Sự cần thiết của hệ thống kiểm tra,giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền

Tiến hành tốt hoạt động của hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước sẽ là sự hỗ trợ tích cực cho sự kiểm tra của XHCD đối với hoạt động của bộ máy công quyền nói chung và các hành vi của các công chức bộ máy đó nói riêng nhằm đấu tranh có hiệu quả chống các vi phạm pháp luật và thực hiện tốt phương châm của NNPQ trong cách hành xử của các công chức “chỉ được phép làm những gì mà luật cho phép”.

pdf31 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2465 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự cần thiết của hệ thống kiểm tra,giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỰ CẦN THIẾT CỦA HỆ THỐNG KIỂM TRA,GIÁM SÁT VIỆC TỔ CHỨC VÀ THỰC HIỆN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN LÊ CẢM TSKH Luật ĐHQG Hà Nội I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu những vấn đề về hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ có ý nghĩa chính trị – xã hội và pháp lý to lớn, mà còn có ý nghĩa khoa học – thực tiễn quan trọng trên các bình diện dưới đây. Một là, kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ chính là một trong các yếu tố quan trọng đảm bảo thực sự và trên thực tế hiệu quả của một loạt các nguyên tắc cơ bản được thừa nhận chung không thể thiếu được trong bất kỳ một nhà nước nào muốn được gọi là NNPQ (như: phân công quyền lực, tính tối thượng của luật trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người, v.v…) Hai là, đảm bảo tốt trong thực tiễn các cơ chế pháp lý kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước sẽ chính là một hình thức thể hiện sự kiểm tra của xã hội công dân (XHCD) đối với hoạt động của bộ máy công quyền nói chung và của các công chức nhà nước nói riêng và để hạn chế, tiến tới loại trừ thói quan liêu, cửa quyền, tệ nạn tham nhũng, cũng như tình trạng vô pháp luật, góp phần củng cố pháp chế, bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và tự do của công dân. Ba là, bằng hoạt động thực tiễn và hữu hiệu của hệ thống kiểm tra và giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước sẽ góp phần giúp cho nhà làm luật phát hiện ra các nhược điểm của hệ thống pháp luật hiện hành trong NNPQ để khắc phục và tiếp tục hoàn thiện nó (như: những điểm còn bất cập, chồng chéo hoặc chưa hợp lý của văn bản pháp luật nào đó hay là sự không phù hợp với thực tiễn hoặc sự tồn tại của các quy phạm pháp luật “chết” trong hệ thống pháp luật, v.v…). Và cuối cùng, bốn là, mặc dù việc nghiên cứu những vấn đề về hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước có tầm quan trọng như vậy, song cho đến nay trong khoa học pháp lý (KHPL) nước ta vẫn chưa có một công trình lý luận có tính chất chuyên khảo nào nghiên cứu một cách đồng bộ, tương đối có hệ thống và toàn diện những vấn đề đã nêu. 2. Như vậy, tất cả các bình diện được phân tích trên đây không những cho phép khẳng định tính cấp bách và sự cần thiết của việc phân tích và lý giải để làm sáng tỏ về mặt lý luận những vấn đề về hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ nói chung, mà còn là lý do luận chứng cho việc lựa chọn tên gọi của bài viết nói riêng của chúng tôi. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp, rộng lớn và nhiều khía cạnh của những vấn đề về hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước (vì ngay mỗi vấn đề hay mỗi chế định trong hệ thống này như chế định kiểm tra Hiến pháp, chế định giám sát của Quốc hội, chế định thanh tra nhà nước, chế định kiểm tra của Tòa án, vấn đề thanh tra chuyên ngành, v.v… cũng đều có thể trở thành một đối tượng nghiên cứu khoa học riêng biệt và được đề cập đến trong nhiều cuốn sách chuyên khảo khác nhau), nên trong bài viết này chúng tôi chỉ có thể cố gắng làm sáng tỏ về mặt lý luận những vấn đề nào mà theo quan điểm của chúng tôi là chủ yếu và quan trọng hơn cả liên quan đến sự cần thiết phải có hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ. II. NỘI DUNG VẤN ĐỀ 1. Tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ có thể được hiểu là dạng hoạt động tổ chức – hành chính và pháp lý quan trọng nhất của bộ máy công quyền do Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác quy định để sắp xếp, phân công và phối hợp thực hiện các chức năng theo thẩm quyền của các cơ quan nhà nước thuộc ba nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp và tư pháp) nhằm mục đích đưa các nguyên tắc cơ bản được thừa nhận chung của NNPQ vào đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc tổ chức và thực hiện này không chỉ có ý nghĩa chính trị – xã hội, pháp lý – hành chính quan trọng, mà còn phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản nhất định và cần tuân theo đúng các trình tự do luật định. 2. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong các quốc gia được coi là NNPQ trên thế giới cho phép khẳng định rằng, việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong bất kỳ quốc gia nào muốn được coi là NNPQ nhất thiết phải đảm bảo được những nguyên tắc cơ bản sau đây: a) Dựa trên các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nền văn minh nhân loại – công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế, cũng như các nguyên tắc và các quy phạm được thừa nhận chung của pháp luật quốc tế; b) Tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người như là các giá trị xã hội cao quý nhất; c) Chủ quyền của nhân dân; d) Tính tối thượng của luật trong các lĩnh vực hoạt động của bộ máy công quyền; đ) Phân công, phối hợp và chế ước của các cơ quan nhà nước tương ứng với ba nhánh quyền lực – lập pháp, hành pháp và tư pháp; e) Tính chuyên nghiệp của các công chức nhà nước và tính khoa học, tính hệ thống và sự đồng bộ của bộ máy công quyền. 3. Kinh nghiệm của các NNPQ trên thế giới, cũng như thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam đã cho thấy một cách xác đáng và khách quan, có căn cứ và đảm bảo tính thuyết phục rằng: để cho việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ đạt được hiệu quả cao, thì nhất thiết phải có một hệ thống kiểm tra, giám sát được tổ chức khoa học. Chính vì vậy, trước khi bắt tay vào phân tích hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ là gì (?), cũng như các mối quan hệ của các bộ phận trong hệ thống đó ra sao (?), chúng ta cần phải nghiên cứu để trả lời cho được một trong những vấn đề cơ bản là: Tại sao trong NNPQ lại cần phải có hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước (?), hay nói một cách khác – Những nhu cầu tất yếu để lý giải cho việc phải có hệ thống đó là gì (?). 4. Xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm Những nhu cầu tất yếu của sự cần thiết phải có hệ thống kiểm tra giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ là các đòi hỏi khách quan và chủ quan như là kết quả cuối cùng mà hoạt động của hệ thống ấy phải đạt được để đảm bảo cho việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước được tuân thủ theo đúng những nguyên tắc cơ bản của nó. 5. Như vậy, từ khái niệm này cho thấy, những nhu cầu tất yếu của sự cần thiết phải có hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ được chia thành hai nhóm – Khách quan và chủ quan – mà chúng ta sẽ lần lượt xem xét dưới đây. 6. Khái niệm về nhu cầu khách quan tất yếu của sự cần thiết phải có hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ để có thể được hiểu là đòi hỏi bên ngoài hệ thống ấy như là kết quả cuối cùng mà hoạt động của hệ thống ấy phải đạt được để đảm bảo cho việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước được tuân thủ theo đúng một số nguyên tắc cơ bản của nó. 7. Đối với việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ - đối tượng của hệ thống kiểm tra, giám sát - chúng ta có thể nhận thấy ba nhu cầu khách quan tất yếu mà hoạt động của hệ thống ấy phải đạt được là: a) Phải dựa trên các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nền văn minh nhân loại – công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế, cũng như các nguyên tắc được thừa nhận chung của pháp luật quốc tế; b) Phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người như là các giá trị xã hội cao quý nhất; c) Phải đảm bảo chủ quyền của nhân dân. Như vậy, dưới đây chúng ta sẽ lần lượt phân tích để thấy rõ nội dung, bản chất và các đặc điểm cơ bản của ba nhu cầu khách quan tất yếu này. 8. Phải dựa trên các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nền văn minh nhân loại – công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế, cũng như các nguyên tắc được thừa nhận chung của pháp luật quốc tế – là nhu cầu khách quan tất yếu đầu tiên để lý giải cho sự cần thiết phải có hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ. Bởi lẽ: - Công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế trước tiên là những ước mơ và sau đó là các giá trị tinh thần quý báu được thừa nhận chung của loài người mà các dân tộc đã giành được trong cuộc đấu tranh hàng thế kỷ để chống lại các chế độ bất công và bạo quyền, áp bức và độc tài, đồng thời các giá trị ấy với tính chất là các tư tưởng pháp lý tiến bộ đã trở thành những nền tảng chủ yếu cho việc xây dựng NNPQ và đến lượt mình, bất kỳ nhà nước nào muốn được coi là NNPQ cũng có nghĩa vụ phải bảo vệ chúng. Mặt khác, đối với NNPQ, thì công bằng nhân đạo, dân chủ và pháp chế là các tiêu chuẩn, các đòi hỏi, đồng thời là những nguyên tắc được thừa nhận chung của pháp luật quốc tế, cũng như của pháp luật quốc gia muốn được coi là NNPQ và được thể hiện rõ trên ba bình diện chủ yếu của chính sách pháp luật – lập pháp, áp dụng pháp luật, giáo dục và tuyên truyền ý thức pháp luật cho các thành viên của XHCD. - Bằng hoạt động của hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ sẽ góp phần làm cho công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế: không chỉ thực sự trở thành các giá trị xã hội có liên quan chặt chẽ với pháp luật và các giá trị xã hội khác; mà còn là định hướng cơ bản đối với hoạt động thực tiễn của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong NNPQ vì mục đích cao quý chung là lợi ích của toàn thể các thành viên trong XHCD (chứ không phải chỉ là của một nhóm người, tổ chức, giai cấp hay tầng lớp xã hội riêng biệt “ăn trên, ngồi trốc” có đặc quyền đặc lợi nào). 9. Phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người như là các giá trị xã hội cao quý nhất là nhu cầu khách quan tất yếu quan trọng nhất để lý giải cho sự cần thiết phải có hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ. Bởi lẽ: - Trong bất kỳ NNPQ nào việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước chính là nhằm thực hiện mục đích cao cả nhất – phục vụ cho XHCD, vì nếu như không có XHCD, thì cũng không thể có NNPQ. Một khi con người đã là thành viên của XHCD thì đồng thời cũng là công dân của NNPQ vì hai phạm trù chính trị – pháp lý “XHCD” và “NNPQ” là không thể tách rời, chúng luôn có mối quan hệ hữu cơ và chặt chẽ, tương hỗ và bổ sung cho nhau. - Các quyền và tự do của con người không chỉ là các giá trị tinh thần cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại, có những cội nguồn xã hội, đạo đức và tư tưởng từ rất lâu đời trong quá trình phát triển của lịch sử hàng nghìn năm qua, mà chúng còn là khát vọng, ước mơ và lý tưởng của các dân tộc trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ để chống lại bất kỳ chế độ bất công và tàn bạo, chuyên chế và cực quyền nào. Mặt khác, NNPQ được hình thành là để bảo vệ các quyền và tự do của con người – để phục vụ XHCD, nó (NNPQ) chỉ có thể phát triển, tồn tại và ổn định trong một XHCD. - Bằng hoạt động của hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ sẽ không chỉ đảm bảo cho sự an toàn của các quyền và tự do của con người tránh khỏi nguy cơ độc đoán, tùy tiện và lạm dụng quyền lực nhà nước từ phía các quan chức của bộ máy công quyền, mà còn góp phần làm cho sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người – sự ghi nhận về mặt lập pháp, sự tuân thủ về mặt hành pháp và sự bảo vệ về mặt tư pháp các quyền và tự do của con người bằng các cơ chế pháp lý hữu hiệu trong thực tiễn – thực sự là một trong những nhiệm vụ, chức năng và phương hướng hoạt động thường xuyên của NNPQ. - Bằng hoạt động của hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ: a) sẽ tạo điều kiện thuận lợi và động lực tinh thần rất quan trọng đảm bảo cho sự hình thành, phát triển và ổn định của nền kinh tế thị trường tự do – hạ tầng cơ sở chính tạo nên những giá trị vật chất của XHCD và NNPQ như là những giá trị tinh thần của nền văn minh nhân loại; b) góp phần giải quyết tốt mối quan hệ giữa NNPQ và địa vị pháp lý của cá nhân trong XHCD, vì giải quyết mối quan hệ này suy cho cùng chính là giải quyết mối quan hệ vô cùng phức tạp và đa dạng giữa hai bên – một bên là quyền lực nhà nước, và bên kia là các quyền và tự do của công dân, để làm sao xác lập cho được mối quan hệ hài hòa và bình đẳng về các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của hai bên đối với nhau, nhằm loại trừ xu hướng vô chính phủ từ phía công dân, cũng như nguy cơ tùy tiện và độc đoán từ phía quyền lực nhà nước. 10. Phải đảm bảo chủ quyền của nhân dân là nhu cầu khách quan tất yếu quan trọng để lý giải cho sự cần thiết phải có hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ. Bởi lẽ: - Với bản chất nhân đạo, dân chủ và tiến bộ của NNPQ nên trong nhà nước ấy chủ quyền của nhân dân là hình thức thể hiện cao nhất của dân chủ – quyền lực thực sự của nhân dân, sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ quá trình tổ chức bộ máy công quyền và phối hợp hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước trong NNPQ là thống nhất vì nguồn gốc của nó chỉ là một và là duy nhất - nhân dân, nhưng nó được thực hiện trên nguyên tắc phân công quyền lực. - Bằng hoạt động của hệ thống kiểm tra giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ: a) sẽ làm cho tính công khai và dân chủ của nguyên tắc phân công quyền lực tạo ra được các cơ chế pháp lý hữu hiệu để ý chí và quyền lực của nhân dân được biến thành hiện thực trong cuộc sống (như các quyền và tự do của công dân được đảm bảo, chế định trưng cầu dân ý đối với các vấn đề của nhà nước được áp dụng rộng rãi, nhân dân trực tiếp bầu nguyên thủ quốc gia, v.v…); b) sẽ giúp cho nhân dân thấy rõ mức độ dân chủ trong việc thực hiện các quy phạm hiến định liên quan đến nguyên tắc chủ quyền trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi (như: đoạn 1 Điều 2 ghi nhận về “Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, Điều 3 về “không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân”, Điều 8 về “phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân”, v.v…). - Chính thực tiễn sinh động của các nước văn minh và phát triển cao trên thế giới đã chứng minh một cách xác đáng rằng, bằng hệ thống kiểm tra giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước sẽ hỗ trợ tích cực cho nguyên tắc chủ quyền của nhân dân trong NNPQ được đảm bảo thực sự, bên cạnh đó còn có hai nguyên nhân cơ bản và quan trọng khác là: a) đại đa số các quan chức của bộ máy NNPQ thường nhận thức được rằng, con người, các quyền và tự do của nó là những giá trị xã hội cao quý nhất nên cần phải tôn trọng và bảo vệ chúng, chủ quyền của nhân dân bao giờ cũng cao hơn chủ quyền của nhà nước, nhà nước là công cụ để bảo vệ pháp luật và không thể đứng trên mà phải đứng dưới pháp luật, v.v…; b) NNPQ thường có cơ chế pháp lý hữu hiệu để đảm bảo thực sự chủ quyền của nhân dân, hạn chế đến mức thấp nhất những mầm mống sinh ra tệ nạn tham nhũng, đồng thời xử lý kiên quyết nhằm loại trừ ra khỏi bộ máy Nhà nước những phần tử tham nhũng, có chế định kiểm tra Hiến pháp, có Luật khiếu nại đến Tòa án các hành vi và quyết định của các cơ quan Nhà nước hoặc các quan chức Nhà nước gây thiệt hại cho các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, v.v…). 11. Khái niệm nhu cầu chủ quan tất yếu của sự cần thiết phải có hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ có thể được hiểu là đòi hỏi bên trong (nội tại) hệ thống ấy như là kết quả cuối cùng mà hoạt động của hệ thống ấy phải đạt được để đảm bảo cho việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước được tuân thủ theo đúng một số nguyên tắc cơ bản của nó. 12. Xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ chúng ta có thể nhận thấy ba nhu cầu chủ quan tất yếu của sự cần thiết phải có hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước mà hoạt động của hệ thống ấy phải đạt được là: a) Phải đảm bảo tính tối thượng của luật trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước; đ) Phải đảm bảo sự phân công, phối hợp và chế ước của các cơ quan nhà nước tương ứng với ba nhánh quyền lực – lập pháp, hành pháp và tư pháp; e) Phải đảm bảo tính chuyên nghiệp của các công chức và tính khoa học, hệ thống và đồng bộ của bộ máy nhà nước. Như vậy, dưới đây chúng ta sẽ lần lượt phân tích để thấy rõ nội dung, bản chất và các đặc điểm cơ bản của ba nhu cầu khách quan tất yếu này. 13. Phải đảm bảo tính tối thượng của luật trong các lĩnh vực hoạt động của bộ máy công quyền là nhu cầu chủ quan rất quan trọng để lý giải cho sự cần thiết phải có một hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ. Bởi lẽ: - Đối với NNPQ, luật (mà trước hết là Hiến pháp với tính chất là Luật cơ bản của nhà nước) chứ không thể là văn bản nào khác, phải là tối thượng trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn của nó; đồng thời tất cả các cơ quan nhà nước và các quan chức của bộ máy công quyền từ trung ương (TW) đến các địa phương phải thực sự coi các quy định của luật là “linh hồn”, là cuốn cẩm nang quan trọng nhất để định hướng khi thừa hành công vụ. - Như vậy, bằng hoạt động của hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ sẽ giúp cho nhân dân nhận thấy: a) mức độ pháp chế với tính chất là nguyên tắc hiến định đã được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi (Điều 12) được thể hiện trong đời sống thực tế đến đâu (?); b) các cơ quan công quyền trong quá trình thực hiện các chức năng và thẩm quyền của ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp có thực sự (hay chỉ là hình thức) đảm bảo sức mạnh và hiệu lực của các luật hay không (?); c) Hiến pháp có phải là thực sự có hiệu lực pháp lý cao nhất và trực tiếp, còn các luật khác có phù hợp với Hiến pháp và tất cả các văn bản dưới luật có trái với luật hay không (?). Và chính thông qua kết quả đó sẽ góp phần loại trừ được tính chất mâu thuẫn của pháp luật như là trở ngại chính cho việc áp dụng các luật đã được thông qua, môi trường thuận lợi cho tệ nạn tham nhũng và lạm quyền của các quan chức trong bộ máy công quyền. - Mặt khác, bằng hoạt động của hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ một loạt các cơ chế pháp lý để đảm bảo cho tính tối thượng của luật trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước sẽ được vận hành một cách hữu hiệu như: a) Cơ quan lập pháp chuyên nghiệp để ban hành một cách nhanh chóng và kịp thời các luật để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, cũng như các văn bản dưới luật để cụ thể hóa các quy định của các luật; b) Cơ quan chuyên môn kiểm tra Hiến pháp (Ủy ban Giám sát Hiến pháp, Tòa án Hiến pháp hoặc Tòa Hiến pháp thuộc Tòa án Tối cao) phán xét tính vi hiến của các văn bản pháp luật, các hành vi được thực hiện trên cơ sở các văn bản vi hiến và đưa ra những giải thích thống nhất có tính bắt buộc chung về Hiến pháp; c) Chế định kiểm tra của Tòa án đối với những hành vi (quyết định) trái pháp luật của các cơ quan nhà nước và những người có chức vụ trong bộ máy công quyền; v.v… - Đồng thời, để cho luật đạt được tính tối thượng trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, thì bằng hoạt động của hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ sẽ giúp cho nhà làm luật nhận thấy: a) những ưu điểm, hạn chế và kẽ hở của các văn bản pháp luật hiện hành tương ứng trong từng lĩnh vực hoạt động của bộ máy công quyền để sửa đổi, bổ sung hoặc tiếp tục hoàn thiện các văn bản đó; b) sự cần thiết phải và chỉ được ban hành các luật phản ánh ý chí chung của nhân dân, đại đa số các thành viên trong XHCD (chứ không phải là của riêng cá nhân, nhóm người, giai cấp hay thế lực chính trị cầm quyền riêng biệt nào) các luật có tính pháp quyền và hợp đạo đức, vì luật cần phải công bằng và hợp lý, nếu không đó hoàn toàn không phải là luật, mà là sự tùy tiện. Nói một cách khác, “luật” không phải là cái mà bất kỳ một Chính phủ nào nắm độc quyền cưỡng chế gọi là luật theo ý riêng của mình. 14. Phải đảm bảo sự phân công, phối hợp và chế ước của các cơ quan nhà nước tương ứng với ba nhánh quyền lực – lập pháp, hành pháp và tư pháp – là một nhu cầu chủ quan cơ bản để lý giải cho sự cần thiết phải có một hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ. Bởi lẽ: - Việc nghiên cứu bản chất và nội dung của nguyên tắc phân công (chứ không phải phân chia) quyền lực và thực tiễn của các NNPQ trên thế giới hàng trăm năm qua đã và đang khẳng định một cách đúng đắn và khách quan những ưu điểm không thể nào phủ nhận được của nguyên tắc này như: a) Tạo ra được cơ chế kìm hãm và đối trọng (kiểm tra và chế ước lẫn nhau) trong hoạt động của ba nhánh quyền lực đã nêu vì lợi ích chung của XHCD; b) Loại trừ nguy cơ tập trung tất cả quyền lực nhà nước trong tay một cá nhân, nhóm người, cơ quan, tổ chức chính trị hay tập đoàn cầm quyền nào đó như là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự lạm quyền, tiếm quyền và độc tài mà thường có ở các nhà nước phát xít hoặc cực quyền đủ các thể loại; c) Là nền tảng để đảm bảo cho việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản được thừa nhận chung khác của NNPQ, đồng thời bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của con người tránh khỏi những hành vi tùy tiện, độc đoán và những quyết định có tính chất quan liêu, gây phiền hà từ phía các quan chức trong bộ máy công quyền. - Chính sự phân công, phối hợp và chế ước của các cơ quan nhà nước tương ứng với ba nhánh quyền lực trong NNPQ – lập pháp, hành pháp và tư pháp cho phép khẳng định bản chất tiến bộ, dân chủ và nhân đạo của NNPQ nên sự phân công quyền lực không chỉ được coi là nguyên tắc cơ bản được thừa nhận chung, mà còn là chế định chủ yếu, trung tâm và bắt buộc của tất cả các NNPQ trên thế giới. - Chính vì vậy, bằng hoạt động của hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ sẽ góp phần thực hiện được nhất quán nguyên tắc phân công quyền lực với tính chất là sự thể hiện đầy đủ nhất ý chí của nhân dân trong việc tổ chức quyền lực nhà nước, bởi vì nguyên tắc phân công quyền lực: a) Có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với nguyên tắc chủ quyền của nhân dân, nguyên tắc phân công quyền lực nhằm đảm bảo thực sự (chứ không phải là hình thức) quyền lực của chính nhân dân; b) Nguyên tắc phân công quyền lực tạo ra cơ chế pháp lý hữu hiệu cho sự kiểm tra của quyền tư pháp đối với quyền lập pháp và quyền hành pháp – khi cơ quan chuyên môn kiểm tra Hiến pháp phán xét tính hợp hiến của các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước và những người có chức vụ của chúng ban hành, củng cố sức mạnh và uy tín của bộ máy NNPQ, đảm bảo tính công khai và hợp pháp trong các hoạt động của các quan chức của nó trước nhân dân, dư luận xã hội, cũng như trước các phương tiện thông tin đại chúng. 15. Phải đảm bảo tính chuyên nghiệp của các công chức nhà nước và tính khoa học, tính hệ thống và sự đồng bộ của bộ máy công quyền là một nhu cầu chủ quan cơ bản để lý giải cho sự cần thiết phải có một hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ. Bởi lẽ: - Thực tiễn đã chứng minh rằng, hiệu quả của việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong một quốc gia nào đó rõ ràng là sẽ không thể nào đạt được ở mức độ cao như mong muốn, nếu như các công chức của bộ máy công quyền không được tuyển chọn theo một trình tự công khai, dân chủ và đúng luật định hoặc không có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, còn bộ máy đó không được tổ chức một cách khoa học, thiếu tính hệ thống và thiếu sự đồng bộ. - Chính vì vậy, bằng hoạt động của hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ sẽ góp phần giúp chúng ta nhận thấy: a) tính chuyên nghiệp của các công chức trong bộ máy công quyền như thế nào (?); b) mức độ đạt được kết quả công tác của từng lĩnh vực hoạt động trong quá trình thực hiện các chức năng và thẩm quyền tương ứng của các cơ quan nhà nước trong bộ máy đó đến đâu (?); c) việc tổ chức bộ máy đó có đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống và sự đồng bộ hay không (?); v.v... III. KẾT LUẬN VẤN ĐỀ Tóm lại, xuất phát từ sự nghiên cứu những vấn đề về sự cần thiết của hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ đã được đề cập trong bài viết này có thể đưa ra một số kết luận chung dưới đây. 1. Hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ là điều kiện, mà còn là bộ phận cấu thành quan trọng của bộ máy công quyền trong NNPQ để góp phần đưa các nguyên tắc cơ bản được thừa nhận chung của NNPQ vào đời sống thực tế. 2. Để cho hoạt động của bộ máy công quyền đạt được hiệu quả cao, thì việc xây dựng hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ không chỉ phải đáp ứng được những nhu cầu tất yếu khách quan và chủ quan phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức và thực hiện quyền lực đó, mà còn phải đảm bảo được tính khoa học, tính hệ thống và tính đồng bộ. 3. Tiến hành tốt hoạt động của hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước sẽ là sự hỗ trợ tích cực cho sự kiểm tra của XHCD đối với hoạt động của bộ máy công quyền nói chung và các hành vi của các công chức bộ máy đó nói riêng nhằm đấu tranh có hiệu quả chống các vi phạm pháp luật và thực hiện tốt phương châm của NNPQ trong cách hành xử của các công chức “chỉ được phép làm những gì mà luật cho phép”. 4. Và cuối cùng, nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để tiếp tục tìm ra những nguyên tắc cơ bản khác của việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước và trên cơ sở đó phát hiện những nhu cầu khách quan và chủ quan khả thi khác của sự cần thiết phải có hệ thống kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ nhằm đưa ra một mô hình khả thi cho hệ thống đó chính là việc làm cần thiết của các nhà khoa học – luật gia và nhiệm vụ quan trọng của KHPL nước ta để góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây dựng NNPQ Việt Nam hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf76_5775.pdf
Luận văn liên quan