Chẳng hạn như đẩy mạnh việc nghiên cứu để sử dụng được nguồn năng
lượng mặt trời tương đối dồi dào cho các loại phương tiện giao thông, các máy móc
thiết bị cần năng lượng để vận hành. Nguồn năng lượng từ sức gió cũng là nguồn
năng lượng tốt và lại nhiều. Trong khi nguồn dầu mỏ thì có hạn, khai thác đến một
lúc nào đó sẽ làm cạn kiệt thì những nguồn năng lượng như vừa kể trên là nguồn
năng lượng thay thế tốt nhất.
17 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4299 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng mô hình cung cầu để giải thích diễn biến của giá xăng dầu trên thế giới. Từ đó phân tích chính sách can thiệp vào giá xăng, dầu của chính phủ Việt Nam trong những năm qua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
º SỬ DỤNG Mú HòNH CUNG - CẦU ĐỂ GIẢI THóCH DIỄN
BIẾN CỦA GIç XĂNG DẦU TRðN THẾ GIỚI. TỪ Đù PHèN
TóCH CHóNH SçCH CAN THIỆP VæO GIç XĂNG, DẦU CỦA
CHóNH PHỦ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUAº.
Lê Hồng Lam
Bộ môn Quản trị Kinh doanh
Đại học Nha Trang
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
1
Chương I
LŒ LUẬN CHUNG VỀ CUNG - CẦU DẦU MỎ
Trên thị trường, giá cả xăng dầu cân bằng của hàng hoá xăng dầu là trạng
thái khi cung hàng hoá xăng dầu đủ thỏa mãn cầu đối với nó trong một thời kỳ nhất
định. Với cách định nghĩa này, giải thích diễn biến giá của xăng dầu trên thị trường
là việc đi tìm hiểu đặc điểm tính chất cung - cầu của loại hàng hoá này trên thị
trường, ngoài ra có thể xem xét đến một số yếu tố phi kinh tế có ảnh hưởng đến giá
cân bằng.
Xét về khía cạnh cung, có thể khẳng định thị trường dầu mỏ bị chi phối bởi
một số nước nhỏ sản xuất dầu lửa. Đây là những quốc gia sản xuất dầu chủ yếu trên
thế giới, bao gồm các nước thuộc nhóm OPEC (The Organization of Petroleum
Exporting Contries)-Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ thế giới. Thành lập ngày
14/9/1960 tại Bagdhad (thủ đô Iraq), lúc đầu gồm các nước Venezuela, Saudi
Arabia, Iraq, Iran, và Kuwait. Quata được kết nạp năm 1961; Indonexia và Lybia
(1962); Tiểu vương quốc các nước Arab thống nhất (1967); Algeria (1969); Nigeria
(1971). Ecuado gia nhập năm 1973 nhưng xin rút lui năm 1992. Gabon gia nhập
năm 1975 nhưng xin rút lui năm 1994. OPEC chuyển tổng hành dinh từ Geneva
(Thụy Sĩ) đến Vienna (Áo) vào ngày 01/09/1965. Hiện nay trong khối OPEC có 7
nước thuộc khối Ảrập độc quyền kiểm soát và chi phối thị trường dầu lửa thế giới,
tự do áp đặt giá dầu. Trong số các nước thành viên có 11 nước Hồi giáo chiếm tới
75% trữ lượng dầu và trữ lượng khí đốt trong tổng trữ lượng dầu khí của thế giới.
Cơ quan năng lượng quốc tế IEA- International Enegy Agency, công bố danh sách
10 nước XK nhiều dầu thô nhất và 10 nước NK nhiều nhất vào tháng 9/2002.
Bảng 1: NHỮNG NƯỚC XUẤT NHẬP KHẨU DẦU NHIỀU NHẤT THÁNG 9/2002
Những nước XK nhiều nhất (Triệu thùng/ngày) Nước NK nhiều nhất (Triệu thùng/ngày) ST
T
Tên nước Số lượng Tên nước Số lượng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Ả rập Xê Út
SNG (Chủ yếu là Nga)
Na Uy
Venezuela
Iran
Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất
Nigeria
Mexico
Kuwait
Algeria
6,85
5,68
3,10
2,48
2,25
2,03
1,85
1,76
1,59
1,23
Mỹ
Nhật Bản
Đức
Hàn Quốc
Pháp
Trung Quốc
Italia
Ấn Độ
Tây Ban Nha
Hà Lan
11,11
4,72
2,36
2,15
1,83
1,70
1,59
1,58
1,45
0,86
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
2
Ngày nay nguồn cung cấp dầu mỏ không chỉ tập trung ở khu vực Trung
Đông mà còn nhiều nơi như Biển Bắc, ngoài khơi Angola…Các nước ngoài khối
OPEC cung cấp khoảng 40% sản lượng dầu thế giới. Những nước Non-OPEC
(không nằm trong khối OPEC) cũng xuất khẩu dầu mỏ làm ảnh hưởng không nhỏ
đến thị trường dầu thế giới : đứng đầu la Canada, tiếp theo là Anh, Mexico, Na Uy,
Trung Quốc, Mỹ, Nga, Đan Mạch, Congo, Việt Nam, Azerbaijan, Brunei, Romania,
Peru,… Khi xảy ra biến động chính trị ở những quốc gia dầu mỏ cũng làm cho giá
dầu biến động. Chẳng hạn cuộc chiến tại Iraq hoặc những xáo trộn tại Nigenia, khả
năng Iran (nắm giữ 10% trữ lượng dầu thế giới) bị quốc tế áp đặt lệnh trừng phạt về
vấn đề hạt nhân … khiến cho giá giầu từ giữa năm 2005 biến động mạnh, có ngày
vượt qua 70 USD/thùng (trong khi mức giá bình quân thường được giữ ở mức 25 -
28 USD/thùng từ hàng chục năm qua)
Đường cung của thị trường dầu mỏ biểu hiện trên đồ thị là đường có độ dốc
lên từ trái qua phải, biểu thị khi giá tăng lên thì lượng cung cũng tăng lên theo.
O
P
Q
S
Đồ thị 1: Biểu diễn đường cung xăng dầu trên thị trường thế giới
Xét về khía cạnh cầu: Cùng với sự phát triển xã hội, nhu cầu về dầu mỏ ngày
càng ngày tăng, bên cạnh đó cầu quốc tế đối với loại hàng hoá này rất không co
giãn vì hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phụ thuộc vào dầu và có quá ít hàng
hoá thay thế sẵn có đối với sản phẩm dầu. Biểu diễn đường cầu trên đồ thị là đường
có độ dốc từ trái qua phải nhưng độ dốc tương đối lớn.
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
3
O
P
Q
D
Đồ thị 2: Biểu diễn đường cầu dầu mỏ trên thị trường thế giới
Với đường cầu có độ dốc như vậy, bất cứ khi nào cung thay đổi, mặc dù
thay đổi với một lượng nhỏ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến giá cân bằng.
Có thể lấy ví dụ nhỏ để minh họa: Vào năm 1974, OPEC đã đơn phương
quyết định tăng giá dầu thô quốc tế trên 400 %, nhưng lượng cầu chỉ giảm xuống
30%, như vậy hệ số co giãn Ed = -30/400 = - 0,075 tức là hệ số co giãn gần bằng 0.
Kết hợp đồ thị cung - cầu xăng dầu ở trên có đồ thị thị trường của xăng dầu
trên thế giới.
S
O
P
Q
D
Đồ thị 3: Biểu diễn đường cung - cầu dầu mỏ trên thị trường thế giới
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
4
Với khả năng chi phối thị trường, các nước xuất khẩu dầu mỏ chủ yếu trên thế giới
có thể hành động như một nhóm độc quyền, có nghĩa một vài nhóm “cấu kết với
nhau ” bán một sản phẩm nhất định. Bằng cách thỏa thuận tăng vọt giá bán, trong
khi cầu dầu thô của thế giới không co giãn họ có thể tăng thu nhập của mình lên rất
nhiều lần.
Ví dụ: vào giữa năm 1973 và 1974, giá dầu mỏ đã tăng gấp 3 lần từ 2,9
USD/thùng lên tới 9 USD /thùng và kết quả là tổng thu nhập từ việc xuất khẩu dầu
của OPEC nhảy vọt từ 24,2 tỷ USD lên 100,7 tỷ USD với lượng dầu xuất khẩu có
giảm một ít.
Khi các nước xuất khẩu dầu chủ yếu trên thế giới phát hiện và tin rằng: Giá
dầu tăng lên với 1 lượng rất lớn thị chỉ làm giảm 1 lượng nhỏ trong khi lượng dầu
được bán ở trên thị trường.Với niềm tin như vậy, từ năm 1973, thị trường dầu mỏ đã
biến động mạnh mẽ, giá cả của xăng dầu trên thị trường thế giới thường xuyên tăng
lên đột ngột và ở mức tăng cao.
Bên cạnh việc giá cân bằng của dầu mỏ trên thị trường thế giới bị ảnh hưởng
bởi Cung - Cầu, giá cả của hàng hoá này còn bị ảnh hưởng một số yếu tố phi kinh
tế.
Thứ nhất: việc khai thác dầu phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết. Khi thời
tiết lạnh, mưa bão,…dầu không khai thác được, khi đó lượng cung giảm xuống,
nhưng do cầu là co giãn rất ít so với giá cho nên khi lượng cung giảm xuống, giá sẽ
có sự thay đổi rất lớn. Chẳng hạn mùa mưa bão ở vùng vịnh Mehico của Mỹ, kéo
dài từ tháng 6 tới tháng 11 hàng năm, cũng sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung nơi đây.
Thứ hai, là yếu tố chính trị, đối với một số nước có sức mạnh về chính trị,
khi nhập khẩu dầu, họ thương lượng với các nước xuất khẩu nhằm làm giảm chi phí
nhập khẩu xuống; tuy nhiên khi có sự bùng phát về chính trị, mâu thuẫn giữa các
nước không thể dung hoà được sẽ khiến cho giá cả dầu mỏ tăng lên rất nhiều. Ví dụ
điển hình là Irắc vào năm 1991 và năm 2000 đã đẩy dầu mỏ lên tới đỉnh điểm, giá 1
thùng dầu lúc đó lên tới 55-56 USD.
Thời gian qua, giá dầu thô trên thị trường thế giới luôn luôn biến động và
tăng cao, có thời điểm đã vượt ngưỡng 75 USD/thùng. Tính trung bình từ đầu năm
2006 đến nay, giá dầu thô trên thế giới đã tăng khoảng 20%.
Sự tăng giá đó phải kể đến cuộc khủng hoảng xung quanh chương trình hạt
nhân của I-ran, bạo lực gia tăng tại Ni-giê-ri-a, bạn hàng xuất khẩu lớn thứ năm của
Mỹ;
Theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế thế giới, giá dầu tiếp tục biến động
và có thể tăng lên mức 100 USD/thùng nếu Iran, nước xuất khẩu dầu lớn hàng đầu
thế giới, bị tiến công quân sự phải ngừng xuất khẩu dầu nhiều tháng.
Yếu tố thứ ba là, do sản phẩm dầu xuất khẩu của OPEC trong đó 90% là sản
phẩm dầu thô, việc lọc dầu lại được diễn ra tại các nước giàu có như Mỹ, Singapore,
Nhật bản,… Mà nhu cầu của thế giới tăng (sản phẩm lọc dầu); giá cả của dầu mỏ
cũng bị chi phối bởi các quốc gia đó. Do vậy, giá cả của xăng dầu trên thế giới luôn
luôn biến động.
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
5
Theo tính toán của OPEC, với chi phí cận biên của việc khai thác dầu bằng 0
vì việc khai thác dầu chỉ phi bỏ ra chi phí ban đầu trong việc thăm dò, sau đó lắp
đặt hệ thống hút dầu và khai thác dầu. Trong quá trình khai thác hầu như không
phải bỏ chi phí gì thêm, cho nên lượng dầu tối ưu của các nước xuất khẩu và nhập
khẩu là 22,8 USD/thùng.
Với mức giá bán thực tế luôn cao hơn mức giá cân bằng cung - cầu khiến cho
cầu luôn nhỏ hơn cung. Có nghĩa khi các nước xuất khẩu dầu mỏ có khả năng để
cung cấp nhiều hơn nhưng với mức giá cao như vậy khiến cho cầu bị hạn chế.
Trong thực tế khi có mâu thuẫn xảy ra trong OPEC, một quốc gia muốn tăng sản
lượng để thu thêm lợi nhuận về, các quốc gia còn lại không thống nhất sẽ dẫn đến
giá cả của dầu mỏ trên thị trường thế giới sẽ giảm xuống. Ngược lại khi mức giá
bán trên thị trường thấp hơn mức giá cân bằng, có nghĩa cầu lớn hơn lượng cung,
khi đó lượng dầu mỏ được sản xuất ra không đủ đáp ứng nhu cầu của thế giới, với
mức giá thấp, nguồn tài nguyên không có khả năng tái tạo, dầu mỏ bị khai thác quá
mức và có nguy cơ bị cạn kiệt. Do đó hạn chế lượng cung là điều kiện cần thiết.
P1
P2
D
S
S’
P
0 QQ1 Q2
Đồ thị 4: Biểu diễn ảnh hưởng của các yếu tố phi kinh tế
Ban đầu, thị trường xăng dầu cân bằng tại mức giá P1 và Q1 do các yếu tố phi
kinh phí như thời tiết, chiến tranh, chính sách của các nước giầu có, đẩy đường cung
(S) lên (S') điểm cân bằng mới của thị trường (P2;Q2). Sự tác động của các yếu tố
phi kinh tế làm cho sản lượng giảm từ Q1 → Q2, một lượng nhỏ nhưng tăng mạnh từ
mức giá P1 → P2.
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
6
Chương II
PHèN TóCH CHóNH SçCH CAN THIỆP VæO GIç XĂNG, DẦU CỦA CHóNH
PHỦ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
II.1 Tác động của giá xăng dầu đối với nền kinh tế thế giới và Việt
Nam
Việt Nam là nước phải nhập khẩu 100% sản phẩm xăng dầu; dĩ nhiên sự gia
tăng giá xăng dầu trên thị trường thế giới cũng kéo theo sự gia tăng liên tục của giá
xăng dầu tại thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, nhờ nhiều biện pháp can thiệp kịp thời
của Chính phủ nên biến động giá xăng dầu ở nước ta chưa đến mức cao như mức
bình quân trên thị trường thế giới, nhưng giá xăng dầu cũng đã khá cao này nếu duy
trì trong một thời gian dài cũng đặt ra nhiều vấn đề kinh tế đáng để các nhà hoạch
định chính sách xem xét.
Theo lý thuyết, một sự gia tăng mạnh giá xăng dầu có thể tạo ra gánh nặng
đối với các nền kinh tế theo hai cách thức khác nhau, tùy thuộc vào mức độ mà một
quốc gia phụ thuộc vào xăng dầu nhập khẩu (về phương diện này thì các nước châu
Á trong đó có Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng hơn so với các nước như Mỹ, Anh...)
và việc tiêu thụ xăng dầu tương đối so với tổng sản phẩm quốc dân (về phương diện
này thì các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là châu Á trong đó có Việt Nam, chịu
nhiều ảnh hưởng hơn so với các quốc gia công nghiệp do có tỷ lệ tiêu thụ xăng dầu
so với tổng sản phẩm quốc dân cao hơn: ví dụ tỷ lệ này của Việt Nam là khoảng 5%
so với của Mỹ chỉ là 2,5%).
Thứ nhất, việc giá xăng dầu cao và ngày càng tăng làm giảm mức sống của
dân cư xuống dưới mức lẽ ra đã có thể đạt được do tổng tiêu dùng cho sản phẩm
xăng dầu tăng lên tương đối so với thu nhập (ước tính sự gia tăng giá xăng tại Việt
Nam khiến cho mỗi cá nhân sử dụng phương tiện xe gắn máy mỗi tháng phải chi
thêm bình quân khoảng 20.000 đồng so với thời điểm đầu năm 2004; hơn nữa, mặt
hàng xăng dầu tương đối không co giãn so với giá - nghĩa là giá tăng nhưng người
sử dụng phương tiện vận tải cơ giới vẫn phải sử dụng do không có nhiên liệu khác
thay thế, do vậy khi giá xăng dầu tăng thì người tiêu dùng có ít thu nhập hơn dùng
để chi tiêu cho các hàng hóa khác).
Thứ hai, sự gia tăng này tác động đến nền kinh tế theo các cách thức mà rất
khó để các nhà hoạch định chính sách có thể quản lý được: một mặt, sự gia tăng giá
xăng dầu tạo áp lực gây ra lạm phát thông qua hiện tượng giá cánh kéo. Do xăng
dầu là yếu tố đầu vào của hầu như tất cả các ngành kinh tế khác, nên giá đầu vào
tăng, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, sẽ kéo theo giá đầu ra sản
phẩm tăng lên dẫn đến chỉ số giá cả nói chung gia tăng, ảnh hưởng đến sức mua của
xã hội và gây ra áp lực lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng trong nước tháng 5 đã tăng
mạnh đến 0,6% mà nguyên nhân chính là do xăng dầu tăng giá. Trong 5 tháng đầu
năm chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 3,6%, mức tăng này tuy thấp hơn so với cùng kỳ 2
năm trước đó là 6,3% (2004) và 4,8% (2005). Trong những tháng gần đây nhiều
hãng tàu quốc tế đã thông báo tăng phụ phí xăng đối với các lô hàng từ Việt Nam đi
châu Âu, đi Mỹ; giá nguyên liệu nhựa các loại đã tăng khoảng tăng 15-20%; giá
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
7
thành một số loại hàng hóa dịch vụ cũng đã tăng từ 2 đến 5%, trong đó, giá thép
tăng 12,5%, cước vận tải đường bộ tăng 2%, đánh bắt hải sản xa bờ tăng 4,1%....
Trong một tính toán mới đây, chi phí trong năm nay của Tập đoàn Công
nghiệp than - Khoáng sản Việt Nam sẽ tăng thêm khoảng 120 tỷ đồng do tăng giá
xăng dầu. Than lại là nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành sản xuất khác nên áp lực
dây chuyền cứ thế tiếp tục. Chi phí sản xuất tăng sẽ tác động đến năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
Bên cạnh đó, Các chuyên gia của Tập đoàn Tài chính HBSC và IMF nhấn
mạnh, nếu giá dầu tiếp tục tăng cao hơn, nền kinh tế toàn cầu sẽ đứng trước nguy cơ
mất ổn định dài hạn. Theo tính toán của IMF và Tổ chức các nước xuất khẩu dầu
(OPEC), giá dầu tăng thêm 10% sẽ làm nền kinh tế toàn cầu giảm tăng trưởng 1-
1,5%; giá dầu tăng quá cao kéo theo lạm phát và chi phí tiêu thụ năng lượng tăng
dẫn tới sự suy giảm của nhiều ngành công nghiệp lớn như sản xuất ô-tô, hàng không
...đẩy kinh tế toàn cầu vào vòng xoáy phát triển bất thường. Hiệp hội Vận tải hàng
không quốc tế cho biết, phí tổn nhiên liệu tổng cộng của tất cả các hãng hàng không
trên thế giới đã vượt mức 92 tỷ USD năm 2005, tăng 50% so với năm 2004; tình
hình thị trường dầu mỏ cứ biến động như hiện nay thì khó tránh khỏi giá vé máy
bay sẽ tăng vọt trong tương lai.
II.2 PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH CAN THIỆP VÀO GIÁ XĂNG, DẦU CỦA CHÍNH PHỦ
VIỆT NAM TRONG NĂM QUA
Qua sự phân tích tình hình biến động giá xăng dầu trên thế giới, từ đó thấy
chính sách can thiệp vào giá xăng dầu trong những năm qua một số tác động sau:
Trước hết, năm 2003, giá bán của xăng trên thị trường Việt Nam đối với loại
xăng A92 là 6000 đ/lít; giá bán này được Chính phủ Việt Nam quy định theo mức
bán giá trần, có nghĩa mức giá này luôn thấp hơn so với giá bán theo quy luật cung -
cầu, Nhà nước bù lỗ cho các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu. Do sự bất ổn về
tình hình chính trị - kinh tế, xã hội trên thế giới như: khủng bố, chiến tranh, thiên tai
khiến cho giá xăng, dầu trên thế giới vượt quá cao, Chính phủ nâng mức giá trần đối
với loại xăng A92 lên 6.600 đồng/lít và qua nhiều lần điều chỉnh và thời điểm hiện
nay là 11.000VNĐ/lít đối với vùng 1 (xem bảng)
Bảng 2: NHỮNG LẦN ĐIỀU CHỈNH GIÁ XĂNG DẦU TỪ NĂM 2004 ĐẾN NAY
đvt: đồng/lít
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
8
THỜI ĐIỂM ĐIỀU CHỈNH MÃ HÀNG VÙNG I VÙNG II
A95 5900 6018
A92 5600 5712
A90 5400 5508
DO 4400 4488
1/2/2004
DL 4300 4386
A95 6300 6420
A92 6000 6120
A90 5800 5910
DO 4650 4740
22/02/2004
DL 4600 4690
A95 7200 7300
A92 6900 7000
A90 6700 6800
DO 4850 4940
19h 19/06/2004
DL 4800 4890
A95 7300 7300
A92 7000 7000
A90 6800 6800
DO 4850 4850
1/7/2004
DL 4800 4800
A95 7800 7800
A92 7500 7500
A90 7300 7300
DO 4850 4850
19h 1/11/2004
DL 4800 4800
A95 8300 8460
A92 8000 8160
A90 7800 7950
DO 5500 5160
12h 29/03/2005
DL 4900 4990
A95 9100 9280
A92 8800 8970
A90 8600 8770
DO 6500 6630
12h 03/7/2005
DL 6500 6630
A95 10300 10500
A92 10000 10200
A90 9800 9990
DO 7500 7650
18h 17/8/2005
DL 7500 7650
A95 9800 9990
A92 9500 9690
A90 9300 9480
DO 7500 7650
6h 22/11/2005
DL 7500 7650
A95 11300 11520
A92 11000 11220
A90 10800 11010
DO 7900 8050
20h 27/4/2006
DL 7900 8050
Nguồn: Bộ Thương Mại
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
9
Việc quy định một mức giá trần thấp hơn so với mức giá thị trường của
Chính phủ có tác dụng nâng cao sức cạnh tranh đối với thị trường trong nước vì một
số ngành của chúng ta hiện nay đang sử dụng xăng dầu là nguyên liệu đầu vào, nếu
giá xăng dầu tăng có thể làm tăng thêm chi phí của doanh nghiệp. Do vậy, có có thể
sẽ dẫn đến việc giảm khả năng cạnh tranh. Mặt khác, một tác động tích cực do định
mức giá trần thấp như vậy Chính phủ nhằm duy trì lạm phát ở mức thấp vì giá
xăng dầu tăng có thể sẽ kéo theo giá cả của một số mặt hàng có liên quan tăng theo.
Bên cạnh đó, giá xăng dầu được sử dụng để tính chỉ số lạm phát và nếu giá của mặt
hàng này giữ được sự ổn định có ý nghĩa là đã kiềm chế được lạm phát. Tác động
tích cực thứ ba của chính sách Chính phủ là đảm bảo ổn định cuộc sống của người
dân. Nếu giá bán của xăng dầu được bán theo quy luật cung - cầu trên thị trường với
mức giá dầu, xăng trên thế giới cao như vậy có rất ít người tiêu dùng Việt Nam có
khả năng thanh toán nhưng chúng ta cũng phải thấy rằng hầu hết các gia đình Việt
Nam đều có xe máy, thậm chí có hộ gia đình nhiều hơn 1 chiếc xe máy. Cho nên
nhu cầu về xăng cho xe đi lại là rất lớn..
Bên cạnh tác động tích cực của chính sách ngày cũng tạo ra một số ảnh
hưởng tiêu cực.
Thứ nhất, phải kể đến sự thâm hụt của Ngân sách Nhà nước. Vì việc quy
định mức giá trần thấp hơn mức giá của thị trường thì phần lỗ của doanh nghiệp
nhập khẩu và bán xăng dầu được Nhà nước bù đắp.
Theo tính toán của Bộ Tài chính, kể từ đầu 1/1 đến 1/7/05, ngân sách Nhà
nước phải bù lỗ khoảng 6.450 tỷ đồng cho xăng dầu do giá trên thị trường thế giới
liên tục tăng cao. Đó còn chưa kể giảm thu ngân sách do việc đưa thuế nhập khẩu
xăng dầu về 0% từ nhiều tháng nay mà chưa khôi phục được.
Phần bù đắp được lấy từ lợi nhuận của hoạt động xuất khẩu dầu. Việt Nam
là nước xuất khẩu ngoài OPEC, sản lượng mà Việt Nam cung cấp nhỏ bé ra thị
trường thế giới, cho nên chúng ta là người chấp nhận giá. Khi giá dầu thô trên thị
trường thế giới tăng thị hoạt động xuất khẩu dầu thô của chúng ta có lợi, cùng với
một lượng hàng hóa bán như cũ, nhưng khi giá cao hơn doanh thu có được cao hơn.
Nhưng với đặc điểm của hoạt động khai thác dầu mỏ của Việt Nam khác so với các
nước Trung Đông và một số nước xuất khẩu trước dầu mỏ khác trên thế giới là hoạt
động khai thác dầu mỏ được thực hiện ngoài biển. Vì vậy chi phí thăm dò, lắp đặt
hệ thống giàn khoan khai thác và chi phí khai thác cũng cao hơn cho nên lợi nhuận
thu được thường thấp hơn.
Chúng ta chưa có nhà máy lọc dầu để chế biến sản phẩm từ dầu thô. Cho nên
dầu khai thác sẽ xuất khẩu sang những nước có công nghệ hiện đại để lọc thành
xăng từ đó bán ra thị trường để sử dụng.Việc nhập khẩu xăng hoàn toàn phụ thuộc
theo giá của thị trường thế giới. Điều này cũng có nghĩa khi giá xăng trên thế giới
tăng lên chi phí nhập khẩu xăng theo đó cũng tăng lên. Do mức giá bán ở thị trường
trong nước được giữ ở mức giá tương đối thấp so với giá hình thành theo quy luật
thị trường. Nên trong thực tế doanh thu từ hoạt động xuất khẩu dầu thô không đủ bù
đắp phần lỗ do Ngân sách Nhà nước bù đắp. Khi khoản tiền trích từ Ngân sách Nhà
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
10
nước nằm ngoài dự toán Ngân sách sẽ ảnh hưởng đến việc chi Ngân sách cho các
mục tiêu khác.
Thứ hai, Khi mức giá bán được quy định thấp sẽ xảy đến hiện tượng cầu lớn
hơn cung. Tại mức giá P* của xăng được hình thành theo quy luật cung - cầu thì
mức sản lượng được cân bằng cung - cầu trên thị trường Q*. Khi chính phủ quy
định mức giá trần Ps, lượng cung là Q1, lượng cầu là Q2, một lượng thiếu hụt là Q2 -
Q1. Xét về lý thuyết, khi mức giá bán trên thị trường thấp hơn mức giá bán được
định ra, nhưng lượng thiếu hụt thực tế của Việt nam không phải xuất phát từ cầu
tiêu dùng trong thực tế mà phần thiếu hụt này được cộng thêm cầu từ các nước láng
giềng như: Trung Quốc, Campuchia, Lào. Nguyên nhân là do các với mức giá trần
của Chính phủ thấp hơn so với mức giá bán tại các quốc gia đó dẫn đến tình trạng
là có 1 dòng xuất khẩu lậu sản phẩm này sang các quốc gia đó để hưởng phần chênh
lệch. Đường cầu mới của sản phẩm xăng là D', lượng cầu là Q3 và lượng thiếu hụt
bây giờ là : Q3 - Q1 = (Q3 - Q2)+ (Q2 - Q1)
O
Ps
P*
P
Q1 Q* Q2 Q3
D’
D
S
Q
Chiều ngày 06-6-2006, phóng viên báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao
đổi với ông Vũ Thế Bằng, Chánh văn phòng Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam
(Petrolimex) về giá bán lẻ xăng, dầu tại Việt Nam. Theo ông Bằng, giá bán lẻ xăng,
dầu đến người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay đang ở mức thấp so với các nước.
Hiện nay Nhà nước quy định giá bán lẻ xăng MG92 là 11.000 VNĐ/lít (vùng 1).
Mức giá trên đã có các khoản nộp ngân sách Nhà nước (khoảng 25%). Hiện nay, giá
bán xăng MG92 tại một số nước như sau : Tại Ô-xtrây-li-a, một lít giá 1,138 USD,
tương đương 18.200 VNĐ; tại Hàn Quốc là 1,6 USD, tương đương 25.600 VNĐ; tại
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
11
Cam-pu-chia, giá bán mỗi lít xăng tương đương với mức 15.200 VNĐ; tại Lào, mỗi
lít giá 8.920 kíp, tương đương 14.040 VNĐ; tại Trung Quốc, giá xăng MG 92 vào
khoảng 11.200 VNĐ/lít. Tất nhiên mức giá trên bao gồm cả thuế nhập khẩu, còn ở
Việt Nam, tại thời điểm hiện tại, thuế nhập khẩu bằng 0.
Thứ ba, Khi chính phủ đặt ra mức giá trần, người cung cấp hàng hoá xăng
dầu không muốn bán vì hoạt động kinh doanh của họ luôn bị lỗ. Trong khi đó Nhà
nước can thiệp vào các doanh nghiệp xăng dầu bắt buộc họ phải bán xăng dầu ra thị
trường dẫn đến tình trạng họ tìm cách gian lận trong việc bán xăng (ngoại trừ các
doanh nghiệp cung cấp xăng ra thị trường thế giới). Thực tế qua các cuộc kiểm tra
của các cơ quan hữu quan 90% doanh nghiệp bán xăng dầu đều vi phạm như điều
chỉnh đồng hồ bán xăng để bán ra với lượng ít hơn, chất lượng xăng cũng không tốt
vì bị pha trộn thêm 1 số chất khác, chủng loại xăng bán ra không đúng tiêu chuẩn
Theo Ông Bùi Ngọc Bảo, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Xăng dầu Việt
Nam (Petrolimex) cho biết giá xăng dầu thế giới tăng cao khiến mỗi ngày
Petrolimex lỗ từ 26 - 30 tỉ đồng. Riêng mặt hàng xăng (không còn được bù lỗ từ
27/4/2006), Petrolimex lỗ từ 4-5 tỉ đồng/ngày; tính ra một lít xăng nhập về công ty
chịu lỗ đến 1.000đ. Saigon Petro cũng cho biết nếu mức lỗ của công ty hồi tháng
3/2006 là 200-300đ/lít xăng thì tháng 6/2006 đã là 700- 800đ/lít. Hơn nửa tháng qua
(tháng 5/2006), Saigon Petro đã lỗ 20-30 tỉ đồng.
Thứ tư, Với việc các doanh nghiệp có những hành vi gian lận trong bán
xăng dầu ngày càng nhiều như hiện nay khiến cho Nhà nước phải bỏ một khoản chi
phí nhất định phục vụ cho công tác tăng cường kiểm tra, giám sát lực lượng nhằm
ngăn chặn những hành vi gian lận cũng như việc ngăn chặn tình trạng buôn lậu xăng
dầu qua biên giới.
Qua phân tích trên những ưu điểm tích cực cũng như những hạn chế trong
chính sách quy định mức giá trần đối với sản phẩm xăng dầu của Chính phủ, có thể
thấy rằng tùy theo từng mục tiệu của từng giai đoạn mà chính phủ nên lựa chọn giải
pháp đặt giá trần hoặc để giá cả được hình thành theo quy luật cung - cầu thị
trường.
Qua phân tích diễn biến giá xăng dầu trên thị trường thế giới có thể thấy
rằng, đây là một loại hàng hóa mà giá cả luôn biến động lớn do sự tác động của các
yếu tố cung- cầu và các yếu tố phi kinh tế, xu hướng giá tăng lên và tăng ở mức cao
là điều không thể tránh khỏi. Sự can thiệp của Chính phủ để điều tiết giá cả xăng
dầu trên thị trường Việt Nam là hết sức đúng đắn, tuy nhiên trong quá trình can
thiệp này, Chính phủ cần phải nắm rõ những tác động tiêu cực để từ đó có những
biện pháp chiến lược nhằm phòng tránh rủi ro và mang lại hiệu quả.
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
12
Chương III
NHỮNG GIẢI PHçP KIỂM SOçT ẢNH HƯỞNG SỰ BIẾN ĐỘNG GIç
XĂNG DẦU THẾ GIỚI ĐỐI VỚI CçC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1. Giải pháp giảm sự lệ thuộc vào nguồn cung cấp dầu của thế giới –
Giải pháp tăng cung
1.1. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nhà máy lọc dầu
Việc xây dựng các nhà máy lọc dầu hiện nay có ý nghĩa rất lớn đối với ngành
dầu khí nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung. Khi đó chúng ta sẽ tự chủ được
một phần nào đó về cung nguyên nhiên liệu cũng như nâng cao giá trị xuất khẩu các
sản phẩm từ dầu mỏ thay vì là chỉ xuất khẩu dầu thô với giá trị thấp như trước kia,
đồng thời giảm được giá trị nhập khẩu xăng dầu, cải thiện cán cân thanh toán.
Nhà máy lọc dầu Dung Quất, một công trình trọng điểm quốc gia đang từng
bước được hoàn thiện để đưa vào sử dụng. Đến nay, Petrol Việt Nam đã hoàn thành
các công tác chuẩn bị mặt bằng. Các hạng mục hạ tầng cơ sở phục vụ cho xây dựng
nhà máy đã được đưa vào sử dụng.
Dự án khí – điện – đạm Cà Mau đã hoàn thành san lấp mặt bằng cần thiết
cho nhà máy điện và phân đạm. Các cơ sở hạ tầng đã được triển khai, đường ống
dẫn khí đốt từ cụm mỏ PM3 về Cà Mau cũng như nhà máy điện đã hoàn thành thiết
kế và lập tổng dự toán, đang chờ được phê duyệt.
1.2. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào
ngành khai thác và chế biến dầu khí
Những ứng dụng khoa học kỹ thuật vào ngành khai thác sẽ nâng cao hiệu
quả cũng như chất lượng cho hoạt động khai thác, đồng thời giảm sự lệ thuộc của ta
vào việc thuê các thiết bị của nước ngoài. Phát triển lọc dầu trong nước để tăng giá
trị xuất khẩu sản phẩm.
Trong năm 2004 tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin đã
đóng góp cho Petro Việt Nam một giàn khoan tự nâng trị giá 100 triệu USD tại nhà
máy đóng tàu Dung Quất. Giàn khoan này được đóng theo quy phạm và giám sát
phân cấp của đăng kiểm Mỹ ABS, phục vụ cho hoạt động khoan thăm dò tại vùng
mỏ Bạch Hổ, Đại Hùng.
1.3. Tiết kiệm tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên
Để đảm bảo an ninh năng lượng, các nước có nhiều biện pháp khác nhau.
Trong đó đối với Việt Nam biện pháp thực thi nhất là thực hành tiết kiệm năng
lượng.
Hoạt động tiết kiệm có quy mô lớn nhất trong ngành dầu khí là chấm dứt tình
trạng đốt bỏ khí đồng hành tại nơi khai thác dầu thô, thu gom và đưa lượng lớn khí
này vào bờ phục vụ cho phát điện, sản xuất ure và các hóa chất khác, thậm chí có
thể biến thành nhiên liệu lỏng thay cho xăng.
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
13
Lượng khí đồng hành ở mỏ Bạch Hổ bị đốt bỏ từ năm 1986 đến 1994 lên đến
5.5 tỷ m3 và sau năm 1995 lượng khí này mới được sử dụng như một năng lượng
hữu ích. Lượng khí đồng hành ở bể Cửu Long có thể thu gom khoảng 43 tỷ m3. Mỏ
Bạch Hổ trong thời gian ổn định có thể cung cấp 1.5 đến 2 tỷ m3/năm. Mỏ Rạng
Đông ước tính mỗi ngày khai thác được 58.5 triệu m3 nhưng từ 1998 đến 2001
ngoài việc sử dụng cho các nhu cầu tại mỏ thì phần khí còn lại vẫn bị đốt bỏ. Trong
khoảng thời gian từ năm 2004 đến 2010, mỏ Hồng Ngọc dự tính có thể cung cấp
khoảng 800 triệu m3 và mỏ Emerald có thể cung cấp khoảng 4.5 tỷ m3. Ngoài lợi
ích kinh tế, việc chấm dứt đốt bỏ khí đồng hành còn mang lại lợi ích bảo vệ môi
trường, chống hiệu ứng nhà kính do lượng khí CO2 và CH4 cùng các loại khí độc
hại khác phát tán vào khí quyển trong quá trình đối khí gây ra.
Ngoài ra có thể thực hiện tiết kiệm năng lượng thông qua việc xây dựng
ngành kinh tế có hàm lượng cacbon thấp (sử dụng ít nhiên liệu).
2. Giải pháp về những hàng hóa thay thế – giải pháp giảm cầu
2.1. Hàng hóa thay thế trong ngành năng lượng và nhiên liệu
Để có thể giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực của biến động giá xăng dầu
đối với nền kinh tế trong nước thì một trong những biện pháp thực hiện là giảm bớt
nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế đối với loại sản phẩm này. Việc giảm cầu có thể
thực hiện bằng cách tìm các nguồn năng lượng và nhiên liệu khác với nguồn xăng
dầu để vận hành máy móc, thiết bị.
Chẳng hạn như đẩy mạnh việc nghiên cứu để sử dụng được nguồn năng
lượng mặt trời tương đối dồi dào cho các loại phương tiện giao thông, các máy móc
thiết bị cần năng lượng để vận hành. Nguồn năng lượng từ sức gió cũng là nguồn
năng lượng tốt và lại nhiều. Trong khi nguồn dầu mỏ thì có hạn, khai thác đến một
lúc nào đó sẽ làm cạn kiệt thì những nguồn năng lượng như vừa kể trên là nguồn
năng lượng thay thế tốt nhất.
Ngoài ra, có thể nghiên cứu để tìm cách tổng hợp nhân tạo những hợp chất
cần thiết mà từ trước đến nay chỉ có thể chiết xuất từ nguồn dầu mỏ. Ngày nay
ngành công nghệ vật liệu mới đang phát triển mạnh và sẽ hứa hẹn nghiên cứu được
nhiều hợp chất có giá trị. Như vậy nước ta cũng cần đẩy mạnh theo hướng nghiên
cứu này.
2.2. Dùng phương tiện giao thông công cộng thay cho phương
tiện giao thông cá nhân
Một thực trạng của nền kinh tế ngày nay ở nước ta cho thấy nhu cầu sử dụng
các phương tiện giao thông cá nhân hiện nay là rất nhiều, lưu lượng xe máy tăng vọt
trong năm 2003 và 2004. Đây là một điều đáng lo ngại trong vấn đề giải quyết nhu
cầu nhiên liệu cho các phương tiện này. Sự sử dụng như vậy là rất lãng phí nguồn
lực kinh tế. Mỗi người đều tiêu thụ một lượng lớn xăng dầu mỗi ngày để vận hành
phương tiện, mà với số dân đông như chúng ta hiện nay (80 triệu người) thì chỉ cần
1/2 số người có xe máy đã tạo nên nhu cầu lớn về tiêu thụ xăng.
Giải pháp cho vấn đề này đang được chính phủ từng bước thực hiện, tuy
chưa hoàn toàn đạt hiệu quả như mong muốn nhưng cũng có những ý nghĩa nhất
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
14
định. Đó là khuyến khích người dân tham gia giao thông bằng các phương tiện giao
thông công cộng như xe buýt. Trong thời gian tới sẽ tăng cường xây dựng các tuyến
Metro và tàu điện ngầm để phục vụ nhu cầu đi lại của người dân. Nếu thực hiện
được điều này sẽ giải quyết được bài toán lớn cho vấn đề nhiên liệu của đất nước.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần có những quy định nghiêm trong vấn đề sử
dụng xe công để thực hiện nhiệm vụ, cần hạn chế sự tiêu dùng lãng phí và hạn chế
những đối tượng sử dụng để giảm áp lực cho chi tiêu của chính phủ trong việc trả
các chi phí nhiên liệu của các hoạt động công tác này. Khuyến khích cán bộ thực
hành tiết kiệm.
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
15
KẾT LUẬN
Khi c‚ sự biến ₫ộng giŸ xăng dầu, mỗi quốc gia ₫ều chịu ảnh hưởng ở
một mức ₫ộ nhất ₫ịnh t•y všo quy m“ của quốc gia ₫‚ vš sự phŸt triển của
quốc gia. CŸc quốc gia phŸt triển hiện nay ₫ž c‚ những kinh nghiệm ₫ối với việc
chống ₫ỡ tŸc ₫ộng của sự biến ₫ộng giŸ xăng dầu bằng việc tăng cường dự trữ
dầu, thực hiện tiết kiệm năng lượng vš c‚ ưu thế trong việc t˜m kiếm những
nguồn nguy˚n liệu thay thế cho n˚n trong ngắn hạn th˜ sự biến ₫ộng ₫‚ sẽ
kh“ng ảnh hưởng nhiều. Chỉ khi nšo sự biến ₫ộng ₫‚ diễn ra trong thời gian dši
th˜ mới c‚ thể tŸc ₫ộng ₫ến cŸc nền kinh tế nšy. Ngược lại, ₫ối với những quốc
gia nhỏ như Việt Nam, nhu cầu về nhi˚n liệu, năng lượng cho quŸ tr˜nh c“ng
nghiệp h‚a hiện ₫ại h‚a ₫ất nước lšm cho Việt Nam chịu ảnh hưởng khŸ lớn với
mỗi biến ₫ộng giŸ xăng dầu tr˚n thế giới. V˜ vậy, xem x˙t vš ₫Ÿnh giŸ ₫…ng mức
₫ộ ảnh hưởng ₫ối với nền kinh tế, ₫ối với mỗi nhŽn tố trong nền kinh tế ₫ể từ
₫‚ hạn chế những tŸc ₫ộng ti˚u cực, phŸt huy những mặt t˝ch cực lš ₫iều rất
quan trọng.
Lê Hồng Lam
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu kinh tế vi mô
Robert S.Pindyck
2. Tài liệu kinh tế vi mô
Jack Hrhleifer & Amhai Glazer
3. Trang web gso.com của Tổng cục thống kê Việt Nam
4. Tạp chí nghiên cứu kinh tế
5. Thời báo kinh tế Việt Nam
6. Website của Bộ Thương Mại Việt Nam
7.
8. Trang web vneconomy.com.vn
9.
Lê Hồng Lam - Bộ môn QTKD - Đại học Nha trang
17
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Sử dụng mô hình cung cầu để giải thích diễn biến của giá xăng dầu trên thế giới.pdf