Sự hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài thương mại theo quy định của luật trọng tài thương mại 2010, một số vấn đề lý luận

Mục lục A.ĐẶT VẤN ĐỀ 1 B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1 I.Những vấn đề lý luận chung về trọng tài thương mại. 1 1. Khái niệm về trọng tài thương mại 1 2. Ưu điểm và nhược điểm của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại .2 3. Khái quát về cơ quan Tòa án và sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài thương mại 3 II.Sự hỗ trợ của Toà án đối với hoạt động của Trọng tài theo Luật Trọng tài thương mại 2010 5 1. Chỉ định, thay đổi trọng tài viên đối với trọng tài vụ việc 6 2. Xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài. 7 3. Sự hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài trong việc triệu tập người làm chứng, thu thập chứng cứ 8 4. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời 10 5. Giải quyết yêu cầu hủy phán quyết của trọng tài 12 6. Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc. 14 C.KẾT THÚC VẤN ĐỀ 15 Danh mục tài liệu tham khảo 16

docx17 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6595 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài thương mại theo quy định của luật trọng tài thương mại 2010, một số vấn đề lý luận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục ĐẶT VẤN ĐỀ Tranh chấp thương mại là sự xung đột lợi ích của các bên trong quan hệ thương mại, việc giải quyết tranh chấp có thể được tiến hành bằng nhiều biện pháp khác nhau, đó có thể là thương lượng; hòa giải; giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại hoặc cũng có thể được tiến hành tại Tòa án. Mỗi phương thức giải quyết đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều tác động tích cực đối việc giải quyết xung đột lợi ích của các bên. Tuy nhiên phương thức giải quyết này cũng có nhiều hạn chế nhất định trong việc áp dụng cũng như tổ chức thực hiện. Vì vậy pháp luật quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại. Vậy Luật trọng tài thương mại 2010 quy định về vấn đề này như thế nào? Sự hỗ trợ của Tòa án về những vấn đề gì ? GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Những vấn đề lý luận chung về trọng tài thương mại. Khái niệm về trọng tài thương mại Theo từ điển tiếng Việt, trọng tài được hiểu là “người được cử ra để phân xử, giải quyết những vị tranh chấp”. Còn theo cuốn Đại từ điển kinh tế thị trường định nghĩa trọng tài như sau: “ trọng tài là phương pháp giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương sự tự nguyên đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho người thứ ba có tư cách công bằng, chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực rang buộc cả hai bên”. Theo hội đồng trọng tài Mỹ (AAA): “ trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ việc tranh chấp cho một hoặc một số người khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành”. Luật trọng tài thương mại 2010 của nước ta tại Khoản 1 Điều 3 quy định như sau” trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của luật này”. Ưu điểm và nhược điểm của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại 2.1. Ưu điểm: - Thứ nhất, thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng, các bên có thể chủ động về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp, không trải qua nhiều cấp xét xử như ở toà án, cho nên hạn chế tốn kém về thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp. - Thứ hai, khả năng chỉ định trọng tài viên thành lập Hội đồng trọng tài giải quyết vụ việc giúp các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc vấn đề đang tranh chấp để từ đó họ có thể giải quyết tranh chấp nhanh chóng, chính xác. - Thứ ba, nguyên tắc trọng tài xét xử không công khai, phần nào giúp các bên giữ được uy tín trên thương trường. Đây được coi là ưu điểm được các bên tranh chấp ưa chộng nhất. - Thứ tư, các bên tranh chấp có khả năng tác động đến quá trình trọng tài, kiểm soát được việc cung cấp chứng cứ của mình và điều này giúp các bên giữ được bí quyết kinh doanh. - Thứ năm. trọng tài khi giải quyết tranh chấp nhân danh ý chí của các bên, không nhân danh quyền lực tự pháp của nhà nước, nên rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp có nhân tố nước ngoài. 2.2. Nhược điểm: - Đầu tiên, khuỵết điểm được phát sinh do tính chất nhanh chóng của cách thức giải quyết vụ việc, trọng tài tuyên án chỉ sau một cấp xét xử duy nhất, nên đôi khi các quyết định của trọng tài là không chính xác, gây thiệt hại đối với doanh nghiệp. - Trong thời gian trước đây, khi chưa có luật trọng tài thương mại 2010 thì tính cưỡng chế thi hành các quyết định trọng tài không cao vì trọng tài không đại diện cho quyền lực tư pháp của nhà nước. - Việc thực hiện các quyết định của trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức tự nguyện của các bên. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, uy tín của doanh nghiệp được đặt lên hàng đầu do đó việc họ tự giác thực hiện các quyết định của trọng tài khá cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước hiện nay vẫn chưa coi trọng việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nên vẫn chưa có ý thức tự giác. - Trong thực tiễn tình hình nước ta hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quá lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng chi trả. - Khi không được thoả thuận sử dụng trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp kinh doanh trong hợp đồng thì khi xảy ra tranh chấp, trọng tài không có thẩm quyền giải quyết ngay cả khi doanh nghiệp có ý định đó. Khái quát về cơ quan Tòa án và sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài thương mại 3.1.Tòa án Tòa án là hệ thống cơ quan có chức năng đặc thù trong bất kỳ bộ máy nhà nước nào. Tính đặc thù thể hiện ở chỗ, Tòa án là cơ quan quyền lực nhà nước duy nhất được thực hiện chức năng xét xử và ra các phán quyết buộc các bên thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Theo điều 127 Hiến pháp 1992: “ Tòa án nhân dân tối cao, các tòa quân sự và các tòa án nhân dân địa phương, và các tòa khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” Tuy nhiên không phải tất cả các Tòa án được thành lập trên lãnh thổ Việt Nam đều tham gia hỗ trợ hoạt động trọng tài, mà chỉ có Tòa Kinh tế- Tòa án chuyên trách giải quyết các tranh chấp về thương mại mới tham gia hỗ trợ hoạt động của trọng tài. Bởi vì, xuất phát từ tính chất của vụ tranh chấp được trọng tài giải quyết là tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mai mà các bên tranh chấp là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh. Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có những nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng như: sơ thẩm những vụ án kinh tế theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm những vụ án kinh tế mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; giải quyết việc phá sản theo quy định của pháp luật. Như vậy căn cứ vào Luật tổ chức Tòa án nhân dân, tòa kinh tế không có chức năng hỗ trợ hoạt động trọng tài, mà chỉ quy định chức năng xét xử các tranh chấp và giải quyết phá sản. Tuy nhiên, căn cứ vào Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì Tòa kinh tế lại có thẩm quyền giải quyết: Yếu cầu liên quan đến trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về trọng tài thương mại; yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của trọng tài nước ngoài. 3.2. Sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của trọng tài: trọng tài là cơ quan tài phán phi chính phủ có quyền lực bắt nguồn từ “quyền lực hợp đồng” do các bên tranh chấp giao phó, ủy nhiệm. Phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước, không đại diện cho ý chí của nhà nước mà đại diện cho ý chí của các bên tranh chấp. Vì vậy, trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài gặp rất nhiều khó khăn, những khó khăn này vượt ra khỏi sự kiểm soát của trọng tài và cần đến sự giúp đỡ của Tòa án và các cơ quan tư pháp khác. Trong quá trình trọng tào thụ lý vụ kiện, có trường hợp việc giải quyết của trọng tài không thể tiến hành, ví dụ: khi không chọn được trọng tài viên, khi xem xét thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài…Nếu không có sự trợ giúp của Tòa án, vụ tranh chấp khó có thể được giải quyết tại trọng tài, bởi vì các bên đã không nhất trí trong quá trình kiện tụng. Vì vậy sự hỗ trợ của Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tránh bế tắc cho hoạt động trọng tài, để trọng tài có thể giải quyết tốt các tranh chấp mà các bên đã tin tưởng giao phó. Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước đối với hoạt động trọng tài: Nhà nước nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng có thẩm quyền quản lý hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội, trong đó có trọng tài. Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về trọng tài đã thể hiện sự quản lý của mình đối với hoạt động của trọng tài, đồng thời tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động của trọng tài. Thứ ba, sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài đã đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động trọng tài. Trọng tài thương mại có rất nhiều ưu điểm đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các bên thể hiện tối đa ý chí của mình trong quá trình giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên cùng với khiếm khuyết vốn có nhiều khi hoạt động của trọng tài không đảm bảo tính hiệu quả, không bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Với việc Tòa án hỗ trợ trọng tài trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tòa án hủy quyết định của trọng tài nếu quyết định của trọng tài rơi vào những trường hợp pháp luật quy định. Sự hỗ trợ của Toà án đối với hoạt động của Trọng tài theo Luật Trọng tài thương mại 2010 Để nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài thương mại, Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trước đây và hiện này là Luật trọng tài thương mai 2010 đã có nhiều quy định về sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại. Trọng tài thương mai hoạt động có hiệu quả tốt sẽ giảm bớt gánh nặng cho tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, đáp ứng yêu cầu của các nhà kinh doanh trong việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp thương mại. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài được thể hiện ở những vấn đề sau: Chỉ định, thay đổi trọng tài viên đối với trọng tài vụ việc Trong tố tụng, trọng tài vụ việc hay thường trực, việc thành lập hội đồng trọng tài để giải quyết vụ tranh chấp hoàn toàn là quyền của các bên tranh chấp. Bên nguyên đơn và bên bị đơn có quyền lựa chọn hoặc thành lập hội đồng trọng tài chỉ có một trọng tài viên duy nhất để giải quyết tranh chấp cho mình. Tuy nhiên đối với hình thức trọng tài vụ việc, nếu bị đơn không chọn được trọng tài viên hoặc các bị đơn không chọn được trọng tài viên hoặc hai trọng tài viên được chọn hay chỉ định không chọn được trọng tài viên thứ ba hoặc các bên đương sự không chọn được trọng tài viên duy nhất thì có quyền yêu cầu Tòa án nơi cư trú của bị đơn nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ chức (Điểm a, Khoản 2 Điều7, Luật trọng tài thương mại 2010) lựa chọn. Hơn nữa pháp luật cũng quy định về những trường hợp mà tòa án chỉ định trọng tài viên trong các trường hợp cụ thể, vấn đề này được quy định tại Điều 41 Luật trọng tài thương mại năm 2010. Cũng theo quy định tại khoản 5 Điều 41 thì: “trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của các bên quy định tại các khoản 1,2,3 và 4 của Điều này, chánh án Tòa án có thẩm quyền phải phân công một thẩm phán chỉ định trọng tài viên và thông báo cho các bên” Quy định này nhằm tránh bế tắc trong tố tụng trọng tài, đồng thời đảm bảo vụ tranh chấp trọng tài được giải quyết. Bởi vì, vụ tranh chấp đã được các bên thỏa thuận giải quyết theo thủ tục trọng tài, Tòa án không thụ lý giải quyết. Trong trường hợp này, nếu vì lý do không thành lập được hội đồng trọng tài hoặc không chọn được trọng tài viên duy nhất mà tranh chấp đó không được trọng tài giải quyết thì cũng sẽ không được giải quyết tại Tòa án. Vì thế quyền lợi của các bên tranh chấp sẽ không được đảm bảo, đặc biệt là bên có quyền và lợi ích bị xâm hại. Đối với việc thay đổi Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc thì theo quy định của pháp luật thì sẽ do thành viên của Hội đồng trọng tài quyết định Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp (Điểm b, Khoản 2 Điều 7, Luật trọng tài thương mại 2010). Do đó sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài trong việc chỉ định, thay đổi trọng tài viên là hết sức cần thiết. Sự can thiệp của cơ quan quyền lực nhà nước (Toà án) vào hoạt động trọng tài bằng việc chỉ định, thay đổi, khước từ trọng tài viên đã làm cho trọng tài có thể thực hiện được nhiệm vụ mà các bên giao phó, giúp các bên thao gỡ những bất đồng, mâu thuẫn phát sinh. Có thể nói, việc Tòa án thực hiện sự hỗ trợ của mình đối với hoạt động của trọng tài thương mại thông qua việc chỉ định và thay đổi trọng tài viên thể hiện sự tham gia của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại, chính việc chỉ định và thay đổi trọng tài viên trong những trường hợp nhất định bằng quyền lực nhà nước, Tòa án có thẩm quyền chỉ định và thay đổi trọng tài viên trong trường hợp các bên không thỏa thuận được, và quyết định chỉ định hoặc thay đổi trọng tài viên của Tòa án có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể. Xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài. Thẩm quyền giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể của hội đồng trọng tài là do thỏa thuận trọng tài của các bên xác định. Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, nếu có đơn khiếu nại của một bên về việc hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp, vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu, hội đồng trọng tài phải xem xét quyết định vụ tranh chấp có thuộc thẩm quyền của mình hay không. Nếu các bên không đồng ý với quyết định này của hội đồng trọng tài thì có quyền yêu cầu Tòa án xem xét lại quyết định của hội đồng trọng tài. Theo quy định tài Điều 6 Luật trọng tài thương mại 2010 thì “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Đây là sự hỗ trợ rất quan trọng của Tòa án đối với hoạt động trọng tài, thể hiện thái độ dứt khoát của Tòa án khi không thụ lý vụ tranh chấp mà các bên đã thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên Điều luật này cũng quy định trường hợp các bên đã có thỏa thuận nhưng thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Tòa án vẫn có thẩm quyền giải quyết. Những thỏa thuận trọng tài vô hiệu được quy định tại Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010, nhưng vấn đề đặt ra là, ai có thẩm quyền tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Luật trọng tài thương mại không quy định rõ vì vậy có thể hiều rằng Tòa án nhân dân và hội đồng trọng tài đều có thẩm quyền tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Theo quy định tại điều 44 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì nếu các bên không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài quy định tài điều 43 ( Xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài) thì các bên có quyền gửi đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài và Tòa án có thể tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu, quyết định của Toà án là cuối cùng và khi đó các bên có quyền khởi kiện vụ tranh chấp ra Toà án theo quy định tại Khoản 6 Điều 44 Luật trọng tài thương mại 2010: “Trong trường hợp Toà án quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp. Nếu không có thoả thuận khác, các bên có quyền khởi kiện vụ tranh chấp ra Toà án” Sự hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài trong việc triệu tập người làm chứng, thu thập chứng cứ Đây là quy định mới của Luật trọng tài thương mại 2010 so với pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 về sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc triệu tập người làm chứng và thu thập chứng cứ. Theo quy định của pháp luật thì Hội đồng trọng tài có quyền thu thập chứng cứ, Các bên có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Hội đồng trọng tài để chứng minh các sự việc có liên quan đến nội dung đang tranh chấp. Trong trường hợp Hội đồng trọng tài, một hoặc các bên đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể gửi văn bản đề nghị Toà án có thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến vụ tranh chấp (khoản 5 Điều 46). Chánh án Tòa án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết yêu cầu thu thập chứng cứ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải có văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp chứng cứ cho Tòa án. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được chứng cứ do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp, Tòa án phải thông báo cho Hội đồng trọng tài, bên yêu cầu biết để tiến hành việc giao nhận chứng cứ Khoản 6 Điều 46 Luật trong tài thương mại 2010 . Ngoài ra, Tòa án cũng có thể ra quyết định triệu tập người làm chứng liên quan đến vụ tranh chấp theo yêu cầu của Hội đồng trọng tài Khoản 2, 3 điều 47 Luật trọng tài thương mại . Việc pháp luật quy định cho phép Hội đồng trọng tài gửi văn bản đề nghị Tòa án có thẩm quyền ra quyết định triệu tập người làm chứng nhằm đảm bảo sự có mặt của người làm chứng trong những trường hợp cần thiết nhằm làm sáng tỏ vụ việc. Sự hỗ trợ của Tòa án trong việc triệu tập người làm chứng thể hiện ở chỗ, bằng quyền lực cũng như những công cụ cưỡng chế của mình, việc Tòa án ra quyết định triệu tập người làm chứng sẽ được người làm chứng thực hiện một cách nghiêm minh hơn, góp phần làm cho hoạt động, cũng như phán quyết của hội đồng trọng tài được chuẩn xác hơn, hoạt động của trọng tài được thực hiện thuận lợi hơn. Việc pháp luật quy định Hội đồng trọng tài không thể thu thập được chứng cứ có thể gửi văn bản đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ tranh chấp được nhanh chóng và chính xác. Tòa án, với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước, là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước và có quyền nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước khi cần thiết khi thực hiện các hoạt đọng thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng sẽ được thuận lợi hơn, các cá nhân, tổ chức liên quan chấp hành yêu cầu về thu thập chứng cứ nhanh chóng hơn trọng tài. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Trong quá trình hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn đến tòa án để yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời thích hợp để bảo vệ tài sản đang bị tranh chấp. Theo quy định tại Điều 48 thì “Các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài, Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Luật này và các quy định của pháp luật có liên quan, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; Việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài”. Ngoài ra pháp luật cũng quy định ”Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác hoặc vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của bên yêu cầu mà gây thiệt hại cho bên yêu cầu, bên bị áp dụng hoặc người thứ ba thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết bồi thường theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.” (khoản 5 Điều 49 Luât Trọng tài thương mại 2010). Việc pháp luật quy đinh cho phép các bên có quyền yêu cầu hội đồng trọng tài hoặc Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo quyền lợi của đương sự trong vụ việc giải quyết tranh chấp, khi bên đương sự xét thấy cần phải bảo vệ tài sản bị tranh chấp trước nguy cơ tẩu tán tài sản hoặc các hành vi khác nhằm giảm giá trị của tài sản tranh chấp họ có thể yêu cầu hội đồng trọng tài hoặc Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài ở đây thể hiện ở việc, Tòa án có thể dùng sức mạnh cưỡng chế nhà nước mà mình có được để áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, điều mà hồi đồng trọng tài không có được do không nhân danh nhà nước và thực hiện quyền lực nhà nước. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án có giá trị pháp lý cao hơn, hiệu quả thi hành tốt hơn việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của hội đồng trọng tài. Về Thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Điều 53 Luật trọng tài thương mại 2010. Điều này cho thấy pháp luật cũng có sự can thiệp đáng kể bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước đối với hoạt động của trọng tài thương mại, giúp cho trọng tài hoạt động có hiệu quả hơn và bảo vệ tốt quyền lợi của các đương sự tham gia vụ kiện. So với các văn bản trước đây về trọng tài, có thể thấy rằng các văn bản đó hầu như không có quy định về sự hỗ trợ của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với vụ tranh chấp được trọng tài giải quyết. Vì thế, bên có quyền và lợi ích bị xâm phạm khó có khả năng được bảo đảm quyền lợi khi một bên có hành vi tẩu tán tài sản, bán tài sản thấp hơn giá thực, trả nợ những khoản nợ chưa đến hạn… với mục đích làm giảm khối lượng tài sản của mình để trốn tránh nghĩa vụ về tài sản đối với bên có quyền lợi, thì trọng tài cũng không thể xử lý được do thiếu cơ sở pháp lý. Trong pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 đã đề cập đến sự hỗ trợ của Tòa án đối với vấn đề này, tuy nhiên qua quá trình thực hiện cũng còn tồn tại nhiều vướng mắc. Sự ra đời của Luật trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục những khó khăn vướng mắc đó. Luật trọng tài thương mại 2010 quy định cho cả Hội đồng trọng tài và Tòa án cũng có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự trong việc lựa chọn cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Quy định như vậy có tác dụng rất lớn góp phần bảo toàn tài sản của đương sự trong vụ tranh chấp, tránh những hành vi tiêu cực của các chủ thể cố tình tẩu tán tài sản để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Do vậy, có thể khẳng định việc pháp luật quy định có sự tham gia của Tòa án thông qua việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một sự hỗ trợ hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Nó không chỉ đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài có hiệu quả mà còn làm cho phán quyết của trọng tài có tính khả thi, đảm bảo uy tín và hiệu quả của hoạt động trọng tài. Giải quyết yêu cầu hủy phán quyết của trọng tài Tố tụng trọng tài không có nhiều giai đoạn xét xử, không có thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Vì vậy không ai có thể đảm bảo rằng quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài luôn luôn đúng về mọi phương diện. Để có thể hạn chế tối đa những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự Luật trọng tài thương mại 2010 quy định, bên không đồng ý với quyết định trọng tài có quyền làm đơn gửi Tòa án yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Hủy quyết định của trọng tài nghĩa là, Tòa án với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền xem xét lại quyết định trọng tài. Tuy nhiên thủ tục hủy quyết định trọng tài không phải là thủ tục xét xử lại vụ kiện, không giống như thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình dân sựTheo quy định tại khoản 1 Điều 68 thì “Tòa án xem xét việc hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên”. Theo đó, khi nhận đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài của một bên, Tòa án không xét xử lại mà chỉ đối chiếu vào các căn cứ hủy phán quyết của trọng tài quy định tại Khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010. Nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng quyết định mà trọng tài đã tuyên thuộc một trong các trường hợp a,b,c,d khoản 2 Điều 68 thì Tòa án sẽ ra quyết định hủy phán quyết của trọng tài. Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài quy định tại điểm đ khoản 2 (Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam), Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài. Ngoài ra pháp luật cũng quy định có sự tham gia của Viện kiểm sát trong hoạt động hủy quyết định của trọng tài, với chức năng giám sát hoạt động của Tòa án. Quyết định của Toà án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành (Khoản 10 Điều 71). Đây là điểm mới so với pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Việc pháp luật quy định Tòa án có thẩm quyền hủy phán quyết của trọng tài khi các bên yêu cầu có tác động rất lớn, qua đó khắc phục được những sai phạm( nếu có) của Hội đồng trọng tài khi giải quyết tranh chấp, làm cho vụ giải quyết tranh chấp thực sự khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Còn nếu quyết định của trọng tài đã tuyên không thuộc một trong các trường hợp bị hủy thì một lần nữa khẳng định rằng Hội đồng trọng tài đã công tâm, đúng pháp luật đảm bảo quyền và lợi ích của các bên và phán quyết đó cần được các bên tôn trọng và tự nguyện thi hành hoặc được cưỡng chế thi hành. Tuy nhiên cần nhấn mạnh một điều rằng, việc hủy phán quyết của trọng tài không phải là việc xét xử lại bản án vì vậy, khi các bên có nhu cầu gửi đơn đến tòa án để yêu cầu Tòa hủy phán quyết của trọng tài cần phải tìm hiểu và đối chiếu các căn cứ hủy phán quyết của trọng tài, nếu có thì gửi đơn yêu cầu Tòa án hủy phán quyết đó, tránh tình trạng bên phải thi hành không muốn thi hành phán quyết của trọng tài bám lấy thủ tục hủy quyết định của trọng tài như là một cái “phao cứu sinh” cho mình huy vọng tòa án sẽ hủy phán quyết của trọng tài và sẽ không phải gánh chịu nghĩa vụ. Tuy nhiên nếu trường hợp ngược lại, nếu phán quyết của trọng tài không bị hủy thì không những họ vẫn phải thi hành nghĩa vụ theo phán quyết của trọng tài mà còn phải chịu thêm tiền án phí và một số chi phí phát sinh từ yêu cầu hủy quyết định trọng tài. So với các văn bản trước đây về trọng tài rất ít văn bản quy định về vấn đề hủy quyết định của trọng tài, do đó nhà kinh doanh nhiều khi không khỏi băn khoăn khi lựa chọn trọng tài để yêu cầu giải quyết cho mình. Việc pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 và hiện nay là Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định cơ chế hủy quyết định trọng tài của tòa án có thẩm quyền đối với những phán quyết vi phạm pháp luật của trọng tài thương mại đã làm yên lòng các bên tranh chấp, nếu họ không đồng tình với phán quyết của trọng tài trong sự khách quan, vô tư thì họ có thể yêu cầu Tòa án hủy phán quyết đó. Làm được điều này tức là pháp luật đã góp phần trang bị thêm cho bộ mặt của trọng tài, làm cho nó trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà kinh doanh. Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc. Đây là điểm mới của Luật trọng tài thương mại 2010 so với pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, theo quy định tại Điều 62 Luật trọng tài thương mại 2010 quy đinh về đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc thì: “Theo yêu cầu của một hoặc các bên tranh chấp, phán quyết của Trọng tài vụ việc được đăng ký tại Tòa án nơi Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết…”. Việc pháp luật quy định cho phép một hoặc các bên tranh chấp có thể yêu cầu đăng ký phán quyết của trọng tài vụ việc tại Tòa án nhằm đảm bảo cho phán quyết của trọng tài được các bên thi hành một cách nghiêm túc. Bởi vì, khi được đăng ký tại Tòa án, phán quyết đó sẽ được đảm bảo thi hành bởi tòa án, cơ quan quyền lực nhà nước nên nó sẽ có giá trị pháp lý tốt hơn. Ngoài ra Luật trọng tài thương mại 2010 cũng bỏ quy định về việc lưu trữ hồ sơ đối với việc giải quyết tranh chấp do trọng tài vụ việc giải quyết, theo quy định tại pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 quy định “Đối với việc giải quyết vụ tranh chấp tại Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập, trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày công bố quyết định trọng tài hoặc biên bản hoà giải, Hội đồng Trọng tài phải gửi quyết định trọng tài, biên bản hoà giải kèm theo hồ sơ giải quyết vụ tranh chấp cho Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài ra quyết định trọng tài hoặc lập biên bản hoà giải để lưu trữ. Luật trọng tài thương mại 2010 quy định “Hồ sơ vụ tranh chấp do Trọng tài vụ việc giải quyết được các bên hoặc các Trọng tài viên lưu trữ”. Việc Luật trọng tài thương mại 2010 bỏ quy định lưu giữ hồ sơ giải quyết tranh chấp do trọng tài vụ việc giải quyết ở Tòa án, góp phần bảo vệ quyền lợi của đương sự, bởi vì, trong một số trường hợp nhất định vì những lý do chủ quan và khách quan, các đương sự không muốn tiết lộ những tranh chấp của mình cho tòa án, nên pháp luật đã quy định việc hồ sơ vụ tranh chấp được các bên hoặc các trọng tài viên lưu giữ nhằm đảm bảo điều đó. Tuy nhiên, các bên cũng có thể đăng ký phán quyết của trọng tài vụ việc tại Tòa án. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Có thể nói, việc Luật trọng tài thương mại 2010 quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại đã góp phần hạn chế được những nhược điểm của trọng tài thương mại, chính sự hỗ trợ của Tòa án trong một số trường hợp nhất định đã làm cho hoạt động của trọng tài thương mại được thực hiện nhanh chóng hơn, các phán quyết của trọng tài thương mại được thực hiện chính xác, hạn chế được các trường hợp oan sai, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự. Chính sự tham gia của Tòa án với vị trí chức năng, nhiệm vụ của mình đã góp phần khắc phục những hạn chế của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, giúp cho phương thức này thực sự là phương thức giải quyết tranh chấp thuận lợi, có giá trị pháp lý cao bên cạnh phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án. Danh mục tài liệu tham khảo Luật thương mại 2005 Luật trọng tài thương mại 2010 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 Trường đại học Luật Hà Nôi, Giáo trình luật thương mại, Tập 2, Nxb CAND, Hà Nội 2006. Nguyễn Thị Yến- sự hỗ trợ của cơ quan tứ pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mai. Luận văn thạc sỹ luật học. 2005

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxSự hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài thương mại theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010 một số vấn đề lý luận.docx