Thông Nông là huyện nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Cao Bằng. Dưới tác 
động của các điều kiện tự nhiên - xã hội, người Dao huyện Thông Nông đã 
tìm ra một thế ứng xử linh hoạt thích ứng với môi trường tự nhiên từ đó lựa 
chọn cho mình phương thức sống phù hợp nhất.
Hoạt động mưu sinh truyền thống của người Dao ở Thông Nông bao gồm
các hoạt động kinh tế: trồng trọt, chăn nuôi, thủ công gia đình, trao đổi mua 
bán trong đó canh tác nương rẫy là phương thức mưu sinh chủ đạo, chăn 
nuôi vẫn chưa được đồng bào chú trọng mà chỉ phục vụ cho việc cải thiện bữa 
ăn hàng ngày, cung cấp sức kéo, phân bón và các nghi lễ. Thủ công nghiệp 
bao gồm nhiều nghề truyền thống như đan lát, dệt, làm giấy bản, nấu rượu 
với các sản phẩm của nghề thủ công tương đối phong phú và đa dạng phụ vụ 
nhu cầu hàng ngày của gia đình song vẫn mang tính chất là các hoạt động 
kinh tế phụ bổ trợ cho nông nghiệp.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 116 trang
116 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3759 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sinh kế của người dao huyện thông nông tỉnh Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, góp phần tích cực 
vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo cho 
các hộ nông dân. 
3.2.3. Những biến đổi trong tiểu thủ công nghiệp và giao lưu buôn bán 
Về tiểu thủ công nghiệp: Như phần 2.3.1. đã tìm hiểu, nghề thủ công của 
người Dao chưa tách khỏi nông nghiệp, chỉ đóng vai trò phụ trong kinh tế. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
78 
Hoạt động của những nghề thủ công này mang tính thời vụ, làm vào lúc nông 
nhàn, tranh thủ lúc rảnh rỗi trong ngày... Tuy nhiên, những sản phẩm của 
nghề thủ công có vai trò thiết thực và rất quan trọng đối với tập quán mưu 
sinh truyền thống của người Dao ở Thông Nông. Bởi nó làm ra các công cụ 
sản xuất chủ yếu và đồ dùng gia đình phục vụ cuộc sống hàng ngày. Hơn thế, 
đối với các đồng bào các dân tộc huyện Thông Nông và dân tộc Dao nói riêng 
do việc giao lưu kinh tế, văn hoá còn hạn chế, điều kiện kinh tế khó khăn 
nghèo nàn, mang tính tự cung tự cấp thì việc tạo ra những sản phẩm phục vụ 
cuộc sống hàng ngày càng có ý nghĩa hết sức quan trọng. 
Bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do sự phát triển của 
khoa học công nghệ, các loại đồ dùng thông dụng đến những loại đồ dùng cao 
cấp đều được các nghành sản xuất, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. 
Những đồ dùng do công nghiệp sản xuất vừa đẹp, bền, vừa tiện dụng, lại vừa 
rẻ đã chiếm ưu thế hơn các loại đồ dùng thông thường do thủ công làm ra. Tất 
cả những điều này đều có tác động không nhỏ đến các sản phẩm của các nghề 
thủ công đơn giản, truyền thống của người Dao. 
Đối với nghề đan lát, các nguyên liệu truyền thống vẫn được người Dao 
sử dụng. Điều đáng nói ở đây là sản phẩm của nghề đan lát ngày càng đẹp 
hơn, với nhiều loại sản phẩm hơn. Trong đó “dậu” là sản phẩm của đồng bào Dao 
được các dân tộc khác trong huyện sử dụng phổ biến trong sản xuất nông nghiệp. 
Ở Thông Nông, nghề rèn chủ yếu phát triển ở các xã Bình Lãng và 
Thanh Long, bởi ở đây có nguồn nguyên liệu tạo điều kiện cho nghề này phát 
triển. Đó là mỏ quặng boxit và ang ti mon, tuy nhiên hai mỏ này vẫn chưa 
được đầu tư khai thác. Hiện ở xã Bình Lãng và Thanh Long, các gia đình làm 
nghề rèn không còn nhiều. Sản phẩm của nghề rèn vẫn là các vật dụng như 
dao, rìu, cuốc, lưỡi cày… Các sản phẩm này cũng được đồng bào mang đến 
chợ để bán. Thường các sản phẩm của nghề rèn được bày bán ở các chợ 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
79 
huyện Thông Nông là của người Dao và người Nùng. Tuy nhiên, số lượng rất 
ít, bên cạnh đó các sản phẩm của làng rèn Phúc Sen (huyện Quảng Uyên) 
cũng được các tiểu thương ở Quảng Uyên mang đến để bày bán vào các ngày 
chợ lại rất phong phú về các loại công cụ. Vì vậy, một vấn đề cần đặt ra hiện 
nay đối với chính quyền địa phương là phải phục hồi lại các làng nghề trong 
đó có nghề gang đúc lưỡi cày truyền thống tại Phja Khao (Yên Sơn). 
Nghề nấu rượu của đồng bào Dao ở huyện Thông Nông ngày càng phát 
triển bởi số hộ gia đình người Dao nấu vẫn rất đông. Rượu đã trở thành sản 
phẩm không thể thiếu của người Dao đem bán tại các chợ. Tại các chợ huyện 
Thông Nông, chợ nào cũng có chỗ là nơi bán rượu của đồng bào, và tại những 
nơi này bao giờ cũng có đông đồng bào Dao, Mông tập trung nhất. Rượu 
được người Dao đem bán với giá khoảng 12000đ/ lít. Rượu Thông Nông, đặc 
biệt là rượu ngô Tắp Ná đã được nhiều người biết đến và trở thành một đặc 
sản của địa phương “Nhắc đến Cao Bằng người ta không thể không nhắc đến 
rượu Tắp Ná huyện Thông Nông” [4, 636]. Tuy nhiên việc nấu rượu ở Tắp Ná 
vẫn chỉ ở quy mô nhỏ các gia đình, được bày bán nhỏ lẻ tại các chợ phiên 
trong huyện và đây chưa thực sự trở thành một nghề chính thức của các gia 
đình người Dao mà chỉ là hoạt động kinh tế mang tính bổ trợ. Cần làm cho 
rượu Ngô Tắp Ná thực sự trở thành một thương hiệu giống như rượu ngô Bắc 
Hà, rượu sán lùng Hà Giang... là một vấn đề mang tính cấp thiết, quan trọng 
đối với chính quyền xã Thanh Long và huyện Thông Nông. Bởi khi đã trở 
thành thương hiệu, được nhiều người biết đến thì nghề nấu rượu của người 
Dao càng có điều kiên để phát triển, tạo công ăn việc làm cho người dân, thu 
nhập tăng và có như vậy sinh kế của người Dao càng được đảm bảo. 
Nghề dệt vải của người Dao huyện Thông Nông không còn phổ biến như 
trước. Ở Thông Nông, tại các chợ có thể tìm thấy các sản phẩm dệt, thêu của 
người Tày, Nùng, người Mông còn sản phẩm của người Dao là không có. Bởi 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
80 
một phần các sản phẩm này họ mua của người Dao tại huyện Nguyên Bình - 
huyện đông người Dao sinh sống nhất trong tỉnh. Một nguyên nhân nữa là do 
cách ăn mặc giống người Kinh của đồng bào đã thay thế trang phục Dao 
truyền thống. Các bộ trang phục Dao được trang trí cầu kì, tỉ mỉ và rất đẹp chỉ 
được mặc vào các dịp đặc biệt như lễ tết, hội hè, đám cưới…. 
Hiện nay nghề làm giấy bản của dân tộc Dao vẫn được duy trì, nghề này 
chủ yếu tồn tại ở xóm Lũng Nhùng xã Ngọc Động, cùng với nghề làm giấy 
bản của người Nùng ở xóm Lũng Quang xã Đa Thông, giấy bản của người 
Dao được các dân tộc khác trong huyện ưa chuộng thường được sử dụng 
trong việc cúng tế, ma chay, làm giấy gói, làm vàng mã… Tuy nhiên, số 
lượng các gia đình làm giấy gió ở xóm Lũng Nhùng rất ít. Hiện ở Thông 
Nông xuất hiện một số gia đình mua giấy bản của người Dao tại các huyện 
lân cận khác để đem bán lại. Cụ thể là đồng bào mua giấy của đồng bào Dao 
tại xã Yên Lạc huyện Nguyên Bình - nơi mà hiện nay còn khoảng 50 lò sản 
xuất giấy bản của người Dao đỏ và của người Dao tại xã Vi Giáp, huyện 
Bảo Lạc. 
Nghề chạm bạc của người Dao tại huyện Thông Nông gần như là không 
còn, một số ít gia đình chỉ chạm bạc trong những dịp quan trọng như là làm 
đồ trang sức cho cô dâu trong ngày cưới. Qua khảo sát cho thấy, những gia 
đình khá giả thường mua các sản phẩm bằng bạc, đặc biệt là đồ trang sức của 
người Dao tại huyện Nguyên Bình (Cao Bằng) 
Về giao lưu buôn bán : Chợ là nơi giao lưu trao đổi hàng hóa giữa người 
mua và người bán. Chợ không chỉ là trung tâm kinh tế mà còn là nơi sinh hoạt 
văn hóa vật chất và tinh thần của người dân. Cùng với sự phát triển của nền 
kinh tế thị trường, hoạt động giao lưu buôn bán của người Dao ở Thông Nông 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
81 
đã có sự phát triển tích cực, góp phần thúc đẩy giao lưu hàng hóa, kích thích 
sản xuất và phục vụ nhu cầu đời sống nhân dân. 
Trước đây đường xá đi lại khó khăn, một năm họ chỉ đi chợ 1 - 2 lần, 
thậm chí cả năm không đi chợ buổi nào, có việc cần thiết mới đi. Nay đường 
giao thông thuận lợi, đường nhựa nối thị trấn với các xã, phương tiện đi lại 
cũng dễ dàng hơn. Có những gia đình ở địa bàn thuận lợi, giao thông đi lại dễ 
dàng ở khu vực thị trấn, xã Lương Thông, Ngọc Động, Lương Can nhiều gia 
đình đã sắm được các phương tiện giao thông như xe máy, xe đạp… nên việc 
đi lại cũng thuận tiện hơn nhiều, không cần phải chờ đến chợ phiên mà hàng ngày 
đồng bào vẫn có thể đến thị trấn để mua những thứ cần thiết cho gia đình. 
Đồng bào đi chợ không những chỉ thực hiện việc trao đổi giao lưu buôn 
bán, gặp gỡ bạn bè người thân, mà nay chợ còn là nơi mà đồng bào đến để 
nghe tin tức, các kinh nghiệm tuyên truyền, các kiến thức về dân số kế hoạch 
hoá gia đình, về các giống cây trồng vật nuôi mới… thông qua đài phát thanh 
của huyện, xã. 
 Việc đi chợ thường xuyên, tiếp xúc với nhiều người nên đồng bào nắm 
bắt thông tin thị trường nhạy bén hơn, mở ra cơ hội kinh doanh cho nhiều hộ 
gia đình người Dao ở Thông Nông. Có một số ít người Dao sống gần khu vực 
huyện Bảo Lạc cũng tham gia vào việc buôn bán nhỏ như việc mua giấy bản 
đó để đem bán lại. 
Trên địa bàn huyện Thông Nông có bốn điểm chợ phiên (5 ngày 1 phiên 
chợ), được hình thành từ thời Pháp thuộc, gồm có: chợ trung tâm huyện lị gọi 
là chợ Háng Tháng họp chợ vào các ngày 1, 6, 11, 16, 21, 26 âm lịch hàng 
tháng, chợ xã Cần Yên họp vào các ngày mùng 2, 7, 12, 17, 22, 27 âm lịch, 
chợ xã Thanh Long (chợ Tắp Ná) họp vào ngày mùng 4, 9, 14, 19, 14, 29 âm 
lịch, chợ xã Lương Thông họp vào các ngày 4, 9, 14, 19, 29. Trong số những 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
82 
chợ này, Háng Tháng, Lương Thông là những điểm chợ mà người Dao đến và 
tham gia buôn bán đông hơn cả. Ở chợ, các mặt hàng được cung ứng đầy đủ. 
Tuy nhiên, hiện các chợ hoạt động với quy mô nhỏ, hàng hoá mua bán chủ 
yếu là hàng tiêu dùng phục vụ sinh hoạt của nhân dân, giá cả một số hàng hoá 
dịch vụ tăng cao, nhất là hàng thực phẩm ảnh hưởng không nhỏ đến người 
tiêu dùng. 
Hiện nay, ở huyện Thông Nông, chợ cửa khẩu Cần Yên được bắt đầu 
xây dựng từ 2006 và tiếp tục được nâng cấp, trong những năm tiếp theo cửa 
khẩu Cần Yên sẽ trở thành khu kinh tế trọng điểm của huyện. Khu kinh tế cửa 
khẩu Cần Yên kéo dài từ trung tâm xã Cần Yên đến mốc 119, có chiều dài 
trên 3400m (cách thị trấn Thông Nông 27 km), rộng khoảng 10 ha. Đây là 
vùng đất có địa hình tương đối bằng phẳng, phù hợp với việc đầu tư xây dựng 
khu kinh tế cửa khẩu mới huyện Thông Nông. Hiện những mặt hàng trao đổi 
giữa hai bên chủ yếu là các mặt hàng nông lâm sản từ Thông Nông và các mặt 
hàng quần áo, hàng điện tử, giầy dép từ Nà Po (Trung Quốc). Mặc dù quy mô 
còn nhỏ, mới xây dựng nên việc giao lưu buôn bán của cư dân ở đây chủ yếu 
là dân tộc Kinh, Tày, Nùng ở thị trấn và khu vực biên giới nhưng chắc chắn 
trong tương lai đây sẽ là nơi giao lưu buôn bán nhôn nhịp của cư dân trong 
huyện trong đó có đồng bào Dao. 
Cho đến nay, các điểm chợ đã được kiên cố hóa và mở rộng, các chợ đều 
xây dựng các đình chợ nhằm phục vụ nhu cầu giao lưu hàng hóa của đồng 
bào. Đình chợ được xây dựng đơn giản, không ngăn ô, vách. Tiểu thương có 
chõng xếp hàng, người dân bày bán sản phẩm ngay trên nền nhà hoặc sân 
chợ. Đình chợ ở giữa, bốn bên xung quanh là nhà dân, mỗi nhà là một quầy 
hàng tạp hoá, cơm phở. Hoạt động thương mại của người Dao nơi đây diễn ra 
ngày càng nhộn nhịp, hàng hóa phong phú đa dạng; đã xuất hiện nhiều hộ gia 
đình kinh doanh các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho đời sống. Một sự biến 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
83 
đổi nữa mà có thể dễ dàng nhận thấy là các đơn vị đo lường truyền thống 
trong mua - bán dường như không còn tồn tại. Ngày nay, người Dao ở Thông 
Nông sử dụng các đơn vị đo lường hiện đại: lít, mét, kilogram… 
Nhìn chung, sinh kế truyền thống của người Dao ở Thông Nông đã biến 
đổi nhiều so với trước đây và trong tương lai chắc chắn sẽ còn tiếp tục biến 
đổi. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi này, nhưng nguyên nhân cơ 
bản là sự tác động của cơ chế thị trường, khoa học kĩ thuật cùng ảnh hưởng 
của người Kinh và các dân tộc anh em khác trong huyện. Không thể phủ nhận 
những mặt tích cực của sự biến đổi, song những tiêu cực vẫn còn tồn tại. Nhà 
nước và chính quyền địa phương cần đưa ra những biện pháp phù hợp nhằm 
bảo tồn, phát huy tính hiệu quả trong hoạt động mưu sinh của người Dao ở 
Thông Nông, Cao Bằng. 
3.3. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tính hiệu quả trong sinh 
kế của ngƣời Dao Thông Nông, Cao Bằng 
3.3.1. Cơ sở đưa ra giải pháp 
Các hoạt động kinh tế của người Dao Thông Nông được hình thành từ 
lâu đời. Với truyền thống cần cù chịu khó, người Dao huyện Thông Nông đã 
tìm cách mưu sinh để tự đảm bảo cuộc sống. Những hoạt động kinh tế truyền 
thống đã đảm bảo nguồn sống cho người Dao trong một thời gian dài. Tuy 
nhiên, cùng với thời gian, một số tập tục trong các hoạt động kinh tế của 
người Dao không còn phù hợp. Vì vậy vấn đề đặt ra là cần phải có những giải 
pháp đồng bộ, trọng tâm, trọng điểm nhằm phát huy tính hiệu quả trong các 
hoạt động mưu sinh của người Dao. Tuy nhiên, việc đưa ra các giải pháp phải 
dựa vào cơ sở thực tiễn. Các giải pháp phải xuất phát từ thực tiễn, đặc điểm 
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn của một huyện miền núi có nhiều đồng 
bào dân tộc thiểu số với trình độ nhận thức và điều kiện sản xuất khó, dễ khác 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
84 
nhau, phải tìm chọn mô hình tổ chức sản xuất cho sát với tình hình cụ thể của 
từng khu vực, tránh rập khuôn, máy móc. 
Đối với dân tộc Dao huyện Thông Nông, để đưa ra các giải pháp nhằm 
bảo tồn và phát huy tính hiệu quả trong sinh kế, chính quyền địa phương cần 
phải dựa vào đặc điểm điều kiện tự nhiên và các đặc điểm kinh tế của người 
Dao. Là tộc người có số dân đông thứ hai và chủ yếu sống tại các xã vùng cao 
của huyện Thông Nông, dù đã có nhiều nỗ lực và được sự hỗ trợ của các cấp, 
của các chương trình mục tiêu quốc gia, của tỉnh, của huyện nhưng đại bộ 
phận các gia đình người Dao vẫn chưa vượt qua ngưỡng đói nghèo, đời sống 
kinh tế, xã hội vẫn còn hạn chế, tình trạng tái nghèo vẫn chưa được ngăn 
chặn. Đó là do trình độ dân trí thấp, thiếu kiến thức và do kinh nghiệm sản 
xuất, tập quán sinh hoạt lac hậu, thiếu vốn sản xuất kinh doanh… Bên cạnh 
đó, tư tưởng trông chờ, ỷ lại, tự ti, mặc cảm, chấp nhận đói nghèo như một 
định mệnh vẫn còn phổ biến trong đồng bào Dao. Ngoài những nguyên nhân 
chủ quan thuộc về ý thức con người, vấn đề đói nghèo của người Dao vẫn 
phải chi phối bởi những yếu tố khách quan đó là điều kiện tự nhiên không 
thuận lợi, địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi hệ thống sông suối và đồi núi dày 
đặc, đất sản xuất ít, hạ tầng cơ sở yếu kém, không đồng bộ, thiên tai thường 
xuyên đe doạ… 
Hơn nữa, sự biến đổi của các hoạt động sinh kế của người Dao cũng 
chứa đựng những yếu tố tích cực và hạn chế. Bên cạnh sự thay đổi về cơ cấu 
cây trồng vật nuôi, sự áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, sự biến đổi 
trong kĩ thuật canh tác, sự xuất hiện các yếu tố mới trong sinh kế thì các tập 
quán lạc hậu không phù hợp vẫn còn tồn tại… Trong những năm qua, mặc dù 
chính quyền địa phương đã có nhiều chính sách bước đầu làm đời sống của 
người Dao có sự thay đổi nhưng nhiều chính sách, giải pháp vẫn chưa thực sự 
phù hợp với từng khu vực. Vì vậy, việc đưa ra các giải pháp để bảo tồn và 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
85 
phát huy tính hiệu quả trong hoạt động sinh kế của người Dao trong giai đoạn 
hiện nay ở huyện Thông Nông là rất cần thiết. 
3.3.2. Một số giải pháp và kiến nghị 
3.3.2.1. Giải pháp 
Để bảo tồn và phát huy tính hiệu quả của hoạt động mưu sinh của người 
Dao ở Thông Nông, Cao Bằng, Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp phải 
thực hiện đồng bộ các giải pháp. Điều này được thể hiện rõ trong chính sách 
dân tộc của Đảng và Nhà nước đó là thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình 
đẳng, đoàn kết tương trợ giúp đỡ nhau phát triển. Xây dựng kết cấu hạ tầng, 
kinh tế xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất tinh 
thần, xóa đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn 
hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thực hiện công bằng xã hội giữa các dân 
tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng đặc biệt khó khăn… 
Thực trạng của người Dao huyện Thông Nông đòi hỏi phải thực hiện nhiều 
biện pháp đồng bộ, sự quan tâm đặc biệt của chính quyền địa phương các 
ngành, các cấp, các cơ quan chức năng và sự cố gắng của đồng bào. Dưới đây 
chỉ là một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tính hiệu quả trong hoạt 
động mưu sinh của người Dao ở Thông Nông. 
Thứ nhất, tiến hành định canh định cư, bởi cuộc sống du canh du cư là 
nguyên nhân dẫn đến nhiều tập quán mưu sinh lạc hậu vì “Vận động định 
canh, định cư để xoá bỏ một phương thức sản xuất lạc hậu từ hàng ngàn năm, 
thực chất là một cuộc cách mạng làm biến đổi sâu sắc tận gốc rễ những tập 
quán, thói quen đã ăn sâu vào trong nếp sống của bao thế hệ đồng bào du 
canh du cư” [34, 303]. Công cuộc vận động định canh định cư được Nhà 
nước ta đề ra và thực hiện từ những năm 60 của thế kỉ trước. Để thực hiện 
được chủ trương này, huyện Thông Nông đã xác định đây là một nhiệm vụ 
mang ý nghĩa chính trị - xã hội rộng lớn, liên quan đến nhiều ngành, nhiều 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
86 
cấp trong quá trình chỉ đạo và thực hiện. Từ đó, chính quyền huyện đã đề ra 
và thực hiện nhiều giải pháp: Tập trung huy động mọi nguồn lực để khai 
hoang đất, bảo đảm phân phối đất sử dụng cho các hộ dân còn thiếu hoặc 
chưa có đất canh tác. Trên cơ sở quy hoạch, phân phối sử dụng đất, tiến hành 
sắp xếp lại dân cư thôn, bản bằng hình thức dãn hộ dân trong xã và trên địa 
bàn huyện. Đồng thời, từ các nguồn hỗ trợ, các dự án khác nhau, tiếp tục đầu 
tư xây mới và sửa chữa các công trình thủy lợi phục vụ nhu cầu tưới tiêu cho 
sản xuất nông nghiệp của bà con. Song hành với các giải pháp trên, hệ thống 
đường giao thông cũng sớm được xây dựng đáp ứng nhu cầu lưu thông, trao 
đổi hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm trong sản xuất của người dân. Các công trình 
nước sinh hoạt, các công trình phúc lợi như lớp học, trạm xá, nhà văn hóa ở 
các thôn bản nhanh chóng được đầu tư xây dựng góp phần nâng cao chất 
lượng cuộc sống cho đồng bào. Công tác vận động này đã đạt được kết quả to 
lớn. Hiện nay 100% đồng bào Dao ở Thông Nông sống định canh định cư, ổn 
định đời sống sản xuất. 
Tập trung ưu tiên các nguồn vốn đầu tư, phối hợp lồng ghép các nguồn 
vốn đầu tư trên địa bàn huyện như nguồn vốn hỗ trợ theo mục tiêu từ ngân 
sách Trung ương; nguồn vốn chương trình mục tiêu Quốc gia; vốn 5 triệu ha 
rừng; nguồn vốn trái phiếu chính phủ; vốn ODA; các nguồn vốn tài trợ của 
các đơn vị đỡ đầu… và các nguồn vốn khác. Cần sử dụng các nguồn vốn này 
hợp lí để đầu tư cho các công trình thiết yếu phục vụ sản xuất và dân sinh như 
đường liên huyện, liên tỉnh, điện đến trung tâm các xã, kênh mương thuỷ lợi, 
bệnh viện, trường học, trạm y tế. 
Thứ hai, các tín ngưỡng, tập quán lạc hậu cũng xuất phát từ nhận thức 
còn hạn chế của đồng bào. Vì vậy, muốn thay đổi, xóa bỏ được những yếu tố 
hạn chế đó, cần phải nâng cao nhận thức cho đồng bào mở rộng giao lưu văn 
giữa các tộc người. Tuy nhiên, với xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa như 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
87 
hiện nay, không phải giá trị văn hóa nào cũng thích hợp để mở rộng, giao lưu 
và phát triển. Người Dao ở Thông Nông sống trong điều kiện địa lý khắc 
nghiệt, kinh tế dựa vào trồng trọt là chính, đồng bào phải vất vả chống chọi 
trước sức mạnh thiên nhiên, bất lực trước những hiện tượng như sấm, chớp, 
mây mưa, bệnh tật, chết chóc, đói kém… mà không thể giải thích nổi. Vì vậy 
đã nảy sinh nhiều phong tục mê tín lạc hậu. Trong quá trình vận động xây 
dựng nếp sống mới, chính quyền huyện cần phối hợp với chính quyền cấp xã 
tuyên truyền giáo dục cho đồng bào hiểu biết về các kiến thức khoa học như: 
một số hiện tượng tự nhiên, quy luật của cuộc sống... Cùng với việc tuyên 
truyền, cần phải giúp đỡ và hỗ trợ đồng bào để nâng dần mức sống và dân trí, 
đảm bảo một cuộc sống vật chất ổn định, một đời sống văn hóa tinh thần vui 
tươi, lành mạnh, cùng phát triển. 
Thứ ba, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí cho người dân. 
Tập trung bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lí kĩ thuật, chuyên môn 
nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở, nhất là thôn bản, động viên đội ngũ trí thức trẻ về 
công tác tại các xã đặc biệt khó khăn. Tuyển chọn, luân chuyển, điều động, 
tăng cường cán bộ huyện về xã; Thực hiện tốt các chính sách đãi ngộ, phụ 
cấp, trợ cấp đối với đội ngũ cán bộ công tác tại cấp cơ sở. 
Xây dựng chính sách ưu đãi đối với con em các dân tộc thiểu số, ưu tiên 
tuyển dụng học nghề, đào tạo nghề, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp hỗ 
trợ kinh phí đào tạo và sử dụng. Tăng cường công tác khuyến nông, khuyến 
lâm, thường xuyên bồi dưỡng kiến thức nâng cao trình độ, có các chính sách 
trợ cấp cho đội ngũ khuyến nông viên ở xã, xóm bởi họ chính là đội ngũ trực 
tiếp hướng dẫn, tuyên truyền phổ biến các kiến thức khoa học đến đồng bào 
dân tộc. Hiện tại, mới có 10/11 xã, thị trấn cán bộ khuyến nông có trình độ 
trung cấp nông lâm. Về cơ bản, đội ngũ khuyến nông viên nhiệt tình, năng 
động trong công việc. Tuy nhiên, do chính sách đối với khuyến nông viên xã 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
88 
chưa thoả đáng vì khuyến nông viên đảm nhiệm rất nhiều công việc nhưng 
chỉ là nhân viên hợp đồng được hưởng 50% lương theo bằng cấp ngoài ra 
không được hưởng ưu đãi gì thêm, điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến 
công tác khuyến nông. Còn đội ngũ khuyến nông viên xóm có 140/153 xóm 
chiếm 91,5%, có tới 13 xóm khuyến nông viên không biết chữ nên việc tuyên 
truyền, phổ biến, chuyển giao khoa học kĩ thuật bị ảnh hưởng rất lớn. Hơn 
nữa, tập quán canh tác truyền thống lạc hậu đã in sâu vào trong tiềm thức của 
đồng bào, vì vậy việc nhân rộng các mô hình mới và thay đổi tập quán canh tác 
gặp nhiều khó khăn dẫn đến hiệu quả công tác khuyến nông hàng năm đạt thấp. 
Vấn đề nâng cao dân trí luôn là một trong những vấn đề được các địa 
phương quan tâm nhất là đối với một huyện vùng núi nghèo như Thông 
Nông. Trình độ dân trí của dân tộc Dao còn thấp hơn nhiều so với các dân tộc 
khác trong huyện. Để nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc nói chung 
cũng như của người Dao huyện Thông Nông nói riêng cần chú ý một số vấn 
đề sau: 
Trước hết, phải thực hiện một số chính sách trợ giúp, giáo dục bằng 
nhiều biện pháp như tiếp tục tăng cường hỗ trợ cơ sở vật chất cho trường phổ 
thông dân tộc nội trú huyện, động viên, tạo điều kiện cho học sinh đến trường 
thường xuyên, tránh tình trạng học sinh bỏ học. Thực hiện kiên cố hoá trường 
học và xây dựng thêm nhiều điểm trường mới, đầu tư trang thiết bị phục vụ 
cho việc giảng dạy. Hơn nữa, để góp phần nâng cao nhận thức của người dân, 
cần phải tuyên truyền đến người dân thông qua kết hợp nhiều biện pháp khác 
nhau như cử các đội truyền thông đến tận các thôn bản, tại các phiên chợ, 
chương trình phát sóng của đài phát thanh huyện, xã có thể phổ biến các kiến 
thức như việc lựa chọn giống cây trồng vật nuôi thích hợp, việc ứng dụng 
khoa học kĩ thuật vào sản xuất… Những kiến thức này đồng bào cũng có thể 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
89 
tìm hiểu được qua các phương tiện truyền thông như ti vi, báo đài… nhưng 
việc này rất hạn chế. 
Bên cạnh đó còn phải đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát 
triển kinh tế xã hội như việc cử con em đồng bào các dân tộc đi học tại các 
trường nội trú, trường dạy nghề, thực hiện chế độ cử tuyển để chuẩn bị nguồn 
nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện đặc biệt là những ngành 
mà huyện còn thiếu cán bộ và cần thiết đối với các xã vùng sâu vùng xa. Qua 
thực tế tìm hiểu cho thấy, số học sinh dân tộc Dao được đến trường ngày càng 
đông, bởi ở các xã có đông người Dao sinh sống đều có các phân trường, mặc 
dù tình trạng lớp ghép vẫn còn phổ biến. Số lượng học sinh, sinh viên là 
người dân tộc Dao được đi học tại các trường dân tộc nội trú huyện, tỉnh, 
trung ương, các trường dự bị dân tộc, các trường Đại học, Cao đẳng ngày 
càng tăng lên. Đây chính là nguồn nhân lực quan trọng để phát triển kinh tế - 
xã hội ở vùng sâu vùng xa, và điều này cũng đã trở thành hiện thực khi nguồn 
cán bộ xã, cán bộ huyện Thông Nông là người dân tộc Dao đã tăng lên nhiều 
hơn trong những năm gần đây. 
Thứ tư, giải pháp về áp dụng khoa học kĩ thuật, đổi mới công nghệ gắn 
liền với việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. 
Tăng cường công tác chuyển giao khoa học kĩ thuật để không ngừng 
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Các cơ quan khuyến nông phải có 
chính sách quan tâm, hỗ trợ đồng bộ về khoa học kỹ thuật, phân bón, con, cây 
giống… và có hướng dẫn cụ thể tới đồng bào. Mặt khác, các cơ quan này cần 
đẩy mạnh và hướng dẫn nhân dân tích cực thâm canh, tăng vụ, đưa các giống 
cây trồng, vật nuôi có năng suất cao phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ 
nhưỡng vào sản xuất; tăng cường công tác bảo vệ cây trồng vật nuôi; chuyển 
dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi nhằm đa dạng hóa sản phẩm hàng hóa theo nhu 
cầu thị trường. Ứng dụng các phương pháp bảo quản, chế biến hàng hóa nông 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
90 
sản, lâm sản, nâng cao giá trị hàng hóa và năng suất lao động. Đồng thời việc 
nâng cao các hoạt động kinh tế của đồng bào dân tộc Dao phải gắn với việc 
bảo vệ tài nguyên và môi trường, chú trọng bảo vệ và phát triển vốn rừng 
gồm: Rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn… có kế hoạch cải tạo đất, chống xói 
mòn, rửa trôi, bạc màu, đẩy mạnh các biện pháp cải tạo đất, vì “sự đói nghèo 
và việc phá huỷ môi trường là một nét đặc trưng của vấn đề kinh tế - xã hội 
miền núi đặc biệt là vùng cao, vùng sâu” [23, 49]. 
3.3.2.1 Kiến nghị 
Để bảo tồn và phát huy tính hiệu quả trong hoạt động mưu sinh của 
người Dao ở Thông Nông, Cao Bằng, tôi xin đưa ra một vài kiến nghị như sau: 
1. Đảng, Nhà nước cần có thêm nhiều chính sách ưu đãi cho đồng bào 
các dân tộc thiểu số phù hợp với đặc điểm cư dân ở vùng sâu vùng xa. Hỗ trợ 
vốn, kỹ thuật cho những hộ đói nghèo, dạy kiến thức, truyền kinh nghiệm 
trong làm ăn. Trợ cấp tiền và hiện vật hàng tháng cho gia đình và đãi ngộ con 
em họ trong quá trình đi học, công tác. 
2. Nâng cấp hệ thống giao thông trong toàn huyện, cải tạo đường tỉnh lộ 
204, đẩy mạnh xây dựng trục giao thông chính Lương Can (Thông Nông) - 
Chương Lương (Hoà An) từ trung tâm tỉnh lỵ Cao Bằng đến trung tâm huyện 
lỵ. Đẩy mạnh việc mở rộng nâng cấp hệ thống giao thông nông thôn đến các 
xã. Hiện ở Thông Nông, trừ Cần Nông là xã mới tách thì với các xã còn lại, 
xe ô tô đã có thể đến được trung tâm xã. Tuy nhiên các đường giao thông liên 
xã, liên xóm vẫn chưa được đảm bảo. Tại các xã có đông người Dao sinh 
sống, chính quyền huyện cần quan tâm xây dựng và nâng cấp một số các trục 
đường giao thông như: đường vào trụ sở xã Ngọc Động - Pác Ngàm tại xã 
Ngọc Động, đường Lũng Vần (Ngọc Động) - Nà Pia (Lương Can); Xã Lương 
Thông: đường Bản Rịch - Lũng Rịch - Lũng Đẩy - Trà Dù - Lòn Phìn - Nà Ke 
- Tả Bốc - Lũng Tỳ - Lũng Vai, đường Lũng Rịch - Rặc Rạy - Lũng Tôm… 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
91 
Đây là việc làm rất quan trọng, tạo điều kiện cho người Dao ở Thông Nông 
thuận tiện trong việc đi lại, phát triển kinh tế, đặc biệt là hoạt động thương mại. 
3. Phải kết hợp các biện pháp khác nhau để đồng bào Dao có nhận thức 
đúng về những phong tục tập quán tốt đẹp và loại bỏ những yếu tố mê tín dị 
đoan, những kiến thức không còn phù hợp trong lao động sản xuất, tích luỹ 
những kinh nghiệm hay trong sản xuất đã được hình thành từ lâu đời. Trong 
quá trình phát triển kinh tế cần kết hợp với văn hóa, kiến thức truyền thống 
với khoa học kỹ thuật hiện đại 
4. Cần đầu tư đúng mức để phát triển nông nghiệp. Trong đó cần chú 
trọng đưa các giống cây trồng vật nuôi mới năng suất cao chất lượng tốt phù 
hợp với điều kiện nơi dân tộc Dao sinh sống vào sản xuất, xây dựng các cơ sở 
nhân giống, kiểm định chất lượng giống đồng thời kiểm soát chất lượng các 
loại hạt giống đang trồng trong vùng; Đầu tư sửa chữa, nâng cấp và xây dựng 
mới các công trình thuỷ lợi để đảm bảo cung cấp đủ nước tưới tiêu cho cây 
trồng; Thực hiện tốt công tác khuyến nông, khuyến lâm phòng trừ dịch bệnh 
tổng hợp, cung cấp đủ các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cho người 
dân; Tổ chức lại phương thức chăn nuôi, từng bước đưa chăn nuôi lên thành 
ngành sản xuất hàng hoá quan trọng phục vụ nhu cầu thực phẩm trong huyện 
và các vùng phụ cận; Cần giải quyết thị trường đầu ra ổn định cho nông lâm 
sản như rau, hoa quả, chè cây dược liệu… bước đầu xây dựng cơ sở chế biến 
bảo quản; Phát triển các ngành nghề truyền thống như dệt, rèn, đúc, làm 
giấy… để khai thác tối đa nguồn nhân lực trong vùng, đồng thời giải quyết 
công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống cho người dân góp 
phần làm cho cơ cấu kinh tế ngày càng chuyển dịch theo hướng ngày càng 
tiến bộ. 
5. Dựa vào tiềm năng của huyện, Nhà nước có thể đầu tư xây dựng các 
doanh nghiệp, các khu công nghiệp giải quyết việc làm cho thanh niên; tăng 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
92 
thu nhập cho gia đình, cần đưa thêm nghề phụ, nghề thủ công gia đình để tăng 
thêm nguồn thu nhập cải thiện đời sống cho nhân dân. 
6. Phát triển hệ thống dịch vụ, thông tin liên lạc trong toàn huyện. Đầu tư 
xây dựng thêm các trạm y tế, đào tạo đội ngũ y bác sĩ địa phương… Các phúc 
lợi xã hội khác cần được quan tâm hơn, góp phần chăm lo mọi mặt đời sống 
vật chất cũng như tinh thần cho nhân dân. 
 Các giải pháp trên đây nếu được thực hiện đồng bộ thì các hoạt động 
kinh tế của đồng bào các dân tộc trong huyện Thông Nông đặc biệt là của dân 
tộc Dao mới phát huy được hiệu quả và góp phần làm cho đời sống của đồng 
bào nơi đây bớt khó khăn hơn. Từ đó, mục tiêu xoá đói giảm nghèo nhanh và 
bền vững của huyện vùng cao Thông Nông mới thực sự trở thành hiện thực 
vào năm 2010. 
Trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Thông 
Nông đã có nhiều cố gắng phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn phấn đấu 
vươn lên đạt được những thành tựu đáng kể, tình hình kinh tế xã hội có nhiều 
chuyển biến tích cực. “Kết cấu hạ tầng ngày càng hoàn thiện, đời sống văn 
hoá - xã hội ngày càng được nâng cao, cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp 
chuyển dịch tích cực theo hướng sản xuất hàng hoá là những thành công 
bước đầu của huyện Thông Nông trong hành trình vươn lên thoát nghèo” 
[4, 269]. Tuy nhiên, đến nay Thông Nông vẫn là một trong 61 huyện nghèo cả 
nước, tỉ lệ đói nghèo còn cao trong đó chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu 
số vùng sâu, vùng xa trong đó có dân tộc Dao. Các xã có tỉ lệ hộ nghèo cao 
nhất là Yên Sơn 86,92%, Ngọc Động 83,23%; Lương Can 78,85%; Đa Thông 
63,73%; Cần Nông 55,38%; các xã còn lại có tỉ lệ thấp hơn 50%, tỉ lệ nghèo 
thấp nhất là Thị trấn với 16,38%. Nguyên nhân là do Thông Nông là huyện 
vùng cao biên giới của tỉnh Cao Bằng, không thuộc vùng dự án phát triển 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
93 
kinh tế - xã hội trọng điểm của tỉnh, mặc dù trong những năm qua, Đảng và 
Nhà nước đã có nhiều chương trình dự án, nhiều chính sách đầu tư hỗ trợ trực 
tiếp cho nhân dân, giúp đỡ các hộ nghèo trong sản xuất và đời sống song việc 
đầu tư còn dàn trải, chưa mang tính chất trọng tâm, trọng điểm mà chủ yếu 
chỉ mang tính hiệu quả về mặt xã hội. Hơn nữa, xuất phát điểm về kinh tế, xã 
hội của huyện thấp hơn so với toàn tỉnh, kết cấu cơ sở hạ tầng còn thấp kém, 
địa hình chủ yếu là đồi núi có độ dốc lớn đặc biệt là xã Yên Sơn không có đất 
ruộng, chủ yếu canh tác trên nương rẫy và núi đá. Trình độ dân trí thấp, việc 
áp dụng cơ giới hoá vào sản xuất còn hạn chế. Một số bộ phận nhân dân tự 
bằng lòng với cuộc sống hiện tại, chưa chịu khó vươn lên làm giàu chính đáng 
để nâng cao chất lượng cuộc sống. 
Tiểu kết chương 3 
Những thay đổi trong đời sống và sinh kế của người Dao ở Thông Nông 
là sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó các yếu tố nội sinh có vai trò quan 
trọng. 
Ngày nay, hoạt động kinh tế của người Dao ở Thông Nông đã có nhiều 
thay đổi, cơ cấu, kĩ thuật và tính chất sản xuất. Yếu tố khoa học kĩ thuật đã 
được ứng dụng trong các hoạt động kinh tế. Nhiều hoạt động kinh tế đã mang 
tính chất sản xuất hàng hóa. Bên cạnh nguồn sinh kế mới, các hoạt động kinh 
tế truyền thống cùng với hệ thống tri thức dân gian của đồng bào vẫn được áp 
dụng để các hoạt động kinh tế đem lại hiệu quả cao nhất. 
Sinh kế mới đem lại chuyển biến quan trọng trong đời sống kinh tế cũng 
như đời sống tinh thần của người Dao, góp phần xóa đói giảm nghèo, cải 
thiện cuộc sống. Tuy nhiên nhìn chung, đời sống của người Dao huyện Thông 
Nông vẫn còn nhiều khó khăn, đa số các gia đình người Dao vẫn thuộc diện 
nghèo trong toàn huyện. Trình độ dân trí của người Dao còn thấp, do đó đổi 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
94 
mới canh tác gặp nhiều khó khăn, tính bảo thủ trì trệ còn chi phối tương đối 
nhiều trong con đường vươn lên phát triển kinh của đồng bào. Nhiều nơi, 
đồng bào còn giữ nếp làm ăn, sản xuất theo lối tự cung tự cấp, khép kín, ít 
giao lưu. Một số tập tục còn được đồng bào duy trì gây tốn kém về kinh tế, 
ảnh hưởng đến việc đầu tư vốn cho sản xuất, cho cuộc sống. 
Như vậy, quá trình biến đổi sinh kế của người Dao cũng đem lại những 
cơ hội và thách thức nhất định, đòi hỏi chính bản thân cộng đồng đó phải linh 
hoạt, chủ động nắm bắt cơ hội, đối mặt với thức, đảm bảo tính bền vững các 
nguồn sinh kế mới. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
95 
KẾT LUẬN 
Thông Nông là huyện nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Cao Bằng. Dưới tác 
động của các điều kiện tự nhiên - xã hội, người Dao huyện Thông Nông đã 
tìm ra một thế ứng xử linh hoạt thích ứng với môi trường tự nhiên từ đó lựa 
chọn cho mình phương thức sống phù hợp nhất. 
 Hoạt động mưu sinh truyền thống của người Dao ở Thông Nông bao gồm 
các hoạt động kinh tế: trồng trọt, chăn nuôi, thủ công gia đình, trao đổi mua 
bán… trong đó canh tác nương rẫy là phương thức mưu sinh chủ đạo, chăn 
nuôi vẫn chưa được đồng bào chú trọng mà chỉ phục vụ cho việc cải thiện bữa 
ăn hàng ngày, cung cấp sức kéo, phân bón và các nghi lễ. Thủ công nghiệp 
bao gồm nhiều nghề truyền thống như đan lát, dệt, làm giấy bản, nấu rượu… 
với các sản phẩm của nghề thủ công tương đối phong phú và đa dạng phụ vụ 
nhu cầu hàng ngày của gia đình song vẫn mang tính chất là các hoạt động 
kinh tế phụ bổ trợ cho nông nghiệp. Việc trao đổi giao lưu buôn bán của 
người Dao Thông Nông được thực hiện chủ yếu tại các chợ phiên, thứ họ bán 
là các sản phẩm của nông nghiệp, thủ công nghiệp, những sản phẩm khai thác 
từ tự nhiên, những thứ mà họ mua là các nhu yếu phẩm hàng ngày không tự 
sản xuất được như muối, nước mắm, đèn pin, đài, ti vi… Trong quá trình lao 
động sản xuất, người Dao huyện Thông Nông đã tích luỹ được nhiều kinh 
nghiệm sản xuất mang đậm dấu ấn tộc người. Đó là những tri thức dân gian 
bản địa quý báu cần được khai thác và phát huy trong giai đoạn hiện nay. 
Cùng với sự tiến triển của xã hội, tập quán mưu sinh truyền thống của 
người Dao ở Thông Nông ít nhiều đã có sự thay đổi. Bên cạnh hoạt động canh 
tác nương rẫy là nguồn sinh kế chính thì việc canh tác lúa nước của đồng bào 
đã dần trở nên phổ biến hơn. Các giống ngô, giống lúa mới và các giống cây 
màu khác cho năng suất cao hơn đã được áp dụng; kĩ thuật canh tác có nhiều 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
96 
biến đổi theo hướng tích cực, máy móc dần được sử dụng để thay thế sức lao 
động của con người, các loại phân bón hoá học cũng được đồng bào biết đến 
và áp dụng đúng quy trình, đặc biệt nhiều hoạt động kinh tế của đồng bào Dao 
nơi đây đã mang tính chất sản xuất hàng hoá. Tất cả những sự thay đổi này đã 
góp phần làm cho cuộc sống của đồng bào bớt khó khăn, ổn định hơn và giảm 
sự lệ thuộc vào tự nhiên. Sự biến đổi đó xuất phát từ nhiều nhân tố (nhân tố 
nội sinh và ngoại sinh), song yếu tố quan trọng hơn cả đó là sự nâng cao trình 
độ nhận thức, sự nỗ lực cố gắng thoát nghèo và vươn lên làm giàu chính đáng 
của người Dao nơi đây. 
Quá trình chuyển đổi sinh kế của người Dao nằm trong quy luật chung 
của sự phát triển. Trước sự phát triển đó, đối với bất kì một dân tộc nào cũng 
sẽ lựa chọn cho mình một phương thức sống phù hợp nhất. Người Dao ở 
Thông Nông đã tiếp cận một sinh kế mới, dựa vào đó để nâng cao hơn cuộc 
sống cho mình. Đó là một nguồn sinh kế lâu dài, nếu biết khai thác hợp lý sẽ 
đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, sinh kế mới cũng đặt ra những thách 
thức đối với sự phát triển kinh tế đối với người Dao ở Thông Nông cũng như 
chính quyền địa phương trong việc đưa ra các giải pháp nhằm bảo tồn và phát 
huy tính hiệu quả trong hoạt động mưu sinh của tộc người này. Trong quá 
trình hội nhập và phát triển, người Dao phải biết kết hợp giữa bản sắc văn hóa 
truyền thống, hệ thống tri thức dân gian bản địa với khoa học kỹ thuật hiện 
đại trong các hoạt động sinh kế. Sự biến chuyển mạnh mẽ của nền kinh tế thị 
trường, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những chính sách phù hợp để bảo 
tồn, phát huy mặt tiến bộ, hạn chế và đi tới xóa bỏ những tiêu cực, bảo thủ, 
lạc hậu trong các hoạt động mưu sinh, có như vậy đời sống vật chất, và đời 
sống tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số trong đó có dân tộc Dao ở 
huyện Thông Nông mới được nâng lên. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
97 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ban tuyên giáo tỉnh uỷ - Sở Giáo dục - Đào tạo Cao Bằng (2003), Địa lý 
lịch sử tỉnh Cao Bằng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
2. Cao Bằng đất nước và con người, Tài liệu sở Văn hoá thông tin tỉnh Cao 
Bằng (Tài liệu lưu hành nội bộ). 
3. Nông Quốc Chấn - Huỳnh Thái Vinh (2002), Văn hoá các dân tộc Việt 
Nam thống nhất mà đa dạng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
4. Công ty cổ phần thông tin đối ngoại (2007), Cao Bằng thế và lực mới trong 
thế kỉ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
5. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, NXB Khoa học Xã 
hội, Hà Nội. 
6. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến 
(1971), Người Dao ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
7. Bế Viết Đẳng (Chủ biên) (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát 
triển kinh tế xã hội miền núi, NXB CTQG và NXB Văn hoá Dân tộc, 
Hà Nội. 
8. Đảng bộ huyện Thông Nông (2003), Nghiên cứu thực trạng cơ cấu kinh tế 
và đề xuất những giải pháp, chính sách để đẩy nhanh - mạnh chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế huyện Thông Nông. 
9. Đảng bộ huyện Thông Nông (2006), Lịch sử Đảng bộ huyện Thông Nông. 
10. Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, NXB Văn hoá Thông tin. 
11. Trần Hồng Hạnh (2002), “Tri thức địa phương trong sử dụng thuốc nam 
của người Dao đỏ”, Tạp chí Dân tộc học, (số 5), tr 23 – 29. 
12. Phạm Quang Hoan, Hoàng Đình Quý (1991), Văn hoá truyền thống người 
Dao Hà Giang, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. 
13. Hội văn nghệ Cao Bằng (1993), Văn hoá dân gian Cao Bằng. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
98 
14. Nguyễn Chí Huyên, Hoàng Hoa Toàn, Lương Văn Bảo (1996), Nguồn 
gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc, Đại học Sư phạm Thái 
Nguyên. 
15. Huyện uỷ Thông Nông (2010), Báo cáo kết quả bốn năm thực hiện Nghị 
quyết số 01 về chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông nghiệp và Phát triển 
nông thôn - Thực hiện xoá đói giảm nghèo từ tháng 6 năm 2006 đến 
tháng 6 năm 2010. 
16. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử kí toàn thư, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
17. Hoàng Minh Lợi (1994), “Trang phục của người Dao đỏ ở huyện Ba Bể 
và Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng”, Tạp chí Dân tộc học, (số 3), tr 65. 
18. Đỗ Đức Lợi (2002), Tập tục chu kì đời người các dân tộc ngôn ngữ Mông 
– Dao ở Việt Nam, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. 
19. Đặng Văn Lung - Nguyễn Sông Thao – Hoàng Văn Trụ (1997), Phong tục 
tập quán các dân tộc Việt Nam, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. 
20. Hoàng Nam (1998), Văn hoá các dân tộc vùng Đông Bắc Việt Nam, giáo 
trình đại học, Trường Đại học Văn hoá, Hà Nội. 
21. Hoàng Tuấn Nam (2001), Non nước Cao Bằng, Hội văn nghệ Dân gian 
Việt Nam. 
22. Nguyễn Thị Ngân (2000), "Công cụ sản xuất nông nghiệp của các dân tộc 
nhóm ngôn ngữ H’Mông – Dao", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Viện, 
Bảo tàng Văn hoá các Dân tộc Việt Nam. 
23. Hà Thị Nự (2004), Giá trị văn hoá trong nghề thủ công đan lát của các 
tộc người Việt Nam, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. 
24. Lò Giàng Páo (1997), Tìm hiểu văn hoá các vùng dân tộc thiểu số, NXB 
Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. 
25. Lý Hành Sơn (1993), “Làng Dao huyện Ba Bể - Cao Bằng”, Tạp chí Dân 
tộc học, (số 1), tr 47 - 51. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
99 
26. Lý Hành Sơn (1995), “Nương rẫy truyền thống của người Dao ở Cao 
Bằng”, Tạp chí Dân tộc học, (số 3), tr.64 – 73. 
27. Lý Hành Sơn (2003), Các nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời người của 
nhóm Dao Tiền ở Bắc Kạn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 
28. Đỗ Ngọc Tấn ( Chủ biên) (2004), Hôn nhân gia đình các dân tộc HMông, 
Dao ở hai tỉnh Lai Châu và Cao Bằng, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. 
29. Nguyễn Thị Thanh (1998), “Những kinh nghiệm dân gian trong canh tác 
nương rẫy truyền thống của một số cư dân vùng rẻo giữa miền núi phía 
Bắc Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, (số 4), tr 68 – 77. 
30. Nguyễn Ngọc Thanh (2005), "Người Dao Quần chẹt ở trung du Bắc Bộ", 
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Viện, Viện Khoa học xã hội - Viện 
Dân tộc học Hà Nội. 
31. Lê Thị Thoả (2008), Sinh kế của người Dao trong quá trình hội nhập và 
phát triển, Khoá luận tốt nghiệp - Trường Đại học Khoa học Xã hội và 
Nhân văn. 
32. Nguyễn Thị Thuỷ (2006), "Nghề thủ công truyền thống của người Nùng ở 
Việt Nam", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bảo tàng Văn hoá các 
Dân tộc Việt Nam. 
33. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2008), Sinh kế của người Mông trong quá trình 
hội nhập hoá phát triển, Khoá luận tốt nghiệp - Trường Đại học Khoa 
học Xã hội và Nhân văn. 
34. Tỉnh uỷ - Uỷ ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2000), Địa chí Cao Bằng, 
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
35. Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân tỉnh Cao Bằng - Viện sử 
học Việt Nam (2009), Lịch sử tỉnh Cao Bằng, NXB Chính trị Quốc gia, 
Hà Nội. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
100 
36. Hoàng Hoa Toàn (1995), Tín ngưỡng dân gian của các tộc người miền núi 
phía Bắc nước ta, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. 
37. Nông Quốc Tuấn (1997), "Trang phục cổ truyền của nhóm Dao đỏ huyện 
Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn", Đề tài cấp cơ sở, Bộ Văn hóa Thông tin - Bảo 
tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam. 
38. Nguyễn Khắc Tụng (1996), “Bước đầu tìm hiểu các nhóm Dao ở Việt 
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (số 3), tr 87. 
39. Nguyễn Khắc Tụng (1996), "Nhà ở người Dao xưa và nay", Tạp chí Dân 
tộc học, (số 2), tr 24. 
40. Nguyễn Khắc Tụng (2004), Trang phục cổ truyền của người Dao ở Việt 
Nam, NXB Khoa học Xã hội. 
41. Uỷ ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2005), Quy ước nếp sống văn hoá người 
Dao ở tỉnh Cao Bằng. 
42. Uỷ ban nhân dân huyện Thông Nông (2008), Báo cáo quy hoạch tổng thể 
phát triển kinh tế - xã hội huyện Thông Nông đến năm 2020. 
43. Uỷ ban nhân dân huyện Thông Nông (2009), Đề án phát triển kinh tế - xã 
hội nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững huyện Thông Nông giai đoạn 
2009 – 2020. 
44. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Văn hóa, dân tôc, tôn giáo, NXB Khoa học Xã 
hội, Hà Nội. 
45. Viện dân tộc học (1975), Các dân tộc ít người ở Việt Nam ( các tỉnh phía 
Bắc), NXB Viện Dân tộc học, Hà Nội. 
46. Viện dân tộc học (1993), Những biến đổi về kinh tế - văn hoá các tỉnh 
miền núi phía Bắc, NXB Khoa hoc Xã hội, Hà Nội. 
47. Viện Dân tộc học (2007), Người Dao ở Việt Nam, NXB Thông tấn, Hà 
Nội. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
101 
48. Nguyễn Quang Vinh (1999), Một số vấn đề người Dao Quảng Ninh, NXB 
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 
49. Bùi Văn Vượng (2002), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, NXB 
Văn hoá thông tin, Hà Nội. 
DANH SÁCH NHỮNG NGƢỜI CUNG CẤP TƢ LIỆU 
50. Triệu Thị Phẩy, 47 tuổi, làm ruộng, xóm Lũng Đẩy, xã Đa Thông 
51. Triệu Văn Phúng, 47 tuổi, làm ruộng, xóm Lũng Đẩy, xã Đa Thông 
52. Triệu Thị Lan, 28 tuổi, cán bộ huyện, thị trấn Thông Nông 
53. Triệu Ngọc Tiến, 58 tuổi, giáo viên, xóm Lũng Rịch, xã Lương Thông 
54. Lý Văn Thưởng, 40 tuổi, cán bộ xã, xóm Lũng Nhùng, xã Ngọc Động 
55. Lý Dào Phâu, 30 tuổi, công an huyện, thị trấn Thông Nông 
56. Trịnh Thị Chiểu, 35 tuổi, các bộ xã, xóm Lũng Vần, xã Ngọc Động 
57. Triệu Mùi Coi, 67 tuổi, làm ruộng, xóm Phja Khao, xã Yên Sơn 
58. Trịnh Thị Viết, 48 tuổi, làm ruộng, xóm Tắp Ná, xã Thanh Long 
59. Triệu Văn Giàng, 40 tuổi, thầy thuốc, xóm Thị Xuân, xã Đa Thông 
60. Trịnh Văn San, 60 tuổi, làm ruộng, xóm Rặc Rạy, xã Lương Thông 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
102 
PHỤ LỤC 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
103 
Phụ lục 1: 
CƠ CẤU KINH TẾ HUYỆN THÔNG NÔNG 
 TỪ NĂM 2000 - 2008 
STT Chỉ tiêu cơ cấu Đơn vị 
Năm 
2000 
Năm 
2005 
Năm 
2008 
 Tổng % 100,0 100,0 100,0 
1 Nông - lâm - thuỷ sản % 50,2 45,6 42,5 
2 Công nghiệp - xây dựng % 19,7 24,1 26,8 
3 Du lịch - thương mại % 30,1 30,3 30,7 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
104 
Phụ lục 2: 
MỤC TIÊU CƠ CẤU KINH TẾ HUYỆN THÔNG NÔNG 
TỪ NĂM 2010 - 2020 
STT Chỉ tiêu cơ cấu Đơn vị 
Năm 
2000 
Năm 
2005 
Năm 
2008 
 Tổng % 100,0 100,0 100,0 
1 Nông - lâm - thuỷ sản % 34,0 24,5 22,5 
2 Công nghiệp - xây dựng % 33,5 40,5 35,0 
3 Du lịch - thương mại % 32,5 41,0 36,5 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
105 
Phụ lục 3: 
HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT HUYỆN THÔNG NÔNG NĂM 2008 
STT Mục đích sử dụng đất Tổng số 
Cơ cấu theo diện 
tích tự nhiên (%) 
 Tổng diện tích đất tự nhiên 35783,69 100 
1 Đất nông nghiệp 32982,1 91,57 
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 3297,94 8,62 
1.2 Đất lâm nghiệp 29679,29 82,94 
1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản 4,87 0,01 
2 Đất phi nông nghiệp 636,66 1,78 
2.1 Đất ở 137,33 0,38 
2.2 Đất còn lại 499,33 1,40 
3 Đất chƣa sử dụng 2164,94 6,65 
3.1 Đất bằng 1475,5 4,72 
3.2 Đất đồi núi 689,44 1,93 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
106 
Phụ lục 4: 
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ SINH KẾ CỦA NGƢỜI DAO 
HUYỆN THÔNG NÔNG 
(Tác giả chụp trong quá trình điền dã tại Thông Nông tháng 2/2010) 
Gia đình ngƣời Dao ở xã Đa Thông 
Đƣờng vào xóm Lũng Đẩy xã Đa Thông 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
107 
Nƣơng ngô xã Bình Lãng 
Thu hoạch đỗ tƣơng xã Lƣơng Thông 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
108 
Chăn nuôi lợn 
Chăn nuôi bò 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
109 
Nƣơng cỏ voi xã Đa Thông 
Cỏ voi - thức ăn mới của bò 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
110 
Vƣờn mận thị trấn Thông Nông 
Các sản phẩm từ rừng 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
111 
Sản phẩm từ nghề đan lát 
Giấy bản bày bán tại chợ Háng Tháng 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
112 
Lƣỡi cày xã Yên Sơn 
Rƣợu Tắp Ná xã Thanh Long 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên  
113 
MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................................................................................................. 1 
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN THÔNG NÔNG TỈNH CAO BẰNG .................... 9 
 1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên ..................................................................................................................................... 9 
 1.2. Dân cư và thành phần dân tộc ................................................................................................................................... 11 
 Tiểu kết chương1 .......................................................................................................................................................................................... 19 
CHƢƠNG 2: SINH KẾ CỦA NGƢỜI DAO Ở HUYỆN THÔNG NÔNG TỈNH 
CAO BẰNG TRONG TRUYỀN THỐNG .................................................................................................... 21 
 2.1. Trồng trọt .................................................................................................................................................................................................... 22 
 2.2. Chăn nuôi .................................................................................................................................................................................................... 37 
 2.3. Kinh tế phụ gia đình .................................................................................................................................................................. 41 
 2.4. Chợ phiên và trao đổi hàng hoá .............................................................................................................................. 52 
 Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................................................................................................ 53 
CHƢƠNG 3: SỰ BIẾN ĐỔI TRONG SINH KẾ CỦA NGƢỜI DAO Ở HUYỆN 
THÔNG NÔNG TỈNH CAO BẰNG HIỆN NAY ............................................................................ 55 
 3.1. Các nhân tố nội sinh và ngoại sinh làm biến đổi sinh kế của người 
Dao Thông Nông, Cao Bằng ................................................................................................................................ 55 
 3.2. Quá trình biến đổi trong sinh kế của người Dao Thông Nông, Cao 
Bằng .............................................................................................................................................................................................................. 68 
 3.3. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tính hiệu quả trong sinh 
kế của người Dao Thông Nông, Cao Bằng ................................................................................... 83 
 Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................................................................................................ 93 
KẾT LUẬN ...................................................................................................................................................................................................................... 95 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................................................................................... 97 
PHỤ LỤC ........................................................................................................................................................................................................................ 102 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 doc_37_8503.pdf doc_37_8503.pdf