Sự nghiệp giáo dục của Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh

MỞ ĐẦU 1. ĐẶT VẤN ĐỀ: Mạnh Tử nói: “Nhân chi sơ tính bổn thiện, tính tương cận tập tương viễn”, nghĩa là con người sinh ra ban đầu vốn dĩ lương thiện, tính tình khá đồng nhất, nhưng do môi trường và sự tiếp cận học hỏi khác nhau mà tính tình đâm ra khác biệt nhau. Do đó, môi trường và sự giáo dục sẽ làm con người thay đổi, nghĩa là giáo dục đóng vai trò quyết định cho bản tính của con người trong tương lai. Hơn thế nữa, đang là sinh viên trên ghế giảng đường và sẽ là những bậc cha (mẹ) trong tương lai; chúng em nhận thấy vai trò của giáo dục và được giáo dục trong chúng em rất quan trọng. Vì thế, nhóm chúng em quyết định chọn mảng giáo dục, kết hợp với tư tưởng của Hồ Chí Minh và thực trạng của nền giáo dục Việt Nam để thực hiện nghiên cứu một đề tài hoàn chỉnh, đó là: “Sự nghiệp giáo dục của Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh” 2. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU: Mục đích: - Để tìm hiểu tư tưởng của Bác về giáo dục - Để tìm hiểu về những mặt ưu và khuyết điểm của nền giáo dục nước ta. Từ đó, đề ra những kiến nghị, biện pháp cho nền giáo dục Việt Nam nói chung và cho bản thân nói riêng Yêu cầu: - Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự “học” của cá nhân; từ đó góp phần cải thiện sự nghiệp giáo dục của nước nhà 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: - Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục - Thực trạng giáo dục Việt Nam xưa và nay - Các chủ thể trong giáo dục (Học sinh, giáo viên, cấp lãnh đạo, gia đình .) 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Phương pháp thống kê - Phương pháp logic - Phương pháp lịch sử - Phương pháp duy vật biện chứng - 5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: - Bài tiểu luận được nghiên cứu và thực hiện trong khoảng 2 tuần, được thực hiện tại trường ĐH Công Nghiệp HCM - Thông tin trong bài tiểu luận được sưu tầm từ nhiều nguồn. 6. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: - Làm sáng tỏ được nội dung tư tưởng của Bác về sự nghiệp giáo dục của Việt Nam - Tìm hiều sâu hơn về thực trạng giáo dục của nước ta trước và sau 1969 - Đánh giá được những thành tựu của giáo dục trong nhiều năm nay - Nêu lên được những mặt ưu và khuyết điểm của nền giáo dục Việt Nam - Đề ra được những biện pháp cho nền giáo dục nước ta và vận dụng cho bản thân.

doc69 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3435 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự nghiệp giáo dục của Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thành một thứ hàng hóa thuần túy, thuận mua vừa bán theo cung cầu của một thứ thị trường vô tâm. Giữa mục tiêu lý thuyết và thực tiễn thực hiện tồn tại khoảng cách ngày càng gia tăng, có nguy cơ đẩy giáo dục xa rời lý tưởng công bằng, dân chủ, văn minh mà xã hội đang hướng tới. Cơ cấu tổ chức và hoạt động giáo dục mất cân đối, rối loạn trầm trọng giữa giáo dục phổ thông, dạy nghề, cao đẳng, đại học, giữa trường tư, trường công, giữa chuyên tu, tại chức, đào tạo liên kết, v.v.... tất cả làm thành một hệ thống tạp nham, rối ren không đồng bộ, thiếu nhất quán, hoạt động phân tán, rời rạc, mà mỗi đơn vị tuân theo lợi ích cục bộ, thiển cận, nhiều hơn là quan tâm đến lợi ích cơ bản và lâu dài của cộng đồng (gần đây nhất, giữa lúc Chính Phủ kêu gọi mọi ngành ngăn cơn bão giá thì ngành giáo dục tăng giá sách giáo khoa 10%). Nội dung và phương pháp giáo dục thể hiện xu hướng hư học cổ lỗ, dành nhiều thời gian học những kiến thức lạc hậu vô bổ (sau nhiều lần bàn cãi cũng chỉ mới giảm được thời lượng bắt buộc). Mặt khác lại quá thực dụng thiển cận, thiên về triết lý mì ăn liền mà coi nhẹ những vấn đề có ý nghĩa cơ bản suốt đời cho mỗi người như: hình thành nhân cách, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng cảm thụ. Coi nhẹ kỹ năng lao động, kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, đức tính trung thực, năng lực sáng tạo, trí tưởng tượng, là những đức tính thời nào cũng cần nhưng đặc biệt thời nay càng cần hơn bao giờ hết. Bằng cách đặt nặng quá mức bằng cấp và thi cử, nhà trường đã vô tình tuôn ra xã hội mọi thứ rác rưởi độc hại: bằng giả, bằng dỏm, học giả, v.v. Chất lượng giáo dục sa sút một thời gian dài, nhất là ở đại học, cao đẳng và dạy nghề, khiến nhân lực đào tạo ra còn rất xa mới đáp ứng được đòi hỏi thực tế về cả chất lượng và số lượng, do đó đang trở thành nhân tố cản trở nghiêm trọng sự phát triển kinh tế. Dân trí thấp - hệ quả tất nhiên của giáo dục yếu kém -- tác động tiêu cực đến môi trường, sức khỏe cộng đồng, an toàn giao thông, và hàng loạt vấn nạn khác. Thêm vào đó, chất lượng giáo dục quá thấp là nguyên nhân quan trọng gây ra nạn chảy máu chất xám đang làm xã hội mất đi những nguồn lực trí tuệ quý giá. Trong khi chất lượng giáo dục sa sút thì chi phí giáo dục tăng liên tục, trở thành gánh nặng phi lý không chỉ cho ngân sách quốc gia, mà còn cho mọi gia đình vì phần đóng góp trực tiếp của dân ngoài thuế lên đến hơn 40% tổng chi phí giáo dục. Tuy nhiên, còn may là vượt lên trên tình hình chung không mấy sáng sủa đó vẫn có những điểm sáng nhất định (lác đác trong từng cấp học đều có những đơn vị khá thành công), chứng tỏ tiềm năng phát triển giáo dục ở đất nước này còn nhiều. Hai năm gần đây đã có một số chuyển biến tích cực nhưng vì chưa động tới các vấn đề cốt lõi - nơi sức ỳ đã bám rễ trong nhiều năm - nên chưa tạo đủ xung lực cho một cuộc lột xác của giáo dục hiện đang là đòi hỏi cấp bách của xã hội. 1.3 Đi tìm nguyên nhân: Điều gì đã khiến nền giáo dục của một đất nước vốn có truyền thống hiếu học lâu đời rơi vào suy thoái trầm trọng vào đúng thời điểm mà lẽ ra nó phải là bệ phóng cho kinh tế cất cánh? Hoàn toàn không phải do nghèo, vì công sức, tiền của lãng phí, thât thoát hàng năm vô cùng lớn. Nguyên nhân phải thẳng thắn nhìn nhận là do quản lý, lãnh đạo dưới tầm. Từ quan niệm, tư duy cơ bản (triết lý giáo dục, theo cách nói gần đây) cho đến thiết kế hệ thống và quản lý, điều hành, mọi khâu đều có những bất cập, sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hệ thống. 1.3.1 Quan niệm, tư duy về giáo dục xơ cứng, cũ kỹ: Cái gốc của phần lớn sai lầm ấy là quan niệm, tư duy xơ cứng về giáo dục, quá cũ kỹ mà qua hai thập kỷ hầu như không thay đổi. Vẫn cách suy nghĩ thiển cận, vẫn những quan điểm giáo điều thời bao cấp, được biến tấu ít nhiều để thích nghi với những xu hướng phiêu lưu du nhập từ bên ngoài phù hợp với từng nhóm lợi ich chi phối các hoạt động giáo dục. Mọi người đều biết thời nào, chế độ nào thì một nền giáo dục chân chính cũng có sứ mạng cao cả giống nhau về giáo dục con người. Đồng thời trên cái nền chung đó mỗi thời, mỗi xã hội đặt những nhiệm vụ, yêu cầu cụ thể khác nhau cho giáo dục. Không thấy hai mặt đó mà chỉ thiên một mặt này hay mặt kia, thậm chí để hai mặt đó xung đột, sẽ dẫn đến một nền giáo dục hoặc thoát ly thực tế hoặc thực dụng thiển cận, hoặc vừa có cả hai tính chất đó. Chẳng hạn, thời nào thì con người sống trong xã hội lành mạnh cũng cần trung thực, và muốn đóng góp vào sự phát triển của xã hội cũng phải ít nhiều có đầu óc sáng tạo, nhưng chưa bao giờ hai đức tính đó thiết yếu như bây giờ trong thế giới toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Điều đó tiếc thay đã không được chú ý trong suốt quá trình xây dựng giáo dục ở VN. Trong khi xã hội và môi trường quốc tế đã biến đổi cực kỳ sâu sắc mà từ mẫu giáo đến đại học, nhà trường vẫn dựa vào kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị thời đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội để rèn luyện nhân cách, kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, thì với sự vênh đó giữa lý thuyết và đời sống, cộng thêm sự xuống cấp nhanh đạo đức xã hội, làm sao có thể giáo dục trung thực và sáng tạo có hiệu quả? Đó là nguyên nhân sâu xa khiến sự giả dối và nạn giáo điều lan tràn, từ tiêu cực trong thi cử, bệnh thành tich, bệnh thi đua hình thức, cho đến nạn sao chép, dạy mẫu, học thuộc lòng, cứ tồn tại dai dẳng bất chấp sự lên án của dư luận xã hội. 1.3.2 Cần phải bình đẳng về cơ hội học tập thành công: Gần đây, những cuộc tranh cãi xung quanh đề án tăng học phí, nạn học sinh bỏ học, ngồi nhầm lớp, v.v. cho thấy rõ một nguyên nhân căn bản của nhiều vấn nạn ấy là do nhận thức về công bằng, dân chủ trong giáo dục còn quá hời hợt và thô sơ. Chỉ mới chú ý yêu cầu sơ đẳng bảo đảm quyền học tập (nói chính xác là quyền bình đẳng về cơ hội học tập), mà ngay việc này cũng chưa được hiểu đúng và làm tốt. Trong khi đó, với chế độ học tập như hiện nay, buộc học sinh phải học thêm ngoài giờ rất nhiều (kể cả làm bài tập ở nhà và học thêm ngoài giờ có trả học phí), thì con em các gia đình nghèo làm sao có được cơ hội học tập thành công bình đẳng với con em các gia đình khá giả. Cho nên được đi học mới chỉ là bình đẳng một phần. Bình đẳng về cơ hội học tập không thôi chưa đủ mà phải bình đẳng về cơ hội học tập thành công. Không phải không có lý do mà ở nhiều nước, để bảo đảm công bằng về cơ hội thành công trong học tập, để giúp con em nhà nghèo không bỏ học giữa chừng, học sinh tiểu học và trung học không phải làm bài tập ở nhà mà đều làm hết ở trường, trong những giờ tự học có thầy giám sát. Ở các nước ấy cũng không có chuyện phải học thêm ngoài giờ ở lớp và không có học sinh phải bỏ học chỉ vì chương trình nặng, học không nổi hay sách giáo khoa quá đắt, không có tiền mua. Vì vậy hiện tượng học sinh bỏ học nhiều cần được nhìn nhận là dấu hiệu đáng lo ngại của một nền giáo dục thiếu công bằng. Vào những năm 80 thế kỷ trước, khi kinh tế bế tắc, hệ thống giáo duc cũ gần như tan rã. Sai lầm cơ bản khi ấy là đã không xuất phát từ gốc để cải tạo hệ thống giáo dục mà chỉ cải sửa tùy tiện từng phần của nó trong khi vẫn khư khư giữ nền móng tư duy lạc hậu cũ. Rốt cuộc đã đẻ ra một hệ thông giáo dục dị dạng, đầu Ngô mình Sở, thường xuyên gặp khó khăn, đòi hỏi phải liên tục cải sửa, song càng sửa càng rối, càng bất cập. Như trên đã nói, khủng hoảng giáo dục là từ bên trong, tức là chủ yếu do hậu quả của hàng loạt sai hệ thống. Trong đó đáng nêu nhất có một số sai căn bản như sau: + Cái sai đầu tiên và tai hại nhất là chính sách đối với người thầy: Xuất phát từ quan niệm lệch lạc về sứ mạng và vai trò người thầy trong nền giáo dục hiện đại. Phản ứng lại tư duy lạc hậu trong nhà trường cũ, gán cho thầy quyền uy tuyệt đối theo quan niệm “không thầy đố mầy làm nên”, biến giáo dục thành quá trình truyền đạt và tiếp thu hoàn toàn thụ động, đã xuất hiện tư duy cực đoan ngược lại, phủ nhận vai trò then chốt của thầy đối với chất lượng giáo dục. Với cách hiểu giáo dục thô sơ nặng về cảm tính, khi thì nhấn mạnh một chiều “học sinh là trung tâm”, khi khác tôn chương trình, sách giáo khoa lên địa vị “linh hồn giáo dục”, nhận định chất lượng đại học thấp “không phải do thầy mà do chương trình”, v.v. dẫn đến hoàn toàn xem thường việc xây dựng đội ngũ thầy giáo theo chuẩn mực giáo dục hiện đại. Trong mọi khâu từ tuyển chọn đến sử dụng và bồi dưỡng người thầy, khâu nào cũng phạm sai lầm lớn. Đặc biệt tệ hại là chính sách lương. Ngay từ đầu đã bỏ qua kinh nghiệm muôn thuở “có thực mới vực được đạo”, trả lương cho thầy cô giáo dưới mức sống hợp lý, lấy cớ ngân sách eo hẹp (thật ra chỉ là sử dụng ngân sách không hợp lý), bỏ mặc các thầy cô “tự cứu” kiếm thêm thu nhập bằng mọi cách (dạy thêm, làm thêm, đến nỗi không hiếm giảng viên đại học dạy trên 30 giờ/tuần). Rốt cuộc phần thu nhập thêm đó cũng từ ngân sách hoặc tiền đóng góp của dân mà ra, nhưng cái giá phải trả cho cái nghịch lý lương/thu nhập đó là chất lượng giáo dục bị hy sinh, đạo lý xuống cấp, cần kiệm liêm chính mất dần, gây ra tình trạng hỗn loạn rất khó đảo ngược để lập lại trật tự, dân chủ, văn minh trong giáo dục. + Cái sai lớn thứ 2 là chú trọng thi hơn học: Có quá nhiều kỳ thi “quốc gia”, mà thi theo cách học thuộc lòng, sao chép bài mẫu, lại thiếu nghiêm túc, sinh ra hội chứng thi rất đặc biệt của giáo dục VN, tái diễn cảnh lều chõng xa xưa ngay giữa thời toàn cầu hóa và kinh tế tri thức (với tâm lý rớt thi đặc trưng “đau quá đòn ghen, rát hơn lửa bỏng, hổ bút hổ nghiên, hổ lều hổ chõng”). Có thể nói không ngoa, muốn hiểu thực chất việc học ở VN như thế nào chỉ cần quan sát xã hội VN trong mùa thi. Thực học hay hư học, học để biết, để làm, để sống cuộc sống hữu ích, hay học để làm gì, tất cả đều phơi bày ra hết ở mùa thi. Trên thì Bộ Giáo dục & Đào tạocó cả một bộ máy đồ sộ để nghiên cứu nghĩ ra cách tổ chức thi, ra đề thi, chấm thi, thanh tra, giám sát thi, mỗi năm một kiểu, dưới thì các lò luyện thi, các lớp học thêm, dạy thêm, các máy sao chụp đua nhau hoạt động phục vụ học sinh đi thi. Suốt mấy năm trời hết ba chung rồi hai chung, hết tự luận rồi trắc nghiệm, thảo luận không dứt, nhưng không hề băn khoăn: có cần thiết bấy nhiêu kỳ thi và thi căng thẳng như vậy không? Mặc dù đã có nhiều ý kiến đề nghị bỏ bớt các kỳ thi và thay đổi cách thi, nhưng với sức ỳ cố hữu của cơ quan quản lý, phải mất tám năm mới bỏ được cách thi kỳ quặc dựa theo bộ đề thi có sẵn, sau đó nhiều năm mới bỏ được thi tiểu học, thi THCS. Còn lại hai kỳ thi căng thẳng tốn kém nhất là thi THPT và thi tuyển sinh đại học, dự kiến kết hợp lại làm một, cũng là một tiến bộ dù chỉ mới nửa vời. Ở đại học, do đào tạo theo niên chế nên “thi tốt nghiệp” theo cách nặng nề, hình thức mà ít hiệu quả. Từ cách thi nhiêu khê sinh ra lắm dich vụ ăn theo kỳ lạ ở mọi cấp: kỹ nghệ “phao” thi, thi thuê, viết luận án thuê, làm bằng giả, bằng thật nhưng học giả, v.v. Cho nên chừng nào còn thi kiểu này, còn học chỉ để thi, thì hư học còn phát triển, gây lãng phí lớn cho Nhà Nước và cả xã hội. Nếu tính hết mọi khoản chi trực tiếp và gián tiếp phục vụ cho các kỳ thi thì tốn kém lên tới con số khủng khiếp khó có thể chấp nhận. + Cái sai lớn thứ 3 là chạy theo số lượng, hy sinh chất lượng Bất chấp mọi chuẩn mực, thông lệ và kinh nghiệm quốc tế, khiến việc hội nhập khó khăn và không cạnh tranh nổi ngay với giáo dục các nước trong khu vực. Điều này rõ nhất, nghiêm trọng nhất ở cấp đại học và cao học (đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ). Thật ra, từ giữa thế kỷ XX mâu thuẫn gay gắt giữa số lượng và chất lượng đã xuất hiện phổ biến trong phát triển giáo dục ở hầu hết các nước trên thế giới. Việt Nam càng không phải là ngoại lệ, nhưng Việt Nam đi sau, có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước để tránh sai lầm. Tiếc rằng nhiều kinh nghiệm tốt ở các nước đã không được áp dụng, hoặc áp dụng không thành công, chủ yếu vì thiếu nghiên cứu cho thấu đáo và không có cách nhìn hệ thống (đào tạo nghề, đại học đại cương là những ví dụ). Trong thời đại toàn cầu hóa, muốn hội nhập thành công, phải hiểu biết và tôn trọng luật chơi, trước hết là các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Thế nhưng từ các chuẩn mực thông thường xây dựng một đại học về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng dạy, cho đến việc tuyển chọn, đánh giá GS, PGS, tuyển sinh thạc sĩ, tiến sĩ, đánh giá công trinh nghiên cứu khoa hoc, đánh giá các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ, đánh giá các đại học v.v. phần lớn đều không theo những chuẩn mực quốc tế mà dựa vào những tiêu chí tự sáng tác, nặng về cảm tính thô sơ, rất thấp và rất khác so với quốc tế, thiếu khách quan, thiếu căn cứ khoa học, thiếu minh bạch, dễ bị lợi dụng mưu lợi ich riêng cho từng nhóm thay vì phục vụ sự nghiệp chung. Với cách quản lý xô bồ đó, số phế phẩm tuôn ra xã hội ngày càng đông, tài năng làng nhàng chiếm ưu thế, rồi phế phẩm thế hệ 1 sản xuất ra phế phấm thế hệ 2, cứ thế thành cái vòng xoáy trôn ốc nhấn chìm giáo dục trong một mớ bòng bong, không gỡ ra được (tình hình lộn xộn về các bằng cấp đại học, thạc sĩ, tiến sĩ trong nước và các chức danh GS, PGS hay các danh vị khác đã khiến các sản phẩm giáo dục VN mất giá thảm hại trên quốc tế). + Khó khắc phục năng lực yếu kém của bộ máy tham mưu, quản lý và điều hành Sau cùng, mà có thể là nguyên nhân quan trọng nhất, tuy khó khắc phục nhất, là năng lực yếu kém của bộ máy tham mưu, quản lý và điều hành. Xây dựng giáo dục để hội nhập thành công trong thời toàn cầu hoá và kinh tế tri thức đòi hỏi một trình độ chuyên nghiệp cao và một tinh thần trách nhiệm lớn. Đó là khâu đầu tiên phải giải quyết đúng, phải “thắng”, thì mới bảo đảm thành công. Cho nên khi giáo dục lâm vào khủng hoảng toàn diện thì nguyên nhân thất bại đầu tiên phải tìm ngay trong khâu mấu chốt đó. Không thể đổ cho thiếu tiền, vì tuy một số lĩnh vực như đại học cần thật sự được tăng đầu tư, nhưng nhìn chung, quản lý tài chính trong toàn ngành yếu kém, thiếu minh bạch, không tạo được niềm tin tăng đầu tư cho giáo dục sẽ tăng chất lượng tương ứng. Một ví dụ: Một đề án 6 năm để phát triển giáo dục đại học được đâu tư 115 triệu USD (trong đó vay của World Bank 85 triệu), mới thực hiện được vài năm đã bị WB dọa đình chỉ vì quản lý quá kém, thế nhưng sau đề án đó lại tiếp tục một đề án khác 70,5 triệu USD trong đó khoảng gần 5 triệu USD chỉ để… nâng cao năng lực quản lý của Bộ GD và ĐT. Chỉ một thông tin như thế đủ cho thấy trình độ chuyên nghiệp của bộ máy quản lý yếu kém đến mức nào. Mà đó chỉ là một đề án. Xung quanh Bộ Giáo dục & Đào tạocó nhiều vụ, viện với biên chế rất lớn, từng có thời gian dài có bộ phận biên chế đến 500 người mà năng suất rất thấp, mặc dù đã tốn hàng nghìn chuyến đi nước ngoài với danh nghĩa học tập kinh nghiệm … viết sách giáo khoa. Hằng năm khoản chi để “bồi dưỡng năng lực quản lý” theo kiểu đó đã ngốn một phần công quỹ lớn thì còn đâu ngân sách trả lương đàng hoàng cho thầy cô giáo! Ở TƯ đã vậy thì ở các địa phương cũng lặp lại mô hình đó, sự thiếu chuyên nghiệp, cọng với thiếu công tâm, là đặc trưng nổi bật của bộ máy quản lý, đẻ ra một kiểu quản lý tập trung quan liêu, thiếu trách nhiệm và kém hiệu quả. Bên cạnh Bộ Giáo dục & Đào tạothiếu chuyên nghiệp mà rất cồng kềnh, còn có một Hội đồng Quốc gia Giáo dục với nhiệm vụ giúp sự chỉ đạo của Chính Phủ và một Hội đồng Chức danh GS, PGS lo việc xem xét công nhận các chức danh này. Thành phần chủ chốt của cả hai hội đồng đều có nhiều người chỉ hiểu biết hời hợt về giáo dục hiện đại, nhất là đại học, cho nên có thể nói ảnh hưởng khá tiêu cực đối với sự phát triển giáo dục. Tình trạng sa sút của giáo dục đại học vừa qua có một phần trách nhiệm rất quan trọng của chính hai hội đồng này. Với một bộ máy quản lý vừa thiếu chuyên nghiệp vừa quan liêu như thế, không lạ gì chủ trương coi giáo dục cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu đã gần như bị vô hiệu hóa hoàn toàn, và hơn mười năm sau khi đề ra chủ trương đó nhiệm vụ chấn hưng giáo dục và khoa học đặt ra càng gay gắt hơn bao giờ hết. 1.3.3 Bệnh thành tích – căn bệnh phải chữa vô thời hạn: Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã tiến lên, người dân ở những mức độ khác nhau điều hướng được sự tiến lên đó trong cuộc sống hàng ngày. Riêng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, trong đó có những ý kiến cho rằng ngành giáo dục đã thụt lùi. Cứ nhìn vào số người được đi học người có trình độ phổ thông, người được tốt nghiệp Đại học, rối số lượng Giáo sư, Phó Giáo sư... thì đa phần chúng ta sẽ hài lòng. Thế nhưng, nền giáo dục thông qua những gì mà chúng ta thấy, có cả cái nhìn của những người có chuyên môn cao, cho đến cái nhìn của người dân bình thường lại không mấy sáng sủa và đang rất đáng lo ngại. Nhiều người cho rằng bệnh thành tích là một nguyên nhân thụt lùi, nhưng vì sao ngành giáo dục lại mang trong mình bệnh thành tích? Ở thời bao cấp tuy khó khăn, song một khi đội ngũ thầy cô giáo chuyên tâm hết lòng chăm lo cho sự nghiệp trồng người thì cuộc sống hàng ngày, tương lai của họ vẫn được đảm bào một cách cơ bản như một người. Học sinh đi học trong muôn vàn khó khăn túng thiếu, song ở một cấp đều không phải đóng tiền, học ở các Trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp còn được nhận học bổng để chuyên tâm học hành và học tập càng giỏi, càng phấn đấu tốt thì tương lai càng rộng mở. Ngày nay, trong xã hội không phải mọi người cũng cùng mục tiêu phấn đấu. Dù không hiếm những người thầy hết lòng chăm lo cho sự nghiệp trồng người, nhưng đa phần các thầy giáo ngày nay không thể chỉ chuyên tâm hết mình cho công việc ở trường mà còn phải lo trang trải quá nhiêu nhu cầu của cuộc sống, vì đồng lương danh nghĩa quá thấp. Còn học trò, đi học phổ thông đã phải đóng tiền, thi đỗ vào Đại học đã khó, đỗ rồi lấy tiền đâu để học, học xong đi làm ở đâu? Ngoại trừ một số trường thực sự có chát lượng, còn quá nhiều để trường phổ thông có nhiều thầy không cần cố gắng hết mình, nhiều trò không phải học hết mình, nhưng tỷ lệ học sinh khá giỏi, tỷ lệ lên lớp, tỷ lệ tốt nghiệp vẫn đều đều năm sau cao hơn năm trước. Thế rồi với kết quả thi tốt nghiệp phổ thông cao, những "cô tú câu tú" nô nức thi vào Đại học để rồi nghịch lý yếu tất yếu xảy ra: tỷ lệ học sinh không làm được bài, bị điểm "liệt" rất cao... Như vậy, bệnh thành tích ở các trường phổ thông có phần từ thày cô giáo, có phần từ học sinh và cả cha mẹ học sinh, song nguyên nhân trực tiếp làm cho hệ thống giáo dục bị nhiễm bệnh thành tích chính là việc các nhà quản lý lãnh đạo ở các địa phương và các ngành giáo dục đã đặt lên vai các trương những yêu cầu về thành tích mà không căn cứ váo thực chất của đội ngũ thầy và trò. Thời nào cũng có những học sinh, sinh viên dù khó tới đâu vẫn chăm chỉ học hành và học giỏi còn đa số thì phải tính toán để làm sao học xong ra trường và có việc làm. Chính thực tế đó đã tạo nên một phản ứng dây chuyền và hành trình triết lý của số đông người đi học là để qua được, đỗ được, tốt nghiệp được và cuối cùng là có được tấm bằng, bằng càng cao càng tốt, càng nhiều bằng càng hay. Có được tấm bằng mang đi xin việc, có chỗ nhận, có lương cao là quý lắm. Như thế, dĩ nhiên trong hoàn cảnh hiện nay, hệ thống giáo dục sẽ đáp ứng "triết lý" này, dù lãnh đạo ngành và các thầy cô giáo có tâm quyết không muốn, quảng đại quần chúng nhân dân từ trong nhận thức cũng chẳng ai muốn, nhưng trong thực tế đã xảy ra tình trạng dạy nhanh, day ẩu, cho điểm, cho lên lớp, xếp hạng cao hơn thực lực, cho đỗ tốt nghiệp không theo thực chất mà theo nhu cầu của người học và chỉ tiêu của cấp trên giao. Từ đó, tệ nạn chạy theo thành tích hình thành và phát triển. Vậy thì phải chữa bệnh thành tích của ngành giáo dục như thế nào? Tất nhiên là đưa một liều thuốc mạnh thẳng vào ngành giáo dục, song cũng phải trị "nguyên phát" của căn bệnh, đó chính là những nơi sử dụng con người. Tuyển dụng, sử dụng người không thể chỉ cần có bằng cấp, mà phải căn cứ vào trình độ thực chất của ứng viên như nhiều nơi đã và đang làm. Thực tế hiện nay sồ "cậu cử, cô cử” không thực chất chẳng bao giờ dám ứng tuyển vào những nơi đòi thực chất, cho dù chỗ ở đây có lương cao và điều kiện làm việc khá lý tưởng. Nên hiểu rằng thực chất không hoàn toàn đúng nghĩa với giởi. Xã hội dùng người thực chất, dùng hàng thật - hàng chất lương cao thì hàng giả, hàng dởm sẽ không còn đất dung thân. Cũng thế, ngành giáo dục và đào tạo sẽ không thể chạy theo thành tích mà cho ra lò những cử nhân dởm, kỹ sư giả được. Khi đó cũng sẽ không còn tình trang chen nhau thi Đại học để rồi trượt nhiều, đỗ ít "thầy" thì đông mà “thợ" thì ít trong đó không ít "thầy” chẳng ra "thầy” mà "thợ" cũng chẳng ra “thợ". Tất nhiên, muốn sự nghiệp giáo dục và đào tao của nước ta tiến lên, không thể trị hết căn bệnh thành tích là được, mà còn đòi hỏi nhiều biện pháp đồng bộ, toàn diện hơn. 1.3.4 “Bạo hành” diễn ra ngay trên ghế nhà trường: Một vài năm trở lại đây, tình trạng “bạo hành” diễn ra ngay trên ghế nhà trường đã tạo ra một làn sóng dư luận gây xôn xao và phẫn nộ mà tâm điểm là những vụ trừng phạt, làm nhục học sinh…. Một cháu bé lớp 5 ở Châu Thành (Đồng Tháp) do bị nghi lấy cắp 47.800 đồng nên bị nhiều tầng nhiều lớp "hỏi cung" đã hoảng loạn, trở nên ngây ngô, và phải đưa vào bệnh viện tâm thần điều trị. Một cháu khác lớp 7 (cũng ở Đồng Tháp) uống thuốc sâu tự tử sau khi bị cô giáo làm nhục vì bị nghi liên can đến việc mất cắp 100.000 đồng. Thứ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo đã phải đến tận nơi xem xét tình hình và tìm cách xử lý. Hai trường hợp này gây chấn động tâm lý nặng nề và có hậu quả nghiêm trọng hơn những việc "cho roi cho vọt" và các hình phạt thân thể khác trước đây đã làm xôn xao dư luận. Chúng ta còn nhớ chuyện ở Gò Vấp (TPHCM), giáo viên thể dục đã bắt học sinh "hít đất" cả trăm lần do "hư"; chuyện một cô giáo ở Hà Tĩnh trừng phạt học sinh bằng cách bắt các em liếm ghế; chuyện một cô giáo ở Tân Kỳ (Nghệ An) đánh học sinh 200 roi "theo hình thức kỷ luật mà lớp đã đề ra (2 lần vi phạm nội quy của lớp là 50 roi, cứ thế nhân lên)"; chuyện một học sinh lớp 8 ở Bình Thuận bị thầy giáo đánh đến mức tay bị phù nề; chuyện phạt học sinh lớp ba đi bằng đầu gối 100 vòng ở Hải Phòng; chuyện cô giáo bắt 3 học sinh tụt quần ra đánh ở Vị Thanh (Cần Thơ); chuyện học sinh bị phơi nắng rồi bắt tự vả vào mặt nhau ở TPHCM; nạn bạo hành, nhục mạ, đánh, đấm học sinh chỉ vì những lỗi nho nhỏ, thậm chí đánh trọng thương; đến chuyện xén tóc, cắt quần học sinh,... Đấy là những sự vi phạm pháp luật, vi phạm nhân quyền. Chúng ta đã có Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ bà mẹ và trẻ em, chúng ta đã ký các công ước quốc tế về nhân quyền, về bảo vệ các quyền của trẻ em.Tại sao vẫn xảy ra những chuyện đau lòng như vậy? Có thể có rất nhiều nguyên nhân, từ kỹ năng ứng xử kém như bà Thứ trưởng nhận xét, đến "tu dưỡng" kém, cho đến coi thường pháp luật. Ơ đây chỉ nêu hai khía cạnh. Thứ nhất, nhận thức của xã hội ta còn bị ảnh hưởng rất nhiều của những lề thói từ ngàn xưa. Câu "thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi" của các cụ không phải hoàn toàn không có cái lý của nó trong bối cảnh một gia đình, song cách hành xử như vậy, dù là yêu thương, ngay cả trong gia đình cũng không thể chấp nhận được nữa. Cách cư xử của nhà nước gia trưởng một thời vẫn còn in đậm nét trong nếp suy nghĩ, trong tầng sâu của vô thức xã hội. Vua quan coi dân là con, và ứng xử như các ông bố gia trưởng và độc đoán: tự nhận việc chăm lo cho dân như cho con cái; lo từ miếng cơm manh áo khiến cho người dân hay ỷ lại; và tất nhiên có quyền trừng phạt con cái khi chúng hư, cũng có khi con ngoan nhưng bố nóng tính. Thậm chí ngày nay cách ứng xử như vậy của cán bộ nhà nước và các cơ quan nhà nước vẫn còn. Ngay cả các giáo viên trẻ, vừa mới được đào tạo đủ thứ hiện đại, kể cả tâm lý trẻ em và phương pháp giảng dạy, cũng hàng ngày hàng giờ vẫn tắm mình cái trong đại dương truyền thống (xấu) mênh mông đó. Trong nhà trường cần có kỷ luật, song dùng bạo lực để duy trì kỷ luật là không thể chấp nhận được. Rất đáng tiếc nhiều giáo viên tuy phản đối bạo hành, nhục mạ học sinh nhưng vẫn nghĩ cần phải có hình phạt để duy trì kỷ luật, kỷ cương. Những khía cạnh nhận thức, tâm lý xã hội này chỉ có thể được khắc phục từ từ trong thời gian dài qua nâng cao nhận thức của các quan, của dân, qua đào tạo, huấn luyện, qua nỗ lực của tất cả các lực lượng trong xã hội, qua các quy định hướng dẫn rất cụ thể của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thứ hai, việc đánh, nhục mạ, trừng phạt học sinh như vậy bị luật cấm, nói cách khác, những việc làm ấy là phạm pháp, các thầy cô đó đã vi phạm pháp luật. Có ai trong số họ bị truy tố vì những hành vi phạm tội đó? Nghe nói họ có bị kiểm điểm, thậm chí một vài người bị cách chức như trường hợp "hỏi cung" vừa xảy ra. Nhưng có lẽ do bệnh "thành tích" mà các trường, các địa phương chỉ muốn "tự xử lý", "đóng cửa bảo nhau" trừ những trường hợp quá thể mà báo chí đã lên tiếng thì có "kiểm điểm", chuyển công tác hay cách chức. Những kẻ phạm pháp rành rành như vậy phải bị truy tố trước pháp luật và phải được xử một cách rất nghiêm minh. Nếu không thì dù có "giáo huấn" họ, tổ chức cho họ học và "noi gương" cũng không có kết quả mấy. Theo tôi, vì rất nhiều lý do - trong đó có chủ nghĩa gia trưởng trong cách hành xử của cán bộ và cơ quan nhà nước - chúng ta đã làm xói mòn niềm tin của người dân vào hiệu lực của pháp luật, do luật không bám sát thực tế cuộc sống, khó thực thi, do xử sai và do các cơ quan khác nhau, nhất là những người tự coi mình có quyền, còn can thiệp quá nhiều vào hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Xử và phạt nghiêm minh các giáo viên nhục mạ, đánh đập học sinh là việc rất cần làm. 1.3.5 Hơn 50% sinh viên không có hứng thú học tập: Một nghiên cứu mới đây của PGS.TS Nguyễn Công Khanh, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã chỉ ra một loạt các con số về phong cách học của sinh viên và trong đó, có không ít con số rất “giật mình”. Theo PGS.TS Nguyễn Công Khanh, mỗi sinh viên (SV) lớn lên trong môi trường văn hoá, xã hội khác nhau, hình thành những thói quen, cách suy nghĩ, các năng lực nhận thức, hứng thú cũng khác nhau. Điều này tạo nên sự đa dạng và sự phong phú về phong cách học, một số SV học tập tích cực, chủ động, một số khác lại tỏ ra thụ động, thích im lặng ngồi nghe hơn là tranh cãi. Cũng từ đó, ông Khanh đã dùng các con số của mình để trả lời các câu hỏi: Phong cách học tập của SV có môi liên hệ như thế nào đến thành tích học tập? Những phong cách học tập nào giúp SV dễ dàng gặt hái sự thành công học đường? Có sự khác nhau đáng kể về phong cách học tập giữa SV học các ngành học khác nhau?... 64% chưa tìm được phương pháp học phù hợp với đặc điểm nhận thức của cá nhân + Có 55,9% SV thường suy ngẫm để tìm ra các phương pháp học phù hợp và hiệu quả khi học các loại tài liệu khác nhau tuỳ theo mục đích và hoàn cảnh cụ thể. + Có 68,2% SV thường suy nghĩ về cách học, cách thức tự quản lí việc học của mình sao cho hiệu quả. + Có 50,9% SV cho rằng mình tự học hiệu quả nhờ biết kết hợp các phương pháp học khác nhau phù hợp với nhiệm vụ học tập cụ thể. Mẫu điều tra SV được chọn theo phương pháp phân tầng theo cụm bán ngẫu nhiên gồm 448 SV của 4 khoa: Toán, Lí, (182 SV Đại học khoa học tự nhiên), Văn và Sử (266 SV Đại học khoa học xã hội và nhân văn). Cấu trúc của mẫu phân theo giới tính gồm 155 SV nam (chiếm 34,6%) và 293 SV nữ (chiếm 65,4%). Cấu trúc của mẫu phân theo năm học: năm thứ hai 247 SV (55,1%); năm thứ ba 171 SV (38,2%); năm thứ tư 30 SV (6,7%). + Nhưng chỉ có 29,2% SV cho rằng mình đã lập thời gian biểu học tập và cố gắng thực hiện đúng thời gian biểu; và cũng chỉ có 36% SV được khảo sát cho rằng mình đã tìm được những phương pháp học phù hợp với đặc điểm nhận thức của cá nhân và tất nhiên 64% sinh viên còn lại là mơ hồ về phương pháp học. Hơn 36% SV thích “ngậm hột thị” trong thảo luận Cũng trong nghiên cứu của mình, PGS Nguyễn Công Khanh đã chỉ ra rằng: 40% SV được khảo sát học theo kiểu khám phá: đặt câu hỏi, đưa ra giả thuyết, tìm kiếm thông tin, bằng chứng để chứng minh hay bác bỏ giả thuyết. Đây chính là nhóm SV đã tìm được cho mình các chiến lược học tích cực, phù hợp và hiệu quả. “Tiếc rằng nhóm SV này chiếm một tỉ lệ khá khiêm tốn. Còn một bộ phận khá đông SV chưa tìm được cho mình các chiến lược học tích cực, hiệu quả” - ông Khanh nhận xét. Về tinh thần tích cực và năng động của sinh viên, ông Khanh cũng cảm thấy rất đáng tiếc khi có tới 36,1% biểu lộ phong cách học thụ động: ngại nêu thắc mắc, ngại nói ra ý tưởng riêng của mình trong các cuộc thảo luận trên lớp; Có 22,9% SV chỉ thích giáo viên giảng cho mình nghe hơn là chủ động hỏi, nêu thắc mắc (chưa kể 42,7% SV cũng có quan điểm gần gần như vậy); 41,1% cho rằng mình học chủ yếu từ vở ghi, giáo trình và ít có thời gian tìm đọc những tài liệu tham khảo; 31,4% số SV được khảo sát cho rằng các chiến lược học của mình hướng vào việc nắm kiến thức hơn là phát triển các năng lực tư duy. SV mong muốn gì ở giảng viên? Những con số "đáng sợ" khác: - Hơn 50% SV được khảo sát không thật tự tin vào các năng lực/ khả năng học của mình. - Hơn 40% cho rằng mình không có năng lực tự học; - Gần 70% SV cho rằng mình không có năng lực tự nghiên cứu; - Gần 55% SV được hỏi cho rằng mình không thực sự hứng thú học tập. Làm nên sự thụ động của sinh viên, lỗi chính là ở giảng viên. Bởi theo PGS Khanh, đa số SV được khảo sát mong muốn giảng viên áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để tích cực hoá người học trong các giờ học. + Có 88,8% SV muốn các bài giảng của giảng viên gồm cả những tri thức mới không có trong giáo trình; + 73,3% SV thích được giảng viên giao làm những bài tiểu luận để giúp họ phát triển khả năng suy nghĩ độc lập, tư duy phê phán; + 82,4% SV thích giảng viên hỏi, khuyến khích SV đặt câu hỏi, hướng dẫn SV đào sâu suy nghĩ để hiểu bản chất hơn là thuyết trình suốt cả tiết học; + 85,6% SV muốn khi bắt đầu mỗi môn học, giáo viên nêu yêu cầu, hướng dẫn phương pháp học, tài liệu tham khảo và cách khai thác thông tin từ các tài liệu tham khảo này; + 79,2% SV mong muốn các môn học có nhiều giờ tự học (có hướng dẫn và giải đáp thắc mắc) hơn so với hiện nay. Tuy nhiên, khi đưa ra con số chỉ có 34,7% SV thích hỏi và đưa ra những quan điểm của cá nhân, ông Khanh có dự báo rằng những đổi mới về phương pháp dạy và học theo hướng tích cực hoá người học có thể sẽ gặp những khó khăn đáng kể do nếp nghĩ và các thói quen học thụ động đã định hình ở một bộ phận lớn SV hiện nay. SV yếu nhất ở các nhóm: Kĩ năng thuyết trình, kĩ năng làm việc theo dự án, kĩ năng sử dụng máy vi tính, kĩ năng viết báo cáo tham luận, kĩ năng vận dụng vào thực tế. SV mạnh hơn ở các nhóm kĩ năng: Phân tích và giải thích, giải quyết vấn đề, nghe ghi và hiểu bài giảng. SV mạnh nhất ở các nhóm năng lực: Làm việc độc lập, tự học, nắm vững kiến thức chuyên ngành và yếu nhất ở các nhóm năng lực: tư duy sáng tạo, sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ học tập, năng lực ngoại ngữ. 2. Cuộc cách mạng giáo dục mới phải bắt đầu từ bậc Đại học – Cao đẳng: Thực trạng Giáo dục & đào tạo hiện nay ở nước ta là nỗi âu lo sâu sắc của toàn xã hội, vì nó gắn liền với mỗi gia đình và tương lai phát triển của đất nước. Vấn đề này đã được đề cập mọi lúc, mọi nơi và nhiều khi gay gắt trong Hội thảo khoa học, trên mặt báo và tại diễn đàn của Quốc Hội. Các nhà giáo, các nhà khoa học đã đề xuất, kiến nghị các giải pháp đổi mới nền giáo dục nước nhà, nhưng sự chuyển biến rất chậm chạp và đôi khi còn tạo ra các mâu thuẫn mới trong nội bộ hệ thống giáo dục. Nguyên nhân của tình trạng này có thể phân tích theo các quan điểm khác nhau. Do đó, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có quan điểm thống nhất, các kiến nghị, đề xuất giải pháp thường chưa đủ tính đồng bộ và tính hệ thống. Để thống nhất quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục trước hết ta phải xuất phát từ chức năng của Ngành GDĐT từ tính chất của các bậc đào tạo và mục tiêu chiến lược của ngành trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Nói chung, giáo dục có 3 chức năng: chức năng xã hội, chức năng kinh tế và chức năng văn hoá tư tưởng. Tuy nhiên các chức năng đó thể hiện khác nhau ở các bậc học. Có thể khẳng định rằng trong thời đại ngày nay ở bậc Đại học - Cao đẳng chức năng kinh tế trở thành chức năng chính, giáo dục Đại học - Cao đẳng thuộc lĩnh vực kinh tế dịch vụ. Xem xét ba chức năng trên cho toàn bộ hệ thống GDĐT, mục tiêu của giáo dục thể hiện bằng phương châm chung là: nâng cao dân trí, phát huy dân khí, đào tạo nhân lực, trọng dụng nhân tài. Nhân tài không xuất hiện trong quá trình đào tạo ở nhà trường, mà chỉ thể hiện trong quá trình sử dụng đúng người có trình độ kiến thức sâu rộng trong môi trường tinh tế - xã hội thích hợp. Biết trọng dụng nhân tài, biết tạo điều kiện để nhân tài phát huy tác dụng, thì nhiều nhân tài sẽ xuất hiện và khi nhân tài xuất hiện thì phải được tiến cử đúng lúc, đúng chỗ. Hiện nay, hầu như tất cả các nước đều đề ra và thực hiện chương trình cải cách giáo dục, đặc biệt là đối với hệ thống Đại học. Tất nhiên, chúng ta cần nghiên cứu kinh nghiệm của các nước. Nhưng ở mọi quốc gia, nền giáo dục đều có lịch sử phát triển, truyền thống và kinh nghiệm riêng. Do đó, trên thế giới không thể tìm thấy hai quốc gia nào có hệ thống giáo dục hoàn toàn đồng nhất. Chính vì thế mới có chuyện phải tiến hành các thủ tục công nhận bằng cấp và học vị của nhau, như chúng ta đều biết, mặc dù xu thế hoà nhập về nội dung đào tạo và cấu trúc Đại học đang được quan tâm ở nhiều nước. Nghiên cứu tình hình cải cách, đổi mới giáo dục trên thế giới chúng ta có thể nhận ra 2 kiểu cải cách: + Cải cách diễn ra bên trong hệ thống giáo dục, còn bản thân hệ thống đó vẫn không thay đổi. + Cải cách sâu sắc, toàn diện cả hệ thống giáo dục được tác động của các nhân tố bên ngoài hệ thống, bên ngoài khuôn khổ của nước ta đã tiến hành một cuộc cách mạng giáo đục như vậy sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1945. 17 năm qua, ngành giáo dục đã tiến hành nhiều biện pháp cải cách, đổi mới về chương trình, tổ chức hệ thống giáo dục và đa dạng hoá nguồn đầu tư. Nhưng tất cả những biện pháp đó chủ yếu diễn ra trong hệ thống giáo dục hiện hữu, nên hiệu quả kinh tế - xã hội thấp, thậm chí đôi khi gây tác động tiêu cực lên xã hội, hoặc sau cải cách chúng ta quay lại điểm khởi đầu. Đã đến lúc chúng ta phải tiến hành một cuộc cách mạng giáo dục mới đối với toàn bộ hệ thống giáo dục, mà trước hết là đối với bậc giáo dục Đại học - Cao đẳng. Nói khác đi, chúng ta phải tiến hành cải cách giáo dục kiểu thứ hai đã nêu trên. Đối với nước ta các nhân tố khách quan bên ngoài hệ thống giáo dục hiện hữu tác động vào hệ thống giáo dục bao gồm: Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa với mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Do vậy, đòi hỏi hệ thống giáo dục và đào tạo phải cung cấp đủ nhân lực có trình độ cao chậm nhất cũng trước năm 2010. Chính vì thế cuộc cách mạng giáo dục mới phải bắt đầu từ bậc Đại học - Cao đẳng. Nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu và rộng vào thị trường và nền kinh tế thế giới. Cơ chế kinh tế đã thay đổi đòi hỏi phải thay đổi cơ chế quản lý và tổ chức hệ thống giáo dục, đặc biệt là cơ chế quản lý bậc Đại học và Cao đẳng, bậc học có mục tiêu cung cấp lực lượng lao động có trình độ cao cho thị trường nhân lực. Hệ quả đương nhiên là thị trường nhân lực có trình độ cao đòi hỏi phải hình thành thị trường Đại học - Cao đẳng. Các trường Đại học và Cao đẳng phải cạnh tranh để thu hút Sinh viên. Do đó các trường phải có quyền tự chủ cao trong việc tuyển sinh, thành lập và giải thể các khoa, các bộ môn, tuyển Giáo sư, Giảng viên tuỳ theo nhu cầu của trường. Các trường Đại học và Cao đẳng dần dần không còn có chủ quản như hiện nay, mà hoạt động theo luật giáo dục mới và các quy định của pháp luật. Sẽ có tác dụng rất lớn trong việc phân luồng học sinh tốt nghiệp Trung học, nếu chúng ta có thể đánh giá xếp hạng (accreditation) các trường như nhiều nước đã làm đặc biệt là ở Hoa Kỳ. Với một cơ chế thích hợp, các Hội khoa học - kỹ thuật quốc gia kết hợp với các Hội doanh nghiệp và các hội nghề nghiệp khác hoàn toàn có thể đánh giá khách quan và xếp hạng các trường Đại học và Cao đẳng. Khi đó vai trò và trách nhiệm xã hội của các hội nghề nghiệp sẽ được nâng cao. Xu hướng phát triển các hệ thống Đại học - Cao đẳng trên thế giới có tác động rất lớn đến quá trình đổi mới hệ thống Đại học - Cao đẳng ở nước ta. Các xu hướng dễ dàng nhận thấy bao gồm: đào tạo đại trà, tuyển sinh dễ dàng và sàng lọc chặt chẽ trong quá trình đào tạo học suốt đời, thường xuyên bằng các hình thức đào tạo khác nhau, đào tạo liên ngành, kết hợp chức năng đào tạo với chức năng nghiên cứu khoa học và chuyển giao tri thức công nghệ. Dưới đây là một số đề xuất theo cách nhìn hệ thống GDĐT trong hệ tổng thể kinh tế - xã hội: + Tập trung mọi nguồn lực tạo sự chuyển biến đột phá cho bậc Đại học - Cao đẳng. Khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức và cá nhân thành lập nhiều trường Đại học và Cao đẳng ở các vùng kinh tế - văn hoá - xã hội. Có các chính sách và giải pháp ưu đãi để huy động mọi nguồn lực trong xã hội cho sự phát triển về số lượng và chất lượng bậc Đại học và Cao đẳng với hai hình thức tổ chức công lập và tư thục. Sẽ có người đặt câu hỏi: Đội ngũ giảng dạy đại học và cao đẳng hiện nay vừa yếu lại vừa thiếu, thì làm sao bảo đảm chất lượng đào tạo? Chúng ta có thể đặt câu hỏi ngược lại: Đã có bao nhiêu phần trăm đội ngũ khoa bọc và công nghệ có trình độ cao được tham gia đào tạo? Đó là chưa kể một lực lượng khá đông đảo các nhà khoa học và kỹ sư về hưu theo luật lao động có thể tham gia đào tạo ở các trường Đại học và Cao đẳng. Về mặt chất lượng đào tạo chúng ta cũng cần có cách đánh giá mới. Chính người sử dụng nhân lực mới đánh giá đúng chất lượng đào tạo của nhà trường. Một tổ chức chỉ bao gồm các giáo sư cũng không thể làm điều đó. Nói khác đi, thị trường nhân lực khoa học - công nghệ sẽ điều chỉnh chất lượng đào tạo, cũng như quy mô đào tạo. Vả lại, để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh bản thân nhà trường phải nâng cao chất lượng đào tạo để thu hút Sinh viên và đứng vững trên thị trường Đại học - Cao đẳng. + Gắn đào tạo với sử dụng lực lượng lao động được đào tạo. Có chính sách tuyển chọn và sử dụng lao động hợp lý dựa theo năng lực và hiệu quả, thì vấn đề mâu thuẫn giữa đào tạo và sử dụng, hiện tượng tiêu cực trong bằng cấp hoặc kiếm bằng theo các cách phi đạo đức sẽ được giải quyết. Trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, lấy hiệu quả làm thước đo, không tổ chức kinh tế, tổ chức quản lý, tổ chức xã hội nào lại chỉ dựa vào mảnh bằng để tuyển chọn, sắp xếp và đề bạt cán bộ, nhân viên. Bằng cấp chỉ có giá trị thông tin cho biết người có bằng trải qua một quá trình đào tạo nhất định. Do đó, cần phải xây dựng và thực hiện chính sách sử dụng nhân lực được đào tạo theo quan điểm mới. Thực ra vài chục năm trước đây chúng ta đã từng thực hiện điều này! + Trong giai đoạn cách mạng khoa học và công nghệ sôi động như hiện nay, nhất là khi nền kinh tế nhiều nước lần lượt phát triển lên bậc thang kinh tế tri thức, một vấn đề lớn được đặt ra đối với hệ thống đào tạo Đại học và Cao đẳng là đào tạo chuyên sâu (specialized training) hay đào tạo rộng (gener- alized training). Ngày nay hiện tượng: "đổi nghề" nhiều lần trong đời làm việc đã trở nên phổ biến. Ngoài ra, những vấn đề phải giải quyết trong thực tiễn đều có tính liên ngành. Do đó, hệ thống Đại học và Cao đẳng nước ta nên chọn cách đào tạo rộng là chủ yếu, thời gian đào tạo có thể rút ngắn bớt. Nhà nước chỉ nên tập trung phát triển một số trường, một số khoa đào tạo chuyên sâu để tạo ra đội ngũ có tài năng cung cấp cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển văn hoá - nghệ thuật, tạo ra và phát triển công nghệ mới. 4) Để đổi mới bản thân hệ thang giáo dục - đào tạo Đại học và Cao đẳng, nhiều nhà giáo và nhà khoa học có tâm huyết đã đưa ra nhiều giải pháp rất thiết thực và khá cụ thể ở đây tôi chỉ đưa ra thêm một vài kiến nghị: + Cắt 20-25% nội dung chương trình Trước hết cần xác định lại mục tiêu đào tạo, quan niệm về GD và tính chất của nhà trường trong hoàn cảnh mới của đất nước đang hướng tới công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Cần quán triệt tinh thần thông điệp của UNESCO về GD trong thế kỷ 21: “Học để biết, học để làm, học để làm người và học để sống với nhau” (hiện nay chúng ta chỉ nặng về “học để biết”). Trong mục tiêu GD cần đặc biệt quan tâm đến việc hình thành ở thế hệ trẻ những phẩm chất cần thiết cho việc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới như tính trung thực, óc phê phán, tư duy sáng tạo, tinh thần dám làm, dám chịu trách nhiệm và lòng khoan dung, nhân ái. Trên cơ sở này thiết kế lại chương trình GD phổ thông và chương trình đào tạo ĐH cũng như chương trình, nội dung giảng dạy của từng môn học cho phù hợp với mục tiêu trên và đảm bảo tính thống nhất, xuyên suốt từ mẫu giáo đến lớp 12. Cần nhanh chóng thực hiện chủ trương một chương trình nhiều bộ sách giáo khoa để phát huy trí tuệ chung của các nhà giáo và khả năng sử dụng của mỗi địa phương. Trong khi chờ đợi cải cách chương trình, cần mạnh dạn cắt giảm 20-25% nội dung chương trình giảng dạy hiện nay, cắt giảm giờ lên lớp và ngày học trong tuần, góp phần giải quyết tình trạng quá tải và tạo điều kiện giúp giáo viên có thể đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm hình thành tư duy sáng tạo cho học sinh. Đây cũng là một nhân tố làm giảm tình trạng học thêm dạy thêm hiện nay. Thời đại chúng ta cũng đang chứng kiến sự lấn lướt của tư duy lý trí, của nền văn minh phương Tây đe dọa làm lệch sự phát triển cân bằng của con người, làm cho con người thông minh hơn nhưng cũng do tư duy lý trí, của nền văn minh phương Tây đe dọa làm lệch sự phát triển cân bằng của con người, làm cho con người thông minh hơn nhưng cũng dễ trở nên khô khan, vô cảm, ích kỷ và thiếu lòng khoan dung trong thế kỷ đầy xung đột này. Ở nước ta, sự mở rộng kinh tế thị trường vừa tạo điều kiện vật chất cho con người nhưng cũng đang tạo ra những thách thức gay gắt về đạo lý, về cách hưởng thụ văn hóa và thành tựu của văn minh, khoa học kỹ thuật. Vượt qua được những thách thức này, con người mới làm chủ được những kết quả của phát triển kinh tế, không trở thành nô lệ của nó, đồng thời mới có thể tác động lại kinh tế, làm cho kinh tế phát triển mạnh hơn nhưng vẫn đảm bảo tính nhân văn và yêu cầu của sự phát triển bền vững. Xã hội càng phát triển, nhu cầu về GD thẩm mỹ càng lớn. Chính vì vậy ngay từ bây giờ cần có một chương trình quốc gia về GD thẩm mỹ do Chính phủ phụ trách. + Kéo dài thời gian đào tạo giáo viên Nhìn chung các trường sư phạm hiện nay chưa xác định thật rõ mục tiêu tạo của mình, hầu hết mới tập trung vào việc dạy kiến thức, chưa chú ý đầy đủ đến việc dạy nghề, bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm. Trong việc GD phẩm chất thường cũng chỉ quan tâm đến GD tư tưởng đạo đức nói chung, chưa chú trọng bồi dưỡng lòng yêu nghề, tình yêu thương học sinh, yêu thương con người vốn là điều cốt lõi của mọi hoạt động GD. Đặc biệt, chương trình đào tạo của các trường sư phạm hầu hết tập trung vào việc cung cấp tri thức chuyên môn của từng môn, chưa quan tâm rèn luyện phương pháp giảng dạy các kiến thức đó theo hướng phát huy tính sáng tạo của học sinh. Nhiều vấn đề quan trọng như phương pháp đánh giá, kiểm tra, cho điểm bằng trắc nghiệm, tự luận, kỹ năng tổ chức lớp học không được dạy trong trường sư phạm. Điều đáng nói hơn nữa là hiện nay trong chương trình đào tạo của các trường sư phạm hầu như không có nội dung bồi dưỡng năng lực GD cho sinh viên. Nhà trường chỉ chú ý đến năng lực giảng dạy chứ chưa quan tâm đến việc hình thành người giáo viên với tư cách là nhà GD, người thầy, trong khi đó sau khi ra trường, sinh viên không chỉ trở thành giáo viên đứng lớp mà còn là người hướng đạo, sống chung với trẻ, dìu dắt, uốn nắn, giúp trẻ trở thành con người phát triển. Để làm được điều này cần có một thay đổi lớn về mục tiêu và chương trình đào tạo của các trường sư phạm. Nên kéo dài việc đào tạo giáo viên ở các trường ĐH sư phạm, trước hết là ĐH sư phạm trọng điểm thành năm năm. Đồng thời nên mở rộng phạm vi và tính chất của các trường ĐH sư phạm trọng điểm, biến các trường này không chỉ bó hẹp trong việc đào tạo giáo viên (teacher training college) mà còn là nơi huấn luyện, nghiên cứu về GD, nơi chuẩn bị các công trình sư về GD cho đất nước (university of education). Hiện nhiều người vẫn gọi ĐH Việt Nam là “trường cấp 4”. Điều này đúng cả về hai phương diện: cơ sở vật chất và cách nghĩ, cách dạy. Để khắc phục tình trạng này Nhà nước phải cấp đất cho các ĐH (kể cả công và tư) và đầu tư xây dựng một số ĐH thật đàng hoàng. Đồng thời phải tạo điều kiện cho các trường ĐH có quyền chủ động nhiều hơn nữa trong việc xây dựng chương trình, xuất bản, tổ chức đào tạo. Đặc biệt, phải hình thành tư duy ĐH trong nhà trường và xã hội, làm cho trường ĐH trở thành trung tâm chất xám, nơi bồi dưỡng tinh thần dân chủ, dám nghĩ, dám phát minh, có ý kiến mới, thành một môi trường mở về tri thức và tư tưởng, trung tâm giao lưu quốc tế về khoa học và sáng tạo. Cần tập trung xây dựng một số ĐH thật hiện đại để đào tạo nhân tài, để làm mẫu và cung cấp cán bộ giảng dạy cho các ĐH khác. Đồng thời mở rộng hệ thống ĐH, chấp nhận nhiều loại trường (trường công, trường tư), nhiều qui mô, hình thức đào tạo (tại chức, từ xa, tín chỉ...). Bên cạnh đó cần lập một hay vài trung tâm kiểm định quốc gia để đánh giá, xếp loại các cơ sở đào tạo ĐH. 3. Thái độ của người học: Quá trình giáo dục, về một phương diện nào đó là quá trình bồi đắp dần cái hay và quá trình uốn nắn chỗ lệch lạc. Không một thầy giáo chủ nhiệm nào không muốn lớp mình luôn êm thấm. Nhưng làm sao lại có thể như vậy được. Những chuyện như hôm nay có vài em không chuẩn bị bài, ngày mai có vài em quên vở bài tập, hay làm việc riêng trong lớp, là khó tránh khỏi. cầm tránh một cái nhìn lý tưởng hóa đối với học sinh ở mỗi lớp học. Những sự bất thường ở mỗi người, sự không đồng đều ở mỗi lớp, và rộng hơn nữa, có thể xem như là một điều tất yếu. Cái đáng lo chăng là sự không đồng đều đó quá lớn, chuyện bất thường xảy ra nhiều đến thành bình thường. Suy nghĩ như vậy sẽ tránh được nôn nóng, giữ được sự bình tĩnh trước lớp và trước học sinh có sai sót. Trước khi tỏ rõ thái độ và tiến hành giải quyết những sai sót của cá nhân cũng như tập thể học sinh, người thầy có kinh nghiệm, thường nhìn nhận , phân tích những sai sót đó từ góc độ giáo dục. Cách nhìn từ góc độ giáo dục, về nhiều điểm không giốngvới cách nhìn từ góc độ khác. Nếu người thường chỉ nhằm mục đích đánh giá thì người nhìn ở góc độ giáo dục không dừng ở đánh giá , mà ở mức độ cao hơn, đó là để uốn nắn giáo dục. Mục đích khác nhau, cách nhìn khác nhau, tất yếu sẽ đưa đến những cách làm và kết quả khác nhau. Cũng là một tiếng kêu cất lên bất ngờ giữa lớp học, người thầy cố gắng để phân biệt đâu là sự xem thường kỷ luật, đâu là do năng lực kiềm chế kém. Cũng là không nói sự thực, nhưng trường hợp nào là dối trá, trường hợp nào là do sợ hãi. Cùng tham gia vào một vụ xô xát, nhưng trường hợp nào là gâu gỗ, trường hợp nào là hành động bảo vệ bạn bè. Cũng là đi học muộn nhưng có em thiếu nề nếp, có em là do dẫ cố gắng hết sức mà không thể khác được. Nhìn rõ trắng đen, thực giả rất khó. Trong một lớp, tính nết mỗi em thế nào, trên đại thể người thầy, nhất là thầy chủ nhiệm có thể phải nắm được. Nhưng ở trường hợp nào người thầy cũng phải cần bình tĩnh, tỉnh táo xem xét. Chỉ nhìn nhận đúng mới mong giải quyết đúng. Chỉ cách nhìn nhận và giải quyết đúngcủa người thầy mới có ý nghĩa giáo dục. Hơn nữa “phải biết lắng nghe học sinh trình bày”. Tin hay không tin đó là chuyện khác, nhưng trước hết người thầy “phải lắng nghe”. Đó là lời khuyên của các nhà sư phạm. Khi người thầy chăm chú lắng nghe, học trò ít khi dám bày đặt. . . nếu các thầy, cô giáo không hiểu được tẩm trạng của học sinh khi bị mắc khuyết điểm, thì hay cáu gắt. Việc cáu gắt có thể sẽ làm học sinh sợ mà “chối cho qua”. Đó là kinh nghiệm rất có ích cho những người làm công tác giáo dục. Khi có những vụ việc mà cả tập thể học sinh mắc sai lầm, bao giờ lớp cũng hồi hộp, chờ đợi thái độ của người thầy. Sự thả lỏng của thầy chủ nhiệm sẽ làm lớp hư hỏng. Cách giải quyết không đúng(chặt chẽ quá đáng, không nhìn rõ thật giả , dúng sai) sẽ làm học sinh cả lớp kết lại với nhau đứng về một phía, đặt thầy sang phía khác. Cán bộ lớp lúc ấy sợ thầy mà khi làm việc, sự ủng hộ với thầy, sự nhiệt tình trong công việc có khi không còn nữa. Giáo dục học sinh cá biệt đòi hỏi phải công phu. Với một số em nào đó cần phải có sự chờ đợi. Và thường không phải đợi lâu. Khá nhiều em đến nhận sai sót không cần sự đe nẹt của thầy. Khi người ta có một cái gì đó để tin có một hoàn cảnh nào đó để nói ra nguyên nhân mắc sai lầm thì người nắc sai lầm sẽ nói ra. Vì vậy người thầy phải giữ được lòng tin ở học sinh. Khi học sinh mắc sai lầm, sau khi phân tích, cắt nghĩa cần tạo ra hoàn cảnh thuận lợi để học sinh tự bộc lộ. Các em mắc sai lầm có những dấu hiệu hối cải và quyết tâm sữa chữa, dù nặng, dù nhẹ, nên biểu dương ở hai khía cạnh: một là trung thực, hai là dũng cảm, cách đó sẽ làm tăng hơn lòng tin của các em đối với thầy, với tập thể. Thận trọng khi xem xét, tìm nguyên nhân, cân nhắc khi chọn cách giải quyết, cứng rắn về nguyên tắc, mềm mỏng trong thái độ đó là cách giải quyết có hiệu quả cao trong giáo dục mà người thầy cần biết và ghi nhớ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Website: 2. Website của tạp chí cộng sản 3. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh do khoa lý luận chính trị, trường ĐH Công Nghiệp cung cấp 4. Website của báo Tuổi trẻ Và nhiều nguồn khác NHẬN XÉT (Của Giáo viên hướng dẫn) ♠ Nhận xét chung ♠ Điểm cho từng sinh viên: STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Điểm 1 Trần Nguyễn Minh Toàn 09241701 Tập trung tài liệu và biên tập lại thành bài hoàn chỉnh 2 Đoàn Thị Quỳnh Ngân 09277331 Tìm tài liệu những khuyết điểm của nền giáo dục Việt Nam 3 Trần Thị Thu Ngân 09262631 Tìm tài liệu phần cơ sở luận, highlight những ý chính 4 Phan Thị Thúy Vân 09248331 Tìm tài liệu thực trạng nền giáo dục VN trước 1969 5 Nguyễn Thị Vũ Linh 09244211 Tìm tài liệu thực trạng nền giáo dục VN sau 1969 6 Trần Thị Hiếu Linh 09245841 Tìm tài liệu nhận xét và đánh giá nền giáo dục VN 7 Phạm Thị Cúc 09252431 Tìm tài liệu kiến nghị, biện pháp giải quyết cho nền giáo dục VN 8 Phạm Thị Nhung 09249601 Thiết kế bìa đĩa, lời cảm ơn, mục lục, tài liệu tham khảo…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự nghiệp giáo dục của Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh.doc
Luận văn liên quan