thẩm phán cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Làm tốt công tác đào tạo nghiệp vụ xét xử để tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán. Chú trọng làm tốt công tác tổng kể thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dựng thống nhất pháp luật.
4. Một số giải pháp khác.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào những công tác chuyên môn và hoạt động quản lý của các CQTHTT. Tăng cường kinh phí, xây dựng cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho những NTHTT.
Xây dựng đề án về cải tiến chế độ tiền lương, kịp thời nghiên cứu, sửa đổi chế độ tiền lương, chế độ phụ cấp và ban hành các chính sách ưu đãi khác phù hợp với đặc thù công tác, tạo điều kiện nâng cao đời sống cho NTHTT, có cơ chế thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao vào đội ngũ những NTHTT. Như vậy sẽ đảm bảo cho NTHTT có điều kiện tốt nhất để thực hiện công tác, nhiệm vụ được giao góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo.doc