So sánh địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm trong từng giai đoạn của thủ tục phá sản. Qua đó cho biết luật phá sản 2004 bảo vệ quyền lợi chủ thể nào triệt để hơn? Vì sao?

Thứ hai: quy ền lợi về mặt chi phối đối với các quy ết định trong từng bước tiến hành thủ tục phá sản của chủ nợ không có bảo đảm không trực tiếp tác động đến khả năng nhận thanh toán của chính họ. Dẫu rằng quyền này cho họ cơ hội, bằng sức lực và tài năng của mình, có thể đưa lại cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đến một hoàn cảnh tốt hơn để họ có khả năng thu hồi kho ản nợ được nhiều hơn. Song, việc họ có nhận được khoản thanh toán hay không còn phải gián tiếp thông qua kiểm soát tài sản còn lại của doanh nghiệp, việc phục hồi để đảm bảo khả năng thanh toán c ủa con nợ nói chung.

pdf15 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3670 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm trong từng giai đoạn của thủ tục phá sản. Qua đó cho biết luật phá sản 2004 bảo vệ quyền lợi chủ thể nào triệt để hơn? Vì sao?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 1 Tiểu luận So sánh địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm trong từng giai đoạn của thủ tục phá sản. Qua đó cho biết luật phá sản 2004 bảo vệ quyền lợi chủ thể nào triệt để hơn? Vì sao? So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 2 So sánh địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm trong từng giai đoạn của thủ tục phá sản. Qua đó cho biết luật phá sản 2004 bảo vệ quyền lợi chủ thể nào triệt để hơn? Vì sao? Phá sản là một hiện tượng tất yếu tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nó hiện hữu như một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải trong chính nền kinh tế đó, bất kể đó là nền kinh tế thị trường của các nước phát triển trên thế giới hay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bởi vậy, Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm xây dựng chế định pháp luật phá sản với mục tiêu hạn chế thấp nhất những hậu quả do phá sản gây ra, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ kinh tế trước rủi ro kinh doanh, từ đó góp phần ổn định trật tự đời sống kinh tế của xã hội. Để làm được điều này, đầu tiên, pháp luật phá sản hướng đến là bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ - những người sẽ chịu tác động trực tiếp từ việc phá sản một doanh nghiệp, hợp tác xã là con nợ cuả họ. Trong thủ tục phá sản, các chủ nợ đều bình đẳng với nhau về quyền lợi. Tuy nhiên ko phải chủ nợ nào cũng có quyền lợi giống nhau. Việc phân loại chủ nợ có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi vì mỗi giai đoạn của thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã các chủ nợ khác nhau sẽ có quyền lợi khác nhau. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, nhóm sẽ đi vào tìm hiểu và so sánh các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của luật phá sản năm 2004 và những nghị định hướng dẫn thi hành. Theo quy định tại luật phá sản 2004, khái niệm chủ nợ được phân thành ba loại: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm. Chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba (khoản 1 điều 6 LPS 2004). Đồng thời, theo quy định tại khoản 3 điều 40 LPS 2004 thì chủ nợ có bảo đảm còn là người chủ tài sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã thuê mượn tài sản mà tài sản đã được chuyển nhượng cho người khác. Và theo khoản 1 điều 57 LPS 2004 người bị đình chỉ thi hành án dân sự có tài sản kê biên mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án cũng có thể được coi là chủ nợ có bảo đảm. Đối với chủ nợ có bảo đảm một phần, loại chủ nợ này bao gồm những chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm ít hơn khoản nợ đó (khoản 2 điều 6 LPS 2004) và những chủ nợ chuyển hóa từ loại chủ nợ có bảo đảm thành chủ nợ có bảo đảm một phần vì tài sản bảo đảm bị suy giảm giá trị ban đầu. Song song bên cạnh đó, LPS 2004 cũng quy định rõ ràng những đối tượng thuộc vào nhóm chủ nợ không có bảo đảm. Theo khoản 3 điều 6 LPS 2004 thì chủ nợ không có bảo đảm là So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 3 những chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hay người thứ ba. Cũng như hai loại chủ nợ trên, LPS 2004 cũng quy định những chủ nợ chuyển hóa từ chủ nợ có bảo đảm hay chủ nợ có bảo đảm một phần; những người là một bên bị thiệt hại trong hợp đồng bị đình hoặc đối tượng của hợp đồng là tài sản không còn (điều 47 LPS 2004); những người bị đình chỉ thi hành án dân sự không kê biên tài sản (điều 57 LPS 2004); những người được thực hiện nghĩa vụ tài sản trong vụ án bị đình chỉ (điều 58 LPS 2004); người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (khoản 3 điều 62 LPS 2004) đều được coi như chủ nợ không có bảo đảm. Đặc biệt, tại khoản 4 điều 14 quy định: “Sau khi nộp đơn, đại diện cho người lao động hoặc đại diện công đoàn được coi là chủ nợ” và khoản 2 điều 62 LPS “đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ” có thể khảng định, người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được xem như một chủ nợ không có bảo đảm đặc biệt. Vì người lao động đã đem sức lực của mình làm hàng hóa để trao đổi với doanh nghiệp và tiền lương chính là nguồn sống của bản thân họ và gia đình họ mà không có một khoản bảo đảm nào. Khi doanh nghiệp hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì họ là những người bị thiệt hại nhiều nhất, không có lương, nguy cơ thất nghiệp đe dọa. . Như vậy, khái niệm về các loại chủ nợ không chỉ bó hẹp trong phạm vi quy định tại điều 6 LPS 2004 mà nó còn bao gồm nhiều đối tượng được quy định trong những điều luật khác. Từ việc phân loại các chủ nợ theo những nhóm khác nhau và nghiên cứu xuyên suốt quá trình tiến hành thủ tục đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, ta có thể thấy những điểm giống và khác nhau giữa các loại chủ nợ này về địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ) qua từng giai đoạn một cách cụ thể. I.Giai đoạn nộp đơn và mở thủ tục phá sản: Giai đoạn này có thể chia làm ba giai đoạn nhỏ: 1. Nộp đơn đến trước thụ lý : Trong giai đoạn này, điểm nổi bật cho sự giống và khác nhau về quyền và nghĩa vụ của các loại chủ nợ xuất phát từ quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã. Chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền và nghĩa vụ giống nhau. Theo điều 13 LPS 2004 thì “khi nhận thấy doanh nghiệp hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì các chủ nợ không bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó”. Pháp luật phá sản trao quyền nộp đơn này chỉ cho chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần mà không cho phép chủ nợ có bảo đảm thực hiện nó. Quy định này xuất phát từ quan điểm cho rằng quyền đòi nợ của các chủ nợ có bảo đảm luôn được ưu tiên bằng tài sản có bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba. Vì vậy, nếu quy định cho các chủ nợ có So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 4 quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản là không cần thiết. Quyền nộp đơn này chỉ dành cho chủ nợ không bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần để giúp họ có cơ hội lựa chọn một thủ tục thích hợp nhằm bải vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.( Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 điều 27 LPS 2004 thì việc xử lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đối với các chủ nợ có bảo đảm, trừ trường hợp được pháp luật cho phép, sẽ bị về tạm đình chỉ từ ngày tòa thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Với quy định này, dù pháp luật có cho phép thì cũng không chủ nợ có bảo đảm nào sẽ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của mình). Đây là điểm khác biệt lớn nhất và kéo theo những điểm khác về quyền cũng như nghĩa vụ giữa các nhóm chủ nợ trong cả giai đoạn. Những chủ nợ không có bảo đảm hay có bảo đảm một phần đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ có “nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu do pháp luật quy định và theo yêu cầu của Toà án trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản. Pháp luật phá sản 2004 đã loại bỏ những quy định về nghĩa vụ của chủ nợ khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải cung cấp các giấy tờ, tài liệu chứng minh doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ nợ thực hiện quyền nộp đơn của mình. Tuy nhiên nếu người họ nộp đơn “không khách quan gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc có sự gian dối trong việc yêu cầu mở thủ tục phá sản thì tuỳ theo tính chất, mức độ mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” (điều 19 LPS 2004). Quy định này nhằm mục đích đề cao trách nhiệm của người nộp đơn khi pháp luật đã ngày càng mở rộng cho họ quyền được nộp đơn. Ngoài ra họ còn có nghĩa vụ “phải nộp tiền tạm ứng phí phá sản theo quyết định của Toà án” (điều 21 LPS 2004) và họ có quyền được khiếu nại việc trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản với Chánh án tòa án nơi họ đã nộp đơn yêu cầu (điều 25 LPS 2004). 2. Giai đoạn từ khi thụ lý đến khi ra quyết định mở thủ tục phá sản: Đây là giai đoạn đã có những điểm chung cho cả ba loại chủ nợ. Điểm giống đầu tiên là “quyền yêu cầu Toà án ra quyết định đình chỉ thực hiện hợp đồng” đang có hiệu lực và được thực hiện hoặc chưa được thực hiện ( điều 45 LPS 2004). Đây là quyền xuyên suốt trong cả quá trình tiến hành thủ tục phá sản. Quyền lợi của các bên được xử lý theo điều 47. Tuy nhiên, để có được quyền này, chủ nợ phải làm văn bản yêu cầu Tòa án ra quyết định (khỏan 1 điều 46 LPS) kèm theo đó là các giấy tờ tài liệu làm căn cứ cho việc khảng định đình chỉ hợp đồng là có lợi hơn về mặt tài chính cho doanh nghiệp, hợp tác xã (theo quy định tại nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP). Các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản còn có quyền đòi nợ bất kỳ chủ thể nào trong nghĩa vụ liên đới và quyền được thực hiện nghĩa vụ trong So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 5 trường hợp bảo lãnh quy định tại điều 39 LPS. Họ còn có quyền “được thực hiện việc bù trừ nghĩa vụ đối với những giao dịch được xác lập trước khi có quyết định mở thủ tục phá sản” theo các nguyên tắc quy định tại điều 48 LPS. Đây là một quy định mới trong LPS phù hợp với quy định về bù trừ nghĩa vụ trong BLDS 2005 ( điều 380 và Điều 381) và thông lệ trong pháp luật phá sản của nhiều nước. Quy định này cũng tạo điều kiện nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ. Giữa con nợ và các chủ nợ có những khoản nợ lẫn nhau nên việc bù trừ là hoàn toàn có thể. Trong thủ tục phá sản, chủ nợ được bù trừ có lợi thế hơn chủ nợ khác. Tuy nhiên, quy định này còn mâu thuẫn với quy định về các biện pháp bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (Điểm b K1 Đ31): “kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm con nợ thanh toán nợ không có bảo đảm”. Vì thực chất phần chênh lệch mà con nợ thanh toán cho chủ nợ này chính là một khoản nợ không có bảo đảm. Trong khi các chủ nợ không có quyền bù trừ nghĩa vụ, phải chờ mở thủ tục phá sản thì các chủ nợ có quyền này đã thu hồi xong khoản nợ, quyền lợi của họ không bị ảnh hưởng gì từ việc mở thủ tục phá sản đối với con nợ. Quy định này phải chăng đã tạo nên sự bất bình đẳng giữa các chủ nợ với nhau? Bên cạnh các quyền thì các chủ nợ còn có thể rơi vào khả năng có các giao dịch bị coi là vô hiệu đối với việc thanh toán nợ chưa đến hạn trong thời gian 3 tháng trước khi thụ lý ( điều 43 LPS). Do đặc điểm của từng loại chủ nợ khác nhau nên bên cạnh những điểm chung, giữa các loại chủ nợ có những khác biệt. Khác với chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có khả năng giao dịch của họ có thể bị tuyên bố vô hiệu đối với biện pháp bảo đảm bằng tài sản xác lập trong thời hạn 3 tháng trước khi thụ lý (điểm d khoản 1 điều 43 LPS). Đồng thời, hai loại chủ nợ này sẽ bị tạm đình chỉ xử lý tài sản bảo đảm để thanh toán nợ trừ trường hợp được Tòa án cho phép (Khoản 3 điều 27 LPS). Những trường hợp được Tòa án cho phép là những trường hợp có đầy đủ các điều kiện được quy định cụ thể tại mục II.2.3 Nghị quyết 03/2005 NQ/HĐTP bao gồm:  Tài sản có yêu cầu xử lý là tài sảm bảo đảm cho khoản nợ đến hạn.  Việc xử lý tài sản bảo đảm đó không làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hợp tác xã.  Người yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm có đơn yêu cầu, trong đó trình bày các lý do của việc xin xử lý tài sản bảo đảm và xét thấy các lý do đó là chính đáng, việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp đối với họ là cần thiết. Việc tạm đình chỉ yêu cầu này của chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần nhằm mục đích đợi kết quả xem xét đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của tòa án. Nếu tòa án không ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mà người nộp đơn không có khiếu nại hoặc có khiếu nại nhưng chánh án tòa án giữ nguyên quyết định thì các yêu cầu trên sẽ được tiếp tục giải quyết. Ngược lại, nếu tòa So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 6 án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp hợp tác xã thì các yêu cầu trên được giải quyết theo cách thức được quy định tại điều 35, 57, 58 luật phá sản. Tuy nhiên, chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần không có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu như chủ nợ không có bảo đảm (điều 44 LPS: “Trong quá trình Toà án tiến hành thủ tục phá sản, chủ nợ không có bảo đảm, Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố các giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật này là vô hiệu”). 3. Giai đoạn từ khi ra quyết định đến khi mở thủ tục phá sản: Pháp luật phá sản đã quy định cho các chủ nợ có nhiều điểm giống nhau về quyền và nghĩa vụ hơn những giai đoạn trước. Cả ba loại chủ nợ đều có quyền được thông báo về quyết định mở thủ tục phá sản ( điều 29). Đây là quyền được thông tin nhằm giúp các chủ nợ có thể tham gia vào quá trình giải quyết phá sản để bảo vệ quyền lợi của mình. Sau khi danh sách chủ nợ do tổ quản lý và thanh lý tài sản công bố, nếu không đồng ý, chủ nợ có quyền khiếu nại với Tòa án về danh sách chủ nợ theo quy định tại điều 52 LPS. LPS 2004 còn quy định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để quản lý có đại diện của chủ nợ (điều 9 LPS) Điều này cho thấy LPS luôn bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, tạo sự an tâm cho các chủ nợ khi tham gia vào quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản, nhằm đảm bảo cho khối tài sản của con nợ được sử dụng một cách hợp lý đúng pháp luật, ngoài ra còn hạn chế hành vi tẩu tán tài sản của con nợ nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, các doanh nghiệp hợp tác xã cũng như bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội. Dù là chủ nợ có bảo đảm hay là chủ nợ có bảo đảm một phần hay chủ nợ không có bảo đảm thì các chủ nợ đều có quyền khiếu nại báo cáo kết quả thực hiện phương án phân chia tài sản của tổ quản lý thanh lý tài sản theo điều 30 nghị định 67/2006/NĐ-CP. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày báo cáo kết quả thực hiện phương án phân chia tài sản được niêm yết, chỉ khi không có chủ nợ nào khiếu nại thì thẩm phán mới được ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản và ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trong giai đoạn này, các chủ nợ còn chung quyền nhận giấy triệu tập tham gia hội nghị chủ nợ theo khoản 3 điều 61 LPS.Đi kèm với giấy triệu tập tham gia hội nghị chủ nợ thì các chủ nợ được quyền nhận chương trình và nội dung hội nghị cũng như các giấy tờ, tài liệu khác có liên quan. Tất cả các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ đều có quyền tham gia hội nghị chủ nợ theo điều 62 LPS.Chủ nợ nào cũng có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác tham gia hội nghị chủ nợ thay mình, và người được ủy quyền này có quyền và nghĩa vụ như chủ nợ đó. Đây là quy định bảo đảm cho các chủ nợ có thể nắm thông tin và tham gia xuyên suốt quá trình tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã. Ngoài điểm giống nhau về các quyền đã nêu ở trên thì các chủ nợ còn giống nhau ở nghĩa vụ gửi giấy đòi nợ cho Tòa án theo quy định tại điều 51 LPS. Song, đây không phải là quyền tuyệt đối vì chủ nợ chỉ có quyền gửi giấy đòi nợ trong So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 7 một khoảng thời gian luật định: “ Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản, các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ cho Toà án, trong đó nêu cụ thể các khoản nợ, số nợ đến hạn và chưa đến hạn, số nợ có bảo đảm và không có bảo đảm mà doanh nghiệp, hợp tác xã phải trả. Kèm theo giấy đòi nợ là các tài liệu chứng minh về các khoản nợ đó. Hết thời hạn này các chủ nợ không gửi giấy đòi nợ đến Toà án thì được coi là từ bỏ quyền đòi nợ”. Việc đòi nợ là quyền của chủ nợ nhưng tất cả các chủ nợ đều có nghĩa vụ thực hiện quyền này vì thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục tư pháp đặc biệt thể hiện ở việc đòi nợ tập thể và thanh toán nợ tập thể. Nếu chủ nợ không gửi giấy đòi nợ trong thời hạn luật đã quy định coi như từ bỏ quyền lợi chính đáng của mình. Căn cứ để Tòa án xác định rằng doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản có mắc nợ chính là giấy đòi nợ và những tài liệu chứng minh khoản nợ đó của các chủ nợ gửi tới Tòa án. Vì vậy, chủ nợ phải nắm vững những quy định của pháp luật phá sản để tự bảo vệ mình trên cơ sở sự bảo vệ của luật. Ngoài những điểm giống nhau trong quyền và nghĩa vụ thì từ khi có quyết định mở thủ tục phá sản đến khi tiến hành mở thủ tục phá sản, các chủ nợ cũng có những điểm khác biệt trong địa vị pháp lý của mình. Điểm khác đầu tiên là chỉ có chủ nợ không bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp hợp tác xã mới có quyền được thông báo về quyết định thành lập tổ quản lý thanh lý tài sản theo quy định tại điều 16 nghị định 67/2006/NĐ- CP. Những chủ nợ không có bảo đảm hay có bảo đảm một phần không nộp đơn yêu cầu và chủ nợ có bảo đảm không có quyền này. Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 3 điều 67 LPS thì chỉ chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần đã nộp đơn còn có khả năng làm phát sinh việc đình chỉ thủ tục phá sản khi họ rút lại đơn yêu cầu. Tuy nhiên, tất cả họ rút đơn mới được phát việc đình chỉ thủ tục phá sản, còn nếu chỉ một hay một số người rút đơn thì Tòa án vẫn tiến hành thủ tục phá sản. Điểm khác thứ hai được suy luận từ điều 27 và điều 31 LPS. Theo quy định của hai điều luật này thì các chủ nợ có quyền được thanh toán nợ không phải bằng cách xử lý tài sản bảo đảm đối với chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ có bảo đảm. Điều này được hiểu, ở giai đoạn này pháp luật không cấm chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần được thanh toán nợ có bảo đảm không bằng tài sản bảo đảm (tức là bằng tiền hay bằng tài sản khác không dùng để bảo đảm cho nghĩa vụ đó). Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp chứng khoán, doanh nghiệp tài chính khác thì không được thanh toán cho chủ nợ đồng thời là con nợ của doanh nghiệp đó theo quy định tại điểm d khoản 3 điều 12 nghị định 114/2008/NĐ-CP. Điểm khác thứ ba trong giai đoạn này về quyền và nghĩa vụ của các chủ nợ thể hiện trong việc tiến hành hội nghị chủ nợ. Sự có mặt của chủ nợ không bảo đảm là một trong những điều kiện cho việc tiến hành hội nghị chủ nợ hợp lệ (điều 65 LPS: “Hội nghị chủ nợ chỉ hợp lệ khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: 1. Quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên tham gia”). Trong hội nghị chủ nợ, thì So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 8 chỉ có chủ nợ không có bảo đảm mới có quyền hoãn hội nghị chủ nợ theo điều 66 LPS: “1. Hội nghị chủ nợ có thể được hoãn một lần nếu có một trong các trường hợp sau đây: a) Không đủ quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên tham gia; b) Quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt tại Hội nghị chủ nợ biểu quyết đề nghị hoãn Hội nghị chủ nợ”. Chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần dù có muốn hoãn hội nghị chủ nợ hay không cũng không thể chi phối đến hội nghị chủ nợ bằng quyền này như chủ nợ không có bảo đảm. Đồng thời, trong hội nghị chủ nợ thì cũng chỉ có chủ nợ không bảo đảm mới có quyền thông qua nghị quyết của hội nghị chủ nợ theo nguyên tắc quy định tại điểm d khoản 1 điều 64 LPS: “d) Hội nghị chủ nợ thông qua Nghị quyết. Nghị quyết được lập thành văn bản và phải được quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt tại Hội nghị đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên thông qua. Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ có hiệu lực ràng buộc đối với tất cả các chủ nợ”. Quyền năng này cho phép chủ nợ không bảo đảm có quyền biểu quyết để thông qua nghị quyết của hội nghị chủ nợ mà không danh cho chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần. Với chủ nợ có bảo đảm vì sao pháp luật không quy định cho họ quyền này? Thiết nghĩ bởi vì chủ nợ có bảo đảm đã luôn được ưu tiên thanh toán bằng tài sản bảo đảm đồng thời họ có xu hướng muốn áp dụng ngay thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản để họ sớm được thanh toán nợ. Còn với chủ nợ có bảo đảm một phần thì quy định này có một số điểm bất hợp lý như sau: Thứ nhất, để hội nghị chủ nợ được hợp lệ thì phải có quá ½ chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm trở lên tham gia. Khi tính đầu người thì chỉ tính chủ nợ không có bảo đảm nhưng khi tính số tiền lại tính tổng cả số tiền của chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không bảo đảm. Thứ hai, chủ nợ không bảo đảm lại có quyền đại diện cho khoản nợ của chủ nợ có bảo đảm một phần. Điều này phải chăng đã ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm một phần khi họ không được tự mình đại diện cho phần nợ không bảo đảm của họ? Như vậy, trong hội nghị chủ nợ, mọi quyết định phụ thuộc hoàn toàn vào sự có mặt của chủ nợ không bảo đảm, sự có mặt của chủ nợ có bảo đảm một phầ và chủ nợ có bảo đảm không có ý nghĩa, có chăng thì sức ảnh hưởng của họ dường như khá mờ nhạt. Hội nghị chủ nợ là chế định cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản cơ hội có thể được áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc bị áp dụng thủ tục thanh lý. Ngoài ra, một điểm khác nho nhỏ nữa giữa chủ nợ có bảo đảm, So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 9 chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm là sau khi tiến hành hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thì theo khoản 1 điều 61 LPS “Các Hội nghị chủ nợ tiếp theo có thể được Thẩm phán triệu tập vào bất kỳ ngày làm việc nào trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản theo đề nghị của Tổ quản lý, thanh lý tài sản hoặc của các chủ nợ đại diện cho ít nhất một phần ba tổng số nợ không có bảo đảm”. Như vậy, trừ chủ nợ có bảo đảm, còn lại chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần đều có quyền yêu cầu triệu tập hội nghị chủ nợ những lần tiếp theo khi họ có đủ đại diện cho ít nhất 1/3 tổng số nợ không bảo đảm. Nhìn một cách tổng quan, trong giai đoạn từ khi nộp đơn đến lúc mở thủ tục phá sản về cơ bản có thể thấy, các chủ nợ đều có những quyền tương tự nhau, nhưng nổi bật là các quyền của chủ nợ không có bảo đảm. Những quyền này có tính quyết định và chi phối hầu hết tiến trình của thủ tục giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp hợp tác xã. Luật đã có tính chất nghiêng về bảo vệ triệt để hơn quyền lợi của loại chủ nợ này bằng cách quy định cho họ có những quyền tiên quyết cho những các vấn đề của thủ tục phá sản chung. II. Thủ tục phục hồi: Trong thủ tục phục hồi, các loại chủ nợ đều có quyền xây dựng phương án phục hồi theo điều 68 LPS: “Trong thời hạn nói trên, bất kỳ chủ nợ hoặc người nào nhận nghĩa vụ phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã đều có quyền xây dựng dự thảo phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã và nộp cho Toà án”. Đây là quy định điều kiện cho các chủ nợ tham gia một cách tích cực và chủ động hơn vào quá trình phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã. Quyền này cho phép chủ nợ chủ động có cơ hội để tự mình đề xuất phương án phục hồi hoạt động kinh phù hợp nhất để cứu con nợ và hơn hết là cứu mình. Vì hơn ai hết, chủ nợ là những người chịu ảnh hưởng lớn nhất từ việc con nợ bị phá sản và họ mong muốn con nợ của mình có thể phục hồi, tiếp tục hoạt động để họ có thể thu hồi toàn bộ số nợ. Khi đã xây dựng được phương án phục hồi và đưa vào vận hành trong doanh nghiệp hợp tác xã, các chủ nợ sẽ có nghĩa vụ giám sát việc thực hiện phương án phục hồi đó. Nghĩa vụ này được quy định tại điều 73 LPS “3. Chủ nợ có nghĩa vụ giám sát việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã”. Việc quy định cho chủ nợ nghĩa vụ giám sát nhằm bảo đảm doanh nghiệp, hợp tác thực hiện đúng phương án phục hồi đã được hội nghị chủ nợ thông qua. Trong quá trình giám sát, chỉ có chủ nợ mới có thể nắm bắt được những thay đổi trong tình hình chung để từ đó có quyền đồng ý cho phép con nợ sửa đổi, bổ sung nội dung của phương án phục hồi hoặc không.Quyền này được quy định tại điều 75 LPS: “1. Trong quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, các chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã có quyền thoả thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh”.Theo quy định tại điều 75 LPS thì Tòa án So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 10 chỉ có quyền công nhận thỏa thuận sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi và các chủ nợ đều có quyền được nhận quyết định đình chỉ phục hồi này theo điều 76 LPS.Không chỉ với quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi, các chủ nợ cũng có quyền được nhận các quyết định về công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi theo điều 72 LPS và quyết định về công nhận sự thay đổi về phương án phục hồi theo điều 75 LPS. Đây là những quy định đảm bảo quyền thông tin của chủ nợ nhằm cho phép chủ nợ nắm bắt được diễn biến của tiến trình tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là con nợ của họ. Tồn tại song song bên những điểm giống là những điểm khác về quyền và nghĩa vụ do đặc điểm của từng loại chủ nợ được pháp luật quy định khá rõ ràng. Đầu tiên, theo quy định tại điều 68 LPS về điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh:“Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh” thì chủ nợ không có bảo đảm có quyền làm phát sinh thủ tục phục hồi đối với doanh nghiệp hợp tác xã thông qua hội nghị chủ nợ. Quyền này không có ở chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần vì họ không có quyền quyết định trong hội chủ nợ (theo cách quy định về phương thức thông qua nghị quyết của hội nghị chủ nợ). Tương tự như vậy thì cũng chỉ có chủ nợ không có bảo đảm mới có quyền thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh (điều 71 LPS “được thông qua khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành”), quyền chấp nhận thỏa thuận thay đổi phương án phục hồi hoạt động kinh doanh (điều 75 LPS: “quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên đồng ý”), quyền đình chỉ thủ tục phục hồi (điều 76 LPS: “Được quá nửa số phiếu của các chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên chưa thanh toán đồng ý đình chỉ”). Có thể nói, trong giai đoạn tiến hành thủ tục phục hồi thì chủ nợ không có bảo đảm được pháp luật quy định cho những quyền khác biệt và dường như chiếm ưu thế hơn so với những chủ nợ khác. Những quyết định của họ có khả năng chi phối đến cả quá trình phục hồi, nắm vai trò then chốt trong việc có tiến hành phục hồi nữa hay không. Vai trò tham gia của chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần chỉ dừng lại ở những vai trò chung chung, mờ nhạt về ý nghĩa, tiếng nói của họ không có giá trị bao nhiêu. III. Thủ tục thanh lý: Về điểm giống, khi có quyết định mở thủ tục thanh lý của tòa án đối với doanh nghiệp hợp tác xã thì các chủ nợ đều có quyền nhận được thông báo này (điều 81 So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 11 LPS). Sau đó các chủ nợ trong giai đoạn này đều có quyền khiếu nại quyết định mở thủ tục thanh lý theo điều 83 LPS: “1. Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, các chủ nợ có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản” nếu quyết định thanh lý gây bất lợi cho các chủ nợ mà họ không mong muốn có quyết định này. Đây là qui định nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Bởi luật phá sản được xây dựng nên không chỉ với mục đích bảo vệ quyền lợi của chủ nợ mà còn bảo vệ quyền lợi của con nợ, nó còn có vai trò đem lại cho doanh nghiệp đang trong tình trạng phá sản một cơ hội phục hồi hoặc rút khỏi thương trường một cách có trật tự nên nó phần nào cũng bảo đảm cho quyền lợi chính đáng của con nợ. Chính vì vậy, ở giai đoạn thanh lý, các chủ nợ dù là nợ có bảo đảm hay bảo đảm một phần hay không bảo đảm đều không có quyền được tính lãi đối với thời gian mà nợ chưa đến hạn theo điều 34: “Trường hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm mở thủ tục thanh lý được xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không được tính lãi đối với thời gian chưa đến hạn”. Dẫu rằng chế định này làm giảm gánh nặng tài chính cho con nợ nhưng với chủ nợ cũng không có ảnh hưởng xấu đến lợi ích của họ. Khoảng thời gian đã qua trong khoản nợ có chưa đến hạn đó vẫn được tính lãi bình thường. Họ chỉ mất phần lãi cho thời gian tương lai chưa xảy ra. Những điểm khác về địa vị pháp lý của các chủ nợ trong giai đoạn tiến hành thủ tục thanh lý chủ yếu xoay quanh vấn đề về quyền làm phát sinh thủ tục thanh lý và nguyên tắc thanh toán khi thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Theo quy định của luật phá sản 2004 thì chỉ có chủ nợ không có bảo đảm mới có quyền làm phát sinh thủ tục thanh lý trong hai trường hợp cụ thể: Trường hợp 1: “Không đủ số chủ nợ quy định tại khoản 1 Điều 65 của Luật này tham gia Hội nghị chủ nợ sau khi Hội nghị chủ nợ đã được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thuộc trường hợp quy định tại các điều 15, 16, 17 và 18 của Luật này”. Trường hợp 2: “2. Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã” Như vậy, cũng xuất phát từ quy định về sự có mặt của chủ nợ không bảo đảm và nguyên tắc thông qua nghị quyết của hội nghị chủ nợ mà các chủ nợ không có bảo đảm có khả năng chi phối việc có quyết định đưa đến thủ tục thanh lý đối với doan nghiệp, hợp tác xã hay không. Khi đưa đến thủ tục thanh lý thì một vấn đền quan trọng đặt ra là nguyên tắc thanh toán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Có hai nguyên tắc được xây dựng trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Nguyên tắc đầu tiên là So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 12 nguyên tắc ưu tiên bằng tài sản bảo đảm. Ở đây, chỉ dành cho chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần đối với phần nợ có bảo đảm. Được quy định tại điều 35 LPS: “Trường hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó”. Theo nguyên tắc này, chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần được ưu tiên thanh toán trước bằng tài sản bảo đảm mà chủ nợ không có bảo đảm không được hưởng nguyên tắc này. Việc thanh toán các khoản nợ có bảo đảm cho chủ nợ có bảo đảm và phần nợ có bảo đảm cho chủ nợ có bảo đảm một phần được thanh toán tính theo thứ tự thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm. Đồng thời, khi tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán cho những khoản nợ có bảo đảm thì áp dụng tỉ lệ cho cùng thứ tự nhằm có thể bảo vệ được ít nhiều quyền lợi của tất cả các chủ nợ có bảo đảm có cùng thứ tự thanh toán như nhau. Bên cạnh đó, điều 35 có quy định: “nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị của tài sản thế chấp hoặc cầm cố lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã”. Quy định này đã thể hiện sự bảo vệ của pháp luật một cách tối đa có thể đối với quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm. Chỉ cần doanh nghiệp, hợp tác xã còn tài sản để thanh toán nợ thì họ vẫn còn có cơ hội để có thể lấy được nợ. Nguyên tắc thứ hai trong quá trình thanh lý tài sản là nguyên tắc thanh toán theo thứ tự và tỷ lệ được quy định tại điều 37 LPS:  Thứ tự thanh toán:  Phí phá sản;  Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;  Các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ.  Tỷ lệ thanh toán đối với các khoản nợ không có bảo đảm của các chủ nợ có tên trong danh sách:  Nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình.  Nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng. Những quy định về nguyên tắc như trên đã cho thấy LPS 2004 đã ưu tiên bảo vệ chủ nợ là người lao động. Người lao động được coi là chủ nợ đặc biệt- chủ nợ không có bảo đảm được pháp luật phá sản xếp vào hàng ưu tiên đứng trên các loại chủ nợ thông thường khác, kể cả chủ nợ là nhà nước. Khi xem nợ thuế là một khoản nợ So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 13 như những khoản nợ khác, pháp luật phá sản đã bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ nợ có điều kiện pháp lý như nhau dù cho chủ nợ đó là Nhà nước hay chủ thể bình thường. Việc ưu tiên thanh toán trước cho chủ nợ có bảo đảm là quy định hợp lý vì khoản nợ của họ đã được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hay của người thứ ba. Sự quy định này là hợp lý vì nó bảo vệ được quyền lợi của tất cả các chủ nợ trên cơ sở những đặc điểm bản chất của từng loại chủ nợ cụ thể. IV. Tuyên bố phá sản: Tuyên bố phá sản là thủ tục thuộc giai đoạn cuối cùng của thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Đây là thủ tục khép lai toàn bộ quá trình tiến hành thủ tục phá sản, chính thức đưa doanh nghiệp, hợp tác xã rút khỏi thương trường. Ở giai đoạn này, các chủ nợ dường như đều có địa vị pháp lý như nhau. Đó là quyền được thông báo về quyết định tuyên bố phá sản theo điều 89 LPS và có quyền khiếu nại quyết định tuyên bố phá sản theo điều 91 LPS. Khi tham gia vào thủ tục phá sản, mục đích của các chủ nợ là muốn thu hồi các khoản nợ một cách tối đa nhất. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành thu hồi tài sản mà tổ chức quản lý, thanh lý tài sản nếu có sai sót và không minh mà Tòa án lại ra quyết định tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì sẽ không đảm bảo quyền lợi của các chủ nợ. Để đảm bảo lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, LPS cho phép chủ nợ được quyền khiếu nại quyết định của Tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày cuối cùng đăng báo quyết định tuyên bố phá sản để họ có thể bảo vệ tốt hơn quyền lợi mà họ đáng được hưởng. Một quy định nữa của LPS 2004 là cho phép các chủ nợ có quyền đòi chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh công ty hợp danh thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp chưa được thanh toán hết bằng tài sản của mình, bởi những chủ thể này chịu trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh. Vấn đề này được quy định tại Điều 90 LPS 2004: “Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản quy định tại Điều 86 và Điều 87 của Luật này không miễn trừ nghĩa vụ về tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh đối với chủ nợ chưa được thanh toán nợ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”. Với quy định này ta thấy quyền lợi của các chủ nợ đã được bảo vệ một cách tối đa. Đặc biêt, với chủ nợ không có bảo đảm khi rơi vào trường hợp con nợ của họ là công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân bị phá sản thì họ vẫn còn cơ hội đòi được nợ sau khi thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp này kết thúc mà các khoản nợ của họ chưa được thu hồi hết. Tóm lại: Pháp luật phá sản 2004 và những văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định giống và khác nhau về địa vị pháp lý của chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 14 một phần và chủ nợ không có bảo đảm. Đánh giá chung có thể thấy, vai trò của chủ nợ có bảo đảm một phần khá mờ nhạt, phụ thuộc vào phần nợ là có bảo đảm hay không. Giữa các chủ nợ có những quyền cơ bản giống nhau như: quyền khiếu nại, quyền nhận thông báo về các quyết định trong quá trình tiến hành thủ tục giải quyết phá sản, trừ khiếu nại về trả lại đơn và việc được thông báo về quyết thành lập tổ quản lý thanh lý tài sản gắn với chủ nợ đã nộp đơn (có thể là chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần). Một điểm đặc biệt xuyên suốt quá trình tiến hành thủ tục là quyền chi phối, làm phát sinh, chấm dứt các bước, các giai đoạn trong thủ tục phá sản chủ yếu thuộc về chủ nợ không bảo đảm chủ yếu thông qua các quy định về hội nghị chủ nợ. Chủ nợ không có bảo đảm có thể phát huy tối đa những quyền được pháp luật quy định đó để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của mình. Mặc dù chủ nợ có bảo đảm được trao cho những quyền khá chung chung và trong những việc quyết định những vấn đề quan trong, tiếng nói của họ dường như không có sức nặng, họ có rất ít những quyền lợi riêng biệt nhưng quyền họ có được cuối cùng chính là nguyên tắc ưu tiên thanh toán. Chính vì thế, về mặt thực tiễn khả năng được thanh toán nhiều và sớm. Quyền lợi của họ ít nhiều vẫn được pháp luật bảo vệ trước tiên, tỷ lệ thành công trong việc thu hồi nợ của họ cao hơn hẳn so với chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần. Nhìn chung, Luật phá sản 2004 bảo vệ quyền lợi cho tất cả các loại chủ nợ, cung cấp công cụ pháp lý cho các chủ nợ thực hiện việc đòi nợ một cách nhanh chóng, khả thi, hiệu quả và hợp pháp. Ở mỗi giai đoạn khác nhau của thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, luật đã có những chế định đề cao và chú trọng quyền và nghĩa vụ của những chủ nợ khác nhau nhằm mục đích, tạo điều kiện để các chủ thể có thể chủ động xúc tiến phương án hành động của mình sao cho khả năng thu hồi nợ cao nhất. Có những giai đoạn vai trò của chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần được luật quan tâm cao nhất, nhưng cũng có những giai đoạn chủ nợ không có bảo đảm lại đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, suy đến cùng, pháp luật phá sản vẫn hướng đến bảo vệ quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm một cách triệt để, vì những lý do sau đây: Thứ nhất: khi đòi nợ, dù theo thủ tục phá sản hay không thì quyền lợi cơ bản nhất mà các chủ nợ mong muốn đạt được là khả năng được thanh toán đủ và sớm. Luật phá sản 2004 đã đưa ra nguyên tắc ưu tiên thanh toán cho chủ nợ có bảo đảm trước bằng tài sản bảo đảm là đã cho họ có cơ hội thu hồi nợ sớm hơn hẳn những chủ nợ khác. Đồng thời, quy định tại điều 35 về xử lý tài sản bảo đảm đó để thanh toán khoản nợ mà nó bảo đảm thì trong trường hợp xấu nhất là tài sản không đủ thanh toán hết khoản nợ đó thì phần còn lại cũng được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp. Như vậy, họ vẫn có khả năng thu hồi được khoản nợ với tỷ lệ cao nhất so với các chủ nợ không có bảo đảm hay bảo đảm một phần. So sánh địa vị pháp lý của các loại chủ nợ trong thủ tục phá sản 15 Thứ hai: quyền lợi về mặt chi phối đối với các quyết định trong từng bước tiến hành thủ tục phá sản của chủ nợ không có bảo đảm không trực tiếp tác động đến khả năng nhận thanh toán của chính họ. Dẫu rằng quyền này cho họ cơ hội, bằng sức lực và tài năng của mình, có thể đưa lại cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đến một hoàn cảnh tốt hơn để họ có khả năng thu hồi khoản nợ được nhiều hơn. Song, việc họ có nhận được khoản thanh toán hay không còn phải gián tiếp thông qua kiểm soát tài sản còn lại của doanh nghiệp, việc phục hồi để đảm bảo khả năng thanh toán của con nợ nói chung. Thứ ba, trong quá trình thanh toán tài sản cho các khoản nợ không có bảo đảm và phần không bảo đảm trong khoản nợ có bảo đảm một phần thì có quá nhiều nghĩa vụ tài sản có cùng thứ tự thanh toán. Mà khả năng tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đủ để thanh toán cho tất cả các khoản nợ này là rất thấp, nên việc thanh toán nợ cho các chủ nợ này tương ứng theo tỷ lệ khoản nợ là điều khó tránh khỏi. Như vậy, làm sao có các chủ nợ này có thể thu hồi một cách gần như toàn bộ khoản nợ của mình? Vậy, dù pháp luật ưu tiên cho chủ nợ không có bảo đảm những quyền mang tính chất quyết định đến suốt tiến trình tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp hợp tác xã nhưng Luật phá sản 2004 vẫn thể hiện sự bảo vệ triệt để quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm bằng những quy định, nguyên tắc để họ có thể thu hồi được nợ từ con nợ một cách sớm nhất và đầy đủ nhất – đạt được mong muốn thu hồi nợ nhanh nhất và đầy đủ nhất của chủ nợ trong quá trình thu hồi nợ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbc3a0i_te1baadp_nhc3b3m_7503.pdf
Luận văn liên quan