So sánh diện và hàng thừa kế theo qui định của pháp luật Việt Nam với qui định của một số nước trên thế giới

Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm,theo dõi và bảo hộ. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán,tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kếở Việt Nam được giải quyết theo qui định của pháp luật. Việt Nam đang trên bước đường hội nhập toàn cầu. Tầm quan trọng của pháp luật ngày càng nâng cao. Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết.Và theo em phương pháp nghiên cứu, sửa đổi, bổ xung tốt nhất cho pháp luật Việt Nam chính là nghiên cứu, so sánh pháp luật Việt nam với pháp luật các nước trên thế giới để tìm ra những yếu tố đặc sắc, phù hợp để áp dụng vào thực tiễn nước ta. Từ hai lí do trên em quyết định nghiên cứu vấn đề thừa kế theo qui định của pháp luật ở một số nước trên thế giới nhưng vì thời gian, trình độ và tài liệu còn hạn chế nên em chỉ có thể nghiên cứu một phần trong qui định về thừa kế theo pháp luật đó là đề tài:" So sánh diện và hàng thừa kế theo qui định của pháp luật Việt Nam với qui định của một số nước trên thế giới".

doc11 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2823 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh diện và hàng thừa kế theo qui định của pháp luật Việt Nam với qui định của một số nước trên thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
So sánh diện và hàng thừa kế theo qui định của pháp luật Việt Nam với qui định của một số nước trên thế giới Saturday, 24. November 2007, 15:32:57 Luật Dân Sự - Luật về quyền thừa kế Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm,theo dõi và bảo hộ. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán,tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo qui định của pháp luật. Việt Nam đang trên bước đường hội nhập toàn cầu. Tầm quan trọng của pháp luật ngày càng nâng cao. Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết.Và theo em phương pháp nghiên cứu, sửa đổi, bổ xung tốt nhất cho pháp luật Việt Nam chính là nghiên cứu, so sánh pháp luật Việt nam với pháp luật các nước trên thế giới để tìm ra những yếu tố đặc sắc, phù hợp để áp dụng vào thực tiễn nước ta. Từ hai lí do trên em quyết định nghiên cứu vấn đề thừa kế theo qui định của pháp luật ở một số nước trên thế giới nhưng vì thời gian, trình độ và tài liệu còn hạn chế nên em chỉ có thể nghiên cứu một phần trong qui định về thừa kế theo pháp luật đó là đề tài:" So sánh diện và hàng thừa kế theo qui định của pháp luật Việt Nam với qui định của một số nước trên thế giới". I-Thừa kế theo qui định pháp luật ở Việt Nam: 1)Qui định chung: Quyền thừa kế của cá nhân (theo điều 631 BLDS 2005) : "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật." Như vậy thừa kế theo quan hệ pháp luật dân sự chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức, có quyền hưởng thừa kế; người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản theo di chúc hay theo pháp luật (riêng đối với đất đai là thừa kế quyền sử dụng). Sự chuyển dịch di sản của người chết sang người sống sẽ được thực hiện theo hai căn cứ: Nếu căn cứ theo ý chí,nguyện vọng của người chết thì được gọi là thừa kế theo di chúc; Nếu căn cứ theo các qui định của pháp luật thì được coi là thừa kế theo pháp luật. Các nguyên tắc cơ bản của thừa kế: -Nguyên tắc tôn trọng ý chí của người có quyền thừa kế: Pháp luật thừa kế luôn tôn trọng ý chí của những người tham gia trong quan hệ thừa kế.Nếu như người để lại di sản mà có để lại di chúc thì việc phân chia di sản theo di chúc bao giờ cũng được ưu tiên giải quyết trước, phần tài sản chia cho những người thừa kế cũng tùy thuộc vào di chúc mà người chết để lại. Đó chính là sự tôn trọng ý trí của người để lại di sản.Và ngược lại, những người thừa kế có quyền đồng ý nhận toàn bộ di sản được thừa hưởng hoặc chỉ nhận một phần hoặc khước từ việc thừa hưởng di sản từ người chết đó là sự tôn trọng ý chí của người thừa kế. -Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về quyền thừa kế: Theo điều 632 BLDS-2005:"Mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật".Theo điều luật này thì mọi cá nhân đều có quyền để lại tài sản của mình cho người khác và mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng trong việc thừa hưởng tài sản theo di chúc tức là bất kì cá nhân nào dũng được phép nhận tài sản theo ý chí của người chết. Còn sự bình đẳng trong việc hưởng di sản là tất cá những người thừa kế theo qui định của pháp luật đều có quyền hưởng phần tài sản bằng nhau. -Nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế: Điều 635-BLDS 2005 đã qui định " Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế..." Với đặc trưng cơ bản của sự thừa kế là sự tiếp nối về sở hữu tài sản giữa người sống với người chết nên người thừa hưởng di sản đương nhiên phải là người còn sống.Việc dịch chuyển di sản từ người chết này sang người chết khác là không thực hiện được.Tiếp đó là việc người còn sống đó phải còn sống ở thời điểm mở thừa kế.Có thể người thừa kế đã chết nhưng khi mở thừa kế thì ông ta còn sống hoặc đã chết hay mất tích nhưng chưa bị tuyên bố là đã chết hoặc ngày tuyên bố nguời đó chết là sau ngày mở thừa kế, khi đó ông ta việc chuyển giao di sản cho ông ta vẫn được thực hiện và nó sẽ được tính vào tài sản của người đó. Trong trường hợp người thừa kế bị tuyên bố là đã mất tích hoặc chết nhưng sau đó người đó còn sống trở về thì người đó vẫn được coi là còn sống và được quyền hưởng di sản sau khi tòa án hủy bỏ tuyên bố mất tích hoặc đã chết. -Người thừa kế có quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại: Quyền luôn luôn đi kèm với nghĩa vụ. Do đó những người thừa kế có quyền thừa hưởng di sản để lại từ người chết theo di chúc hoặc theo pháp luật, phần di sản họ được hưởng có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau tùy theo ý chí của người chết. Đồng thời họ có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo điều 637-BLDS 2005, nghĩa vụ tài sản họ phải thực hiện sẽ tùy theo phần mà họ được hưởng. Nếu người thừa kế khước từ hoặc không được nhận phần di sản để lại của người chết thì họ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết. 2)Thừa kế theo pháp luật: Ta có thể hiểu một cách đơn giản thừa kế theo pháp luật là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho những người thừa kế theo qui định của pháp luật thừa kế. Theo điều 674 Bộ luật dân sự 2005: "thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật qui định". Theo qui định của thừa kế theo pháp luật thì sau khi người để lại tài sản qua đời, tài sản sẽ được chia đều cho những người thừa kế của người đó.Những người thừa kế này được xác định thông qua ba mối quan hệ chính là: -Quan hệ hôn nhân -Quan hệ huyết thống -Quan hệ nuôi dưỡng Những người thừa kế theo qui định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, dù cho người đó có bị hạn chế năng lực hành vi hay thậm chí bị mất năng lực hành vi thì người đó vẫn có quyền thừa kế.Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của công dân về quyền thừa kế nên mọi người đều có quyền bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế từ người chết và bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại trong phạm vi di sản mình nhận được. Vì phạm vi những người thừa kế rộng nên pháp luật chia những người thừa kế thành nhiều hàng thừa kế.Trong đó những người thuộc hàng thứ nhất là những người có quan hệ hôn nhận, huyết thống gần gũi nhất so với các hàng khác.Các hàng thứ hai, thứ ba là các hàng dự bị,chỉ được hưởng di sản nếu như không còn ai ở hàng thứ nhất hoặc hoặc có nhưng họ đều không nhận hoặc không được quyền nhận.Vấn đề diện và hàng thừa kế này sẽ được nói kĩ hơn ở phần sau. Các trường hợp thừa kế theo qui định của pháp luật: Ở nước ta từ xưa đến nay đã có rất nhiều văn bản pháp luật liệt kê các trường hợp thừa kế theo pháp luật.Và cùng với sự tiến bộ của hệ thống pháp luật thì các văn bản này các ngày càng hoàn thiện hơn, cho đến nay thì các trường hợp được nêu ra trong BLDS 2005 được coi là chi tiết và đầy đủ nhất.Theo điều 675 BLDS 2005 thì các trường hợp thừa kế theo pháp luật được chia ra 2 nhóm sau đây: Nhóm thứ nhất:Nhóm di sản thừa kế hoàn toàn được chia theo pháp luật (nhóm di sản được thừa kế tuyệt đối) bao gồm các trường hợp: -Không có di chúc -Di chúc không hợp pháp toàn bộ -Di chúc hợp pháp nhưng toàn bộ di chúc không có hiệu lực thi hành do tất cả người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc đều không có quyền hưởng di sản hoặc đều từ chối quyền hưởng di sản ;cơ quan tổ chức được hưởng thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; Nhóm thứ hai:Di sản vừa được chia theo di chúc vừa được chia theo qui định của pháp luật(Nhóm di sản thừa kế tương đối) bao gồm các trường hợp: -Có phần di sản không được định đoạt trong di chúc -Có một phần di chúc không có hiệu lực pháp luật -Có một hoặc một số người trong những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; một hoặc một số cơ quan, tổ chức trong số các cơ quan, tổ chức được thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế hoặc có một hoặc một số người trong những người thừa kế không được quyền hưởng di sản hay từ chối quyền hưởng di sản theo di chúc. Cuối cùng là một điểm đặc trưng của thừa kế theo pháp luật đó là qui định về trường hợp thừa kế thế vị:Theo điều 677 BLDS-2005 :"Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản của cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; Nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu cón sống ". Như vậy theo qui định trên ta có thể hiểu thừa kế thế vị là việc con đẻ thay thế vị trí của cha hoặc mẹ để nhận phần di sản do ông hoặc bà để lại khi mà cha hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông hoặc bà. Những người thừa kế thế vị được hưởng phần di sản bằng với những người cùng hàng với người được thế vị. Nếu người thế vị là cháu thì cháu phải sống vào thời điểm ông, bà chết; Người thế vị là chắt thì chắt phải sống vào thời điểm cụ nội, cụ ngoại chết. II-Diện và hàng thừa kế: 1)Diện và hàng thừa kế theo qui đinh của pháp luật Việt Nam: a)Diện thừa kế: Diện những người thừa kế là phạm vi những người hưởng di sản thừa kế của người chết theo qui định của pháp luật. Như đã nói ở trên, diện những người thừa kế được pháp luật dựa trên ba mối quan hệ chính với người để lại di sản: - Quan hệ hôn nhân: Xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và chồng. - Quan hệ huyết thống: Quan hệ giữa những người cùng dòng máu (Cụ với ông, bà; Ông, bà với cha mẹ; Cha mẹ với các con; Anh chị em ruột...) -Quan hệ nuôi dưỡng: Xuất phát từ sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau giữa những người không cùng huyết thống hay không có quan hệ hôn nhân (Cha mẹ nhận nuôi con nuôi) Ở Việt Nam thời phong kiến, dựa theo khuôn mẫu gia đình "tam, tứ đại đồng đường" là kiểu gia đình mở rộng, nơi ba bốn thế hệ chung sống dưới cùng một mái nhà.Nên diện thừa kế theo pháp luật được xác định hết sức rộng rãi , bao gồm toàn bộ những người thích thuộc của người chết mà không theo mức độ gần gũi.Theo sự ghi nhận của các bộ dân luật thời phong kiến thì tất cả người thân thuộc của người chết dù xa hay gần , dù thân hay sơ đều thuộc diện thừa kế theo luật của người đó. Khi không còn ai bên nội tộc còn sống thì di sản được chuyển dịch sang bên ngoại. Sau khi dành được chính quyền và thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật xác định phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật: -Thông tư 1742 do Bộ tư pháp ban hành ngày 19 tháng 8 năm 1956 qui định diện những người thừa kế theo pháp luật bao gồm: Vợ ( chồng), các con đẻ, các con nuôi, cháu, chắt,cha mẹ của người để lại di sản và những người thừa kế khác.Nhưng thông tư này không xác định rõ những người thừa kế khác là ai nên trong thời kì này anh, chị, ông bà không thuộc diện thừa kế. -Thông tư 594 xác định diện thừa kế bao gồm: Vợ góa (cả vợ cả và vợ lẽ); con đẻ và con nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, ông bà nội, ông bà ngoại; anh chị em ruột và anh chị em nuôi. Thông tư này đã thêm được anh chị em và ông bà vào diện thừa kế nhưng lại bỏ đi cháu, chắt ra khỏi diện thừa kế. - Thông tư 81 xác định rõ cơ sở pháp lý của việc thừa kế theo pháp luật là ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng.Đây là một quan điểm tiến bộ vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Vì vậy diện thừa kế được qui định trong thông tư bao gồm: Vợ góa (vợ cả và vợ lẽ) hoặc chồng góa, các con đẻ và con nuôi; bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi; ông bà nội ngoại; anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha và anh chị em nuôi.Ngoài ra thông tư còn qui định " Người thừa tự " cũng là người thừa kế theo pháp luật tức là cháu được quyền thừa kế của ông bà nếu cha mẹ không còn. - Pháp lệnh thừa kế do hội đồng nhà nước (Nay là ủy ban thường vụ Quốc Hội) ban hành vào ngày 30 tháng 8 năm 1990. Diện thừa kế theo pháp lệnh này mở rộng hơn so với Thông tư 81. Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại tài sản theo trực hệ được xác định đến tận 4 đời ( Từ đời cụ xuống đời chắt).Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản theo bàng hệ (ngành ngang) đã được mở rộng sang 2 đời ( chú ruột, bác ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột của người chết là cháu và ngược lại). Pháp lệnh thừa kế bác bỏ quyền thừa kế của anh chị em nuôi. -Bộ luật dân sự 1995 không qui định trực tiếp về diện thừa kế nhưng dựa vào hàng thừa kế theo pháp luật và những người thừa kế thế vị thì đã xác định được diện thừa kế bao gồm: vợ hoặc chồng; các con đẻ và con nuôi (thuộc hàng thừa kế thứ nhất); bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi; ông bà nội ngoại; anh chị em ruột ( thuộc hàng thừa kế thứ hai); cụ nội , cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột (thuộc hàng thừa kế thứ ba); cháu ruột của người chết mà người chết là ông bà nội ngoại, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại (thừa kế thế vị) Cho đến hiện nay bộ luật dân sự năm 2005 thì diện thừa kế vẫn được xác định như năm 1999.Tuy nhiên có một điểm khác biệt là chắt được liệt thêm vào hàng thừa kế thứ ba. b)Hàng thừa kế: Theo pháp luật, di sản của người chết được chia cho những người thân thích, gần gũi đối với người chết.Tuy nhiên mức độ gần gũi, thân thiết của những người thân thích đó với người chết là khác nhau khiến cho việc phân chia di sản thừa kế trở nên khó khăn, phức tạp. Vấn đề này xảy ra ở rất nhiều nước trên thế giới chứ không phải chỉ ở riêng Việt Nam. Và phần lớn các nước đặt ra qui định về hàng thừa kế để giải quyết vấn đề này. Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại. Theo khoản 1 điều 678 BLDS 2005, pháp luật Việt Nam chia những người trong diện thừa kế ra làm ba hàng: -Hàng thứ nhất bao gồm: Vợ (chồng), cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Ở hàng thừa kế này có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau: +Quan hệ thừa kế của vợ chồng: Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân.Theo điều 8 luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 thì " hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn".Vì thế vào thời điểm mở thừa kế nếu quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại thì họ được quyền hưởng thừa kế của nhau.Do nhiều thay đổi trong luật pháp nên việc xác định quyền thừa kế của vợ chồng cần chú ý các trường hợp sau: Trường hợp một: Vợ chồng đã chia tài sản chung hoặc sống ly thân hoặc một người đã bỏ đi sống với ngưòi khác một cách bất hợp pháp nhưng chưa ly hôn, về mặt pháp lý quan hệ hôn nhân vẫn còn tồn tại. Nên người này được quyền thừa kế khi người kia chết. Trường hợp hai: Vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được tòa án chấp nhận hoặc đã được chấp nhận nhưng quyết định hoặc bản án cho ly hôn chưa có hiệu lực pháp luật thì một người chết.Khi đó người còn lại vẫn được quyền hưởng di sản của người chết. Trường hợp ba: Nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn nhân đều tiến hành trước ngày 13 tháng 1 năm 1960 ở miền Bắc ( ngày luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực ở miền Bắc) và trước ngày 25 tháng 3 năm 1977 ở miền Nam (ngày áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật trên toàn quốc) thì việc người đó có nhiều vợ vẫn được chấp nhận. Do đó khi người này chết thì tất cả các bà vợ (còn sống vào thời điểm đó) đều có quyền hưởng thừa kế theo hàng thứ nhất và ngược lại người chồng có thể hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất khi các bà vợ qua đời. Trường hợp bốn: Nếu cán bộ chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam, sau khi tập kết ra miền Bắc, lấy vợ ở miền Bắc mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì những người vợ đó đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại. Trường hợp năm: Đối với các trường hợp hôn nhân không đăng kí kết hôn nhưng được thừa nhận là hôn nhân thực tế ( gồm các cuộc hôn nhân tiến hành trước ngày luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng kí kết hôn) thì quan hệ vợ chồng giữa họ vẫn được thừa nhận nên họ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ nhất của nhau. Trường hợp sáu: hai vợ chồng đã ly hôn nhưng sau đó quay lại sống chung với nhau trước ngày luật Hôn nhân gia đình 1986 có hiệu lực mà cuộc sống chung đó không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực thì quan hệ vợ chồng đó vẫn được chấp nhận.Và họ vẫn là người thừa kế hàng thứ nhất của nhau.Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ và con: Quan hệ này được xác lập theo hai căn cứ. Thứ nhất là mối quan hệ huyết thống giữa những người cùng dòng máu trực hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau. Trong đó cha mẹ đẻ là người đã sinh ra người đó nên được pháp luật qui định ở hang thừa kế thứ nhất. Thứ hai là mối quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con. Mối quan hệ nuôi dưỡng ở đây có thể là của bố mẹ đẻ với con đẻ cũng có thể là của bố mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại. Do đó việc pháp luật qui định bố mẹ nuôi và con nuôi vào hàng thừa kế thứ nhất là hoàn toàn hợp lý. Sau đây là một số trường hợp cần lưu ý trong việc xác định quyền thừa kế trong mối quan hệ này: Trường hợp một người vừa có con nuôi vừa có con đẻ thì người này được hưởng thừa kế ở hàng nhất đối với cả hai người và ngược lại. Trong trường hợp người này có con nuôi mà chưa đăng kí việc nhận con nuôi theo đúng qui định của pháp luật thì quyền thừa kế giữa họ sẽ không được công nhận cho đến khi họ đăng kí. Tiếp đến là mối quan hệ giữa cha mẹ và các con dâu con rể.Theo qui định của pháp luật thì con dâu, con rể không nằm trong diện thừa kế. Nhưng trong trường hợp con dâu, con rể tham gia lao động chung trong gia đình, xây dựng khối tài sản trong gia đình cha, mẹ thì khi cha mẹ chết đi họ vẫn được hưởng một phần tài sản xứng đáng với công sức mà họ bỏ ra nhưng không phải với tư cách người thừa kế mà là người đồng sở hữu tài sản. Việc chia taì sản cho con dâu, con rể sẽ được chia ngay từ lúc xác định tài sản của người chết trong khối tài sản chung, rút phần của người chết ra để chia cho những người thừa kế, phần của con dâu, con rể và những người khác (nếu có) nằm trong khối tài sản chung chưa bị chia kia. Đối với mối quan hệ của “con riêng với bố dượng, mẹ kế”.Nếu như đối với trường hợp con nuôi ta có thể khẳng định đó là mối quan hệ nuôi dưỡng thì trong trường hợp này có nhiều điểm cần lưu ý: Như trường hợp mẹ kế sống với bố còn con riêng sống với mẹ đẻ như vậy hai người này không có quan hệ huyết thống mà cũng chẳng có quan hệ nuôi dưỡng; Hoặc là các trường hợp con riêng sống với bố dượng, mẹ kế nhưng bị ghét bỏ, không nhận được sự quan tâm, chăm sóc nuôi dưỡng ( các trường hợp này rất phổ biến ở nhiều nước) nên việc cho con riêng, bố dượng, mẹ kế thừa kế của nhau trong các trường hợp này là không hợp lý. Vì thế điều 679 -BLDS 2005 đã qui định:"con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo qui định tại điều 676 và 677 của bộ luật này". Như vậy là trong trường hợp pháp luật xác định được chắc chắn mối quan hệ nuôi dưỡng của con riêng với bố dượng, mẹ kế là mối quan hệ nuôi dưỡng như cha con hoặc mẹ con thì họ mới được hưởng thừa kế của nhau và còn được hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất hoặc thừa kế thế vị. -Hàng thừa kế thứ hai bao gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết ; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. + Mối quan hệ thừa kế giữa ông bà và cháu: Theo pháp luật Việt Nam qui định thì mối quan hệ giữa ông bà và cháu là mối quan hệ huyết thống. Do đó việc thừa kế của ông bà khi cháu chết và cháu nhận thừa kế khi ông bà qua đời là đương nhiên theo luật.Nhưng một người có thể có nhiều ông bà hoặc nhiều cháu nên điểm b khoản 1 điều 676 BLDS-2005 đã qui định rất rõ là ông bà phải là ông bà nội hoặc ngoại.Còn cháu phải là cháu ruột của người đó.Đối với trường hợp cháu nuôi thì pháp luật Việt Nam không thừa nhận quyền thừa kế của họ. Tức là đối với cha đẻ, mẹ đẻ của một người với con nuôi người đó thì không có quyền thừa kế. Nhưng đối với quyền thừa kế giữa bố mẹ nuôi của người với con đẻ của người đó thì lại được pháp luật công nhận ở điều 677-Thừa kế thế vị.Theo ý kiến của riêng em nên chia ra các trường hợp: Thứ nhất nếu ông bà là cha mẹ nuôi của cha mẹ đẻ của người chết thì họ đương nhiên là người thừa kế ở hàng thứ hai của người chết và ngược lại. Thứ hai nếu ông , bà là cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ nuôi của cha hoặc mẹ nuôi người chết. Nếu sau khi bố mẹ nuôi chết, ông hoặc bà tiếp tục nuôi dưỡng người con nuôi thay cha mẹ nuôi và được pháp luật thừa nhận là có mối quan hệ nuôi dưỡng thì sẽ tính như trường hợp bố mẹ nuôi thứ hai và sẽ thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Nếu ông bà và người chết không có mối quan hệ nuôi dưỡng thì sẽ không thừa nhận quyền thừa kế của họ. +Quan hệ thừa kế giữa anh, chị, em ruột: Căn cứ để phát sinh quyền thừa kế giữa những người này cũng là mối quan hệ huyết thống. Anh ruột, chị ruột, em ruột là những người cùng cha cùng mẹ hoặc cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ, con trong giá thú hay con ngoài giá thú miễn là họ có chung dòng máu của người sinh ra mình thì đương nhiên theo pháp luật họ được quyền hưởng thừa kế ở hàng thứ hai của nhau.Ngoài ra pháp luật còn qui định rõ con riêng của vợ hoặc chồng không phải là anh em ruột của nhau; Con nuôi không phải là anh chị em ruột đối với con đẻ của bố hoặc mẹ nuôi nên không được nhận thừa kế từ những anh chị em đó nhưng vẫn được nhận thừa kế từ anh chị em ruột của chính mình và ngược lại. - Hàng thừa kế thứ ba bao gồm:cụ nội , cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột; cháu ruột của người chết mà người chết là ông bà nội ngoại, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. + Quan hệ thừa kế giữa bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột với cháu ruột : Quan hệ thừa kế giữa những người này với nhau cũng là dựa trên mối quan hệ huyết thống. Bác ruột là anh hoặc chị của cha hoặc mẹ người chết, chú ruột là em trai của cha người chêt, cô ruột là em gái của cha người chết, cậu ruột là em trai của mẹ người chết, dì ruột là em gái của mẹ người chết. Nhưng do ở mỗi nơi có một cách dùng từ khác nhau ví dụ như ở miền trung thì bác chỉ có nghia anh trai của bố nên ta có thể hiểu tóm gọn lại bác ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruôt là những anh chị em ruột của bố hoặc mẹ và từ đó ta xác định ngược lại được cháu ruột phải là con đẻ của những anh chị em ruột của người chết.Những người này theo pháp luật được xếp hưởng thừa kế vào hàng thứ ba của nhau. + Quan hệ thừa kế giữa cụ và chắt: Cụ nội là người thân sinh ra ông nội hoặc bà nội, cụ ngoại là người thân sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại người chết. Nên mối quan hệ giữa cụ nội cụ ngoại và chắt là mối quan hệ huyết thống. Những người này được hưởng thừa kế ở hàng thứ ba của nhau. Nhưng theo em việc xác định mối quan hệ huyết thống giữa chắt và các cụ so với xác định giữa cháu và các cô dì, chú, bác là khó khăn và phức tạp hơn rất nhiều vì nó là một quan hệ huyết thống ngành dọc chay suốt bốn thế hệ.Trong chuỗi thế hệ đó có thể xen lẫn mối quan hệ nuôi dưỡng hoặc huyết thống. Do đó việc để cho quyền thừa kế giữa cụ và chắt với cháu và cô, dì, chú, bác là bất hợp lý vì như thế sẽ khiến việc chia tài sản ở hàng thứ ba trở nên khó khăn và phức tạp. Theo ý kiến của em nên để quyền thừa kế của cụ với chắt xuống hàng thứ bốn. 2)Diện và hàng thừa kế theo qui đinh của pháp luật một số nước trên thế giới a)Nhật Bản: Thứ nhất là qui định về hàng thừa kế: Bộ luật dân sự Nhật Bản qui định về hàng và bậc thừa kế ưu tiên hưởng di sản theo quan hệ huyết thống trực hệ bề dưới, trực hệ bề trên rồi mới đến bàng hệ. Điều 887 -BLDS Nhật bản đã nêu rõ con của người để lại di sản là người thừa kế ngoài ra theo điều này còn nói rõ nếu con của người để lại di sản chết trước, bị mất quyền thừa kế trước thời điểm mở thừa kế do bị rơi vào các qui định ở điều 891 (Qui định về những người không được hưởng thừa kế) hoặc do quyết định của tòa án thì con cái của người đó được hưởng thừa kế thay. Qui định này có điểm tương đồng với qui định về thừa kế thế vị ở nước ta là con được hưởng di sản thừa kế của cha nếu cha chết trước, nhưng cũng có điểm khác là đối với những người không được quyền hưởng thừa kế thì con cháu của người đó vẫn được hưởng.Như vậy tổng hợp từ hai điều luật 887 và 888- BLDS Nhật Bản ta có thể xác định được hàng thừa kế theo qui định của pháp luật Nhật Bản: Hàng thứ nhất: Con của người chết, cháu của người chết sẽ thừa kế di sản trong trường hợp con của người chết chết trước hoặc mất quyền hưởng di sản trước thời điểm mở thừa kế. Hàng thứ hai:Những người có quan hệ huyết thống với người chết thuộc trực hệ tôn thuộc (những người huyết thống bề trên) . Hàng thứ ba bao gồm anh chị em ruột của người để lại di sản. Thứ hai là về mối quan hệ hôn nhân.Khác với luật Việt Nam, trong bộ luật dân sự Nhật bản ta có thể thấy rõ vợ(chồng) của người chết không được liệt vào hàng nào trong ba hàng thừa kế nêu trên. Theo điều 890-BLDS Nhật bản:” Vợ chồng của người để lại thừa kế trở thành người thừa kế trong mọi trường hợp”Trong trường hợp có bất cứ người nào trở thành người thừa kế phù hợp với các qui định của ba điều trên thì trật tự thừa kế của vợ(chồng) sẽ ngang hàng với người đó.Theo điều này thì nếu người thừa kế là các con của người chết thì người vợ( chồng) sẽ được tính là người thừa kế cùng hàng các con. Nếu người chết khôgn có con thì vợ(chồng) sẽ được tính cùng hàng với những người thân trực hệ theo qui định hoặc cùng hàng với anh chị em ruột.Điểm thứ ba là sự khác biệt về qui định về chia thừa kế giữa những người cùng hàng.Ở Việt Nam những người cùng hàng được chia di sản ngang bằng nhau nhưng theo điều 900-BLDS Nhật Bản thì việc chia thừa kế cùng hàng nếu có từ hai người thừa kế cùng hàng trở lên sẽ được qui dịnh như sau:Khi vợ chồng, con cái là những người thừa kế cùng hàng thì vợ chồng được 1/3, con cái được 2/3.Khi vợ chồng và người thân trực hệ phía dưới là người thừa kế thì mỗi người được một nửa.Khi vợ chồng và anh chị em ruột là người thừa kế thì vợ chồng được 2/3 còn anh chị em ruột được 1/3.Nếu có nhiều con cái hoặc người thân trực hệ bề trên hoặc nhiều anh chị em ruột thì các phần chia thừa kế sẽ bằng nhau. Như vậy ta có thể thâý rõ dù trong bất kì trường hợp nào nếu người vợ chồng còn sống thì họ sẽ được nhận một phần tài sản tương đối lớn so với những người khác. Chứng tỏ pháp luật Nhật Bản coi trọng mối quan hệ hôn nhân hơn Việt rất nhiều điều này khiến cho mối quan hệ vợ chồng càng trở nên thiêng liêng, gắn bó hơn khi nó ràng buộc chặt chẽ vào quan hệ thừa kế. Cũng theo điều 900 này thì phần của con không hợp pháp sẽ bằng ½ phần của con hợp pháp; Anh chị em cùng cha khác mẹ cùng mẹ khác cha sẽ bằng ½ anh chị em cùng cha cùng mẹ đối với người thừa kế. Đây cũng là một điểm đáng lưu ý vì theo luật Việt nam chỉ có anh chị em ruột được quyền hưởng thừa kế của nhau, anh chị em nuôi dù hợp pháp cũng không được hưởng. Anh chị em ngoài giá thú dù không hợp pháp theo pháp luật vẫn được hưởng thừa kế. 2)Cộng hoà Pháp: Bộ luật dân sự cộng hoà Pháp, một trong những bộ luật dân sự nổi tiếng trên thế giới qui định về người thừa kế chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống giữa người thừa kế và người để lại di sản: Trước hết di sản được truyền cho những người bề dưới không phân biệt độ tuổi, giới tính và không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha mẹ đều được hưởng thừa kế. Nếu như không có những người thừa kế trực hệ phía dưới thì những người thừa kế trực hệ phía trên sẽ thừa kế di sản theo nguyên tắc người ở bậc gần nhất sẽ loại trừ người ở bậc xa hơn và mỗi người hưởng một suất bằng nhau: -Trong dòng trực hệ có bao nhiêu đời giữa mọi người là có bấy nhiêu bậc: con đối với cha là bậc một, cháu đối với ông bà là bậc hai và ngược lại(điều 737-BLDS cộng hòa Pháp). -Trong dòng bàng hệ các bậc cũng tính theo các đời : Từ một ngời trong các thân thuộc đến ông tổ chung và không tính ông tổ chung rồi từ ông tổ chung đến người kia: anh em là bậc hai, chú cháu là bậc ba (điều 738-BLDS cộng hòa Pháp). Pháp luật thừa kế cũng qui định trường hợp bố, mẹ, con của người chết không còn vào thời điểm mở thừa kế hoặc người chết không có con thì anh chị em hoặc các con của những người đó được hưởng thừa kế (điều 750-BLDS cộng hoà Pháp) Nếu như ở Việt nam, những người thừa kế cùng hàng được chia phần như nhau thì ở Phap lại có một số điểm khác biệt.Điều 733-BLDS cộng hoà Pháp qui định di sản phải được chia làm hai phần cho bên nội và ngoại của người chết rồi mới chia cho những người thừa kế tùy theo bên nội.Như vậy ví dụ nếu bên nội còn một người thừa kế, bên ngoại ba người thì người thừa kế bên nội sẽ nhận được phần di sản bằng ba người bên ngoại.Con cái được hưởng phần thừa kế của cả hai bên nội ngoại. Đối với con cái cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ thì họ được hưởng phần tùy theo họ của mình. Về quyền thừa kế của vợ (chồng), theo điều 765-BLDS cộng hòa Pháp:"Khi người chết không còn thân thuộc đến bậc có thể thừa kế hoặc chỉ để lại những thân thuộc bàng hệ không phải là anh chị em hoặc ti thuộc của anh, chị, em, tài sản thừa kế đương nhiên hoàn toàn thuộc về vợ chồng không ly hôn còn sống và không có bản án xử ly thân đã có hiệu lực pháp luật". Theo điều này thì khi người chết không còn người thân trực hệ và không còn một anh chị em hay cháu nữa thì vợ chồng mới được quyền thừa kế. Chứng tỏ quyền thừa kế của vợ chồng không được coi trọng khác hẳn với ở Việt Nam và càng khác xa so với Nhật. Sự khác biệt về luật pháp này có lẽ do sự khác nhau giữa quan niệm đạo đức, giữa lối sống đạo đức của người phương đông với lối sống phóng khoáng của người phương tây. 3) Iran Iran là nước mà phần đông dân số theo đạo Hồi, một đạo không mấy phổ biến ở nước ta. Do đó pháp luật thừa kế của Iran cũng có nhiều điểm giống và khác biệt so với pháp luật thừa kế Việt Nam. Trước hết là căn cứ xác định quyền thừa kế. Như các nước Pháp, Nhật, Iran cũng xác định quyền thừa kế dựa theo hai mối quan hệ chính là quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân theo điều 861-BLDS của nước cộng hòa hồi giáo Iran (The civil code of the Islamic republic of Iran) gọi tắt là BLDS Iran. Thứ hai là các qui định về diện và hàng thừa kế: Xét theo mối quan hệ huyết thống luật pháp Iran cũng chia ra làm 3 hàng thừa kế (điều 862): -Hàng thứ nhất : Cha mẹ và con của người chết -Hàng thứ hai: ông bà, anh chị em và con cái của anh chị em người chết (cháu ruột) -Hàng thứ ba: Cô, dì, chú, bác và con cái của họ Điều 863-BLDS Iran: " Người thừa kế ở hàng sau sẽ được quyền hưởng tài sản khi không còn người thừa kế nào ở hàng trước." Điều 864-BLDS Iran:"Một ví dụ về những người thừa kế theo quan hệ hôn nhân là vợ chồng hoặc những người vợ, người chồng còn sống của người chết." Vậy là đối với hàng thừa kế cả ba hàng thừa kế theo luật của Iran đều khác biệt với luật Việt Nam. Hàng thứ nhất chỉ có cha mẹ và con chứ không có vợ hoặc chồng của người chết. Cháu ruột được đưa lên thừa kế ở hàng thứ hai khác với qui định ở hàng thứ ba của nước ta. Hàng thứ ba của luật Iran chỉ có cô dì chú bác và con cái họ mà không có trường hợp cụ và chắt. Ở đây ta có thể thấy luật pháp Iran có một điểm khá kì lạ đó là nếu bác chết thì cháu ruột được hưởng thừa kế ở hàng thứ hai nhưng khi cháu chết bác lại được thừa kế ở hàng thứ ba và anh em họ cũng được hưởng quyền thừa kế ở hàng thứ ba của nhau chứ không như ở Việt Nam anh em họ chỉ có thể hưởng thừa kế trong trường họp thừa kế thế vị. Theo luật Iran, vợ chồng được xéy vào diện thừa kế nhưng lại không thuộc các hàng thừa kế trên mà thuộc các qui định thừa kế về mối quan hệ hôn nhân. 4) Nga Nga là nước đầu tiên bước trên con đường xã hội chủ nghĩa. Do đó việc nghiên cứu pháp luật của Nga là rất phù hợp cho việc phát triển pháp luât Việt Nam. Bộ luật dân sự Nga chia diện những người thừa kế ra 7 hàng với các qui định tương đối giống với Việt Nam (điều 1141-BLDS Nga): Hàng trên thừa kế trước, hàng dưới thừa kế sau; Những người thừa kế cùng hàng được chia phần bằng nhau và cũng áp dụng các qui định về thừa kế thế vị đối với các hàng thừa kế. Ba hàng thừa kế đầu bao gồm những người theo trình tự ưu tiên hưởng di sản tương tự như điều 679 của nước ta (điều 1142-1144). Những hàng thừa kế sau họ áp dụng phương pháp tính bậc tương tự như của nước cộng hòa Pháp để xác định mối quan hệ thân thuộc của những người thân thích khác đối với người chết. Qua đó họ xác định những người thừa kế ở ba hàng sau bao gồm (điều 1145-BLDS Nga): ( Vì diện thừa kế này quá rộng và phức tạp đối với từ ngữ Việt Nam nên em xin phép không liệt kê những người thuộc các hàng 4, 5, 6) - Hàng thừa kế thứ 4 bao gồm những thân thích bậc 3 - Hàng thừa kế thứ 5 bao gồm những thân thích bậc 4 - Hàng thừa kế thứ 6 bao gồm những thân thích bậc 5 - Hàng thừa kế thứ bảy là những người không có mối quan hệ huyết thống với người chết là : Con riêng, bố dượng, mẹ kế. Pháp luật Nga cũng có những qui định về trường hợp nuôi con nuôi nhưng khác với Việt Nam, luật pháp Nga không công nhận quyền thừa kế của con nuôi đối với cha mẹ nuôi và ngược lại (khoản 2 điều 1147) e)Qui định về thừa kế ở Anh: Anh là một nước đặc trưng ở Châu Âu nhưng lại có những qui định về thừa kế tương đối khác biệt so với các nước Châu Âu khác. Ở Anh không có bộ luật dân sự do đó việc xác định diện và hàng thừa kế là rất khó khăn. Từ một số tài liệu thủ tục thi hành thừa kế, diện thừa kế ở Anh được xác định trong phạm vi bao gồm: Vợ (chồng), các con, bố mẹ, ông bà, anh chị em, cô dì chú bác ... Nhưng một điều thú vị trong pháp luật Anh là di sản tùy được chia tùy thuộc vào lượng di sản mà người chết để lại (trong trường hợp người chết không để lại di chúc): - Nếu người chết để lại dưới £125,000 thì vợ hoặc chồng hợp pháp sẽ được nhận toàn bộ số tài sản.Nếu tài sản để lại trên £125,000 mà người chết không còn người thân thích nào khác thì vợ (chồng) vẫn thừa hưởng toàn bộ,nếu người chết còn con cái thì vợ (chồng) sẽ thừa hưởng £125,000 và một nửa của phần còn lại,con cái nhận được một nửa của phần còn lại. - Nếu người chết không có con, tài sản có trị giá dưới £200,000 thi vợ (chồng) hợp pháp được nhận toàn bộ, nếu trên £200,000 thì vợ vẫn nhận được £200,000 và một nửa của phần còn lại. Tài sản còn lại được chia đều cho những người thân còn lại theo thứ tự ưu tiên: Bố mẹ, anh em ruột, anh em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha, ông bà, cô dì chú bác, vợ hoặc chồng của cô dì chú bác. - Nếu người chết không có vợ hoặc chồng hợp pháp tài sản sẽ được chia đều cho các con người chết. Nếu họ chết trước người để lại di sản thì các con của họ sẽ được quyền hưởng di sản. - Nếu người chết không có vợ (chồng ) hợp pháp vợ cũng không có con, tài sản sẽ được chia đều theo thứ tự ưu tiên: Bố mẹ, anh em ruột, anh em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha, ông bà, cô dì chú bác, vợ hoặc chồng của cô dì chú bác (có áp dụng qui định về thừa kế thế vị). Có thể thấy rất rõ theo pháp luật Anh, quyền thừa hưởng di sản của vợ (chồng) là rất lớn. Người vợ (chồng) luôn luôn được ưu tiên nhận di sản và nhận được phần di sản nhiều hơn tất cả những người thân thích khác hợp lại. So sánh với các luật thừa kế các nước như Anh, Pháp ,Nga... thì cũng chỉ có luật thừa kế Anh là mối quan hệ hôn nhân được coi trọng hơn mối quan hệ huyết thống. III - Tổng kết: Qua sự nghiên cứu so sánh pháp luật thừa kế của năm quốc gia với năm đặc trưng riêng biệt: Nhật bản đại diện cho quốc gia phương đông, Pháp đại diện cho nước có bộ luật dân sự cổ điển, Iran đại diện cho nước Hồi giáo, Nga đại diện cho nước xã hội chủ nghĩa và Anh quốc là nước có những qui định đặc biệt về thừa kế, em rut ra được một số nhận xét: -Nhìn chung pháp luật hầu hết các nước trên thế giới đều có những qui định về diện thừa kế dựa trên ba mối quan hệ chính: + Mối quan hệ huyết thống được nói đến ở hầu hết quốc gia nhưng đặc biệt được bảo vệ ở Pháp và Nga. + Mối quan hệ hôn nhân được quan tâm chú trọng ở Nhật Iran và đặc biệt là ở Anh. + Mối quan hệ nuôi dưỡng được nhắc đến nhưng chưa rõ ràng, luật pháp Việt Nam qui định khá rõ về mối quan hệ này. - Hầu hết các nước đều có qui định về phân chia diện thừa kế thành các hàng thừa kế, tuy các hàng thừa kế ở mỗi nước không giống nhau nhưng đều có những qui định về ưu tiên thừa kế cho hàng trên trước hàng dưới sau, đều áp dụng các qui định về thừa kế thế vị đối với các hàng thừa kế và phần di sản chia cho những người trong cùng một hàng thừa kế là như nhau. Danh mục tài liệu tham khảo: - Bộ luật Dân sự 1995 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Bộ luật Dân Sự 2005 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Bộ luật Dân Sự của Cộng hòa Pháp, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 - Bộ luật Dân Sự Nhật Bản - Phạm Văn Tuyết (2007), Thừa kế quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, Nxb Chính trị quốc gia - Phùng Trung Tập, Thừa kế theo pháp luật từ 1945 đến nay - Trường đại học Luật Hà Nội(2001), Giáo trình luật Dân Sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân - Trường đại học Luật Hà Nội(2007), Giáo trình luật Dân Sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân - Trường đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật , Nxb Công an nhân dân. - Trường đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Luật Hiến pháp (1998), Nxb Công an nhân dân - Trường đại học Luật Hà Nội (1998), Từ điển luật học, Nxb Công an nhân dân - - -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSo sánh diện và hàng thừa kế theo qui định của pháp luật Việt Nam với qui định của một số nước trên thế giới.doc