So sánh về cơ cấu tổ chức của chính phủ trong các hiến pháp 1946 và năm 1992.

Vì tầm quan trọng của chính phủ trong cấu trúc quyền lực nhà nước, mỗi lần thay đổi hay sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam, thì việc xác định lại vị trí, vai trò của Chính phủ - hành pháp lại nổi lên một cách gay gắt. Cuối cùng cả 4 bản Hiến Pháp của nhà nước ta và kể cả lần sửa đổi mới đây của năm 2001, có tới 5 định nghĩa khác nhau về chính phủ - hành pháp, mỗi lần thay đổi Hiến pháp lại có sự thay đổi về mặt ngôn từ. Nhưng suy cho cùng thì định nghĩa của Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được thông qua dưới sự chỉ đạo một cách sát sao của chủ tịch Hồ Chí Minh là có phần đúng và cô đọng hơn cả. Tóm lại qua những phân tích ở trên ta có thể thấy được phần nào sự phát triển của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ việc so sánh có thể thấy, tuy định hướng nhưng tổ chức quyền lực nhà nước vẫn nhất quán thể hiện bản chất nhân dân, dân tộc giai cấp một cách quyện chặt nhằm “thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” thể hiện tính kế thừa trong sự phát triển và tính phát triển trong sự kế thừa của Chính phủ Việt Nam

doc26 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5050 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu So sánh về cơ cấu tổ chức của chính phủ trong các hiến pháp 1946 và năm 1992., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ứ VI năm 1986 đã mở ra một thời kỳ đổi mới ở đất nước ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những thiếu sót sai lầm của Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tưduy độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động trên cơ sở đó để có những nhận thức mới đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Với đường lối đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định, khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế , Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách này nhằm khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, khơi dậy năng lực trí tuệ, sáng tạo trong các tầng lớp nhân dân lao động, khắc phục cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Thực chất của bước chuyển đổi kinh tế là cuộc cải cách cấu trúc lại nền kinh tế, bắt đầu từ sở hữu: a) Mở đầu quá trình cấu trúc lại kinh tế là những chính sách quan trọng, đột phá về nông nghiệp. Tháng 4-1988, Bộ Chính trị (Khoá VI) ra Nghị quyết 10. Theo Nghị quyết này xã viên hợp tác xã chỉ còn nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng. Sản phẩm còn lại được tự do lưu thông, được bán lúc nào, nơi nào có lợi nhất. (Trước đây Nhà nước thu mua theo giá quy định). Nhờ chính sách này mà thu nhập bình quân của nông dân tăng lên đáng kể. Tốc độ thu nhập bình quân của nông dân từ năm 1987 trở về trước là 1,18%, nhưng chỉ hai năm 1988-1989 tốc độ này đã tăng lên 4,5%. Chỉ sau một năm khi Nghị quyết 10 của Đảng được thực hiện sản lượng lương thực đã tăng từ 19,583 triệu tấn (năm 1988) lên 21,439 triệu tấn (năm 1989). Từ năm 1988 đến năm 1990, diện tích gieo trồng tăng 3,9%1 . Trong nông thôn, số hộ nghèo đói năm 1990 là 34,4%, đến năm 1992, đã giảm xuống 19,6%2 . b) Bên cạnh đổi mới chính sách nông nghiệp, Đảng ta chủ trương đổi mới chính sách kinh tế đối với doanh nghiệp Nhà nước. Đó là chính sách chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, xác lập quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước: Từ năm 1987, các xí nghiệp quốc doanh chuyển sang hạch toán kinh doanh. Ngày 14-11-1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 217-HĐBT về đổi mới kế hoạch hoá và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Ngày 2-12-1989, Hội đồng Bộ trưởng lại ban hành quyết định về những quy định bổ sung Quyết định 217-HĐBT chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Những quyết định này đã chấm dứt tình trạng người lao động thờ ơ với tưliệu sản xuất, thờ ơ với nhu cầu thị trường và sự tiêu thụ sản phẩm. c) Chính sách quan trọng thứ ba trong việc đổi mới nền kinh tế của đất nước là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trước cải cách năm 1988, doanh nghiệp ngoài quốc doanh không được chấp nhận. (Trừ các doanh nghiệp hợp doanh với Nhà nước). Từ năm 1988, các công ty tưnhân bắt đầu hình thành. Các công ty tưnhân có nhiều hình thức: Công ty do một tưnhân làm chủ gọi là doanh nghiệp tư nhân, một số tư nhân làm chủ gọi là công ty trách nhiệm hữu hạn; hoặc bằng cổ phiếu gọi là công ty cổ phần; hoặc công ty theo hình thức hợp tác xã. Năm 1990 đã có 340 công ty tư nhân được thành lập; năm 1991 có 163 và năm 1992 có 1.868 công ty tư nhân được thành lập. d) Chính sách quan trọng thứ tưtrong việc đổi mới nền kinh tế của đất nước là chính sách kinh tế mở cửa với nước ngoài. Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế ở nước ta là nền kinh tế khép kín. Vấn đề xuất khẩu không được Nhà nước quan tâm, không có đầu tư nước ngoài, không hoà nhập được với kinh tế thế giới. Với chính sách kinh tế mở cửa năm 1991, kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 2,08 tỷ USD . Thực hiện chính sách thu hút đầu tưnước ngoài vào Việt Nam. Ngày 29-12-1987, Quốc hội đã thông qua "Luật đầu tưnước ngoài tại Việt Nam". Tiếp đó, ngày 30-6-1990, lại thông qua, "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tưnước ngoài tại Việt Nam" nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc thu hút đầu tưcủa nước ngoài vào nước ta. Ví dụ, khu vực nội địa trả thuế lợi tức doanh nghiệp là 25% đến 45% trong khi đó doanh nghiệp nước ngoài chỉ trả 10% đến 25%. Hơn nữa khu vực nước ngoài lại được hưởng 1 năm đến 4 năm miễn thuế và sau đó 1 đến 4 năm giảm thuế 50%. Nhờ chính sách này mà sự đầu tưnước ngoài vào Việt Nam ngày một gia tăng. Nhờ những chính sách cải cách kinh tế nói trên mà tốc độ phát triển kinh tế của nước ta từ năm 1986 đến năm 1990 là 4,9% và tốc độ lạm phát giảm từ 775% - năm 1986 xuống 17,5% - năm 19922 . Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế vẫn còn nhiều mặt yếu, kém và những khó khăn lớn phải khắc phục. Sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đã có nhưng chưa vững chắc. Kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi phải có sự xác định về mặt pháp lý vị trí, vai trò và sự bình đẳng của chúng trước pháp luật. Trong quản lý kinh tế còn nhiều sơ hở, pháp luật còn thiếu sự đồng bộ, còn mâu thuẫn chồng chéo và thiếu sự ổn định tương đối. Nạn tham nhũng và buôn lậu vẫn tiếp tục hoành hành. Trong lĩnh vực cải cách bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống chính trị và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ VI cũng đã đề ra những định hướng nhất định. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đã chỉ rõ: "Để thiết lập cơ chế quản lý mới cần thực hiện một cuộc cải cách lơn về tổ chức bô máy của các cơ quan Nhà nước" . Về vấn đề này đồng chí Đỗ Mười đã viết: "Cần phải đổi mới căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước ta cũng nhưcủa toàn bộ hệ thống chính trị xã hội. Đổi mới căn bản không có nghĩa là thay đổi bản chất của Nhà nước ta, mà chính là làm cho nó thể hiện ngày càng đầy đủ bản chất dân chủ, nâng cao năng lực quản lý, điều hành, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng xã hội mới. Đổi mới căn bản có nghĩa là không những phải xác định lại chức năng, mối quan hệ giữa các bộ phận trong bộ máy Nhà nước, mà còn phải đổi mới toàn bộ cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của chúng, đảm bảo cho Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý kinh tế - xã hội có hiệu quả; hoạt động trên cơ sở pháp luật và thực hiện được quản lý xã hội bằng pháp luật". - Việc cải cách bộ máy Nhà nước được xác định bằng phương hướng cơ bản: quán triệt yêu cầu dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, tìm tòi những thiết chế mới bảo đảm thực hiện được nguyên tắc "quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân". Một Nhà nước thực sự dân chủ là Nhà nước thể hiện được quyền lực của nhân dân, bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền tự do dân chủ của nhân dân. ở nước ta, nhân dân thực hiện quyền lực của mình chủ yếu thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Vì vậy, phải nhận thức đúng vị trí, vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; cần phải thay đổi tổ chức và hoạt động của các cơ quan này bảo đảm cho chúng thực sự là cơ quan đại diện cho quyền lực của nhân dân. Để Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có đủ năng lực thực hiện vai trò, chức năng của mình, phải xây dựng cơ chế bầu cử thật sự dân chủ, bảo đảm chọn được những đại biểu xứng đáng bầu vào các cơ quan này. Việc giới thiệu người ra ứng cử phải làm từ dưới lên, phổ biến tuyên truyền rộng rãi tiêu chuẩn và yêu cầu đối với người được giới thiệu ra ứng cử, nhưng phải tôn trọng ý kiến của nhân dân, không gò ép . - Yêu cầu dân chủ trong thiết chế, tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước còn đòi hỏi phải xây dựng đúng đắn mối quan hệ giữa các hệ thống cơ quan Nhà nước lập pháp, hành pháp, tưpháp và mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước trung ương với chính quyền địa phương, nhằm đảm bảo sự tập trung thống nhất quyền lực Nhà nước, đồng thời bảo đảm cho các hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập trong việc thực hiện chức năng của mình, bảo đảm cho chính quyền địa phương, cơ sở chủ động, sáng tạo và toàn quyền quản lý trên lãnh thổ. Khác với các Nhà nước tưsản, nơi mà bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực, các quyền lập pháp, hành pháp và tưpháp được trao cho ba hệ thống cơ quan khác nhau, độc lập, chế ngự và đối trọng lẫn nhau. Nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực: "Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa mọi cơ quan bắt nguồn từ cơ quan quyền lực, nhận quyền lực từ nó và chịu sự kiểm tra, giám sát của nó. Hơn nữa, cần phải nhận thức rằng, các cơ quan hành pháp và tư pháp thực hiện chức năng của mình đều nhân danh quyền lực Nhà nước bảo đảm cho quyền lực Nhà nước được thực hiện thống nhất trên các lĩnh vực này. Như vậy, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, có quyền lập pháp và kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp và tưpháp. Mặt khác, cũng cần nhận thức rằng, để Nhà nước hoạt động có hiệu quả phải có thiết chế tổ chức và cơ chế hoạt động sao cho vừa bảo đảm được sự tập trung thống nhất quyền lực, vừa có sự phân công, phân biệt rõ ràng về mặt chức năng giữa các hệ thống cơ quan Nhà nước; đồng thời phải có cơ sở pháp lý và tổ chức bảo đảm cho mỗi hệ thống cơ quan độc lập và chủ động trong việc thực hiện chức năng của mình, không có sự lấn át giữa cơ quan này với cơ quan khác". - Yêu cầu dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước đòi hỏi Nhà nước phải thể chế hoá một cách đầy đủ các quyền tự do dân chủ cũng như các nghĩa vụ của công dân vào Hiến pháp và tạo điều kiện để mọi thành viên trong xã hội có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ đó trên thực tế. - Cùng với việc đổi mới chế độ kinh tế, cải cách bộ máy Nhà nước, vấn đề hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa cũng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Cần phải phân định chức năng của Đảng và Nhà nước, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước. "Thực tiễn cách mạng nước ta chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn của một Đảng vững mạnh, kiên cường là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng. Tuy nhiên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, sự phân định chức năng của Đảng và Nhà nước ngày càng trở nên cấp thiết. Sự lẫn lộn chức năng giữa Đảng và Nhà nước dẫn đến tình trạng Đảng vừa bao biện làm thay vừa buông trôi, khoán trắng cho Nhà nước làm cho Nhà nước khó phát huy vai trò của mình". Đảng là lực lượng lãnh đạo chính trị, nhưng vai trò đó trong giai đoạn giành được chính quyền thể hiện khác với giai đoạn chưa giành được chính quyền. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền Đảng định ra đường lối chiến lược, sách lược đấu tranh đồng thời Đảng là bộ chỉ huy, bộ tham mưu của cuộc đấu tranh đó. Đảng trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang. Khi đã giành được chính quyền Đảng không thể lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo xã hội với tưcách là trung tâm điều hành trực tiếp nhưtrước. Không thể hiểu một cách giản đơn và siêu hình rằng, "Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng trực tiếp quyết định mọi việc của Nhà nước có thể lấy nghị quyết, chỉ thị của Đảng thay cho pháp luật của Nhà nước, cơ quan Đảng là cấp trên của cơ quan Nhà nước" , v.v.. - Cùng với việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống chính trị; mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã hoạch định một đường lối đối ngoại rộng mở. Đó là thiết lập các quan hệ hoà bình, hợp tác, hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi. Với tinh thần của Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI, Quốc hội khoá VII, tại Kỳ họp thứ 3 ngày 22-12-1988 đã ra nghị quyết sửa đổi lời nói đầu, không chỉ rõ đích danh thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bành trướng Trung Quốc cho phù hợp với quan hệ đối ngoại tốt đẹp đang mở ra giữa ta với nước Cộng hoà Pháp, hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Ngày 30-6-1989, Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá VIII ra Nghị quyết sửa đổi 7 điều: 57, 115, 116, 118, 122, 123, 125, để xác định thêm quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của công dân và thành lập thêm Thường trực Hội đồng nhân dân trong cơ cấu của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Đồng thời trong kỳ họp này Quốc hội đã ra Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu của tình hình kinh tế - xã hội mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp được thành lập bao gồm 28 người do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch. Uỷ ban dự thảo Hiến pháp đã họp nhiều phiên để chỉnh lý, bổ sung và thông qua toàn văn dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Cuối năm 1991 đầu năm 1992, bản dự thảo Hiến pháp lần thứ ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân và ý kiến của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương, dự thảo Hiến pháp lần 4 đã hoàn thành và được trình Quốc hội khoá VIII, tại Kỳ họp thứ 11 xem xét. Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi với những chỉnh lý, bổ sung nhất định, ngày 15-4-1992, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Bản Hiến pháp này là bản Hiến pháp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Đúng nhưnhận xét của đồng chí Đỗ Mười Tổng Bí thưBan Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Hiến pháp 1992 là "sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước". Vào thời điểm Quốc hội thông qua Hiến pháp, thực dân Pháp phản bội các hiệp định đã ký kết với Chính phủ ta, chúng không ngừng khiêu khích và tấn công chúng ta bằng vũ lực, hòng lập lại ách thống trị của chúng ở Việt Nam. Trước tình hình đó, trong phiên họp ngày 9-11-1946, sau khi tuyên bố Hiến pháp đã trở thành chính thức, Quốc hội ra Nghị quyết giao nhiệm vụ cho Ban thường trực Quốc hội cùng với Chính phủ ban bố và thi hành Hiến pháp khi có điều kiện thuận lợi. Theo Nghị quyết của Quốc hội trong điều kiện chưa thi hành được Hiến pháp thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã quy định trong Hiến pháp để ban hành các sắc luật. Ngày 19-12-1946, mười ngày sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến tranh mà Hiến pháp 1946 không được chính thức công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân không có điều kiện thực hiện. Tuy nhiên Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung của Hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 (TNĐL) của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được mở đầu bằng câu nổi tiếng về nhân quyền trích Tuyên ngôn Độc lập nước Mỹ năm 1776: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Hiến pháp năm 1946 (HP 46), hiến pháp đầu tiên của nước ta đã cụ thể hoá các quyền con người mà bản Tuyên ngôn Độc lập đã long trọng xác nhận. Nội dung Hiến pháp được xuyên suốt bởi quan điểm như đã được ghi ở điều 1: "Nước VN là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân VN, không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Ngay từ khi ra đời, Nhà nước cách mạng VN đã là một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đó là nhà nước mà toàn bộ hoạt động của nó chỉ hướng tới mục đích duy nhất là xác lập, bảo vệ và không ngừng mở rộng quyền làm người cho công dân VN. Quá trình tồn tại, phát triển của Nhà nước Cách mạng VN gắn liền với quá trình mở rộng không ngừng và bảo vệ nghiêm ngặt nhân quyền được thể hiện trong các hiến pháp tiếp theo HP 46. Quyền làm người của công dân VN còn được cụ thể hoá và được bảo vệ bằng toàn bộ hệ thống pháp luật của Nhà nước VN. Mọi bộ luật, mọi đạo luật, mọi điều luật của hệ thống pháp luật của Nhà nước VN đều hưóng tới sự mở rộng và bảo vệ nghiêm ngặt quyền làm người của công dân VN. Mọi hoạt động của Đảng cầm quyền, của các cơ quan nhà nước, của mọi viên chức đều phải lấy việc mở rộng và bảo vệ nghiêm ngặt quyền làm người của công dân VN làm mục tiêu phục vụ cao nhất. Các hành vi như: quan liêu, cậy quyền,cấm đoán... về bản chất đều là những hành vi vi phạm quyền con người, cho dù người vi phạm chưa nhận thức ra điều đó. Đấu tranh xác lập, bảo vệ và mở rộng quyền con người là cuộc trường chinh của cả nhân loại. Đó cũng là động lực, mục tiêu đấu tranh để đưa loài người phát triển đến những đỉnh cao mới. Cuộc đấu tranh giành quyền làm người của nhân dân và các dân tộc VN đã được bắt đầu từ thuở Vua Hùng dựng nước. Nhưng phải đến khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản VN và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền làm người của công dân VN mới được ghi nhận rõ ràng trong HP 46. Từ đó đến nay đã 60 năm trôi qua. Quyền con người được ghi trong HP 46 không ngừng được mở rộng. Tuy vậy công cuộc đấu tranh nhằm xác lập, bảo vệ quyền con người của công dân VN vẫn đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng. Đó là âm mưu của các thế lực thù địch từ nước ngoài lợi dụng chiêu bài bảo vệ nhân quyền để vi phạm chủ quyền của VN.Sự vi phạm nhân quyền còn xảy ra trong nội bộ dưới những hành vi vi phạm pháp luật của những phần tử thoái hoá trong bộ máy nhà nước và trong nhân dân. Cuộc đấu tranh bảo vệ nhân quyền với cuộc đấu tranh phát triển đất nước luôn luôn phải được tiến hành một cách hài hoà, cân đối. Đó là bài học bất biến của xã hội VN mà HP 46 đã đặt nền móng cho sự phát triển đi lên không ngừng của nước VN. Một số vấn đề cơ bản về Chính phủ Việt Nam Đã có nhiều những định nghĩa, mô hình tổ chức Chính phủ khác nhau trên thế giới, nhưng được quy về những mô hình nhất định, thực chất là đi tìm điểm chung của những Chính phủ cụ thể để mà nhận thức, còn trên thực tế dù với mô hình Tổng thống P.H. Thái / Tạp ch+ Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 201-205 202 (chế độ hành pháp một đầu) hay mô hình hành pháp hai đầu (Tổng thống và Chính phủ), v.v... thì cũng có vô số những biến thể của nó, không nước nào giống nước nào một cách nguyên mẫu và cũng sẽ chẳng bao giờ có được một mô hình hoàn bị nhất trên thực tiễn, nếu có chỉ là trong sự tưởng tượng của con người. Do đó, trong nhận thức không nên thần thánh hóa bất kỳ một mô hình Chính phủ nào, mỗi mô hình có những ưu điểm và hạn chế nhất định của nó, cùng một mô hình nhưng phù hợp với quốc gia này, nhưng lại không phù hợp với quốc gia khác, điều này do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan quyết định, đặc biệt là yếu tố văn hóa. Về Chính phủ, chỉ nói riêng Việt Nam mỗi Hiến pháp có một quan niệm khác nhau, Hiến pháp 1946: Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước; Hiến pháp 1959: Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; Hiến pháp 1980: Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) lại quy định: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Những quy định Hiến pháp khác nhau này là điểm đánh dấu cho những tìm tòi suy ngẫm đã được đúc kết cả về mặt nhận thức và thực tiễn và đồng thời cũng phản ánh xu hướng lý thuyết mà chúng ta tiếp nhận để hình thành nên lý thuyết của mình về Chính phủ. Nhưng những quy định này cũng chỉ ra điều là chúng ta đang nhận thức lại Chính phủ, lại phương thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, về địa vị chính trị - hiến pháp của Chính phủ. Về địa vị chính trị - hiến pháp của Chính phủ theo Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có những tương đồng với địa vị chính trị - hiến pháp của Hiến pháp 1959, ở đây thể hiện tính chu kỳ của nhận thức, đã quay được ½ chu kỳ nếu lấy Hiến pháp 1946 làm mốc và coi đó là một chu kỳ, giống như một chu kỳ của tự nhiên, của đời người là 60 năm. Với những quy định của Hiến pháp 1992 về Chính phủ nhiều tài liệu đã bình luận là Hiến pháp 1992 đã đi theo hướng đề cao vai trò của người đứng đầu Chính phủ, nhưng vẫn đảm bảo Chính phủ là một thể chế làm việc theo chế độ tập thể, nhưng những người nghiên cứu đều nhận thấy rằng chế độ lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách của Thủ tướng, các Phó thủ tướng, Bộ trưởng đều không có sự rõ ràng về mặt pháp lý. Khi Chính phủ là một tập thể thì mọi thành viên Chính phủ đều ngang quyền, đều có quyền bàn bạc và biểu quyết để thông qua mọi quyết định thuộc thẩm quyền, theo quy tắc đa số, những cũng có ngoại lệ khi số phiếu đồng ý và không đồng ý ngang nhau thì quyết định sẽ thuộc vào bên nào có ý kiến của Thủ tướng. Một quy phạm có tính hình thức, thực tiễn khó có thể xảy ra điều này. Nếu Chính phủ là một tập thể thì mọi vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ đều phải được bàn bạc tập thể, và biểu quyết theo đa số (ở đây không có khái niệm việc lớn, việc nhỏ). Chính vì lôgíc đó nên quy định: có những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ, nhưng xét thấy không cần thiết phải bàn bạc tập thể thì do Thủ tướng quyết định. Cái không rõ ràng, minh bạch mập mờ về pháp lý và tất yếu diễn ra trên thực tế là ở chính điểm này, và như vậy Thủ tướng lại chính là Chính phủ, chứ không phải là “bộ trưởng thứ nhất” để lãnh đạo, điều hành Chính phủ. Cũng chính do Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể và để đảm bảo sự hoạt động thường xuyên liên tục của thể chế này nên Chính phủ phải thường xuyên họp. Họp là một hình thức của quản lý nhà nước, không thể coi nhẹ hình thức này. Thời phong kiến có hình thức thiết triều, thời nay gọi là họp để giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động, điều hành đất nước. Cơ cấu tổ chức của chính phủ trong các hiến pháp 1946 và năm 1992. tập quyền”mềm” nghĩa là quyền lực nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân chia chức năng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy hiến pháp năm 1992 quy định chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nhà nước CHXHCNVN”. Với quy định này chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nhà nước chứ không phải của Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính nhà nước. Quyền hạn của thủ tướng chính phủ được tăng cường hơn trước so với hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980. Như vậy bắt đầu từ sự thay đổi trong hình thức tổ chức nhà nước cơ cấu chính phủ của HP 1946 với cơ cấu chính phủ của HP 1992 có những nét khác nhau khá cơ bản. Sau đây ta đi so sánh sự khác nhau của chúng ở những điểm cơ bản sau: cơ cấu tổ chức chính phủ HP 1946 1992 vị trí Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà (43) Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (109) thành viên, cơ quan Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Phó chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng. (44) Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ, không phải chịu trách nhiệm trước nghị viện. Chính phủ do Nghị viện thành lập và Nội các phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội. Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Chính phủ. (110) Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan. (111) nhiệm kỳ Chủ tịch nước Việt Nam được bầu trong thời hạn 5 năm và có thể được bầu lại. (45) Nhiệm kỳ của Phó chủ tịch theo nhiệm kỳ của Nghị viện. (46) Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới. (113) (5 năm) hình thức chọn Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong Nghị viện nhân dân và phải được hai phần ba tổng số nghị viện bỏ phiếu thuận. Quốc hội: Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; (7-84) Nếu bỏ phiếu lần đầu mà không đủ số phiếu ấy, thì lần thứ nhì sẽ theo đa số tương đối. Trong vòng một tháng trước khi hết nhiệm kỳ của Chủ tịch, Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện để bầu Chủ tịch mới. (45) Phó chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong nhân dân và bầu theo lệ thường. Khi Chủ tịch từ trần hay từ chức thì Phó chủ tịch tạm quyền Chủ tịch. Chậm nhất là hai tháng phải bầu Chủ tịch mới. (46) Chủ tịch nước Việt Nam chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Nếu được Nghị viện tín nhiệm, Thủ tướng chọn các Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết toàn thể danh sách. Thứ trưởng có thể chọn ngoài Nghị viện và do Thủ tướng đề cử ra Hội đồng Chính phủ duyệt y. Chính phủ: Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; (3-114) Nhân viên Ban thường vụ Nghị viện không được tham dự vào Chính phủ. (47) Nếu khuyết Bộ trưởng nào thì Thủ tướng thoả thuận với Ban thường vụ để chỉ định ngay người tạm thay cho đến khi Nghị viện họp và chuẩn y. (48) Hiến pháp 1946 gọi nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch nước. Theo quy định của hiến pháp Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ. Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946 do Nghị viện (Quốc hội) bầu ra và phải được 2/3 tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận. Chỉ tịch nước được bầu trong 5 năm và có thể bầu lại. Nội dung này được thể hiện tại điều 45 - Hiến pháp 1946. Chủ tịch nước được Hiến pháp 1946 ghi nhận quyền hạn rất lớn ( Điều 49): có quy định Chủ tịch nước là người thay mặt cho nhà nước; giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc; chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân; ký sắc lệnh bổ nhiệm thủ tướng, nhân viên nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ; chủ tọa Hội đồng Chính phủ; ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị; thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự; đặc xá; ký hiệp ước với các nước; phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước; tuyên chiến hay đình chiến khi Nghị viện không họp được. Vai trò của Chủ tịch nước còn được đề cao tại Điều 36 - Hiến pháp 1946 khi có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận những luật đã được Nghị viện biểu quyết. Quy định này của Hiến pháp nhằm tạo ra cơ chế kiềm chế đối trọng giữa các quyền lực trong cơ cấu quyền lực để tránh sự lạm quyền của Nghị viện và đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và tính khả thi của các đạo luật. Với cương vị là người đứng đầu cơ quan hành pháp - cơ quan trực tiếp thự hiện pháp luật thì việc Hiến pháp quy định quyền này cho Chủ tịch nước thực sự là một tư tưởng mềm dẻo về sự phân công quyền lực. Tuy nhiên việc quy định này chỉ phù hợp trong điều kiện lúc đó. Nhiệm kì của Chủ tịch nước là 5 năm. 1 đến Điều 70). Xét về hình thức, việc ghi nhận chế định nguyên thủ quốc gia thành một chương riêng trong Hiến pháp chứng tỏ Hiến pháp 1992 có sự đổi mới rõ rệt so với Hiến pháp 1946. Nguyên thủ quốc gia tại Hiến pháp 1992 được coi là Chủ tịch nước. Hiến pháp 1992 coi Chủ tịch nước và Chính phủ là hai chế định khác nhau, lúc này Chủ tịch nước không còn là người đứng đầu Chính phủ nữa mà chỉ là người thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Tuy nhiên, trong Hiến pháp 1992 quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn rất lớn như thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức vụ chủ tịch Hội đồng quốc phòng (Điều 102); Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ. (Điều 105); Hiến pháp 1992 với mục đích đề cao vai trò của tập thể đã chuyển một số quyền hạn của Chủ tịch nước được ghi nhận tại Hiến pháp 1946 sang cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, bên cạnh đó lại quy định những quyền hạn khác của Chủ tịch nước mang tính chất thủ tục như công bố luật, pháp lệnh, công bố các lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ,…(Điều 103). Nhìn chung, Hiến pháp 1992 không quy định Chủ tịch nước có quyền giải quyết những vấn đề cụ thể mà Chủ tịch nước chỉ có quyền công bố các quyết định được thông qua bởi cơ quan khác. Tại điều 102 Hiếp pháp 1992 quy định Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra, có nhiệm kỳ bằng nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm. Đây là điểm khác biệt của Hiến pháp 1992 với Hiếp pháp 1946. Trong Hiến pháp 1992, chế định Chủ tịch nước còn hạn chế bởi việc không quy định ứng cử viên Chủ tịch nước phải là đại biểu Quốc hội, được chọn trong số các nghị sỹ của Nghị viện nhân dân như Hiến pháp 1946. Với việc quy định và ghi nhận chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp 1992 thực sự là bản hiến pháp được xây dựng theo mô hình hiến pháp xã hội chủ nghĩa, thể hiện được bản chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân lao động, do dân lao động và vì nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân. Như vậy, theo HP 1946 thì nguyên thủ quốc gia (chủ tịch nước) thuộc cơ cấu chính phủ và đứng đầu chính phủ. Nhưng trong Hiến pháp 1992, chủ tịch nước được quy định thành một chế định riêng tại “Chương VII. Chủ tịch nước ”. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, mà không đứng đầu chính phủ, lãnh đạo chính phủ như trước. Vì vậy, thẩm quyền của Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1992 bị hạn chế nhiều so với Hiến pháp 1946. Những đặc quyền của Chủ tịch nước được quy định trong Hiến pháp 1946 như: quyền yêu cầu nghị viện thảo luận lại những luật và nghị quyết mà Nghị việc đã thông qua; quyền không phải chịu một trách nhiệm nào ngoài tội phản bội Tổ quốc…đến Hiến pháp năm 1992 không còn nữa 2.1 Chính phủ trong hiến pháp 1946 có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Quyền hạn của Chính phủ: a) Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện. b) Đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện. c) Đề nghị những dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt. d) Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần. đ) Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn. e) Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn đất nước. g) Lập dự án ngân sách hàng năm. Chính phủ trong hiến pháp 1992 có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức Nhà nước; 2- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân; 3- Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội; 4- Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước; 5- Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường; 6- Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước; 7- Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra Nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; 8- Thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước; ký kết, tham gia, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài; 9- Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; 10- Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 11- Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả. Nhiệm vụ quyền hạn của thủ tướng chính phủ Theo điều 114 hiếp pháp1992 Thủ tướng Chính phủ có những quyền hạn và nhiệm vụ sau đây 1- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ; 2- Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ; trình Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ; 3- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 4- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên; 5- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ; 6- Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết. Ngoài ra theo điều 15 của hiến pháp 1992 thỡ căn cứ vào hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh nghị, quyết của UBTVQH, lệnh, quyết đinh của Chủ tịch nước, Chính phủ ra nghị quyêt, nghị định, Thủ tướng chính phủ ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. Nhiệm vụ và quyền hạn của bộ và cơ quan ngang bộ + Theo điều 116 hiến pháp 1992 thì Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về lĩnh vực, ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước, bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ ra quyết định, chỉ thị, thông tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở. + Theo nghị định số 30/2003/NĐ-CP quy định về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan thuộc Chính phủ quy định về nhiệm vụ quyền hạn của thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ như sau: Nhiệm vụ, quyền hạn chung     1. Về chiến lược, chương trình, quy hoạch, kế hoạch :     a) Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, các chương trình, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm, các dự án quan trọng của cơ quan; tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, chương trình, kế hoạch sau khi được phê duyệt;     b) Tham gia thẩm định các đề án, dự án quan trọng thuộc chuyên môn, nghiệp vụ theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;     c) Quyết định các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật.     2. Ban hành, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm chuyên môn, nghiệp vụ và định mức kinh tế - kỹ thuật được áp dụng trong các tổ chức, đơn vị trực thuộc theo quy định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực;     3. Về hợp tác quốc tế :     a) Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ việc đàm phán, ký, gia nhập, phê duyệt điều ước quốc tế theo quy định của pháp luật;     b) Tổ chức thực  hiện các điều ước quốc tế theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;       c) Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các chương trình, dự án quốc tế tài trợ theo quy định của pháp luật;     d) Cử cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý và đoàn công tác ra nước ngoài theo kế hoạch hợp tác quốc tế;     đ) Tham gia các hội nghị, hội thảo, chương trình, kế hoạch hợp tác quốc tế theo quy định của pháp luật.     4. Quyết định và chỉ đạo việc thực hiện chương trình cải cách hành chính theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.     5. Hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện dịch vụ công theo quy định của pháp luật.     6. Về chế độ thông tin, báo cáo :     a) Tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các nhiệm vụ chính trị, chính sách, chế độ và pháp luật của nhà nước thuộc ngành, lĩnh vực được giao     b) Thực hiện chế độ báo cáo với Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực theo quy định của Chính phủ.     7. Về tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức, viên chức nhà nước :     a) Trình Chính phủ ban hành nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan;     b) Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định về thành lập mới, tổ chức lại, giải thể các tổ chức, đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của cơ quan;     c) Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ công tác của các tổ chức, đơn vị trực thuộc;     d) Trình Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ;     đ) Bổ nhiệm có thời hạn 5 năm (hết thời hạn đó sẽ tiến hành bổ nhiệm lại), miễn nhiệm, kỷ luật người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu các tổ chức, đơn vị trực thuộc theo quy định của pháp luật; quy định thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức, đơn vị trực thuộc;     e) Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp cụ thể để tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền; chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong hoạt động của cơ quan;     g) Tổ chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, sử dụng, điều động, luân chuyển, nghỉ hưu, khen thưởng, kỷ luật và các chế độ khác đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc thẩm quyền quản lý theo quy định của pháp luật;     h) Kiểm tra việc chấp hành chính sách, pháp luật và nhiệm vụ được giao đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc thẩm quyền quản lý; giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan tới cán bộ, công chức thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật.     8. Về quản lý tài chính, tài sản :     a) Xây dựng dự toán ngân sách hàng năm của cơ quan để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;     b) Quyết định phân bổ, kiểm tra việc chi tiêu, chịu trách nhiệm quyết toán và có quyền điều chỉnh trong phạm vi tổng mức thu chi tài chính được phê duyệt để thực hiện nhiệm vụ được giao nhưng không được thay đổi mục tiêu kế hoạch được duyệt;     c) Thực hiện công tác quản lý tài chính, kế toán theo quy định của pháp luật;     d) Quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản nhà nước giao. Nhiệm vụ, quyền hạn riêng của một số cơ quan thuộc Chính phủ     1. Chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác theo phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;     2. Tổ chức thực hiện việc giám định, đăng ký, cấp giấy phép, văn bằng, chứng chỉ, xếp hạng tổ chức và một số nghiệp vụ khác theo quy định của pháp luật;     3. Kiểm tra, thanh tra theo ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách đối với tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật; kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xử lý theo thẩm quyền đối với những quy định do bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành trái với các luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác về ngành, lĩnh vực do cơ quan phụ trách;     4. Thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể về đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật;     Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng một số nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này trong nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng cơ quan thuộc Chính phủ. Ví dụ về nhiệm vụ và quyền hạn của bộ tư pháp Nghị định số 63/2003/NĐ-CP quy định về nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ tư pháp. Theo điều 2 thì bộ tư pháp có nhiệm vụ và quyền hạn sau: 1. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ; 2. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch sau khi được phê duyệt và các văn bản pháp luật khác thuộc phạm vi quản lý của Bộ; 3. Về công tác xây dựng pháp luật: a) Lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh về những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ và theo dõi việc thực hiện chương trình đó sau khi được quyết định; b) Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác về các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ và các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; c) Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ; d) Trực tiếp tham gia xây dựng các dự án luật, pháp lệnh do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chủ trì soạn thảo; đ) Thẩm định các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo điều ước quốc tế theo quy định của pháp luật; e) Hướng dẫn, kiểm tra công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật; thực hiện rà soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế thuộc các lĩnh vực quản lý của Bộ; 4. Về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật: a) Thống nhất quản lý công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; hướng dẫn, kiểm tra công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; b) Thực hiện kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành về những nội dung liên quan đến các lĩnh vực quản lý nhà nước do Bộ phụ trách; c) Giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định của Pháp luật; kiến nghị xử lý, xử lý theo thẩm quyền hoặc xử lý theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ các văn bản trái pháp luật. 5. Về phổ biến giáo dục pháp luật: a) Thống nhất quản lý công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; b) Thông tin pháp luật, biên soạn, xuất bản, phát hành các tài liệu phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; c) Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ; d) Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp và trường học; 6. Về thi hành án dân sự: a) Thống nhất quản lý công tác thi hành án dân sự b) Quản lý thống nhất hệ thống tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự từ Trung ương đến địa phương theo quy định của pháp luật; c) Chỉ đạo việc thi hành án và trực tiếp thi hành các bản án, quyết định của Toà án theo quy định của pháp luật, 7. Thống nhất quản lý về công chứng, chứng thực, hộ tịch, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, quốc tịch, lý lịch tư pháp và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong các lĩnh vực này theo quy định của pháp luật; 8. Thống nhất quản lý về tổ chức và hoạt động của luật sư trong nước, luật sư nước ngoài tại Việt Nam; về tổ chức và hoạt động tư vấn pháp luật, hoạt động giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật; 9. Thống nhất quản lý và thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, đối tượng chính sách và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật; quản lý, sử dụng Quỹ trợ giúp pháp lý của Trung ương và hướng dẫn việc sử dụng các nguồn tài trợ trợ giúp pháp lý ở địa phương; 10. Thống nhất quản lý về đăng ký giao dịch bảo đảm; thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, tài sản cho thuê tài chính và các giao dịch, tài sản khác theo quy định của pháp luật 11. Hướng dẫn, kiểm tra về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở; 12. Thống nhất quản lý các hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật; thực hiện hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật. Thực hiện việc cấp ý kiến pháp lý cho các dự án theo quy định của pháp luật; tham gia giải quyết các mặt pháp lý các tranh chấp quốc tế có liên quan tới Việt Nam theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; 13. Nghiên cứu khoa học pháp lý; phát triển và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học pháp lý trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ; 14. Xây dựng và phát triển các cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy phạm pháp luật, giao dịch bảo đảm, công chứng, hộ tịch, lý lịch tư pháp và các cơ sở dữ liệu khác theo quy định của pháp luật; 15. Quyết định các chủ trương, biện pháp cụ thể và chỉ đạo việc thực hiện cơ chế hoạt động của các tổ chức dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật; quản lý và chỉ đạo đối với các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ; 16. Quản lý nhà nước đối với hoạt động của hội, tổ chức phi Chính phủ thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật; 17. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý các vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ; 18. Về cải cách hành chính: a) Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả cải cách thể chế hành chính nhà nước; b) Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Bộ theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính của Bộ theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; 19. Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, chỉ đạo thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ chính sách đãi ngộ, khen thường, kỷ luật đối với cán bộ, công chức thuộc phạm vi quản lý của Bộ; xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp và bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ; đào tạo cán bộ pháp lý, đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp theo quy định của pháp luật; 20. Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ theo quy định của pháp luật. Kết Luận Vì tầm quan trọng của chính phủ trong cấu trúc quyền lực nhà nước, mỗi lần thay đổi hay sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam, thì việc xác định lại vị trí, vai trò của Chính phủ - hành pháp lại nổi lên một cách gay gắt. Cuối cùng cả 4 bản Hiến Pháp của nhà nước ta và kể cả lần sửa đổi mới đây của năm 2001, có tới 5 định nghĩa khác nhau về chính phủ - hành pháp, mỗi lần thay đổi Hiến pháp lại có sự thay đổi về mặt ngôn từ. Nhưng suy cho cùng thì định nghĩa của Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được thông qua dưới sự chỉ đạo một cách sát sao của chủ tịch Hồ Chí Minh là có phần đúng và cô đọng hơn cả. Tóm lại qua những phân tích ở trên ta có thể thấy được phần nào sự phát triển của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ việc so sánh có thể thấy, tuy định hướng nhưng tổ chức quyền lực nhà nước vẫn nhất quán thể hiện bản chất nhân dân, dân tộc giai cấp một cách quyện chặt nhằm “thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” thể hiện tính kế thừa trong sự phát triển và tính phát triển trong sự kế thừa của Chính phủ Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSo sánh về cơ cấu tổ chức của chính phủ trong các hiến pháp 1946 và năm 1992.doc
Luận văn liên quan