Qua việc nghiên cứu sự biến đổi tài nguyên RNM ở ĐBSCL và đề xuất một số
hướng bảo tồn, phát triển, có thểrút ra một sốkết luận sau: 
- ĐBSCL là vùng có diện tích RNM lớn nhất cảnước. Tuy nhiên, diện tích rừng 
này đang suy giảm dần theo thời gian do nhiều nguyên nhân. 
- Trên cơ sở những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động tài nguyên RNM ở
ĐBSCL mà đưa ra một số định hướng bảo tồn và phát triển RNM nhằm mục đích nâng 
cao độ che phủ rừng. Từ đó, góp phần giúp cho ĐBSCL phát triển theo hướng bền 
vững.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5314 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự biến đổi tài nguyên rừng ngập mặn ở đồng bằng sông cửu long và định hướng bảo tồn, phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
135 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 48, 2008 
SỰ BIẾN ĐỔI TÀI NGUYÊN RỪNG NGẬP MẶN Ở ĐỒNG BẰNG 
SÔNG CỬU LONG VÀ ĐNNH HƯỚNG BẢO TỒN, PHÁT TRIỂN 
 Trần Thị Hồng Sa 
 Trường Đại học Quy Nhơn 
Hà Văn Hành 
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế 
TÓM TẮT 
Rừng ngập mặn có vai trò rất lớn trong việc đảm bảo chức năng cân bằng sinh thái cho 
vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, diện tích rừng 
này đang biến động theo hướng tiêu cực. Muốn bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng ngập mặn 
ở ĐBSCL theo chúng tôi cần thực thi một số giải pháp bảo tồn và phát triển . Có như vậy thì tài 
nguyên rừng ngập mặn mới ngày càng phát triển và phát huy hết chức năng của nó. 
1. Đặt vấn đề 
Rừng ngập mặn (RNM) là loại rừng có vai trò rất lớn trong việc bảo đảm cân bằng 
sinh thái cho vùng đất ngập nước ven biển đồng thời bảo vệ sự ổn định của đới bờ biển. 
Việt Nam là nước có đường bờ biển lớn, việc bảo tồn và phát triển RNM vừa là 
điều kiện vừa là yêu cầu rất cấp thiết, nhất là trong thời gian có sự biến đổi khí hậu lớn 
trên toàn cầu như hiện nay. 
Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) đã từng là nơi có diện tích RNM đứng thứ 
2 thế giới sau RNM Amazôn. Nhưng hiện nay, tài nguyên RNM ở đây đang biến đổi 
mạnh và chủ yếu theo hướng tiêu cực, gây ra những hậu quả xấu đối với môi trường 
sinh thái và nền kinh tế. Vì vậy, việc nghiên cứu sự biến đổi tài nguyên rừng ngập mặn 
ở ĐBSCL và định hướng bảo tồn, phát triển được đặt ra cấp thiết. 
2. Nội dung 
2.1. Tổng quan tài nguyên rừng ngập mặn đồng bằng Sông Cửu Long 
RNM là một hệ thực vật thân gỗ ưa 
muối, mọc ở bờ biển hay cửa sông nông, chúng 
bị ảnh hưởng của nước thủy triều và nằm ở ven 
bờ biển của các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. 
Ở Việt Nam, RNM phân bố dọc ven biển từ Bắc 
vào Nam, nhưng chủ yếu tập trung ở các tỉnh 
ven biển ĐBSCL (bảng 1) 
Ảnh 1. Rừng ngập mặn 
136 
Bảng1. Diện tích RNM của các tỉnh ven biển ĐBSCL (năm 2002) 
STT Tỉnh Diện tích RNM (ha) Tỉ lệ (%) so với cả nước 
1 Long An 400 0,2 
2 Tiền Giang 560 0,4 
3 Bến Tre 7.135 4,6 
4 Trà Vinh 8.582 5,5 
5 Sóc Trăng 2.943 1,9 
6 Bạc Liêu 4.142 2,7 
7 Cà Mau 58.285 37,5 
8 Kiên Giang 322 0,2 
Tổng cộng 82.369 53 
* Nguồn [3, tr 116] 
RNM có những đặc trưng sinh thái khá đặc biệt. Do sống trong môi trường thủy 
triều cùng với bùn nhão nên hệ rễ chống rất phát triển. Hơn nữa, lượng ôxi trong bùn rất 
ít, nên nhiều cây đã hình thành hệ rễ thở (rễ hô hấp) mọc nhô cao lên khỏi mặt đất nhằm 
trao đổi khí cho cây. Đặc biệt, cây ngập mặn có hiện tượng sinh con (nảy mầm) trên cây 
mẹ khá phổ biến như Đước, Mắm, Dà, Vẹt... 
RNM ở ĐBSCL có các kiểu diễn thế sinh thái sau: 
+ Kiểu 1: Mắm trắng, bần đắng - rừng hỗn hợp: Gặp ven biển ĐBSCL trên các 
bãi bồi mới nổi lên. 
+ Kiểu 2: Mắm trắng - đước - vẹt: Thường gặp ở vùng Năm Căn, Cà Mau. 
+ Kiểu 3: Mắm trắng tiên phong  đước bột  giá: Gặp ở vùng từ Rạch Giá 
đến Hà Tiên. 
Các diễn thế này bị tác động của con người, rừng bị mất và sau một thời gian 
các cây RNM bắt đầu xuất hiện lại để hình thành các kiểu diễn thế thứ sinh. Trong các 
diễn thế thứ sinh có thể xuất hiện các quần thể thoái hóa như quần thể chà là, ráng dại… 
RNM có ý nghĩa nổi bật nhất là giữ chặt đất và cố định được các bãi bồi ven 
biển. Do chúng có thể chắn được sóng và gió nên đất từ ven bờ bị bào mòn sẽ được 
đọng và giữ lại, không bị sóng đánh cuốn trôi ra xa bờ. RNM là một cảnh quan sinh thái 
cho các loại hải sản, là nơi sinh đẻ cho các loài sinh vật, nhất là tôm, cua, chim biển… 
Giai đoạn tiên phong 
(mắm trắng, bần đắng) 
Giai đoạn cố định 
(mắm đen, mắm trắng, 
dà, xu, đước bột, dừa) 
Giai đoạn cuối 
(xu, giá, chà là) 
Giai đoạn tiên 
phong 
Giai đoạn cố định 
(đước, vẹt tách) 
Giai đoạn cuối 
(cóc, vẹt trụ, vẹt khoang) 
Giai đoạn tiên phong 
(mắm trắng, bần đắng) 
137 
2. 2. Sự biến đổi tài nguyên RNM ở ĐBSCL 
a. Sự biến đổi về diện tích 
Nhìn chung sự biến đổi diện tích RNM theo hướng thu hẹp và tốc độ thu hẹp 
khác nhau qua các năm, được thể hiện trong bảng 2. 
Bảng 2: Diện tích RNM ở ĐBSCL qua các năm 
Năm 1950 1983 1988 1992 1999 2001 2002 
Diện tích (ha) 250.000 126.000 93.000 78.000 27.824 45.790 82.369 
* Nguồn: Phân viện điều tra quy hoạch rừng II 
Đến năm 2002, diện tích RNM là 82.369 ha, chiếm tới 53% tổng diện tích RNM 
cả nước. Tuy nhiên, so với 250.000 ha rừng cách đây hơn 50 năm thì đây vẫn là con số 
khá khiêm tốn. Trong thời gian từ năm 1950 đến năm 2002, diện tích RNM của vùng 
giảm 80,4%, trong đó giảm mạnh nhất vào những năm 1950 đến 1980 [Viện khoa học 
Lâm nghiệp Việt Nam – Bộ NN & PTNT]. 
Theo tài liệu của Maurand (1943), sự giảm sút về diện tích trong khoảng 60 năm 
kể từ năm 1945 đến 2005 ở một số tỉnh được thể hiện trong bảng 3. 
Bảng 3: Biến động diện tích RNM giai đoạn 1945 – 2002 ở một số tỉnh 
 Tỉnh 
Năm 1945 Năm 2002 Biến động 
Diện tích 
(ha) 
Độ che 
phủ (%) 
Diện tích 
(ha) 
Độ che 
phủ (%) 
Diện tích 
(ha) 
Độ che 
phủ (%) 
Bến Tre 48.000 21,75 3.797 1,64 - 44.203 - 20,11 
Trà Vinh 65.000 29,20 6.002 2,53 - 58.998 - 26,57 
Sóc Trăng 41.000 12,72 9.106 2,81 - 31.894 - 9,91 
Cà Mau 140.000 27,00 58.285 11,21 - 81.715 - 15,79 
* Nguồn [4, tr 7] 
b. Sự biến đổi về chất lượng 
Chất lượng RNM ở ĐBSCL cũng đang suy giảm nghiêm trọng, thể hiện ở sự 
suy giảm diện tích RNM tự nhiên. Trong vòng 10 năm, diện tích RNM tự nhiên giảm 
tới 84.100 ha (từ 131.800 ha vào năm 1983 xuống còn 47.700 ha vào năm 1993). Trong 
khi đó, diện tích đất không rừng tăng từ 346.800 ha lên 395.000 ha [Báo cáo thống kê 
rừng năm 1984, 1994]. Đến năm 2001, tình hình phân bố diện tích rừng tự nhiên và 
rừng trồng tiếp tục có sự thay đổi theo hướng giảm dần diện tích rừng tự nhiên, tăng 
diện tích rừng trồng so với giai đoạn trước. 
Bảng 4: Diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng của các tỉnh năm 2001 
Tỉnh Rừng tự nhiên (ha) Rừng trồng (ha) Tổng (ha) 
Bạc Liêu 2.231 1.809 4.040 
Bến Tre 1.009 522 1.531 
138 
Cà Mau 5.063 7.828 12.891 
Kiên Giang 5.639 8.976 14.615 
Long An - 911 911 
Sóc Trăng 1.639 2.680 4.366 
Tiền Giang 368 2.800 3.168 
Trà Vinh 1.794 2.525 4.319 
Cộng 17.743 28.047 45.790 
* Nguồn: Viện điều tra quy hoạch rừng 
Đến năm 2001, diện tích rừng tự nhiên chỉ còn 17.743 ha, tức là giảm tới 29.957 
ha so với năm 1993. Như vậy, trong gần 20 năm diện tích rừng tự nhiên biến mất lên tới 
114.057 ha. 
Gần đây tổng diện tích RNM đang tăng lên nhưng có thể khẳng định rằng, diện 
tích RNM ở ĐBSCL đang biến động theo hướng tiêu cực vì sự gia tăng đó là do sự tăng 
lên của diện tích rừng trồng (từ năm 1983 đến 2001 tăng thêm 4.547 ha). 
Ngoài ra, sự suy giảm tài nguyên RNM ở đây còn thể hiện trong sự biến đổi về 
cấu trúc của rừng. Đó là sự giảm dần chiều cao, độ che phủ của tán rừng cũng như 
đường kính thân của cây rừng. Diện tích rừng thứ sinh nghèo hoặc mới tái sinh trên bãi 
bồi là phổ biến. 
2.3. Nguyên nhân làm suy thoái tài nguyên RNM ở ĐBSCL 
a. Phá RNM làm đầm nuôi tôm: 
 Trong những thập kỷ qua, nghề nuôi tôm nước 
lợ ở vùng cửa sông ven biển mang lại lợi nhuận cao nên 
nghề này ở ĐBSCL phát triển mạnh mẽ và mang tính tự 
phát, bóc lột tự nhiên theo phương thức mạnh ai nấy 
được. Với thực trạng nghề nuôi tôm như vậy đang làm 
cho tài nguyên RNM thu hẹp dần, nhường chỗ cho diện 
tích các hồ nuôi (bảng 5). 
Bảng 5: Sự suy giảm diện tích RNM và mở rộng diện tích nuôi tôm (năm 2002) 
Tỉnh Diện tích tự 
nhiên (ha) 
Diện tích RNM 
(ha) 
Độ che phủ 
(%) 
Diện tích nuôi 
tôm (ha) 
Bến Tre 231.561 3.797 1,64 34.392 
Trà Vinh 236.585 6.002 2,53 30.996 
Sóc Trăng 322.300 9.106 2,81 53.000 
Bạc Liêu 241.813 3.990 1,65 108.000 
Cà Mau 519.507 58.285 11,21 244.000 
* Nguồn [4, tr 7] 
Qua bảng 5 cho thấy, diện tích rừng bị tàn phá rất nhanh và nhanh nhất là tỉnh 
Cà Mau, Bạc Liêu. 
Ảnh 2. Phá RNM để nuôi tôm 
139 
b. Công tác quản lý và ý thức người dân: Nhiều cơ quan quản lý chưa đánh giá 
đúng vai trò của RNM, buông lỏng quản lý, không kiên quyết xử lí việc phá rừng, chưa 
chú ý tuyên truyền giáo dục về lợi ích lâu dài của rừng nên việc đấu tranh bảo vệ rừng 
của cộng đồng còn yếu. Việc áp dụng các tiến bộ kĩ thuật vào công tác quản lý và bảo 
vệ rừng cũng chưa tốt. 
Người dân chưa thấy được hậu quả của việc mất rừng, đặc biệt vì lợi ích trước 
mắt nên đã khai thác gỗ, củi từ rừng một cách bừa bãi hoặc phá rừng để sản xuất nông 
nghiệp. 
c. Chiến tranh: Trong cuộc chiến tranh Đông Dương từ 1961 - 1972, quân đội 
Mỹ đã rải hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ và phát quang xuống 24,67% tổng diện tích lãnh 
thổ miền Nam Việt Nam, trong đó có chất độc da cam – là chất có chứa hợp chất cực 
độc Đioxin. Chính hợp chất này đã làm cho cây cối, động vật chết hàng loạt, gây ô 
nhiễm môi trường và đảo lộn hệ sinh thái tự nhiên. Ở lưu vực sông Cửu Long, ước tính 
có khoảng 124.000 ha RNM (chiếm khoảng 40 – 50%) đã bị phá hủy do chất độc hóa 
học [5]. 
d. Các nguyên nhân khác: Ngoài ra, sự suy giảm RNM còn do cung cấp chất 
đốt chủ yếu trong sinh hoạt, phục vụ cho xây dựng (làm kè, gỗ cốt pha), làm muối hoặc 
tác nhân tự nhiên (mưa axit, khí hậu thay đổi, cháy rừng), do vô ý thức trong sinh hoạt 
hoặc khai thác mật ong… 
2.4. Định hướng bảo tồn và phát triển tài nguyên RNM ở ĐBSCL 
a. Định hướng về bảo vệ rừng 
* Ngăn chặn tình trạng phá rừng: Muốn ngăn chặn việc phá rừng, cần kịp thời 
quy hoạch cụ thể những vùng được phép nuôi tôm và kiểm soát tốc độ tăng về diện tích 
các đầm nuôi tôm. Như vậy sẽ góp phần tạo cho vùng ĐBSCL vừa phát triển kinh tế, 
định canh, định cư vừa đảm bảo môi trường, bảo vệ được diện tích rừng hiện có. Biện 
pháp cụ thể là: hoàn chỉnh các công trình thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản; đảm bảo 
nguồn tôm giống; tăng cường khuyến ngư, nâng cao trình độ chuyên môn cho người sản 
xuất; đầu tư vốn, mở rộng thị trường tiêu thụ. Nếu thực hiện tốt “chiến lược phát triển 
con tôm bền vững” thì sẽ hạn chế được nạn phá rừng bừa bãi. Nhà nước cần phải 
nghiêm cấm mọi hoạt động khai thác gỗ ở các vùng rừng tự nhiên. Mọi hành vi phá 
rừng bừa bãi phải được xử phạt thích đáng. 
Bên cạnh đó, cần đi đôi giữa việc bảo vệ và phát triển rừng với các biện pháp 
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội như: chiến lược về giải quyết việc làm với chính 
sách ưu tiên thu hút lao động dư thừa ở nông thôn (trẻ tuổi, học vấn thấp, không có 
nghề); đNy mạnh khai thác tài nguyên du lịch ở các vùng RNM ở các khu bảo tồn, vườn 
quốc gia để tăng thêm thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân đồng bằng. 
* Tổ chức lại lực lượng quản lý, bảo vệ rừng: Mở lớp đào tạo đội ngũ cán bộ 
kiểm lâm, qua đó hình thành một đội ngũ kiểm lâm có phNm chất đạo đức, năng lực 
140 
quản lý lâm sản. Thực hiện chính sách cải thiện đời sống cho cán bộ quản lý. Tiến hành 
chia rừng thành các lâm phần và phân cấp quản lý hợp lý. 
* Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho người dân: Qua các phương 
tiện thông tin đại chúng, Nhà nước cần đưa thêm những tin tức cập nhật về vai trò của 
rừng và hậu quả của việc mất rừng, về những gương tốt trong công tác bảo vệ rừng, lên 
án những hành vi xâm hại rừng. Bên cạnh đó, cần đưa nội dung bảo vệ rừng vào chương 
trình giáo dục các cấp, các trường chuyên nghiệp… Thường xuyên nâng cao ý thức cho 
người dân về bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh chung cũng như khuyến khích nông 
dân hạn chế đến mức thấp nhất việc sử dụng các chất kích thích, thuốc trừ sâu, diệt 
cỏ…trong sản xuất nông nghiệp. 
* Củng cố và mở rộng thêm các khu bảo tồn thiên nhiên: Những khu bảo tồn 
thiên nhiên như Vườn quốc gia Đất Mũi – Cà Mau, Khu bảo tồn Sân Chim – Bạc Liêu, 
Khu dự trữ thiên nhiên Thạnh Phú – Bến Tre… có diện tích RNM hầu như còn nguyên 
sinh và mức độ đa dạng sinh học rất cao. Đối với những khu bảo tồn đã có này phải tích 
cực bảo vệ, tránh mọi hành vi xâm hại. Lập các vùng rừng tự nhiên để hình thành những 
khu bảo tồn mới. 
b. Định hướng phát triển vốn rừng: Đây là nhiệm vụ quan trọng bởi với diện 
tích rừng hiện có vẫn chưa đảm bảo chức năng cân bằng sinh thái. 
* Khoanh nuôi tái sinh rừng: Rừng là tài nguyên có khả năng tái tạo. RNM có 
khả năng tái tạo nhanh. Do đó, cần phải khoanh vùng để xúc tiến tái sinh tự nhiên. Đối 
với rừng đã bị khai thác cạn kiệt, để phát triển vốn rừng cần kết hợp tái sinh tự nhiên và 
nhân tạo hoặc trồng lại rừng. 
* Trồng rừng: Những năm gần đây, công tác bảo vệ 
và phát triển hệ sinh thái RNM đã được Nhà nước chú 
trọng đầu tư: Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng của quốc gia 
(1998 – 2010); Các dự án phát triển và bảo vệ các vùng đất 
ngập nước ven biển tại các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc 
Trăng, Trà Vinh; Chương trình sử dụng bền vững và bảo 
tồn đa dạng sinh học đất ngập nước khu vực sông 
Mêkông… Hiện nay, có một số mô hình trồng RNM ven 
biển - đã mang lại kết quả khả quan - do Cục Lâm nghiệp phối hợp với Trung tâm 
Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường triển khai: 
+ Mô hình trồng RNM phòng hộ xung yếu bảo vệ đê biển và tăng cao tốc độ bồi 
lắng phù sa lấn biển. 
+ Mô hình nuôi tôm kết hợp với trồng RNM. Đó là sự kết hợp theo phương thức 
70% diện tích RNM với 30% diện tích nuôi tôm. Theo đó, tỷ lệ cây sống có thể đạt đến 
80%, năng suất tôm nuôi tăng từ 80 kg/ha/vụ lên 350 kg/ha/vụ và các đầm nuôi sau khi 
thu hoạch không phải bỏ hoang. 
Ảnh 3. Trồng RNM 
141 
+ Khôi phục RNM trong các đầm nuôi tôm bị thoái hóa. Diện tích các đầm nuôi 
tôm bị thoái hóa ngày càng tăng, khó có khả năng đưa vào sản xuất nông nghiệp nên 
cần được khôi phục lại RNM. 
+ Mô hình cải tiến thiết kế đầm nuôi tôm theo hướng lâm - ngư nghiệp kết hợp. 
Theo mô hình này, diện tích mặt nước nuôi tôm được tách riêng khỏi RNM trồng. Tuy 
nhiên, chúng vẫn ảnh hưởng lẫn nhau qua hệ thống cửa cống. Từ đó, giảm được độ đục 
của nước khi đưa vào đầm nuôi tôm và lọc sạch nguồn nước từ đầm tôm trước khi đưa 
ra kênh mương nhằm giảm bớt sự ô nhiễm môi trường nước. 
+ Mô hình trồng RNM trên bờ bao đầm nuôi tôm. Diện tích bờ bao các đầm 
nuôi tôm chiếm từ 10 – 12% diện tích của một đầm nuôi tôm, nhưng trước đây ở 
ĐBSCL vẫn bỏ hoang. Hiện nay, ở bán đảo Cà Mau đang thực hiện mô hình này với 
cây trồng có kết quả khả quan là tràm Úc – một loại cây gỗ mọc nhanh có khả năng chịu 
mặn tốt. Trồng cây trên bờ bao có tác dụng tốt đối với đầm nuôi tôm như giảm cường 
độ thoát hơi nước, làm cho độ mặn của nước không lên quá cao và góp phần tạo bóng 
mát cho tôm. 
Đây là những mô hình cần được nhân rộng nhằm giải quyết tận gốc quá trình 
sản xuất tự phát, phá vỡ cân bằng sinh thái của ngư dân sinh sống ven biển hiện nay. 
c. Các giải pháp khác 
* Thay đổi cơ cấu kinh tế của vùng, phát triển sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp 
theo hướng bền vững. Tiếp cận sinh thái để nghiên cứu sâu sắc mối quan hệ của các 
thành phần trong hệ sinh thái RNM để tăng cường khả năng phát triển nguồn lợi về kinh 
tế và sinh thái trong khu vực. Đánh giá khả năng tự làm sạch và mức độ chịu tải của hệ 
sinh thái RNM nhằm tránh các tác động bất lợi đến hệ sinh thái. 
* Việc phát triển công nghiệp, du lịch cần phải tính đến mức độ tác động đến 
môi trường. Khi đó môi trường nước, đất sẽ ít bị ô nhiễm nhờ giảm thiểu các chất thải 
sinh hoạt và sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho cây rừng phát triển. 
3. Kết luận 
Qua việc nghiên cứu sự biến đổi tài nguyên RNM ở ĐBSCL và đề xuất một số 
hướng bảo tồn, phát triển, có thể rút ra một số kết luận sau: 
- ĐBSCL là vùng có diện tích RNM lớn nhất cả nước. Tuy nhiên, diện tích rừng 
này đang suy giảm dần theo thời gian do nhiều nguyên nhân. 
- Trên cơ sở những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động tài nguyên RNM ở 
ĐBSCL mà đưa ra một số định hướng bảo tồn và phát triển RNM nhằm mục đích nâng 
cao độ che phủ rừng. Từ đó, góp phần giúp cho ĐBSCL phát triển theo hướng bền 
vững. 
142 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Diên Dực, Hệ sinh thái rừng ngập mặn, NXB Nông nghiệp, (1987). 
2. Lê Văn Khoa, Đất ngập nước, NXB Giáo dục, (2005). 
3. Đặng Duy Lợi – Nguyễn Thục Nhu, Địa lí tự nhiên Việt Nam, NXB Giáo 
dục, (2001). 
4. Võ Quý, Những vấn đề về môi trường ở Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu tài 
nguyên và môi trường, ĐHQG Hà Nội, (2005). 
5. Nguyễn Nghĩa Thìn, Hệ sinh thái rừng nhiệt đới, NXB ĐHQG Hà Nội, 
(2004). 
6. www.kiemlam.org.vn. 
THE VARIATION OF MANGROVE RESOURCES IN THE MEKONG 
RIVER DELTA AND ORIENTIONS FOR CONSERVATION AND 
DEVELOPMENT 
 Tran Thi Hong Sa 
Quy Nhon University of Education 
Ha Van Hanh 
College of Sciences, Hue University 
SUMMARY 
Mangrove plays a part in guaranteeing the ecological balance for The MeKong River 
Delta. However, for many different reasons, this forestal area is negatively varying. In our 
opinion, there should be executing solutions to the conservation and development so that 
mangrove resources in The Mekong Rive Delta can develop and function properly. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 4816_2965.pdf 4816_2965.pdf