Sự phát triển bền vững và môi trường

Lí do chọn đề tài. Những hoạt động của con người đã làm cho rất nhiều loài bị tuyệt chủng. Kể từ năm 1600 đến nay khoảng 21% các loài động vật và 1,3% các loài chim trên thế giới đã bị tuyệt chủng. Tốc độ tuyệt chủng của các loài trở nên ngày càng cao. Những loài còn sống sót thì cũng có nguy cơ đứng bên bờ của sự tuyệt chủng. Hơn 99% những sự tuyệt chủng thời cận đại là do con người gây ra . Sự ô nhiễm môi trường loại bỏ rất nhiều loài ra khỏi quần thể sinh học của chúng kể cả ở những nơi mà cấu trúc quần xã không bị ảnh hưởng lớn. Sự ô nhiễm môi trường bao gồm: sử dụng quá mức thuốc trừ sâu, các chất thải công nghiệp, phân bón hóa học và ô nhiễm không khí gây ra mưa axit, nitơ bị lắng đọng quá mức, các khí quang hóa và khí ôzôn. Như chúng ta đã biết khí hậu địa cầu có thể bị thay đổi trong thế kỷ XXI bởi vì lượng khí cacbonnic thải vào khí quyên quá lớn do quá trình đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch. Mức độ tăng nhiệt độ dự kiến sẽ nhanh đến mức nhiều loài không thê nào điều chỉnh được biên độ sống của chúng và sẽ bị tuyệt chủng. Hiện nay tình trạng nghèo khó vẫn diễn ra ở nông thôn. Việc cải tiến đạt hiệu quả cao hơn các phương pháp săn bắn và hái lượm, quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế đã thúc đẩy sự khai thác quá mức đối với rất nhiều loài, đẩy chúng đến sự tuyệt chủng. Các nền văn minh của các xã hội trước đây có những truyền thống, thói quen hạn chế khai thác tài nguyên quá mức, nhưng ngày nay, những truyền thống đó đã bị phá vỡ và con người vô tình hoặc hữu ý đã chuyển hàng ngàn loài đến những vùng đất mới trên thế giới. Một số loài nhập cư đã có tác động xấu đối với các loài bản địa dẫn đến dịch bệnh và động vật sống ký sinh thường gia tăng khi các loài động vật bị nuôi nhốt tại những khu bảo tồn thiên nhiên và không thể di chuyển đi lại trong một địa bàn rộn lớn. Động vật bị nuôi nhốt thường có tỷ lệ bị mắc bệnh cao và các bệnh dịch đôi khi lan truyền giữa các loài động vật có quan hệ họ hàng với nhau. Đó chính là lý do của việc lựa chọn đề tài thảo luận về môi trường và sự phát triển bền vững II. Mục tiêu nghiên cứu việc lựa chọn đề tài thảo luận về sự phát triển bền vững, lí luận và thực tiễn nhằm các mục đích sau:  Phân tích các ảnh hưởng của môi trường đối với sự phát triển kinh tế  Nhận thức rõ các nguy cơ, mặt lợi, mặt hại của sự phát triển kinh tế đến đời sống xã hội, môi trường, con người hiện tại và tương lai Từ đó có thể suy nghĩ về những giải pháp hài hòa giữa sự phát triển và bảo vệ môi trường, nhắm đến một sự phát triển bền vững. III. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này thông qua việc thu thập, phân tích các tài liệu có liên quan đến sự phát triển bền vững, các bài báo, các tác phẩm nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước, nước ngoài đã được công bố, các tài liệu, giáo trình môn kinh tế phát triển, các số liệu thống kê, các quan sát thực tế. IV. Phạm vi nghiên cứu  Đề tài này chỉ nghiên cứu trong phạm vi “Sự phát triển bền vững và môi trường”

doc37 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 12240 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự phát triển bền vững và môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đội ngũ các nhà giáo đủ về số lượng, cũng như các thầy thuốc, các kỹ thuật viên, các chuyên gia, các nhà khoa học trong mọi lĩnh vực của đời sống. Đảm bảo các tiêu chí : - Tỷ số người dân/1 bác sĩ - Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng năm - Tỷ lệ chết trẻ sơ sinh dưới 1 tuổi, năm - Các chỉ tiêu về dân số và việc làm - Tốc độ tăng dân số: Thường được so sánh với tốc độ tăng trưởng kinh tế để xem xét khả năng đảm bảo việc làm - Cơ cấu dân số, lao động theo ngành, theo giới, theo độ tuổi và theo vùng Bảng 4 Một số chỉ tiêu về dân số của Việt Nam Năm Dân số (nghìn người) Tốc độ tăng (%) Cơ cấu theo giới (%) Cơ cấu theo vùng (%) Nam Nữ Thành thị Nông thôn 1990 66.016,7 1,92 48,78 51,22 19,51 80,49 1995 71.995,5 1,65 48,94 51,06 20,75 79,25 2000 77.635,4 1,36 49,17 50,84 24,22 75,78 2001 78.685,8 1,35 47,16 50,84 24,76 75,24 Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, 2002 - Tỷ lệ thất nghiệp x 100 - Một số chỉ tiêu về dân số và cơ cấu lao động Tốc độ tăng dân số năm 2000 của một số nước: Đức: 0,1%, Nhật: 0,2%, Trung quốc: 0,9%, Thái Lan: 0,8%, các nước chậm phát triển nhất: 2,3% (Nguồn: World Development Indicators Database, 4/2002). Cơ cấu lao động của lực lượng lao động chia theo nhóm ngành của Việt Nam tại thời điểm 1/7/2000: - Nông nghiệp: 22.650.814 người, chiếm 62,56% - Công nghiệp và XD: 4.761.436 người, chiếm 13,15% - Dịch vụ: 8.794.785 người, chiếm 24,29% - Các chỉ tiêu về phân phối thu nhập và nghèo đói Bất bình đẳng giữa các vùng, giữa các dân tộc, giữa nam và nữ, giữa các thế hệ: Bảng Phân phối thu nhập theo quy mô một quốc gia đang phát triển Bảng 5 Các nhóm dân số Phần trăm thu nhập (%) 20% dân số có thu nhập thấp nhất 5 20% dân số có thu nhập thấp 9 20% dân số có thu nhập trung bình 13 20% dân số có thu nhập cao 22 20% dân số có thu nhập cao nhất 51 100% dân số 100% thu nhập - Đường cong Lorenz Đường cong Lorenz là đường thể hiện mối quan hệ giữa các nhóm dân số và phần trăm thu nhập tương ứng của họ trong tổng thu nhập quốc dân. Đường cong Lorenz được xây đựng trên phương thức phân phối thu nhập theo quy mô. Từ các số liệu ví dụ ở Bảng 5 chúng ta có được những thông tin sau Dân số cộng dồn – Xi(%) Thu nhập cộng dồn - Yi(%) 20 5 40 14 60 27 80 49 100 100 20 30 40 50 20 40 60 80 100 % dân số Đường bình đẳng Đường cong Lorenz % Thu nhập 100 10 O O’ E Đường cong Lorenz - Hệ số Gini Tỷ lệ đỉnh/đáy: Tỷ lệ thu nhập của 20% dân số giầu nhất với thu nhập của 20% dân số nghèo nhất Tỷ lệ nghèo đói 20 30 40 50 20 40 60 80 100 % dân số % Thu nhập 100 10 O O’ (A) (B) Mô tả cách tính hệ số Gini Thể hiện bằng công thức đại số, ta có công thức tính hệ số Gini như sau Công thức 1 Công thức 2 Trong đó: Xi : Tỷ lệ cộng dồn các nhóm dân cư đến nhóm thứ i Yi : Tỷ lệ cồng don ve thu nhập của các nhóm dân cư Hệ số Gini phản ánh mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, G càng lớn bất bình đẳng càng cao, G = 0 bình đẳng tuyệt đối, G = 1 bất bình đẳng tuyệt đối, các giá trị này không có trong thực tế. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới khoảng phân bổ của Hệ số Gini như sau: - Những nước có thu nhập thấp: 0,3 < G < 0,5 - Những nước có thu nhập trung bình: 0,4 < G < 0,6 - Những nước có thu nhập cao: 0,2 < G < 0,4 Từ thực tế trên Ngân hàng Thế giới đưa ra kết luận là quốc gia nào có Hệ số Gini ở mức xung quanh 0.3 thì được đánh giá là tốt. Tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam, năm 2001 là 32%, Trung Quốc: 6% (World Development Indicators Database, 4/2002). - Chỉ số Phát triển con người (HDI) Chỉ số HDI một chỉ tiêu tổng hợp, thường được dùng để xếp loại mức độ phát triển con người của một đất nước. Chỉ số HDI được tính tổng hợp từ các chỉ tiêu cơ bản: + Tuổi thọ kỳ vọng + GDP bình quân đầu người + Trình độ học vấn: + Tỷ lệ biết chữ của cư dân + Tỷ lệ trẻ em nhập học Trong đó: IA : Chỉ số đo tuổi thọ IE : Chỉ số tri thức, giáo dục IIN: Chỉ số mức sống Bảng 6 Chỉ số phát triển con người của Việt Nam Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 HDI 0.540 0.557 0.560 0.682 0.688 0.688 0.691 0.704 0.709 Thứ tự HDI 120 121 122 101 109 109 112 108 109 Việt Nam thuộc nhóm 78 nước có chỉ số phát triển con người ở mức trung bình (0.5-0.8). Phạm vi phân bổ của chỉ số HDI của một quốc gia theo lý thuyết có khoảng phân bổ là 0 : HDI : 1. Chỉ số HDI của một quốc gia càng lớn thì mýc độ phát triển của quốc gia càng được đánh giá cao. 3. Nhóm chỉ tiêu môi trường Ve môi trường: phát triển bền vững đòi hỏi phải sử dụng tài nguyên như đất trồng, nguon nước, khoáng sản… Đồng thời, phải chọn lựa kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng, cũng như mở rộng sản xuất đáp ứng nhu cầu của dân số tăng nhanh. Phát triển bền vững đòi hỏi không làm thoái hoá các ao hồ, sông ngòi, uy hiếp đời sống sinh vật hoang dã, không lạm dụng hoá chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, không gây nhiễm độc nguồn nước và lương thực - Tỷ lệ che phủ rừng: tính theo phần trăm (%) - Tỷ lệ diện tích khu bảo tồn thiên nhiên so với diện tích tự nhiên, tính theo phần trăm (%) - Tỷ lệ đất bị suy thoái hàng năm, tính theo phần trăm (%) - Tỷ lệ các khu, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải - Tỷ lệ các khu công nghiệp có hoặc sử dụng chung hệ thống xử lý rác thải rắn - Số doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn ISO 14001 - Phát thải các khí nhà kính, tính theo tấn/năm - Tỷ lệ các vùng đô thị có mức ô nhiễm không khí vượt quá tiêu chuẩn cho phép - Hệ sinh thái đang bị đe doạ và các loài có nguy cơ diệt chủng, tính bằng số lượng - Tổn thất về kinh tế do thiên tai hàng năm, phải được qui đổi ra tiền Chỉ tiêu tổng hợp đo lường phát triển bền vững Giá Trị Của 1m2 Diện Tích Đất Rừng Điều hòa ổn định khí hậu, hấp thụ CO2 Quá quan trọng trong việc lưu trữ nước và làm chậm tốc độ dòng chảy sau mưa Vô giá đối với bảo vệ và phát triển đa dạng sinh học, các nguồn gien quý hiếm. Vô giá trong việc cung cấp các thảo dược quý. Vô giá đối với sức khỏe con người Con ngứời đã sống vượt quá khả năng chịu tải của Trái đất (ha/người) Theo cách sống hiện tại, loài người đến 2050 sẽ cần 02 hành tinh như Trái đất. Đã hơn 20 năm qua chúng ta đã sống vượt quá khả năng chịu tải của Trái đất. Đó là lối sống, tiêu dùng không bền vững. Báo cáo của LHQ năm 2005 đã cảnh báo: Mặc dù 1/5 dân số Châu Á còn sống duới 01 USD/ngày nhưng vùng này đã bị khai thác quá khả năng chịu tải về môi trường của nó. 20% người giầu nhất thế giới hưởng thụ và sở hữu 80% tổng số của cải vật chất 80% người nghèo nhất sở hữu 20% của cải còn lại. Ve Công nghệ: phát triển bền vững là giảm thiểu tiêu thụ năng lượng và sử dụng các nguon tài nguyên thiên nhiên trong sản xuất, áp dụng có hiệu quả các loại hình công nghệ sạch trong sản xuất. Trong sản xuất công nghiệp can đạt mục tiêu ít chất thải hoặc chất gây ô nhiễm môi trường, tái sử dụng các chất thải, ngăn ngừa các chất khí thải công nghiệp làm suy giảm tang ozon bảo vệ trái đất. Phát triển bền vững và các mục tiêu phát triển kinh tế –xã hội –văn hoá –môi trường.Mỗi mục tiêu phát triển có vị trí riêng của nó, song nó được gắn với mục tiêu khác. Sự hoà nhập hài hoà hữu cơ này tạo nên sự phát triển tối ưu cho cả nhu cầu hiện tại và tương lai vì xã hội loài người CHƯƠNG III THỰC TIỄN Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 1. Khái niệm về nước đang phát triển Nước đang phát triển là quốc gia có mức sống còn khiêm tốn, có nền tảng công nghiệp kém phát triển và có chỉ số phát triển con người (HDI) không cao. Ở các nước này, thu nhập đầu người ít ỏi, nghèo nàn phổ biến và cơ cấu tư bản thấp. "Nước đang phát triển" gần nghĩa với Thế giới thứ ba thường dùng trong Chiến tranh Lạnh. 2. Những Đặc điểm chung của các nước đang phát triển Thu nhập thấp GDP thấp, GNI/ người thấp GNI bình quân đầu người ở mức 2000 USD được coi là điểm mốc để giải quyết các vấn đề cơ bản của con người (lương thực, y tế, giáo dục...Tuy nhiên, hiện nay có trên 100 nước đang phát triển có mức thu nhập bình quân đầu người nhỏ hơn mức 2000 USD, trong số đó gần một nửa có mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn 600 USD, Khả năng tích luỹ thấp. Tỷ lệ tích luỹ của các nước đang phát triển hiện nay trên dưới 10% GDP. Phải chịu một áp lực lớn về dân số và việc làm - Dân số đông, tốc độ tăng dân số cao Sản xuất kém phát triển triển, do tỷ lệ tích luỹ thấp, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp cao Công nghệ sản xuất lạc hậu Hoạt động của nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ, nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong GDP, kỹ thuật sản xuất thủ công, lạc hậu, năng suất thấp. Trình độ công nghệ của các nước đang phát triển chậm hơn từ 3 đến 6 thập kỷ so với trình độ công nghệ của các nước phát triển. Những đặc điểm cơ bản này tạo ra “vòng luẩn quẩn” cho các nước đang phát triển: Vòng luẩn quẩn của các nước ĐPT Năng suất thấp Tích luỹ thấp Công nghệ lạc hậu Thu nhập thấp Dân số đông Vấn đề đặt ra là các nước đang phát triển phải tìm ra con đường phát triển của mình để phá vỡ vòng luẩn quẩn trên vươn lên thành các nước phát triển. Mô hình phát triển kinh tế nào là phù hợp để đẩy nhanh quá trình phát triển của các nước đang phát triển Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ Tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGMillennium Development Goals) bao gồm từ mục tiêu giảm một nửa tỷ lệ nghèo cùng cực tới chặn đứng sự lây lan của HIV/AIDS và đạt phổ cập giáo dục tiểu học, tất cả đều phải hoàn thành vào năm 2015. Các MDG đã được tất cả các nước cũng như tất cả các cơ quan/tổ chức phát triển hàng đầu trên thế giới nhất trí. Các mục tiêu này đã thúc đẩy những nỗ lực to lớn chưa từng có nhằm đáp ứng nhu cầu của những người nghèo nhất trên thế giới.Các MDG là nhằm phục vụ con người và đảm bảo rằng: Mọi người đều có đủ lương thực Tất cả trẻ em học hết tiểu học Phụ nữ có các cơ hội và được tôn trọng như nam giới Có thêm nhiều trẻ em dưới 5 tuổi lớn lên khoẻ mạnh Ngày càng có ít bà mẹ bị tử vong khi sinh con Số người bị mắc các bệnh hiểm nghèo như HIV/AIDS và sốt rét liên tục giảm Chúng ta để lại cho các thế hệ con cháu mai sau một môi trường trong lành và đẩy lùi tình trạng gây hại đối với môi trường Cộng đồng toàn cầu liên hiệp và phối hợp với nhau để xây dựng một thế giới bình đẳng và công bằng hơn. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc năm 2000, 189 quốc gia thành viên nhất trí thông qua Tuyên bố Thiên niên kỷ và cam kết đạt được tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ vào năm 2015. Đây là sự đồng thuận chưa từng có của các nhà lãnh đạo trên thế giới về những thách thức quan trọng toàn cầu trong thế kỷ 21 cũng như cam kết chung về việc giải quyết những thách thức này. Tuyên bố Thiên niên kỷ vào các MDG là lộ trình tiến tới xây dựng một thế giới mà ở đó không còn nghèo đói, tất cả trẻ em đều được học hành, sức khoẻ của người dân được nâng cao, môi trường được duy trì bền vững và mọi người được tự do, công bằng và bình đẳng. 3. Thực trạngcủa các nước đang phát triển Hình ảnh một thế giới phát triển “không bền vững”, hoàn toàn đi ngược với tinh thần của Thượng đỉnh Rio de Janeiro năm 1992. Khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia càng lớn dần so với các nước Bắc bán cầu và Nam bán cầu. Đối với các quốc gia đang phát triển, giai cấp giàu chiếm thiểu số, giai cấp nghèo chiếm tuyệt đại đa số và giai cấp trung lưu chiếm tỷ lệ rất khiêm nhường. Trên thế giới vẫn còn có hàng tỷ người không có điều kiện tiếp cận và xử dụng nguồn nước sạch, hệ thống vệ sinh thường thức hàng ngày, có mức dinh dưởng tối thiểu, có nơi cư trú an toàn, và được chăm sóc sức khỏe. Tệ hại nhất, môi sinh tòan cầu đang phải gánh chịu hậu quả do sự phát triển “không bền vững” gây ra. Trước hết, về khía cạnh tăng trưởng, (theo lý thuyết, để nhân đôi GDP trong 10 năm, một quốc gia cần đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 7%/năm).Bảng 7 dưới đây viện dẫn so sánh của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) Bảng 7 Quốc gia 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Châu Á 4,0 6,1 6,8 5,7 6,5 6,3 Ấn Độ 5,8 6,7 5,4 4,2 4,9 5,1 Trung Quốc 7,8 7,1 8,0 7,3 8,0 7,5 Thái Lan -10,5 4,4 4,6 1,9 5,2 4,2 Việt Nam 5,8 5,2 6,8 6,9 7,0 7,2 Tuy nhiên, gia tăng bất bình đẳng thu nhập lại là một thách thức lớn. Theo các nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)…, không chỉ có sự chênh lệch ngày càng tăng về thu nhập giữa các nhóm dân cư mà hiện tượng này còn xảy ra giữa thành thị với nông thôn, giữa các tỉnh có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Báo cáo thường niên năm 2003 của GSO chỉ rõ, trung bình nhóm 20% số người thuộc nhóm thu nhập cao nhất hằng năm kiếm thêm được số tiền nhiều gấp 8,1 lần so với nhóm 20% số người thu nhập thấp nhất. Mặc dù có trên 170 nguyên thủ quốc gia đã từng ngồi lại trong kỳ Thượng đỉnh 1992, nhưng việc thực hiện và tuân thủ các kết ước cho đến nay hầu như chỉ có trên giấy trắng mà thôi. Còn trên thực tế, do điều kiện và quyền lợi của từng quốc gia, việc thực thi các kết ước khó có thể xảy ra hay xảy ra đúng hạn kỳ. Một thí dụ căn bản là tất cả các quốc gia giàu đều đồng thuận trên quan điểm “xóa đói, xóa nợ” cho các nước nghèo. Nhưng trên thực tế, sự trợ giúp vẫn còn nhỏ giọt chưa đủ để giải quyết vấn đề cho từng quốc gia, đừng nói đến việc tiếp cận các vùng đất rộng lớn cần phải được chăm sóc. Sau đây là số liệu về sự phát triển kinh tế một số nước trên thế giới. Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế của một số nước và vùng lãnh thổ Bảng 8 Triệu USD Quốc gia 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Nam Phi 132877,6 118479,0 110874,3 166653,6 216443,2 242058,9 255155,5 Ni-giê-ri-a 42078,1 47999,8 46710,8 58294,4 72053,4 98564,8 115337,8 Ca-na-đa 713795,7 705149,1 734662,0 866039,6 992150,7 1131725,6 1271592,6 Mỹ 9764800,0 10075900,0 10417600,5 10907999,5 11657300,4 12397900,2 13163870,3 Trung Hoa 1080741,4 1324807,0 1453831,4 1640961,7 1931640,3 2243852,5 2644681,2 Nhật Bản 4746067,8 4162360,4 3918335,0 4229096,8 4605937,7 4549107,0 4368435,0 Cam-pu-chia 3593,9 3786,9 4277,6 4651,4 5310,4 6271,1 7258,0 In-đô-nê-xi-a 165020,5 164145,5 195660,4 234773,4 256835,4 286961,6 364790.0 Lào 1722,1 1761,7 1829,8 2138,1 2508,0 2886,9 3437,1 Việt Nam 31172,5 32487,0 35081,3 39797,8 45358,7 53114,6 60827,0 Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước của một số nước và vùng lãnh thổ (%) Bảng 9 Quốc gia 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Nam Phi 4,15 2,74 3,67 3,12 4,84 5,10 4,99 Ni-giê-ri-a 4,20 3,10 1,55 10,69 6,00 7,20 5,20 Ca-na-đa 5,29 1,78 2,94 1,82 3,30 2,94 2,80 Mỹ 3.69 0.76 1.61 2.52 3.92 3.23 2.90 Trung Hoa 8.00 8.30 9.10 10.00 10.10 10.40 10.70 Nhật Bản 2.84 0.20 0.26 1.41 2.74 1.91 2.2 Cam-pu-chia 6.99 5.49 6.54 8.51 10.02 13.46 10.83 In-đô-nê-xi-a 4.92 3.83 4.50 4.78 5.03 5.68 5.48 Lào 5.78 5.79 5.91 6.11 6.37 7.13 7.51 Việt Nam 6.79 6.89 7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người theo giá thực tế của một số nước và vùng lãnh thổ Bảng 10 USD Quốc gia 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Nam Phi 3019.9 2643.9 2450.5 3628.6 4670.0 5162.0 5384.0 Ni-giê-ri-a 331.6 398.8 355.7 432.9 522.1 697.3 797.0 Ca-na-đa 23198.0 22686.8 23425.2 27380.3 31015.4 35024.9 38947.4 Mỹ 34599.5 35314.6 36156.4 37510.8 39699.6 41813.2 43968.8 Trung Hoa 855.9 1041.6 1135.5 1273.6 1490.3 1720.1 2016.1 Nhật Bản 37408.9 32738,4 30745,3 33112,8 36051,2 35603.0 34193.6 Cam-pu-chia 283,1 291,1 322,6 344,8 387,1 449,4 511,3 In-đô-nê-xi-a 800.0 785.3 923.7 1093.6 1180.4 1301.1 1635.5 Lào 326.2 326.0 338.7 389.7 450.0 509.7 569.8 Việt Nam 402.0 412.9 439.9 491.9 552.9 639.1 723.0 Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương của một số nước và vùng lãnh thổ Bảng 11 USD Quốc gia 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Nam Phi 8908 9401 11290 10070 10346 11192 11110 Ni-giê-ri-a 853 896 850 860 1050 1154 1128 Ca-na-đa 26251 27840 27130 29480 30677 31263 33375 Mỹ 31872 34142 34320 35750 37562 39676 41890 Trung Hoa 3617 3976 4020 4580 5003 5896 6757 Nhật Bản 24898 26755 25130 26940 27967 29251 31267 Cam-pu-chia 1361 1446 1860 2060 2078 2423 2727 In-đô-nê-xi-a 2857 3043 2940 3230 3361 3609 3843 Lào 1471 1575 1620 1720 1759 1954 2039 Việt Nam 1860 1996 2070 2300 2490 3745 3071 Qua các bảng số liệu và biểu đồ trên ( từ bảng 2 – bảng 5)cho thấy sự tăng trưởng kinh tế của các nước có sự phân biệt giàu nghèo rất rõ ràng. Các nước phát triển có thu nhập GDP cao, GDP bình quân đầu người cao, nhưng sự tăng trưởng hàng năm thấp. Còn các nước đang phát triển có thể do mục tiêu tăng trưởng kinh tế hàng năm là vô cùng quan trọng, nó được đặt lên hàng đầu trong sách lược kinh tế. Nhung GDP và Thu nhập bình quân lại quá thấp so với các nước phát triển. Chính vì thế nó có ảnh hưởng rất sấu đến tiêu chí cho phát triển bền vững. Đặc biệt là Trung Quốc. CHƯƠNG IV PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ MÔI TRƯỜNG Nhịch lý của sự phát triển 1. Bầu không khí ô nhiễm Tăng trưởng nhanh cũng kèm theo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP, nảy sinh nạn thất nghiệp, ô nhiễm môi trường…. Như phần mở đầu đã nói, sự ô nhiễm môi trường loại bỏ rất nhiều loài ra khỏi quần xã sinh học của chúng kể cả ở những nơi mà cấu trúc quần xã không bị ảnh hưởng lớn. Sự ô nhiễm môi trường bao gồm: sử dụng quá mức thuốc trừ sâu, các chất thải công nghiệp, phân bón hóa học và ô nhiễm không khí gây ra mưa axit, nitơ bị lắng đọng quá mức, các khí quang hóa và khí ôzôn. Như chúng ta đã biết khí hậu địa cầu có thể bị thay đổi trong thế kỷ XXI bởi vì lượng khí cacbonnic thải vào khí quyên quá lớn do quá trình đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch. Mức độ tăng nhiệt độ dự kiến sẽ nhanh đến mức nhiều loài không thê nào điều chỉnh được biên độ sống của chúng và sẽ bị tuyệt chủng. Một thí dụ về việc ứng dụng các quy trình sản xuất sạch để bảo vệ môi trường. Việc này đã được các quốc gia hậu kỹ nghệ nghiên cứu kỹ lưỡng, tuy nhiên hầu như họ chỉ nhắm vào mục đích là làm tăng lợi nhuận trong sản xuất qua sự giảm thiểu nguyên liệu, hóa chất và chất phế thải. Qua chương trình Hóa học Xanh cho Dược phẩm (Green Chemistry for Pharma) với mục đích khuyến khích nghiên cứu các quy trình sạch trên, công ty dược phẩm Pfizer đã thành công trong việc cải thiện quy trình sản xuất của một loại thuốc an thần nổi tiếng Sertraline, có tên thương mãi là Zoloft. Quy trình mới là giảm thiểu các công đoạn hòa tan và kết tinh, cộng thêm sự oxit hóa... do đó làm giảm lượng dung môi xử dụng cho một tấn thuốc sản xuất là 55.000 gallons. Mức sản xuất hàng năm ngoài dung môi ra ước tính giảm thiểu được 440 tấn titanium dioxide, 150 tấn acid clorhydric 35%, và 100 tấn sút 50%, và quan trọng nhất là hạn chế một số lượng phế thải lớn trong sản xuất. Tuy việc làm trên đã tiết giảm một chi phí lớn lao nhưng giá bán ra thị trường của Zeloft càng tăng thêm: US$ 65.00 trong năm 2002 cho một hộp 30 viên 50mg so với $50.00 cách đó hai năm khi chưa áp dụng quy trình sạch! Vô hình chung những việc tương tự chỉ làm tăng khoảng cách giàu nghèo ngay cả chính trong các nước phát triển và hoàn toàn đi ngược lại với nguyên tắc của “phát triển bền vững” Từ những nhận định trên, dù có suy nghĩ tích cực đến đâu đi nữa, chúng ta khó nhìn thấy được những đóng góp hữu hiệu cho việc phát triển bền vững để bảo vệ môi trường toàn cầu trong tương lai, vì: Các nhà sản xuất ở từng quốc gia sẽ cũng chỉ chạy theo lợi nhuận và giảm thiểu mức chi thấp nhất trong phát triển; Tinh thần quốc gia cực đoan, và sự e dè trong việc can thiệp vào nội bộ các quốc gia khác Hệ thống tham nhũng từ cao xuống thấp ở những quốc gia đang phát triển hầu như vô phương cứu chữa. Dù luật lệ môi trường có khắc khe đến đâu, thì việc xử lý phế thải độc hại trong đất, không khí và nguồn nước do sản xuất và phát triển cũng sẽ bị ém nhẹm hay lãng quên Các chính phủ của những quốc gia đang phát triển vì nhu cầu cấp bách của cán cân mậu dịch mà phải tăng gia phát triển kinh tế và lãng quên yếu tố bảo vệ môi trường, dù họ biết rất rõ hệ luỵ nầy sẽ đưa đến những xáo trộn trong việc phát triển xã hội sau đó Tệ hại hơn cả là các cường quốc và nhiều quốc gia vẫn còn giữ quan niệm về chủ nghĩa “nước lớn”, không cần tuân thủ các luật lệ quốc tế về toàn cầu hóa mà Trung quốc là ví dụ điển hình nhất trong việc quản lý sông Mekong qua việc xây dựng các đập ở thượng nguồn. (1) Trích dẫn bản tin 2008/số 23/ công nghệ môi trường 1)So với các dự báo trước đây, chỉ một số nước đang phát triển mới có được các công nghệ giảm phát thải khí nhà kính hiệu quả hơn trong một vài thập kỷ tới. Đây là kết luận nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Trung tâm Nghiên cứu khí quyển quốc gia (NCAR) và Đại học Colorado, Hoa Kỳ. Nghiên cứu cảnh báo những chênh lệch về kinh tế và công nghệ đang tiếp diễn làm cho khó dự báo về khả năng giảm các phát thải khí nhà kính và nhấn mạnh những thách thức các nước nghèo phải đối phó để thích ứng với nóng lên toàn cầu. Patricia Romero Lankao, nhà xã hội học thuộc NCAR, tác giả chính của nghiên cứu cho biết: Không có bằng chứng cho thấy các nước đang phát triển sẽ giàu hơn và sẵn sàng áp dụng các công nghệ thân thiện hơn với môi trường. Chúng ta luôn nhận thức được rằng giảm phát thải khí nhà kính là một thách thức nhưng hiện nay đang bị xem nhẹ. Do vậy, hầu hết các nước công nghiệp hoá và nước đang phát triển đang làm tăng lượng phát thải CO2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước này đang vượt quá khả năng và nhu cầu có nhiều ô tô, nhà to và các hàng hoá, dịch vụ khác làm tăng phát thải CO2 chưa từng có. Nhiều sản phẩm mà các nước tiêu thụ bắt nguồn từ các nước đang phát triển, những nước chú ý tới sản xuất nhiều hàng hoá hơn nhưng không thu được lợi ích cần thiết do nâng cao hiệu quả. Nhìn chung, tốc độ phát thải CO2 trên toàn cầu trung bình mỗi năm là 1,3%/năm trong những năm 1990 và 4,5% từ năm 2000-2007. Nghiên cứu cũng đề cập đến các thảo luận quốc tế về biến đổi khí hậu như Hội nghị về Biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc ở Poznan, Ba Lan. Hoa Kỳ và các nước có nền công nghệ tiên tiến đang bị sức ép giảm phát thải CO2 bình quân, trong khi các nước đang phát triển đang bị thúc ép thông qua công nghệ sạch hơn. Cả 2 mục tiêu này đều sẽ khó đạt được. Hơn nữa, nếu các nước đang phát triển không thể trở nên thịnh vượng hơn, sẽ không có khả năng bảo vệ người dân khỏi một số tác động nguy hiểm của biến đổi khí hậu như mực nước biển dâng cao và hạn hán tần suất lớn hơn. Dân cư và các hoạt động kinh tế sẽ không có quyền, tài nguyên, các hệ thống xã hội và cơ cấu quản lý đặc biệt quan trọng để thích ứng với các tác động của biến đổi khí hậu. Cái giá của sự thiếu hiệu quả. Nhóm nghiên cứu phân tích cho thấy: các nước đang phát triển thường có nền kinh tế kém phát triển nhưng lại gây ra khoảng 47% phát thải CO2. Một mặt là do các hệ thống năng lượng và vận tải ở các nước nghèo hoạt động không hiệu quả. Các cơ sở công nghiệp nhỏ và cũ sử dụng các nhiên liệu hoá thạch gây ô nhiễm có xu hướng thải ra nhiều CO2 trên một đơn vị sản xuất nhiều hơn các cơ sở công nghiệp lớn được trang bị các công nghệ mới, sạch hơn. Ngoài ra, các nước đang phát triển thải ra khối lượng lớn CO2 do những cánh rừng ở các nước này bị chặt phá hoặc bị đốt. Để xác định liệu các nước đang phát triển có khả năng tiêu thụ năng lượng hiệu quả hơn, Romero Lankao và các cộng sự đã chia 72 nước đông dân trên thế giới thành 3 nhóm chủ yếu: các nước có công nghệ tiên tiến như Hoa Kỳ , các nước mới nổi như Thái Lan, và các nước nghèo như Tanzania. Sử dụng dữ liệu của Ngân hàng thế giới, các nhà nghiên cứu đã phân loại dựa vào 3 tiêu chí có thể gây ảnh hưởng đến phát thải CO2: tổng sản phẩm quốc nội bình quân, dân số đô thị và dân số trong độ tuổi từ 15-65 tuổi. Sau đó, họ đã phân tích các đường cong kinh tế của các nước được lựa chọn từ năm 1960-2006 bằng các một số kỹ thuật thống kê. Kết quả là kể từ năm 1960, sự cách biệt về kinh tế giữa các nước công nghiệp hoá và hầu hết các nước đang phát triển được tính bằng tổng sản phẩm quốc nội bình quân, đã tăng. Hơn nữa, theo dự báo, nếu xu hướng này cứ tiếp diễn, khoảng cách về kinh tế sẽ còn gia tăng ít nhất trong vòng 2 thập kỷ tới. Một số nước theo phân loại có một số công nghệ như Trung Quốc ở tư thế sẵn sàng sẽ bắt kịp nền kinh tế thế giới và có khả năng áp dụng nhiều công nghệ hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nhiều nước khác được phân loại có một số công nghệ và không có công nghệ phát thải khí nhà kính lớn như Ấn Độ và Iran, sẽ thất bại vì không tích trữ được tài nguyên cần thiết để hoạt động hiệu quả hơn. Nghiên cứu cũng nhấn mạnh đến sự chênh lệch về phát thải CO2 trên đầu người. Trong số 72 nước được phân tích, các nước tiên tiến chiếm một tỷ lệ nhỏ dân số thế giới, nhưng thải ra 52,2% tổng lượng phát thải CO2. Trái lại, 1/3 dân số toàn cầu sống ở các nước “không có công nghệ” nhưng chỉ thải ra 2,8% tổng lượng phát thải CO2. Các kết quả nghiên cứu gây nghi ngờ cho một số dự báo của Uỷ ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPPC). Khi IPPC đã công bố đánh giá tổng thể vào năm 2007, dựa vào một số kịch bản về phát thải khí nhà kính với các khái niệm về đổi mới và hội tụ nêu rõ nhiều nước đang phát triển sẽ thu hẹp khoảng cách kinh tế và thông qua các công nghệ hiệu quả hơn. Tuy nhiên, Romero Lankao và các cộng sự đã tìm thấy bằng chứng về một quan điểm khác được xem là lý thuyết kinh tế thế giới nêu rõ các nước giàu sẽ duy trì thứ bậc với các nước nghèo trong vị thế kinh tế “ngoại biên” thậm chí khi họ sản xuất nhiều sản phẩm và tài nguyên cho các nước giàu. Các nước này thông qua nhiều phương thức sản xuất hiệu quả và thân thiện môi trường hơn nhưng với tốc độ chậm hơn nhiều so với dự báo của IPCC. Theo lý thuyết kinh tế thế giới, sẽ có các tác động lớn tới phát thải khí nhà kính trong tương lai. Ví dụ, theo dự báo trong một số kịch bản của IPPC, năm 2100, nếu các khu vực gồm các nước giàu có thu nhập trung bình cao gấp 7 lần khu vực nghèo, thế giới sẽ thải ra 14,2 tỷ tấn CO2 vào khí quyển. Tuy nhiên, nếu khoảng cách về thu nhập tăng lên 16 lần, phát thải CO2 sẽ cao hơn 9%, tức là khoảng 15,7 tỷ tấn, đẩy nhiệt độ toàn cầu tăng cao, và như vậy đó chính là sự đe dọa khó lường đối với sự phát triển bền vững ở các nước đang phát triển. 2. Môi trường tự nhiên biến đổi Vừa qua cả thế giới khốn khổ vì cơn giận dữ của thời tiết. Chỉ trong một tuần, không khí nóng cướp đi gần 500 mạng người châu Âu. Nạn lụt lớn chưa từng thấy nhấn chìm mấy nghìn ngôi nhà ở Anh quốc và làm hàng triệu người châu Á mất nhà cửa, mùa màng, trong đó có dân cố đô Huế nước ta. Do đâu khí hậu toàn cầu biến đổi ác liệt một cách không quy luật như vậy và ngày càng ác liệt? Nếu khí hậu cứ tiếp diễn như thế thì xã hội loài người và nền kinh tế được vun trồng mấy chục nghìn năm nay sẽ ra sao ? Người ta bỗng nhớ đến những hồi chuông báo động thảm họa môi trường đã vang lên từ lâu. Lời cảnh báo đáng sợ ấy viết trong một cuốn sách mỏng xuất bản năm 1972 có tên Các giới hạn của sự tăng trưởng (Limits to Growth), do một tổ chức phi chính phủ có tên Câu lạc bộ Rome (Club of Rome) soạn thảo. Lần đầu tiên trên thế giới, sách nêu ra vấn đề các giới hạn của Trái Đất và của sự tăng trưởng kinh tế-xã hội, dự đoán xu thế phát triển dài hạn toàn cầu về dân số, kinh tế và môi trường, đưa ra quan điểm về cách giải quyết các vấn nạn môi trường. 30 triệu cuốn sách này in bằng 28 ngôn ngữ đã được người đọc trên thế giới mua hết, xếp đầu bảng các bestseller viết về môi trường. CLB Rome và Các giới hạn của sự tăng trưởng được coi là ngọn cờ đầu phong trào bảo vệ môi trường, là cái mốc đánh dấu lịch sử sự nghiệp này của loài người. Sau tai họa thay đổi khí hậu mùa hè 2007, dư luận đang nhắc tới Limits to Growth và không tiếc lời ca ngợi tác giả chính của nó là bà Donella H. Meadows (1941-2001) – tiến sĩ vật lý sinh học, giáo sư ĐH Dartmouth (Mỹ). Năm 1972 bà tham gia một nhóm làm việc theo yêu cầu của CLB Rome, chuyên nghiên cứu mô hình máy tính toàn cầu World3 tại trường MIT. World3 đưa ra các dự báo giới hạn cuối cùng về năng lực chịu đựng của Trái Đất và sự tăng trưởng kinh tế-xã hội. Trên cơ sở đó, bà viết đề cương cho sách trên. Phát triển là lẽ sống còn của tất cả các nước, nhất là nước nghèo; nhưng nếu phát triển không đúng cách thì sẽ dẫm chân tại chỗ hoặc tụt lùi. Toàn thế giới đang sống vượt quá sức chịu đựng sinh học của Trái Đất. Để đáp ứng nhu cầu của một con người, Trái Đất cần có 21,9 ha bề mặt, trong khi công suất sinh học của bình quân của nó hiện chỉ là 15,7 ha/người, bằng 2/3 nhu cầu của chúng ta. Nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng 0,74oC trong 100 năm qua, và trong thế kỷ này có thể tăng thêm 1,8-4oC. Nó làm tan băng ở hai cực Trái Đất, khiến nước biển dâng lên. Những nước ven biển sẽ chịu hậu quả trước tiên “thí dụ 20 triệu người Việt Nam sẽ mất nhà cửa và đồng ruộng vì nước biển dâng ngập”. Thời gian 1992-2001, lũ lụt gia tăng đã khiến gần 100.000 người thiệt mạng và tác động tới 1,2 tỉ người. Tình hình nghiêm trọng đến mức, cần phải xem xét một công ước mới thay thế Nghị định thư Kyoto, nhằm buộc các nước đang phát triển cũng phải cam kết cắt giảm khí nhà kính, mà không được miễn trừ như trước. Nguồn nước ngọt giảm nhanh, năm 2025 có 1,8 tỷ người cực kỳ thiếu nước. Chất lượng nước tiếp tục hạ thấp, mà nguồn nước bị ô nhiễm là một trong các nguyên nhân chính làm cho con người mắc bệnh và chết. Diện tích đất bình quân đầu người đang nhanh chóng thu hẹp, từ 7,9 hecta năm 1900 xuống còn 2,02 năm 2005 và dự kiến là 1,63 hecta năm 2050. Đa dạng sinh học biến đổi nhanh nhất trong lịch sử, với hơn 30% động vật lưỡng cư, 23% động vật có vú và 12% loài chim có nguy cơ tuyệt diệt. Lượng cá biển bị đánh bắt lớn gấp 2,5 lần so với sản lượng khai thác bền vững của biển. “Cuộc đại diệt chủng sinh vật lần thứ 6 đã bắt đầu, mà nguyên nhân là do các hoạt động của nhân loại”(1) Theo – GEO-4 báo động Tăng trưởng dân số là nguyên do chủ yếu đòi hỏi tăng trưởng kinh tế, đồng nghĩa với việc tăng khai thác tài nguyên thiên nhiên; mà tài nguyên lại hữu hạn. Số dân Trái Đất tăng lên nhanh chóng, nay “mới có” hơn 6 tỷ người mà đã khai thác Trái Đất vượt quá khả năng của nó; đến năm 2050 sẽ tới 8-9,7 tỷ người – khi ấy chúng ta lấy gì để sống? Sự tàn phá tài nguyên thiên nhiên một cách có hệ thống đã tới cái ngưỡng mà khả năng sống còn của các nền kinh tế bị thách thức nghiêm trọng. Những lời cảnh báo thảm họa môi trường vang lên từ lâu lắm và ngày một nhiều người đang nói như vậy. Song họ chỉ là một số rất nhỏ so với mấy tỷ con người nghèo khổ đang đòi hỏi phải gấp rút được sống sung sướng, nghĩa là phải phát triển kinh tế, phải khai thác tài nguyên, cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ nhu cầu sống no ấm, đủ tiện nghi. Tăng trưởng càng nhanh càng tốt là đòi hỏi của các nước đang phát. Nhưng cách tăng trưởng như thế rất có thể lại là dẫm chân tại chỗ hoặc tụt lùi, là góp phần đẩy nhanh tốc độ hủy diệt loài người! Điều rất dễ nhận thấy và không thể bác bỏ là: hệ thống kinh tế và hệ thống môi trường sinh thái không dung hoà nhau mà bộc lộ những mâu thuẫn mang tính sinh tồn ngày càng trở nên rất rõ nét trong sự phát triển của xã hội hiện đại. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là để làm kinh tế và đạt bằng được các mục tiêu kinh tế, các mối liên quan về môi trường sinh thái đã bị bỏ qua, thiếu sự tôn trọng khi ứng dụng khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Đối với các nước đang phát triển, nguồn tài nguyên thiên nhiên có vai trò rất to lớn, đóng góp đáng kể vào tỉ lệ tăng trưởng kinh tế. Song, nếu khai thác nguồn tài nguyên này một cách quá mức, dẫn đến hệ sinh thái bị mất cân đối nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường gia tăng. Đó chính là hậu quả lớn nhất do tăng trưởng kinh tế mà không quan tâm bảo vệ môi trường. Dẫn đến là: ngày càng nhìn thấy rõ giới hạn của sự tăng trưởng là việc chuyển đổi từ trạng thái con người bị thiên nhiên đe doạ và phải chống lại nó trước đây, sang trạng thái con người đang đe doạ thiên nhiên, xâm hại đến môi trường, trong khi môi trường là yếu tố không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của chính con người. Theo nhiều dự báo, nếu con người cứ khai thác như mức hiện nay, trong số các tài nguyên khoáng vật (tài nguyên không tái tạo được) có thể duy trì: sắt được 173 năm, than được 150 năm, nhôm được 55 năm, đồng được 48 năm, vàng được 29 năm; các nguồn tài nguyên sinh vật, rừng rậm trong 170 năm nữa sẽ bị đốn hết, trong đó, mưa rừng nhiệt đới có thể hết nhẵn sau 40 năm nữa. Các nhà khoa học chỉ ra rằng, hiện nay trên trái đất đã không còn tìm thấy một vùng đất nào hoàn toàn không bị ô nhiễm. Sự ô nhiễm nghiêm trọng môi trường trái đất không chỉ tạo ra khủng hoảng sinh thái mà còn tạo ra khủng hoảng sinh tồn của con người”(1) PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh, Những vấn đề chủ yếu về kinh tế phát triển, Nxb CTQG, H, 2006, tr.89-90. Đã có rất nhiều bài học cho các nước vì quá coi trọng tăng trưởng kinh tế nhanh, tạo được sự bứt phá lớn về kinh tế, mong vượt lên các nước khác về kinh tế, song đã phải trả giá đắt về việc làm cạn kiệt và suy thoái môi trường. Trung Quốc – quốc gia có sự phát triển thần kỳ về nền kinh tế đã trở thành gánh nặng cho môi trường là một ví dụ. Trung Quốc hiện có 16 trong 20 đô thị ô nhiễm nhất trên thế giới; 4 đô thị tệ nhất nằm ở vùng Đông Bắc giàu than đá (70% nhu cầu năng lượng của Trung quốc lấy từ than đá). Mưa acid chứa sunphur dioxide từ các nhà máy điện than đá thải ra rơi trên 1/4 lãnh thổ Trung Quốc, làm giảm năng suất mùa màng và xói mòn mọi công trình xây dựng. Đất đai Trung Quốc cũng tàn lụi vì phát triển. Phá rừng, song song với khai thác quá mức đồng cỏ để nuôi súc vật và canh tác đã biến các vùng ở Đông Bắc Trung Quốc thành sa mạc. Sa mạc Gôbi đang dần xâm chiếm miền Tây và Bắc Trung Quốc, lan rộng mỗi năm khoảng nửa triệu héc ta. 1/4 lãnh thổ Trung Quốc nay đã thành sa mạc do mất rừng. Cục Lâm vụ Trung Quốc ước lượng là hiện tượng sa mạc hoá đã biến 400 triệu dân Trung Quốc thành người tị nạn môi sinh, phải tìm kiếm nơi ở mới. Đất đai bị ô nhiễm cũng gây lo ngại về an toàn thực phẩm. Sông Dương Tử và sông Hoàng Hà là hai nguồn cung cấp nước quan trọng nhất cho Trung Quốc bị ô nhiễm nặng. Sông Dương Tử tiếp nhận 40% nước cống, hơn 80% nước thải chưa qua xử lý. Sông Hoàng Hà cung cấp nước cho 150 triệu người và nước tưới cho 15% đất nông nghiệp Trung Quốc, nhưng 2/3 nước sông này không an toàn và 10% vào loại nước cống thải. Báo cáo tiên đoán lượng mưa ở lưu vực 3 con sông trong 7 lưu vực chính của Trung Quốc, nghĩa là các vùng xung quanh sông Hoài, sông Liêu và sông Hải sẽ giảm, làm mất đi 37% sản lượng lúa mì, lúa gạo và bắp vào năm 2050. Để sản xuất một đơn vị hàng hoá, Trung Quốc phải tiêu thụ tài nguyên gấp 7 lần so với Nhật Bản, 6 lần so với Hoa Kỳ và 3 lần so với Ấn Độ(1) Thời báo Kinh tế Sài gòn, số 39, ngày 29-9-2007, tr.58-59. Theo Tạp chí ban tuyên giáo Năm 2003, Trung Quốc đã công bố áp dụng chặt chẽ các tiêu chuẩn mới về tiết kiệm nhiên liệu đối với ô tô và xe tải loại nhỏ. Dấu hiệu này cho thấy một nước đông dân nhất thế giới đang phát triển theo con đường bền vững hơn, trong khi Hoa Kỳ lại đi theo hướng khác. Người ta nhận định: “tốc độ phát triển kinh tế của Trung Quốc nhanh đến mức mà 40 năm phát triển kinh tế Trung Quốc bằng 150 năm phát triển kinh tế của Hoa Kỳ” Những thành phố của Trung Quốc bị nghẹt thở bởi những đám sương khói dày đặc. Nhưng khi họ thực hiện linh hoạt các chính sách bền vững mới của Chính phủ thì Trung Quốc sẽ dễ dàng vượt Hoa Kỳ Một trong những thành phố có hướng phát triển bền vững rõ nét nhất ở Trung Quốc là Tô Châu, cách Thượng Hải 40 dặm, gồm 2,2 triệu dân và là thành phố đầu tiên công bố tài liệu về sự phát triển nhanh chóng đem lại lợi ích cho Trung Quốc. Năm 2003, tổng sản phẩm nội địa (GDP) của thành phố là 22 tỷ USD, năm 2004 sẽ là 27 tỷ USD. Chỉ tính riêng năm 2003, Tô Châu đã thu hút được 5,3 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài. Trong thế kỷ 21, Tô Châu là khu vực xây dựng lớn. Trong khi cư dân than phiền về cuộc sống sống hàng ngày của họ bị phá vỡ, thì các quan chức Chính phủ lại đang đầu tư hàng tỷ đô la vào những dự án xây dựng các công trình công cộng có quy mô lớn như: xây dựng đường cao tốc, mở rộng đường phố, lắp đặt hơn 50 dặm đường cống rãnh và ống thoát nước mưa, làm đẹp các kênh trong thành phố, nâng cấp và xây dựng các khu nhà chung cư, và một trong 4 kế hoạch đầu tiên là khởi công xây dựng đường xe lửa và hệ thống tàu điện ngầm. Phía Đông và phía Tây của thành phố Tô Châu có hai khu công nghiệp đang mở rộng, với tốc độ 9 dặm/ năm, những làng cổ từ nhiều thế kỷ trước đang bị san lấp để xây các nhà trung cư cao 20 tầng, những Công ty kinh doanh lớn của nước ngoài, các công viên giải trí và những phân khu theo kiểu dáng của phương Tây. Ngoài ra, Tô Châu là một trong 10 thành phố được chọn là “thành phố môi trường kiểu mẫu” cũng đang cuốn theo làn sóng đô thị hóa lần thứ hai của Trung Quốc – song không làm phá hủy nhiều về sinh thái và xã hội. Quả thực, phát triển bền vững đã trở thành câu ‘thần chú’ ở Tô Châu. Nhiều sáng kiến “xanh” – như việc di chuyển các ngành công nghiệp gây ô nhiễm ra khỏi thành phố (xa các nguồn nước) và dự án thí điểm yêu cầu xe taxi chạy bằng khí thiên nhiên – những chiến lược này có thể vượt xa so với các chiến lược của Hoa Kỳ. Với 2500 năm lịch sử, Tô Châu là một trong những thành phố cổ nhất Trung Quốc, những ngôi nhà có tường vôi trắng, những con đường sỏi nằm xen với mạng lưới sông đào. Thành phố nổi tiếng thế giới về những khu vườn cổ và nghề thêu, tơ lụa. Một sự phối hợp hài hòa giữa lịch sử, văn hóa và cỏ cây mà các quan chức đang hoàn thiện Tô Châu theo mô hình của một cộng đồng có điều kiện sống tốt. Đến tận năm 1998, Trung Quốc mới thành lập Bộ Tài nguyên và Đất, nên chính sách bảo tồn và sử dụng đất ra chậm hơn so với chính sách làm sạch ô nhiễm không khí và nước. Ở Tô Châu, các quan chức thừa nhận rằng ý kiến về ranh giới phát triển đô thị, bảo tồn đất nông nghiệp đã thấm sâu vào tiềm thức của công chúng(1) Nguồn: The Environmental Magazine, 5/2004 1). Không thể phát triển bền vững nếu một bộ phận dân chúng thiệt thòi đứng bên lề sự phát triển đó. Có bao nhiêu nông dân, chiếm 49% dân số lao động (760,8 triệu người) ở TQ, chia sẻ được những lợi ích của 5.600 đôla GDP/ đầu người/ năm (tính theo sức mua) khi mà sản lượng nông nghiệp chỉ là 13,8% GDP cả nước? II. Moi trường và sự phát triển của việt nam như thế nào Cũng giống như một số nước đang phát triển khác, tình trạng ô nhiễm môi trường do tăng trưởng kinh tế gây ra ở Việt Nam là điều không tránh khỏi, đang là một trong những vấn đề bức xúc đòi hỏi phải giải quyết hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế, tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm qua rất ngoạn mục. Tuy nhiên, cảnh báo của nhiều tổ chức quốc tế dành cho Việt Nam rằng, chúng ta không thể chạy theo các chỉ số tăng trưởng kinh tế mà bất chấp tình trạng môi trường sống đang bị hủy diệt quá nhanh. Nói cách khác, môi trường bị hủy diệt chính là mặt trái của tăng trưởng ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu môi trường ở Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy: thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là 2 trong 10 tỉnh thành phố được điều tra có tỉ lệ ô nhiễm môi trường cao nhất, đặc biệt là ở các khu công nghiệp trọng điểm. WB nhận định: ô nhiễm môi trường chính là thách thức chính đối với tiến trình đô thị hóa, công nghiệp hóa ở Việt Nam. Bảng so sánh tốc độ tăng trưởng các khu vực KT của VN Khu vực KT Tốc độ tăng so với năm trước (%) Đóng góp của mỗi khu vực vào tăng trưởng 2008 (Điểm phần trăm) 2006 2007 2008 Tổng số 8,23 8,48 6,23 6,23 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 3,69 3,40 3,79 0,68 Công nghiệp và xây dựng 10,38 10,60 6,33 2,65 Dịch vụ 8,29 8,68 7,20 2,90 Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) đã chỉ ra rằng, bây giờ là thời điểm mà Việt Nam cần kiên trì theo đuổi phát triển bền vững. Nếu không giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường thì Việt Nam sẽ có thể xóa đi tất cả các thành tựu đã đạt được từ trước tới nay Đảm bảo một sự cân bằng giữa nhu cầu tăng trưởng kinh tế với đòi hỏi bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và tái tạo môi trường, vừa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của thế hệ hiện tại trong tăng trưởng và phát triển, vừa không làm phương hại gì đến nhu cầu và khả năng ứng dụng các nguồn tài nguyên của các thế hệ tương lai là một yêu cầu bức thiết của phát triển bền vững Vì thế, phát triển bền vững về kinh tế và phát triển bền vững về môi trường thực chất là phát triển “ bình đẳng và cân đối” để duy trì sự phát triển mãi mãi, để cân bằng giữa lợi ích của các nhóm người trong cùng một thế hệ và giữa các thế hệ. Thực hiện sự phát triển “bình đẳng và cân đối” về tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sẽ chấm dứt tình trạng đi kèm với lợi nhuận tăng cao là cái giá phải trả bằng tính mệnh của người dân bị đe doạ… do ô nhiễm môi trường từ tăng trưởng kinh tế. Theo Cục Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tỷ lệ che phủ rừng năm 2008 ước tính khoảng 38,8-39,3%, tăng 0,5% so với năm 2007. Theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (cả nước hiện nay có 4,3 nghìn cơ sở sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cần phải xử lý). Quá trình xử lý các cơ sở này được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 (từ 2003- 2007) xử lý 0,4 nghìn cơ sở; giai đoạn 2 (từ 2008 đến 2012) tiếp tục xử lý 3,9 nghìn cơ sở còn lại và các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được phát hiện thêm. Chất thải rắn đang là mối đe dọa nghiêm trọng đối với môi trường sinh thái. Theo đánh giá của Bộ Xây dựng, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn cả nước ước tính khoảng 12,8 triệu tấn/năm, trong đó của khu vực đô thị (từ loại 4 trở lên) là 6,9 triệu tấn/năm (khoảng 19 nghìn tấn/ngày). Trong tổng số chất thải rắn của đô thị, lượng chất thải rắn sinh hoạt chiếm 80% (khoảng 5,5 triệu tấn/năm); chất thải rắn công nghiệp chiếm 17% (khoảng 1,2 triệu tấn/năm); còn lại là chất thải rắn y tế khoảng 3% (0,2 triệu tấn/năm) Công tác thu gom và xử lý chất thải rắn đang được quan tâm và tích cực triển khai. Lượng chất thải rắn có khả năng tái chế và tái sử dụng chiếm khoảng 20-30% lượng chất thải rắn được thu gom. Tuy nhiên, công nghệ xử lý và số lượng cơ sở xử lý chất thải rắn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế phát sinh. Cả nước có khoảng 9% các đô thị từ thị xã trở lên có nhà máy chế biến phân hữu cơ, lượng chất thải rắn được xử lý tại các nhà máy này đạt khoảng 6%; các lò đốt chất thải y tế nguy hại cũng chỉ đáp ứng được khoảng 40% tổng lượng chất thải y tế. Năm 2008, thiên tai xảy ra liên tiếp và nghiêm trọng hơn nhiều so với năm trước, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư của hầu hết địa phương trên địa bàn cả nước. Theo báo cáo của các địa phương, thiên tai đã làm 550 người chết và mất tích, 440 người bị thương; gần 350 nghìn ha mạ, lúa và hoa màu bị mất trắng; 1,2 nghìn tấn thóc giống hỏng; hơn 1 triệu con gia súc và gia cầm bị chết; 68 nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại. Ngoài ra, mưa lũ còn làm sạt lở hơn 1 nghìn km đường giao thông cơ giới; gần 5 nghìn ngôi nhà bị sập hoặc bị cuốn trôi. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra năm 2008 ước tính gần 12 nghìn tỷ đồng. Tại các tỉnh bị thiệt hại do thiên tai gây ra, lãnh đạo địa phương đã kịp thời triển khai các công tác cứu hộ và cứu trợ nhằm khắc phục hậu quả, nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất cho dân. Các hộ dân bị ảnh hưởng của thiên tai cũng đã nhận được sự hỗ trợ về lương thực, thực phẩm, nước uống và các nhu yếu phẩm từ các tổ chức và cá nhân trên cả nước III. Những giải pháp Phát triển cân đối giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu của phát triển bền vững. Để thực hiện được vấn đề đó, cần phải: Thay đổi nhận thức theo định hướng mới cần thiết về phát triển kinh tế chấm dứt cách tư duy: tăng trưởng kinh tế thật cao là vấn đề trọng tâm cần làm trước còn việc bảo vệ môi trường thì sẽ thực hiện sau Tuyên truyền, giáo dục môi trường cần được thực hiện và triển khai nhanh chóng trong toàn xã hội. Bởi lẽ, sự tác động vào môi trường tự nhiên một cách tự phát và gây thảm hoạ không chỉ cho môi trường tự nhiên mà còn tác động xấu đến sự tăng trưởng kinh tế khi những chủ thể này chưa nhận thức đúng đắn vai trò của môi trường, của công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động kinh tế. Việc lập kế hoạch phát triển quốc gia nói chung, trong phát triển kinh tế nói riêng thì môi trường phải được coi là một trong những giải pháp quan trọng trong chính sách kinh tế điều tiết hoạt động phát triển, kết hợp việc khai thác tiềm năng với việc bảo vệ, giữ gìn môi trường sinh thái nhằm đảm bảo phát triển bền vững. Giảm thiểu mâu thuẫn giữa hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái. Khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên trong hệ thống tự nhiên, hệ thống tái tạo trong tăng trưởng kinh tê. Sử dụng công nghệ mới, thực hiện chuyển giao công nghệ, thực hiện công nghệ “xanh và sạch”… trong hoạt động kinh tế. Áp dụng biện pháp kinh tế trong quản lý môi trường, cấm hoạt động đối với các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường, kiên quyết xử lý các vi phạm về môi trường của các tổ chức, cá nhân theo Luật Môi trường ban hành CHƯƠNG V KẾT LUẬN Phát triển bền vững” có nội hàm rất rộng, mỗi thành tố trong đó đều có một ý nghĩa riêng. Một mẫu hình phát triển bền vững là mỗi địa phương, vùng, quốc gia… không nên thiên về thành tố này và xem nhẹ thành tố kia. Vấn đề là áp dụng nó như thế nào ở các cấp độ trên và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Để chuyển hoá khái niệm phát triển bền vững từ cấp độ lý thuyết áp dụng vào thực tiễn, khái niệm cần được làm sáng tỏ sau đó áp đụng trực tiếp đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. "Phát triển bền vững” là khái niệm mới ở Việt Nam. Tiến hành xây dựng và thao tác hoá khái niệm này phù hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh thế giới hiện nay sẽ có ý nghĩa quan trọng. Các nghiên cứu khoa học môi trường, khoa học xã hội, trong đó đặc biệt là kinh tế học, xã hội học, và luật học hy vọng sẽ có nhiều đóng góp cho việc hoàn thiện hệ thống quan điểm lý luận về phát triển bền vững ở nước ta trong những thập niên sắp tới. Phát triển bền vững nhìn từ góc độ xã hội và văn hóa Từ giữa thập niên 80 đến nay, "phát triển bền vững" đã trở thành một ý niệm thời thượng. Nó là khẩu hiệu của hàng trăm tổ chức quốc tế, đề tài của mấy chục hội nghị, hội thảo toàn cầu, và một tiêu chuẩn quan trọng trong chiến lược phát triển của hầu hết mọi nước. Nguyên thủy, nó phản ánh sự quan ngại đối với một số quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế vội vã, chọn cách phát triển thiển cận, miễn sao tăng thu nhập hiện tại cho nhanh, mà không để ý đến những nguy hại dài lâu của lối phát triển ấy đến môi trường sinh thái (tàn phá rừng, sa mạc hóa...), đến trữ lượng hữu hạn của tài nguyên thiên nhiên (quặng mỏ, dầu hỏa, khí đốt). Ý niệm "phát triển bền vững" nhấn mạnh đến khả năng phát triển kinh tế liên tục lâu dài, không gây ra những hậu quả tai hại khó khôi phục ở những lĩnh vực khác, nhất là thiên nhiên. Phát triển mà làm hủy hoại môi trường là một phát triển không bền vững, phát triển mà chỉ dựa vào những loại tài nguyên có thể cạn kiệt mà không lo trước đến ngày chúng cạn kiệt thì phải làm sao là một phát triển không bền vững. Có người còn thêm rằng lối phát triển phụ thuộc quá nhiều vào ngoại lực (như FDI) cũng là khó bền vững, vì nguồn ấy có nhiều rủi ro, không chắc chắn. Nói ngắn gọn, phát triển là không bền vững nếu nó thật "nóng" đó không thể giữ lâu, nền kinh tế chóng rơi vào khủng hoảng, hay ít nhất cũng chậm lại trong tương lai. Không thể chối cãi: "phát triển bền vững" là một ý niệm hữu ích, đáng lưu tâm. Nhưng chỉ để ý đến liên hệ giữa môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên, và tăng trưởng kinh tế là chưa khai thác hết sự quan trọng của ý niệm "bền vững". Ý niệm ấy sẽ hữu ích hơn nếu được áp dụng vào hai thành tố nòng cốt khác của phát triển, đó là văn hóa và xã hội. Phát triển kinh tế mù quáng sẽ huỷ hoại môi trường. Song, phát triển một nền kinh tế với phương châm công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách có ý thức, sáng suốt, có sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, của toàn thể xã hội thì việc bảo vệ môi trường sẽ được đảm bảo. Đảm bảo sự hài hoà giữa lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường chính là thực hiện sự Phát triển bền vững về tăng trưởng kinh tế, về bảo vệ môi trường./. Tài liệu tham khảo 1. TS . Chu Thái Thành - Bảo vệ môi trường trên quan điểm phát triển bền vững của Đảng - Tạp chí Cộng sản, số 11 (tháng 6/2004) 2. PGS.TS. Trần Văn Chử - Kinh nghiệm trong phát triển bền vững ở nước ta - Tạp chí Lý luận chính trị, Số 3/2003 3. TS. Nguyễn Sỹ Lộc - Quản lý Khoa học công nghệ vì sự nghiệp phát triển bền vững - Tạp chí Hoạt động khoa học, Số 7/2003. 4. Thaddens.C.Trzyna - Thế giới bền vững - định nghĩa và trắc lượng phát triển bền vững - Viện Nghiên cứu chiến lược - Chính sách Khoa học công nghệ, Hà Nội năm 2001 5. Nghèo - Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004 - Hà Nội ngày 2 - 3/12/2003 MỤC LỤC Trang Chương I: PHẦN MỞ ĐẦU 1 I. Lí do chọn đề tài 1 II. Mục tiêu nghiên cứu 1 III. Phương pháp nghiên cứu 1 IV. Phạm vi nghiên cứu 2 Chương II. NỘI DUNG. 3 I. Cơ sở lí luận 3 1. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ NỘI DUNG KHÁI NIỆM 3 1.1 Tiền đề lịch sử 3 1.2 Nội dung khái niện 5 II. HỆ THỐNG CÁC NGUYÊN TẮC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ ĐÁNH GIÁ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 6 A. Nghuyên tắc cơ bản phát triển bền vững 6 B. Tiêu chí đo lường sự phát triển bền vững 9 Chương III: THỰC TIỄN Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 12 1. Khái niện về nước đang phát triển 12 2. Thực trạng 12 3. Phát triển bền vững và môi trường 17 3.1 Khí thải cùng với sự tăng trưởng 17 3.2 Môi trường tự nhiên và tăng trưởng kinh tế 20 4. Môi trường và sự tăng trưởng của Việt Nam 24 5. Những giải pháp 26 Chương IV. KẾT LUẬN 28

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự phát triển bền vững và môi trường.doc
Luận văn liên quan