Sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục lòng nhân ái học sinh ở lứa tuổi THCS

I. Đặc vấn đề: Nhân ái: Yêu thương, can đảm, sẻ chia. Biểu hiện: Tình cảm, tấm lòng, lời nói, hành động. Cao nhất: Là đức hi sinh. Con người sinh ra có một đôi mắt để nhìn, đôi tai để nghe, một bộ óc để suy nghĩ .Và có một trái tim để yêu thương. Con người biết yêu thương quan tâm sẻ chia với mọi người là con người có lòng nhân ái Steve Godier đã khẳng định: “Lòng nhân ái là biểu hiện cao đẹp nhất của con người”. Nhân ái là cái gốc của đạo đức con người, là nền tảng của luân lí xã hội. Không có tình thương con người chỉ là một con vật. Nhà văn Nam Cao trong tác phẩm “Đời thừa” đã khẳng định: “Tình thương là lẽ sống, là tiêu chuẩn làm người lớn nhất. Một con người có lòng nhân ái là phải biết yêu thương, quan tâm, chăm sóc những người thân yêu nhất của mình”. Đó là cha mẹ người cho ta cuộc sống, cho ta được biết thở bầu không khí trong lành, cho ta dòng sữa ngọt ngào với tình thương không bao giờ vơi cạn. Đó là ông bà là anh em ruột thịt, là bạn bè, bà con lối xóm, Biết yêu thương mình, yêu thương những người thân yêu, yêu đồng bào chung một bọc, yêu thương đồng loại đó chính là biểu hiện của tấm lòng nhân ái. Tinh yêu thương ấy không chỉ biểu hiện ở tấm lòng, lời nói mà còn những hành động cụ thể: Một tấm áo gửi đồng bào miền Trung lũ lụt, một hành động giúp đỡ người khác trong cơn hoạn nạn, một mùa hè xanh tình nguyện, một giọt máu cứu giúp người đang lâm trọng bệnh, một cái nắm tay, một ánh mắt đồng cảm sẻ chia, .Đó là những nghĩa cử bình thường mà cao đẹp của những tấm lòng nhân ái. Biểu hiện cao nhất của tấm lòng nhân ái chính là đức hi sinh. Những người chiến sĩ như Đặng Thùy Trâm sẵn sàng cống hiến tuổi xuân cho đất nước, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho mọ người. Những bà mẹ Việt Nam tảo tần lặng lẽ hi sinh cuộc đời vì chồng con, vì đất nước. Người sinh viên lao mình xuống dòng nước lũ cứu những em nhỏ, Họ đã quên cả bản thân mình vì người khác. Họ là những con người dũng cảm, những trái tim yêu thương. Lòng nhân ái đã trở thành nét đẹp truyền thống Việt Nam. Tinh thần “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” là đạo lí ngàn đời của dân tộc. Nhũng cái tết của người nghèo, những mái ấm tình thương, nối vòng tay lớn, chung một trái tim, đã làm ấm lòng những người con đất Việt. Những ngôi nhà được cất lên, những mái trường được dựng lại, bình yên trở về sau nhũng bão giông nở nụ cười trên môi những đứa trẻ tật nguyền bất hạnh, những con người lầm lạc tìm thấy niềm tin ở sự khoan dung của cộng đồng . Ngạn ngữ có câu: “Lòng nhân ái là vũ khí cao thương nhất để khắc phục kẻ thù”. Lòng nhân ái là sức mạnh bởi nó làm cho sức mạnh trở nên vô nghĩa. Đất nước ta đã tững đi qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, dấu ấn để lại trong những người lính không chỉ là tinh thần chiến đấu kiên cường mà còn là những con người Việt Nam nhân ái, bao dung. Lòng nhân ái không phải là những gì cao đạo, xa vời, càng không phải lòng thương hại, sự bố thí. Lòng nhân ái có thể là một tình yêu, một lòng tốt bình thường nhưng có sức mạnh lớn lao có thể làm biến cải con người. Một bát cháo xoàng xĩnh với tình yêu thương thô mộc của Thị Nở đã đánh thức lương tâm của Chí Phèo, kéo một con người trở về cuộc sống của người lương thiện. Kiệt tác của bác Bomen trong “Chiếc lá cuối cùng” của Ohenri được vẽ bằng trái tim yêu thương và lòng nhân aí cao cả đã có sức mạnh kì diệu cứu cô bé Gionxi nằm trên giường bệnh trong cơn tuyệt vọng. Lòng nhân ái có thể làm tăng cuộc sống tinh thần cuẩ con người, làm phong phú tâm hồn người cho đi. Đừng bao giờ nuối tiếc vì cho đi tình yêu chính là cách nhân lên tình yêu. Cho đi người ta sẽ nhân lại được rất nhiều. Nhân ái với mọi người ta thấy tâm hồn mình thật giàu có. “Lòng nhân ái mang một sức mạnh lớn lao làm cho cuộc sống nhân loại trở lên tốt lành”. Ngạn ngữ Nga đã từng nói như vậy bởi “Nơi lạnh giá nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình yêu”. Nếu không có tình yêu thương, cuộc sống sẽ trở thành địa ngục, Trái Đất sẽ trở thành nấm mồ lạnh giá và dẫu khi ấy trái tim ta chưa ngừng đập sống cũng chỉ là vô nghĩa. Nhà sư phạm người Nga XuKhôm Linxki đã nói: “Nếu những đứa trẻ dửng dưng với những điều đang xảy ra trong trái tim người bạn, bố mẹ hoặc bất cứ người đồng bào nào em gặp. Nếu những đứa trẻ không biết đọc trong ánh mắt người khác ,trong trái tim người đó sẽ không bao giờ trở thành con người chân chính”. Bài học làm người đầu tiên là bài học về lòng nhân ái, sự can đản, sẻ chia. Bạn ơi đừng bao giờ ngừng yêu thương. Đem yêu thương đong đầy cho tất cả, ta sẽ thấy vị ngọt mát cuộc đời

doc12 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8267 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục lòng nhân ái học sinh ở lứa tuổi THCS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỰ PHỐI HỢP GIỮA GIA ĐÌNH VÀ NHÀ TRƯỜNG TRONG VIỆC GD LÒNG NHÂN ÁI HỌC SINH Ở LỨA TUỔI THCS “Cái gốc của đạo đức,luân lí là lòng nhân ái” – (Lê Duẩn). LẬP Ý: I. Đặc vấn đề: Nhân ái: Yêu thương, can đảm, sẻ chia. Biểu hiện: Tình cảm, tấm lòng, lời nói, hành động. Cao nhất: Là đức hi sinh. Con người sinh ra có một đôi mắt để nhìn, đôi tai để nghe, một bộ óc để suy nghĩ….Và có một trái tim để yêu thương. Con người biết yêu thương quan tâm sẻ chia với mọi người là con người có lòng nhân ái Steve Godier đã khẳng định: “Lòng nhân ái là biểu hiện cao đẹp nhất của con người”. Nhân ái là cái gốc của đạo đức con người, là nền tảng của luân lí xã hội. Không có tình thương con người chỉ là một con vật. Nhà văn Nam Cao trong tác phẩm “Đời thừa” đã khẳng định: “Tình thương là lẽ sống, là tiêu chuẩn làm người lớn nhất. Một con người có lòng nhân ái là phải biết yêu thương, quan tâm, chăm sóc những người thân yêu nhất của mình”. Đó là cha mẹ người cho ta cuộc sống, cho ta được biết thở bầu không khí trong lành, cho ta dòng sữa ngọt ngào với tình thương không bao giờ vơi cạn. Đó là ông bà là anh em ruột thịt, là bạn bè, bà con lối xóm,…..Biết yêu thương mình, yêu thương những người thân yêu, yêu đồng bào chung một bọc, yêu thương đồng loại đó chính là biểu hiện của tấm lòng nhân ái. Tinh yêu thương ấy không chỉ biểu hiện ở tấm lòng, lời nói mà còn những hành động cụ thể: Một tấm áo gửi đồng bào miền Trung lũ lụt, một hành động giúp đỡ người khác trong cơn hoạn nạn, một mùa hè xanh tình nguyện, một giọt máu cứu giúp người đang lâm trọng bệnh, một cái nắm tay, một ánh mắt đồng cảm sẻ chia,….Đó là những nghĩa cử bình thường mà cao đẹp của những tấm lòng nhân ái. Biểu hiện cao nhất của tấm lòng nhân ái chính là đức hi sinh. Những người chiến sĩ như Đặng Thùy Trâm sẵn sàng cống hiến tuổi xuân cho đất nước, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho mọ người. Những bà mẹ Việt Nam tảo tần lặng lẽ hi sinh cuộc đời vì chồng con, vì đất nước. Người sinh viên lao mình xuống dòng nước lũ cứu những em nhỏ,…Họ đã quên cả bản thân mình vì người khác. Họ là những con người dũng cảm, những trái tim yêu thương. Lòng nhân ái đã trở thành nét đẹp truyền thống Việt Nam. Tinh thần “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” là đạo lí ngàn đời của dân tộc. Nhũng cái tết của người nghèo, những mái ấm tình thương, nối vòng tay lớn, chung một trái tim, đã làm ấm lòng những người con đất Việt. Những ngôi nhà được cất lên, những mái trường được dựng lại, bình yên trở về sau nhũng bão giông nở nụ cười trên môi những đứa trẻ tật nguyền bất hạnh, những con người lầm lạc tìm thấy niềm tin ở sự khoan dung của cộng đồng…. Ngạn ngữ có câu: “Lòng nhân ái là vũ khí cao thương nhất để khắc phục kẻ thù”. Lòng nhân ái là sức mạnh bởi nó làm cho sức mạnh trở nên vô nghĩa. Đất nước ta đã tững đi qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, dấu ấn để lại trong những người lính không chỉ là tinh thần chiến đấu kiên cường mà còn là những con người Việt Nam nhân ái, bao dung. Lòng nhân ái không phải là những gì cao đạo, xa vời, càng không phải lòng thương hại, sự bố thí. Lòng nhân ái có thể là một tình yêu, một lòng tốt bình thường nhưng có sức mạnh lớn lao có thể làm biến cải con người. Một bát cháo xoàng xĩnh với tình yêu thương thô mộc của Thị Nở đã đánh thức lương tâm của Chí Phèo, kéo một con người trở về cuộc sống của người lương thiện. Kiệt tác của bác Bomen trong “Chiếc lá cuối cùng” của Ohenri được vẽ bằng trái tim yêu thương và lòng nhân aí cao cả đã có sức mạnh kì diệu cứu cô bé Gionxi nằm trên giường bệnh trong cơn tuyệt vọng. Lòng nhân ái có thể làm tăng cuộc sống tinh thần cuẩ con người, làm phong phú tâm hồn người cho đi. Đừng bao giờ nuối tiếc vì cho đi tình yêu chính là cách nhân lên tình yêu. Cho đi người ta sẽ nhân lại được rất nhiều. Nhân ái với mọi người ta thấy tâm hồn mình thật giàu có. “Lòng nhân ái mang một sức mạnh lớn lao làm cho cuộc sống nhân loại trở lên tốt lành”. Ngạn ngữ Nga đã từng nói như vậy bởi “Nơi lạnh giá nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình yêu”. Nếu không có tình yêu thương, cuộc sống sẽ trở thành địa ngục, Trái Đất sẽ trở thành nấm mồ lạnh giá và dẫu khi ấy trái tim ta chưa ngừng đập sống cũng chỉ là vô nghĩa. Nhà sư phạm người Nga XuKhôm Linxki đã nói: “Nếu những đứa trẻ dửng dưng với những điều đang xảy ra trong trái tim người bạn, bố mẹ hoặc bất cứ người đồng bào nào em gặp. Nếu những đứa trẻ không biết đọc trong ánh mắt người khác ,trong trái tim người đó sẽ không bao giờ trở thành con người chân chính”. Bài học làm người đầu tiên là bài học về lòng nhân ái, sự can đản, sẻ chia. Bạn ơi đừng bao giờ ngừng yêu thương. Đem yêu thương đong đầy cho tất cả, ta sẽ thấy vị ngọt mát cuộc đời II./ Giải quyết vấn đề: 1.Cơ sở thực trạng của vấn đề: Đất nước ta đang trong giai đoạn đổi mới và không ngừng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của mỗi người dân ngày một được nâng cao. Tuy nhiên trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường năng động những mặt trái của nó như lối sống thực dụng, tôn sùng vật chất và đồng tiền hơn cả nghĩa tình… đang phá vỡ dần những mối quan hệ đẹp giàu lòng nhân ái trong xã hội chúng ta, làm xói mòn những chuẩn mực về đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Một số học sinh có biểu hiện lối sống ích kỉ chỉ thích hưởng thụ và đòi hỏi ở cha mẹ quá về tiền bạc vật chất… giảm sút tình nghĩa gia đình lòng hiếu thảo sự ham mê trong học tập, tình nghĩa thầy trò, tình bạn,….là điều khiến chúng ta lo lắng không khỏi bâng khuân. Vì vậy việc giáo dục đạo đức trong mỗi học sinh là một vấn đề cần thiết không chỉ trong nhà trường mà đối với toàn xã hội. Vai trò của GVCN, trước hết để giáo dục lòng nhân ái, tính tự học cho học sinh, bản thân mỗi nhà giáo phải là những người có lòng nhân ái biểu hiện ở tư cách của người thầy, ở sự tận tâm trong công việc chuyên môn và trong công tác chủ nhiệm lớp, ở tấm lòng độ lượng khoan dung và sự thông cảm sâu sắc với mỗi học sinh. Để giáo dục học sinh lòng nhân ái thì người thầy phải tỏ rõ năng lực chuyên môn của mình. Thầy không giỏi, không chịu rèn luyện chuyên môn thì khó có thể giáo dục học sinh trong và ngoài giờ học. Đây chính là uy tín của người thầy là cơ sở để giáo viên gần gũi, hiểu biết học sinh của mình. GVCN cần phải là người có đầu óc tổ chức cao, kết hợp tâm huyết với nghề, sẵn sàng hy sinh thời gian cần thiết để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng hoàn cảnh của học sinh. Hiểu rõ từng học sinh cảu mình thì giáo viên mới có phương pháp giáo dục đúng hướng và phù hợp. Mỗi học sinh là một mảnh đời riêng, một tâm hồn riêng nếu GVCN nhanh chóng nắm bắt được khoảng trời đó, hòa nhập với chúng thì rất dễ cảm hóa và hướng thiện học sinh của mình. GVCN cũng như một nhạc trưởng giỏi, phải biết huy động được lực lượng GD hỗ trợ. Đó là các tổ chức Đoàn, Đội, Đảng trong nhà trường, hội đồng giáo viên bộ môn, Hội cha mẹ học sinh, BGH, kể cả bộ phận phục vụ trong nhà trường như bảo vệ, lao công……… 2.Các biện pháp đã tiến hành : Theo tôi giáo dục lòng nhân ái cho học sinh là quá trình lâu dài và bền bỉ thường xuyên bởi môi trường học tập và hoạt động của học sinh không chỉ diễn ra trong nhà trường. 2.1 Bức tranh về các gia đình hiện nay. Về hoàn cảnh gia đình: Một thực tế phổ biến hiện nay là: Sự cách biệt giữa thế hệ cha mẹ và con cái dường như ngày càng rộng ra. Tuy phải chung sống trong một mái nhà song các thành viên trong gia đình có những xu hướng, sở thích và lối sống rất khác nhau. Giữa ông bà cha mẹ và con cháu trong gia đình không có sự hoà thuận cần thiết - không tìm được tiếng nói chung. thiếu thông cảm cho nhau dẫn đến khó chấp nhận nhau. Nhiều gia đình cha mẹ bị con cái coi như “đồ cổ” (“ông bô”, “bà già”) thậm chí bị con cái coi rẻ rúng, tất cả những giá trị mà ông bà cha mẹ để lại đều không có nghĩa lý gì. Cơ chế thị trường đã làm đảo lộn các giá trị và quan niệm về lối sống đạo đức, tình cảm ông bà, cha mẹ, con cái có thể được đưa ra để cân đo đong đếm ! Hầu hết trẻ em trong lứa tuổi học sinh THCS đều sinh ra sau chiến tranh, hưởng một cuộc sống vật chất khá đầy đủ, một đời sống văn hoá hết sức phong phú, khác và khác xa với cuộc sống của bố mẹ chúng nó trước đây: Đầu tắt mặt tối, một nắng hai sương, tần tảo lăn lộn vì cuộc sống thường nhật, vì sự tồn tại của cá nhân và gia đình. Trong khi lớp trẻ đang háo hức chạy theo những giá trị mới mẻ (cả tốt lẫn xấu) thì hầu hết các bậc cha mẹ không chuyển động kịp, họ vẫn bảo thủ mối quan hệ phong kiến giữa cha mẹ và con cái mà họ đã được nhập tâm từ ngàn đời. Sự “khập khiễng” này dẫn đến khoảng cách giữa con cái và cha mẹ ngày càng cách xa, khó gần gũi nhau. Nhiều gia đình suốt cả ngày cha mẹ con cái không hề thốt ra một lời, tình trạng như vậy thử hỏi bằng cách nào để cha mẹ giáo dục được con mình. Với nền kinh tế thị trường phát triển có nhiều mặt tốt làm cho con người sống năng động hơn, thực tế hơn và tất nhiên nó cũng mang lại một cuộc sống vật chất đầy đủ hơn. Chúng ta đã được tiếp cận với thế giới văn minh nhiều hơn, chất lượng cuộc sống về mọi mặt được nâng lên rõ rêt, nhưng mặt trái của nền kinh tế thị trường đã len lỏi vào các ngõ ngách của cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt, mặt tiêu cực của cơ chế thị trường tác động mạnh mẽ vào quan hệ gia đình và nền giáo dục mà đối tượng bị tác động không nhỏ chính là học sinh (nhất là lứa tuổi THCS). Tóm lại: Những tác động tiêu cực của xã hội đã kéo dài khoảng cách giữa bố mẹ và con cái, những bê bối trong nền nếp sinh hoạt gia đình cùng với những thay đổi khó hiểu của thế hệ trẻ ngày nay càng làm cho các bậc làm cha, làm mẹ càng trở nên lúng túng trong việc giáo dục con em mình. Trong khi những biện pháp giáo dục cũ theo kiểu giáo huấn, áp đặt một chiều không còn hiệu lực. Các bậc cha mẹ chưa tìm cho mình một phương pháp giáo dục mới. Nếu như chỉ đơn thuần giáo huấn áp đặt dội từ trên xuống dưới dễ bị bọn trẻ bỏ ngoài tai, chúng sống theo kiểu riêng của chúng đã làm cho nhiều bậc cha mẹ phải lo lắng điên đầu. Đó là chưa kể đến nhiều bậc làm cha, làm mẹ do không đủ kiến thức, không đủ biện pháp dạy dỗ con cái mà “chấp tay nhờ trời” dẫn đến bỏ mặc cho số phận. Thực tế, đã có những gia đình quá khắt khe đối với con mình “nhất cử nhất động” của chúng đều muốn được kiểm soát. Điều này e khó thực hiện khi lứa tuổi vị thành niên là lứa tuổi: Muốn vươn lên làm người lớn, muốn tự khẳng định mình và họ cũng không biết rằng do quá khắt khe, cứng rắn, thậm chí dùng bạo lực đã làm cho các em bị dồn nén, tổn thương, mất tự chủ mà nhanh chóng muốn thoát khỏi “gọng kìm” của bố mẹ đi tìm tự do ở bên ngoài. 2.2 Những biện pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục đạo đức học sinh ở lứa tuổi THCS. Về nhận thức và quan điểm, trước hết chúng ta thấy rằng: - Giáo dục đạo đức cho học sinh là một yêu cầu hết sức quan trọng (đặc biệt trong điều kiện hiện nay), nếu không đặt đúng vị trí công tác giáo dục đạo đức cho giới trẻ thì e rằng đó là một thảm hoạ cho tương lai. Như Bác Hồ muôn vàn kính yêu đã từng dạy: “Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có những con người XHCN”. - Mối quan hệ giữa đạo đức và văn hoá (đức và tài): Một hiện tượng như trở thành phổ biến trong cuộc sống là: Đại bộ phận những em học sinh học lực vào loại khá, giỏi thì thông thường đều là những em học sinh ngoan ngoãn, biết vâng lời cha mẹ, thầy cô, và cũng biết vâng lời người lớn, các em lại càng có ý thức tốt trong học tập, cố gắng hết mình để đạt được kết quả cao nhất. Ngược lại những em học sinh có học lực ở dưới mức trung bình (đặc biệt là những em học lực vào loại yếu kém)thì thông thường không ngoan, không biết vâng lời người lớn, thậm chí nghịch ngộ, vô lễ, có khi còn vi phạm pháp luật. Như vậy việc giáo dục đạo đức và cung cấp kiến thức về văn hoá cho học sinh có mối quan hệ hữu cơ, khăng khít gắn bó, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Việc giáo dục đạo đức cho học sinh không những đơn thuần nâng cao nhận thức về đạo đức cho các em mà trên cơ sở đó làm cho môi trường sống của chúng ta ngày càng lành mạnh hơn, xã hội ngày càng văn minh hơn. Cũng trên cơ sở đó các em có khả năng tiếp thu các tri thức khoa học một cách dễ dàng hơn, tâm hồn các em thoải mái, nhẹ nhàng hơn. Thực tế những năm đứng trên bục giảng, chúng tôi đã đề ra một số biện pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục đạo đức học sinh ở lứa tuổi THCS đó là: 2.2.1. Cần phải phân loại nhanh chóng và chính xác các loại học sinh trong lớp * Những gia đình thuận lợi về kinh tế và tinh thần Gia đình thuận hòa. Cha mẹ quan tâm đến việc học của con Gia đình bình dân, kinh tế tạm đủ và cuộc sống yên tâm * Những gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn Học sinh mồ côi cha mẹ Học sinh cha mẹ bỏ nhau Học sinh có cha mẹ tàn tật Học sinh có kinh tế quá khó khăn à Từ sự hiểu biết về học sinh và hoàn cảnh gia đình từng em, giáo viên có thể đề ra những biện pháp phù hợp để giáo dục học sinh. Chẳng hạn những học sinh ích kỷ, cá nhân, hay trêu chọc bạn…không hẳn là em có hoàn cảnh khó khăn, đến lớp để giải tỏa những ức chế về mặt tinh thần mà có khi lại là những học sinh có hoàn cảnh gia đình hết sức thuận lợi kinh tế khá giả được nuông chiều. Không ít những em trong số này hay “quậy phá” chỉ vì muốn tỏ ra là người có “bản lĩnh” “làm ra vẻ ta đây”,…song điều quan trọng của biện pháp này là giáo viên cần phải nắm được những nguyên nhân cơ bản làm cho học sinh trở thành “đặc biệt”. 2.2.2 Tổ chức ,tập thể lớp giúp các bạn yếu kém có hoàn cảnh gia đình khó khăn như: Phân công hoặc tự giác nhận “Đôi bạn cùng tiến” Tổ chức quyên góp học cụ , quần áo , thậm chí cả tiền bạc để giúp bạn khó khăn. Đặc biệt lưu ý phân tích cho học sinh biết việc quyên góp giúp đỡ bạn bè mang một ý nghĩa nhân bản, nhân văn sâu sắc. 2.2.3.Cải tiến giờ sinh hoạt lớp sao cho sinh động và có hiệu quả. Thông thường giờ sinh hoạt lớp,GV chỉ sơ kết ưu nhược điểm trong tuần,thậm chí có khi “mắng mỏ” HS vô kỉ luật.Cách làm này “ lợi bất cập hại” bởi sẽ gây trong HS tâm thế sợ hãi, đối phó mất đi sự đồng cảm, thân ái giữa thầy và trò. Gv nên thay đổi hình thức SHL tùy theo từng thời điểm nhưng cốt lỏi là phát huy được tính tự quản của HS ( GV kể những chuyện nhẹ nhàng, dí dỏm liên quan đến đề tài Giáo Dục Đạo Đức để HS dể nhớ ). Gv cũng có thể giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ lớp tự vạch ra một nội dung cho một giờ SHL cụ thể. Gv chỉ là người theo dõi , hướng dẫn khi cần thiết…. . trong tiết sinh hoạt lớp đặc biệt vào đầu năm học GV nên để cho các tổ và cá nhân tự giới thiệu về gia đình và bản thân để các em có thể hiểu rỏ về hoàn cảnh của bạn mình. 2.2.4.Giờ sinh hoạt đầu tuần ( giờ chào cờ) không chỉ là giờ thầy trò nhận xét về kết quả thi đua trong một tuần mà còn la cơ hội tốt cho chúng ta GD đạo đức của HS.Chào cờ là chào lá quốc kỳ ,không những là chúng ta đang chào tổ quốc mà hơn thế đứng trước lá quốc kỳ chúng ta đang đặt danh dự ,trách nhiệm của mình trước tổ quốc.Trong nhà trường tiết chào cờ đầu tuần là sự thể hiện kính cẩn của HS đối với công lao của những người đi trước đã bảo vệ và gìn giữ nền độc lập của dân tộc. Song thực tế tiết chào cờ chúng vẫn thấy còn có những em HS vi phạm từ xô đẩy, chen lấn, xếp hàng không ngay ngắn , rồi đến không thuộc bài, không mặc đồng phục…..thậm chí có những HS quay ngang, dọc trong giờ chào cờ. Có những HS bị nhà trường vì ý thức kém trong buổi lể chào cờ.Đó là những việc làm đúng đắn và kịp thời của người thầy nghiêm túc và mẫu mực.Hàng tuần chúng chào lá quốc kỳ chúng ta phải thể hiện được thái độ nghiêm trang ,niềm trân trọng của thế hệ sau đối với thế hệ trước,đối với đất nước. Bởi vậy trong nhà trường cần phải chú ý giáo dục cho HS nhận thức sâu sắc về ý của giờ chào cờ.Trách nhiệm này là của toàn xã hội song trực tiếp vẫn là người GV đặc biệt là Gv dạy môn GDCD và GVCN để mỗi buổi chào cờ diễn ra trong không khí thật sự nghiêm trang với các em HS. Đó cũng là bài học đầu tiên về trách nhiệm ,sứ mệnh danh dự của một người công dân đối với đất nước .Để mai này bước vào đời, lá cờ tổ quốc mãi mãi thắm tươi luôn đồng hành cùng các em trên con đường phấn đấu, xây dựng bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam thiêng liêng. Phát huy vai trò của tổ chức đoàn đội trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Với phương châm “Đội là linh hồn của chất lượng - chất lượng toàn diện”, tổ chức Đoàn, Đội là chỗ dựa vững chắc của nhà trường để đưa các hoạt động các sinh hoạt giáo dục vào nền nếp. Các giáo viên chủ nhiệm (vừa là các huynh trưởng) có nhiệm vụ cố vấn cho các em giúp các em làm quen với những công việc của người lớn. Thường xuyên coi trọng các hình thức hoạt động ngoài giờ lên lớp (những buổi đầu có thể do đồng chí Tổng đội cùng với các huynh trưởng phụ trách, sau đó tập cho ban chỉ huy liên đội chủ trì). Phải biết tôn trọng ban chỉ huy liên đội, chi đội bồi dưỡng các em công tác, hướng dẫn các em lập kế hoạch, thống nhất nhận xét đội viên. Riêng đối với các phân đội lớp 9, giáo viên chủ nhiệm lớp lại càng phải có trách nhiệm nặng nề hơn, phải gần gũi các em hơn, phải chú ý bồi dưỡng lí tưởng trở thành người đoàn viên thanh niên cộng sản cho các em, phải biết hướng cho các em xây dựng tình cảm bạn bè trong sáng (chú ý sự phát triển tình cảm sau tình bạn cho các em). Đoàn - Đội phải tổ chức tốt việc thi đua khen thưởng, nêu gương người tốt, việc tốt trong địa phương ở nhà trường. Thời gian qua với cách làm nhẹ nhàng mà có tác dụng to lớn đối với sự phấn đấu của mọi thành viên trong nhà trường. Buổi chào cờ đầu tuần nào phút hồi hộp nhất cũng là khi Ban chỉ huy liên đội lên công bố kết quả thi đua trong tuần. Chi đội nào xuất sắc nhất được nhận một phần quà . Hoạt động Đoàn Đội trong nhà trường có vai trò hết sức to lớn trong việc góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh. Nó lại càng có ý nghĩa to lớn hơn khi biết tổ chức hoạt động một cách phong phú linh hoạt, cần chú ý lấy các hình thức vui chơi, giải trí, lấy sinh hoạt văn nghệ, thể dục thể thao để thi đua giữa các lớp, để tâm hồn các em được hồn nhiên hơn, trong sáng hơn để lấn át đi những thói hư tật xấu đang rình rập các em. 2.2.5.GVCN cần có sự quan hệ mật thiết với cha mẹ HS: Từ góc độ cá nhân mà nhiều người đã xem gia đình là tiểu xã hội. Trong các cá thể sinh ra và lớn lên cho đến khi tách ra thành một tiểu xã hội riêng cho mình. Đơn vị nhỏ nhất của xã hội này chứa đựng đầy đủ các mối quan hệ của xã hội vi mô. Song có điều các quan hệ ấy bị chi phối bởi một yếu tố đặc thù đó là quan hệ hôn nhân và huyết thống. Cho nên con người từ khi lọt lòng đến khi trưởng thành luôn có tất cả các mối quan hệ xã hội nhưng đã bị khúc xạ bởi quan hệ gia đình thông qua hoạt động thực tiễn hàng ngày của cha mẹ dưới rất nhiều dạng khác nhau. Vai trò của gia đình - tế bào của xã hội là vai trò quan trọng và cấp thiết trong việc cứu vãn lớp trẻ. Có một gia đình hạnh phúc với mọi thành viên đều quan tâm vun đắp, có một gia đình với sự răn dạy đúng mức với những tấm gương tốt học được từ cha mẹ có thể xoá lấp đi những khoảng trống dễ bị cái xấu xâm nhập vào tâm hồn lớp trẻ. Gia đình là nền tảng văn hoá vững chắc. Gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Sự giáo dục riêng của từng gia đình tạo cho con em mình những chuẩn mực về nhận thức và hành vi trong cuộc sống. Nếu nền nếp gia đình bị coi thường, bị sa sút thiếu sự chăm lo là nguyên nhân dẫn đến những hậu quả đau lòng. Sự quan tâm của gia đình, nhân cách tốt của bố mẹ trong mắt lớp trẻ là vô cùng quan trọng. Chỉ cần cha mẹ sống lành mạnh, lương thiện, mẫu mực, nhân hậu, yêu thương, có trách nhiệm duy trì và bảo vệ những truyền thống tốt đẹp của gia đình, chấp nhận những cái mới lành mạnh của thời đại chắc chắn sẽ tạo được niềm tin cho con cái. Đó chính là biện pháp tốt nhất trong giáo dục. Một gia đình ấm êm hạnh phúc, chắc chắn là liều thuốc có sức đề kháng mạnh nhất với những ảnh hưởng xấu ngoài xã hội, cứu được các em sớm thoát khỏi vòng tội lỗi. Thực tế hiện nay, ở địa phương trường đóng như phần đầu đã trình bày do nhận thức không đúng hoặc lúng túng trong biện pháp giáo dục mà không biết gia đình đã phó mặc, khoán trắng việc giáo dục con cái cho nhà trường và xã hội. Có ai hiểu hơn bố mẹ đối với những đứa con thân yêu của mình, bố mẹ nào mà không thương con cái, chỉ tội chưa hiểu hoặc hiểu chưa thấu đáo nên đành “trăm sự nhờ thầy cô” mà thôi.Trước tình hình đó, một trong những biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm của gia đình đối với con cái mà chúng tôi đã tiến hành có hiệu quả tốt là tổ chức các cuộc họp phụ huynh trong năm. * Họp phụ huynh lần thứ nhất vào đầu năm học (cuộc họp lần này chủ yếu do Hiệu trưởng chủ trì và chịu trách nhiệm về nội dung). Ngoài việc thông qua với toàn thể các bậc cha mẹ học sinh về những đặc điểm cơ bản của trường trong năm học, những chỉ tiêu lớn và các biện pháp để thực hiện, thì điều không thể thiếu là nhà trường đặt vấn đề rất cao về vai trò, trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục con cái (đặc biệt về mặt đạo đức) thông qua nội quy đối với học sinh của nhà trường và gia đình. Đồng thời thống nhất một số quan điểm để thực hiện sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình. Phần thời gian còn lại trong cuộc họp phụ huynh đầu năm do đ/c GVCN lớp điều hành (GVCN lớp làm quen với phụ huynh, thông báo các thầy cô giáo dạy bộ môn của lớp và tất nhiên thực hiện một số nội dung của lớp). * Họp phụ huynh học sinh lần thứ hai sau khi đã hoàn thành sơ kết học kì I (lần này do GVCN lớp điều hành, tất nhiên trước đó Hiệu trưởng có hội ýhọp toàn thể GVCN các lớp nhằm thống nhất những nội dung cần thiết sẽ triển khai trong cuộc họp). Những vấn đề mà tất cả GVCN các lớp cần đạt đó là: Ngoài việc thông báo về kết quả học tập tu dưỡng của từng em trong học kì I thì một việc hết sức quan trọng là biểu dương những em đạt kết quả cao về mọi mặt. Đồng thời trao đổi cụ thể với từng phụ huynh về đạo đức của từng học sinh (chú ý những em còn có vấn đề về đạo đức), những chuyển biến về mặt đạo đức của từng em trong học kì vừa qua. * Họp phụ huynh lần thứ ba (thường tổ chức vào những ngày cuối của năm học). Cuộc họp phụ huynh lần cuối này phần nội dung cơ bản như cuộc họp lần thứ hai. Tuy nhiên GVCN các lớp không quên nhắc nhở thêm những em học sinh còn chưa thật tiến bộ về mặt đạo đức, yêu cầu các bậc phụ huynh quan tâm hơn (đặc biệt lưu ý quản lý các em trong thời gian hè). Trường hợp phụ huynh có học sinh cá biệt, ngoài tham dự những cuộc họp mà nhà trường đã quy định, họ còn “được” nhà trường mời đến gặp riêng (thông thường đ/c Hiệu trưởng chịu trách nhiệm do sự đề xuất của GVCN) và tất nhiên có những bậc phụ huynh “được” dự 5 - 6 cuộc họp trong năm. Bên cạnh việc tổ chức chu đáo, có chất lượng các kì họp phụ huynh trong năm, nhà trường còn sử dụng có hiệu quả “Sổ liên lạc học sinh”. Kinh nghiệm cho thấy: Nếu quản lí không chặt chẽ thì “Sổ liên lạc học sinh” không mấy hiệu quả có khi còn phản giáo dục nữa. Ngoài những nội dung ghi chép định kì, thông báo định kì theo quy định của sổ, đối với những em học sinh “có vấn đề” về các mặt (đặc biệt về mặt đạo đức) đều được GVCN lớp trao đổi kịp thời với gia đình thông qua sổ. Đồng thời nhà trường yêu cầu cha mẹ học sinh thông qua “Sổ liên lạc học sinh” có sự phản hồi bằng cách bố mẹ (hoặc những người có trách nhiệm trong gia đình) trực tiếp ghi, trực tiếp mang đến gặp GVCN. Làm như vậy thời kì đầu nhiều người cho rằng: nhà trường quá gây khó khăn. Song sau một vài lần được gặp gỡ trao đổi cụ thể với GVCN lớp (mà thông qua sổ không thể diễn đạt hết). Các bậc phụ huynh đều rất hài lòng, họ đồng tình về cách làm việc của nhà trường, về tinh thần trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm. Trong thời gian qua do tổ chức tốt các cuộc họp phụ huynh của mỗi năm học, sử dụng có hiệu quả “Sổ liên lạc học sinh” mà mối quan hệ giữa phụ huynh học sinh với nhà trường, với giáo viên ngày càng gắn bó. Điều làm chúng tôi vô cùng phấn khởi là hiện tượng “phụ huynh cá biệt” của trường thực sự đã không còn. Hơn thế nữa những người làm cha, làm mẹ dần dần đã nhận ra vai trò trách nhiệm của mình trong việc giáo dục con cái, họ sẵn sàng cùng với nhà trường phối hợp để vì một mục đích chung: Sự trưởng thành về mọi mặt của con em mình. 2.2.6 Sự kết hợp chặt chẻ giữa GVCN với hội bộ môn và các GV bộ môn để có thông tin đầy đủ và chính xác hơn về HS của mình. Điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho GVCN và ngược lại thông qua GVBM, GVCN cũng có thể trao đổi ý kiến về việc giúp đỡ, rèn luyện những HS còn yếu kém. Tôi xin đưa ra VD: “Ổn định lớp” chỉ cần 3 phút thôi nhưng nó mang tính GD rất cao,nhất là về việc GD nhân cách cho hs. Trước tiên là GD cho HS tính kỷ luật, tính quan tâm lẫn nhau ( qua việc điểm danh) ,thứ đến trước khi vào bài dạy thầy giáo phải nhìn bao quát lớp xem lớp, bảng đen có sạch sẻ hay không?Bàn ghế thầy cô giáo như thế nào?Nếu tốt thì không có vấn đề gì, thầy trò tiếp tục đi vào bài học,còn nếu không tốt thì thầy giáo bỏ ra 2, 3 phút nhắn nhở Hs. Chính vì quan niệm chưa đúng ở mục này nên trong thực tế một số thầy cô giáo khi vào chỉ có truyền thụ kiến thức bài học cho xong,còn HS vắng,đủ, rồi lớp học, bảng đen thế nào cũng được. Một điều phải khẳng định: Nhà trường là môi trường giáo dục tốt nhất, có đủ điều kiện nhất trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục. Nhà trường là nơi để lại dấu ấn đậm nét nhất trong mỗi cuộc đời của chúng ta. Ai mà chẳng trải qua những năm tháng cắp sách tới trường, kỉ niệm về trường lớp, bạn bè, thầy cô chắc chắn là những kỉ niệm đẹp nhất theo suốt cả cuộc đời họ. Xuất phát từ đó, mà trong thời gian qua, chúng tôi đã hết sức chú ý đến việc xây dựng tập thể sư phạm của trường thành tập thể sư phạm kiểu mẫu, mỗi thầy cô giáo thực sự là tấm gương sáng, là niềm tin và là chuẩn mực về đạo đức cho học sinh. Mọi hành vi cử chỉ của thầy cô giáo phải có tác dụng giáo dục và sức thuyết phục đối với các em. Mọi thành viên trong nhà trường phải thường xuyên có ý thức giáo dục đạo đức cho học sinh bằng chính tấm gương của bản thân mình. 3, Những kết quả đã đạt được. Một điều phải nói là trường chúng ta, ở vùng sâu ,xa của Huyện, có bề dày lịch sử, đặc biệt là truyền thống tôn sư trọng đạo. Bởi vậy, so với các trường trong huyện, chúng tôi có những thuận lợi hơn. Đó là thường xuyên nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành, của các tổ chức đoàn thể, trình độ dân trí ở khu vực trường đóng có thể hơn nhiều địa phương khác trong huyện. Đứng trước thực tế như vậy, trong thời gian qua Ban giám hiệu trường đã coi việc giáo dục đạo đức cho học sinh là mục tiêu số một, mục tiêu then chốt. Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, giữ vững trật tự trong nhà trường là việc làm hết sức quan trọng, cần thiết. Tỉ lệ học sinh xếp hạnh kiểm loại khá, tốt chiếm trên 90%, không có học sinh xếp hạnh kiểm kém. Bên cạnh kết quả về mặt giáo dục đạo đức mà chúng tôi đã đạt được, chất lượng văn hoá cũng từ đó được nâng lên. Cụ thể: - Năm học 2008 - 2009 có 05 em học sinh giỏi tỉnh và 08 em là học sinh giỏi huyện. - Năm học 2009 - 2010 có 05 em là học sinh giỏi tỉnh và 12 em là học sinh giỏi huyện. - Đội ngũ học sinh giỏi của trường được xếp thứ 2 của toàn huyện. - Các tổ chức trong trường đều đạt chỉ tiêu thi đua đã đề ra từ đầu năm: Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh - Công đoàn đạt vững mạnh xuất sắc (đạt 99/100 điểm). Đoàn Đội đạt xuất sắc. Trường được UBND tỉnh cấp bằng công nhận “Trường chuẩn Quốc Gia” III. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ. 1. Bài học kinh nghiệm: Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm như sau: Muốn cho học sinh làm một việc gì đó thì người giáo viên phải tạo cho các em ham muốn làm việc đó, cho các em thấy được lợi ích của nó. Luôn tôn trọng học sinh, nhất là ở nơi đông người. Luôn đặt lợi ích của học sinh làm đầu, xem các em là trung tâm của mọi vấn đề trong lớp học. Từng bước rèn luyện cho các em năng lực tự quản, tự giải quyết các vấn đề. Từ đó học sinh sẽ cảm nhận được vai trò làm chủ của mình. Người GVCN tuy cho lớp tự quản nhưng phải luôn luôn đồng hành cùng các em, nhanh chóng nắm bắt tình hình lớp để giải quyết những vấn đề vượt khỏi phạm vi của các em. Việc đồng hành cùng các em cũng làm cho học sinh cảm thấy an tâm vì thầy cô luôn ở bên – các em sẽ tự tin hơn trong mọi hoạt động… Chúng ta không nên áp dụng dập khuôn máy móc bấc kỳ một phương pháp giáo dục nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là “con người”. Để đạt được mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát thích hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng HS,… Sau một thời gian thực hiện và áp dụng SKKN này tôi nhận thấy một vấn đề cần phải nghiên cứu, đó là: “Vai trò giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh cuối cấp”. Sự thành công trong công tác chủ nhiệm lớp, một nhân tố quan trọng mà chúng ta nên thận trọng cân nhắc khi quyết định lựa chọn, đó chính là “lớp truởng”. Muốn làm tốt được những điều trên đòi hỏi người GVCN lớp phải là người có uy tín, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ, dám làm đi trước, đề xuất được các vấn đề giá trị, tập hợp được sức mạnh tổng hợp, vai trò con chim đầu đàn là yếu tố có phần lớn lao, tạo nên sự thành công hay thất bại ở mỗi HS, mỗi lớp học, mỗi trường học… Từ những suy nghĩ trên tôi xin mạnh dạn đưa ra ý kiến chủ quan của mình về tiêu chí cơ bản của người thầy trong giai đoạn hiện nay. 1.Là nhà sư phạm giỏi. ( GD, giáo dưỡng) 2.Là nhà quản lý tốt. 3. Có tổ chất của nhà khoa học với kiến thức sâu rộng. 4.Là cha mẹ , anh chị, thậm chí có thể là bạn HS. 5.Có lối sống lành mạnh. 6.Công minh, bình đẳng trong cách cư sử với HS.( không tiếc lời khen, hạn chế lời chê trách ) 7. Biết lắng nghe và thấu hiểu HS( cổ vũ, động viên kịp thời, không áp đặt ). 8. Tránh mọi mệnh lệnh cứng nhắc , ngôn ngữ thô ráp. 9. là tấm gương sáng, đồng thời biết tạo thêm nhiều tấm gương trong HS. Nếu hội đủ tiêu chuẩn trên , công việc của người thầy quả là đơn giản. 2.Kiến nghị (đối với nhà trường): Thành lập tổ chủ nhiệm trong trường, thông qua đó các GVCN có thể trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của nhau để giúp nhau làm tốt hơn nữa công tác chủ nhiệm. Tạo điều kiện để mọi giáo viên đều được làm công tác chủ nhiệm. Chỉ khi không hoàn thành nhiệm vụ mới bãi nhiệm và giao lớp đó cho giáo viên khác. 3. Lời kết: Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đã học hỏi, đúc rút và thực hiện trong quá trình làm công tác chủ nhiệm. Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của BGH nhà trường, của các đồng chí tổ trưởng, các đồng chí đồng nghiệp giàu kinh nghiệm để giúp hoàn thành tốt công việc được giao và thành công trong sự nghiệp trồng người của mình. Thông tin về các văn bản Ngày 27-9 1999 Bộ GDĐT đã có thông tư số 36-1999-TT-BGGĐT hướng dẫn hướng dẫn tuần làm việc 40 giờ đối với ngành GDĐT. Đối với GDTH thông tư quy định: Từ ngày 02-10-1999 trở đi các trường tiểu học tổ chức dạy và học từ thứ hai đến thứ sáu nghỉ thứ bảy và chủ nhật. Học tập trực tuyến thông qua hai mạng: Web http:// hocmai.infogate.vn Web Thông qua hai mạng này,người học có thể đăng ký học cá bài giảng điện tử,làm các bài thi , bài kiểm tra trắc nghiệm theo chương trình giáo dục dành cho cấp học THPT, THCS, luyện thi tốt nghiệp THPT… Nghệ thuật Đông Sơn. Văn hóa đông sơn được phát hiện lần đầu tiên 1924 ở bên bờ sông Mã Thanh Hóa. Từ đó đến nay , văn hóa Đông Sơn đã được nghiên cứu và khai quật nhiều lần, chủ tập trung ở ba dòng sông lớn ở miền Bắc đó là sông Hồng, trung tâm sông Mã và trung tâm sông Cả. Phim “Đừng Đốt” Câu chuyện về bác sỹ Đặng Thùy Trâm, qua ngôn ngữ điện ảnh thông qua bộ phim ‘Đừng đốt”. biên kịch và đạo diễn NSND Đặng Nhật Minh. “Đừng đốt trong đó có lửa”-câu nói của người bên kia chiến tuyến đã trở thành chìa khóa cho những trang viết có số phận kỳ lạ của người liệt sỹ 27 tuổi. Bộ phim có độ dài 120 phút với phần âm nhạc tuyệt vời của nhạc sỹ người Hungary, Benedicfi Zoltan và Benedicfi Istvan. Bộ phim do nhà nước đặt hàng, khinh phí thưc hiện khoảng 10 tỷ đồng. Ekip thực hiện gồm: Giám đốc sản xuất-nhà văn: Nguyễn Thị Hồng Ngát. Tổ chức sản xuất:Tất Bình; quay phim Richard Connor( Mỹ). Bộ phim có tới 7 diễn viên người Mỹ và nữ diễn viên chính trong vai bác sỹ Đặng Thùy Trâm là Minh Hương. Bộ phim đã tái hiện chân thực nhưng rất lãnh mạng những khát vọng tuổi trẻ, ý chí kiên cường và cả những lo lắng bình dị nhất của người bác sỹ đã ngã xuống cho tổ quốc.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc gd lòng nhân ái học sinh ở lứa tuổi thcs.doc