Sự phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền

Thạc sỹ quản lý hành chính công: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Thể chế chính trị ở nước ta là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây là cơ chế chung trong quản lý xã hội. Trong đó, “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân ”[1]. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, qua đó nhằm nâng cao hơn nữa công tác chính trị, tư tưởng, lấy tuyên truyền, thuyết phục, vận động làm phương thức quan trọng để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và xã hội. Mặt trận Tổ quốc là ngôi nhà chung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài; Mặt trận tuyên truyền sâu rộng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, về các hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể để cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức đầy đủ về tinh thần và nhiệm vụ của đất nước, tạo sự đồng thuận xã hội, đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu do Đảng đề ra. Quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền là quan hệ hợp tác, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ chung của đất nước. Theo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong suốt chiều dài lịch sử, cho đến giai đoạn hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn là một tổ chức không thể thiếu trong sự nghiệp cách mạng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, là cầu nối bền chặt giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, luôn song hành cùng nhà nước hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của Đảng. Sự phối hợp giữa Nhà nước và MTTQ Việt Nam trong công tác vận động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền đã được xác định trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy Nhà nước hiện nay là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế, vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung và việc phối hợp với Nhà nước trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền nói riêng chưa được đánh giá đúng và đầy đủ, từ đó dẫn đến những hạn chế trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt khác, với tình hình quốc tế và trong nước hiện nay, trong chiến lược tăng cường phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước Việt Nam thực sự của dân, do dân, vì dân, việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền đang trở thành nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Do vậy, tôi chọn đề tài “Sự phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền” làm luận văn thạc sĩ khoa học Hành chính công để khẳng định sự phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền là một công tác rất quan trọng của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TÁC PHỐI HỢP GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG VIỆC VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN 6 1.1. Cơ sở lý luận 6 1.1.1 Khái niệm, chức năng, đặc trưng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác phối hợp với Nhà nước vận động nhân dân xây dựng chính quyền 6 1.1.2 Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 11 1.1.3 Mối quan hệ phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 17 1.2. Cơ sở pháp lý 22 1.2.1 Các văn bản pháp luật quy định công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền 22 1.2.2 Những nội dung cơ bản của công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền 25 Chương 2. THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC PHỐI HỢP GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG VIỆC VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN 34 2.1. Những hoạt động chủ yếu về công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền 34 2.1.1 Phối hợp vận động nhân dân tham gia công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp 34 2.1.2 Phối hợp vận động nhân dân tham gia giám sát thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở 45 2.1.3 Phối hợp vận động nhân dân tham gia xây dựng pháp luật; phối hợp tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân 63 2.1.4 Phối hợp vận động nhân dân tham gia hoạt động tố tụng, tuyển chọn thẩm phán, giới thiệu Hội thẩm nhân dân 71 2.2. Những tồn tại, hạn chế trong công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền; nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 76 2.2.1 Những tồn tại, hạn chế 76 2.2.2 Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 82 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG SỰ PHỐI HỢP GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG VIỆC VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN 85 3.1. Bối cảnh quốc tế, bối cảnh trong nước và tâm trạng các tầng lớp nhân dân 85 3.2. Một số quan điểm và phương hướng của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm tăng cường công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền 91 3.3. Một số giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền. 94 3.3.1 Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị, cụ thể hoá vai trò nhân dân xây dựng chính quyền nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh 94 3.3.2 Tăng cường bổ sung và thực hiện quy chế phối hợp công tác giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Chính Phủ, Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban Nhân dân; Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong mối quan hệ phối hợp hoạt động với bộ máy chính quyền các cấp 94 3.3.3 Xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 100 3.3.4 Những đề nghị đối với bản thân hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 101 KẾT LUẬN 106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107

doc115 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9016 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) bước vào thời kỳ hợp tác mới theo Hiến chương ASEAN và xây dựng Cộng đồng dựa trên ba trụ cột: chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội; hợp tác với các đối tác tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu. ASEAN đang ngày càng khẳng định vai trò trung tâm trong một cấu trúc khu vực đang định hình nhưng cũng phải đối phó với những thách thức mới. - Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động và đang hình thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn. Tuy vậy, vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, nhất là tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, tài nguyên... - Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp. - Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. - Sau khủng hoảng tài chính- kinh tế toàn cầu, thế giới sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới. Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế nêu trên tạo cho nước ta vị thế mới với những thuận lợi và cơ hội to lớn cùng những khó khăn và thách thức gay gắt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trước bối cảnh đất nước và bối cảnh quốc tế đặt ra cho đất nước ta những thời cơ, thuận lợi cũng như khó khăn thách thức mới, đó là vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển về kinh tế thị trường, sự bùng nổ về khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin ngày càng hiện đại, sự đòi hỏi về dân chủ của người dân ngày càng cao hơn… đòi hỏi Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc ngày càng phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong việc phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước. Từ khi cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đi vào cuộc sống, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xoá đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện với tốc độ còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống nhất. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai còn nhiều vướng mắc. Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà nước chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước, nhất là khi tiến hành cổ phần hoá. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn bị phân biệt đối xử. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường hình thành, phát triển chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt. Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu thuế còn nhiều, chậm được khắc phục. Phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Chính sách tiền lương còn mang tính bình quân, chưa bảo đảm đời sống của người hưởng lương, chưa khuyến khích, thu hút và sử dụng được người tài. Hệ thống thuế chưa thực hiện tốt chức năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy đầu tư, đổi mới công nghệ, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý còn thấp. Cải cách hành chính chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí vẫn nghiêm trọng. Cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội đổi mới chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo còn thấp. Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng ngày càng lớn. Hệ thống an sinh xã hội còn sơ khai. Tỉ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội thấp. Nhiều vấn đề bất cập, bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt… Những hạn chế trên có nguyên nhân do việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế. Công tác lý luận chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển; sự chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư còn cao. Năng lực thể chế hoá và quản lý, tổ chức thực hiện của Nhà nước còn hạn chế, nhất là trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. Vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát thực hiện chính sách của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp còn yếu. Cơ chế thị trường vừa là yếu tố của môi trường kinh tế tác động tới cuộc sống của con người trong mọi tầng lớp nhân dân, lại vừa là thực thể được hình thành do chính hoạt động của con người. Việc phát triển cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay là theo định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó vấn đề lao động và chính sách xã hội phải trở thành vấn đề quan trọng đối với công tác quần chúng. Hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, vì thế quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ tác động, ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống của các tầng lớp nhân dân. Cơ chế thị trường và quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá làm cho sự biến đổi cơ cấu xã hội – dân cư, sự thay đổi trong đời sống nhân dân và tâm lý xã hội nói chung. Càng ngày, nước ta càng mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hoà bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ… Những bước đi mới để hội nhập với cộng đồng quốc tế vừa tạo thuận lợi, vừa đặt ra những khó khăn mới. Một mặt, công tác quần chúng có được tiếp nhận những xu thế tiến bộ, cách làm hay sự hỗ trợ và cổ vũ về tinh thần và vật chất từ cộng đồng thế giới. Mặt khác, thông tin từ nhiều luồng, nhiều chiều cũng đưa lại những tác động tiêu cực. Các thế lực thù địch âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ quan hệ giữa dân với Đảng, ngăn cản chúng ta thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Sự phát triển như vũ bão của nền khoa học kỹ thuật cũng như công nghệ thông tin là một dấu hiệu đáng mừng đối với đất nước ta. Thông qua đó, nhân dân đã có cơ hội làm chủ về khoa học công nghệ, làm chủ về thông tin trong nước cũng như trên toàn thế giới. Khoa học - kỹ thuật, công nghệ thông tin và văn hoá dân tộc phát triển tác động sâu rộng trong mọi lĩnh vực của đời sống trong xã hội, làm cho dân trí cao hơn, nhu cầu của người dân trong sản xuất kinh doanh, trong đời sống, trong hưởng thụ vật chất và tinh thần phong phú hơn, đa dạng hơn, văn minh hơn, từ đó sự chuyển biến trong tâm lý xã hội và con người cũng phát triển khác trước. Đặc biệt, trong thập niên tới, hoà bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc, khó lường: Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế; Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức; Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có quan hệ ảnh hưởng nhiều với nước ta, có nhiều thay đổi; Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực. Ở trong nước: Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2010) đã tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Năm năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" có những diễn biến phức tạp. Do vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để đáp ứng được nhu cầu làm chủ thông tin của người dân? Tất cả bối cảnh trong nước và trên thế giới đều ảnh hưởng trực tiếp đến tâm trạng của nhân dân, đặt ra yêu cầu ngày càng cao trong vấn đề giữ vững hoà bình, độc lập dân tộc, ổn định kinh tế - chính trị, quốc phòng an ninh, tạo lòng tin cho nhân dân. Để làm được điều đó, Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đặc biệt chú trọng đến việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền, để người dân thực sự làm chủ vận mệnh đất nước. Người dân phải có quyền tham gia và quyết định tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước, có quyền giám sát hoạt động của Đảng và Nhà nước. Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI cũng đã nêu rõ: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”; “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”… Yêu cầu đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có quan hệ chặt chẽ với yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện dân chủ, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền dân chủ của dân là điểm quy tụ các chính sách, biện pháp xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. 3.2. Một số quan điểm và phương hướng của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm tăng cường công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền Trong điều kiện chỉ có duy nhất một Đảng Cộng sản lãnh đạo, cầm quyền, để bảo đảm và phát huy chế độ dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, Đảng cần lãnh đạo để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đảng xác định: động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa nông dân và tri thức, kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của toàn xã hội. Đoàn kết bao giờ cũng đi liền với dân chủ. Để có dân chủ thực sự, Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị phải thực sự vì dân, gắn bó với dân, đề ra và quyết định các chính sách, chủ trương xuất phát từ nguyện vọng và trí tuệ của dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của dân, chịu sự giám sát và kiểm tra thường xuyên của dân, tạo điều kiện thiết thực cho dân, phát huy quyền làm chủ của dân, thì mới huy động được sức mạnh vật chất và tinh thần của dân, của dân tộc để xây dựng và phát triển đất nước, phát triển xã hội. Chỉ có dân chủ thực sự mới có thể đoàn kết được nhân dân, từ đó đồng thuận xã hội ngày mới được củng cố và nâng cao. Cũng trong điều kiện ấy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không chỉ động viên tinh thần yêu nước, nhiệt tình lao động của toàn dân cho công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, không chỉ đơn thuần là Mặt trận hiệu triệu, động viên nhân dân, tổ chức các phong trào mặt trận mà phải thể hiện được vai trò và tính chất liên minh rộng rãi nhất đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Có nghĩa là Mặt trận phải thể hiện được vai trò tham chính và phản biện xã hội, nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo và điều hành đất nước tránh những sai lầm, khuyết điểm do tệ quan liêu, chủ quan duy ý chí gây nên. Là tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các quyền cụ thể như: quyền giám sát, quyền phản biện, quyền hiệp thương, tham gia cùng nhà nước trong một số hoạt động quản lý, động viên nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình, tổ chức phong trào các cuộc vận động ... đã được chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước quy định. Về bản chất đó không phải là quyền lực nhà nước, nhưng là quyền lực chính trị hợp hiến. Đây là một nét mới, độc đáo về chức năng của Mặt trận, là hướng đổi mới chức năng của Mặt trận, cần tiếp tục được hoàn thiện và thể chế trong pháp luật. Đây cũng sẽ là một điều kiện quan trọng, khác hẳn với điều kiện hoạt động của Mặt trận khi chưa có chính quyền và khi chưa thực hiện công cuộc đổi mới. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức duy nhất có thể tập hợp rộng rãi nhất mọi tầng lớp trong xã hội và các đoàn thể nhân dân có lợi thế để làm tốt vai trò tham chính và phản biện xã hội nhằm góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực. Ở đây, mỗi đoàn thể nhân dân đều có thế mạnh riêng trong việc tập hợp và phát huy tiếng nói của hội viên, đoàn viên của mình, song việc tập hợp tiếng nói của mọi tầng lớp nhân dân, của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội là thế mạnh ưu việt của Mặt trận. Chính vì thế phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân trong giai đoạn hiện nay là việc làm hết sức cần thiết. Đồng thời, việc đổi mới Mặt trận lúc này để Mặt trận thực sự trở thành tổ chức chính trị-xã hội luôn được nhân dân tin cậy, làm chỗ dựa và làm cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước là việc làm có ý nghĩa và cần thiết. Để xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân thì công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền là một yếu tố rất quan trọng. Đảng ta đã nhận thức sâu sắc vấn đề này, coi đây là một trong những biện pháp để khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân của một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức nhà nước. Để làm được điều này, Mặt trận Tổ quốc cần phối hợp với chính quyền để giải quyết những vấn đề phát sinh trong nhân dân, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, vận động nhân dân cùng nhau xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng và bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, trong đó Mặt trận Tổ quốc thực sự là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và nhà nước. Để tăng cường hơn nữa công tác tham gia xây dựng và củng cố chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần phải quán triệt tinh thần các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam; thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác tham gia xây dựng và củng cố chính quyền. Nhà nước cần tiếp tục thể chế hoá quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân trong các đạo luật quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc tham gia xây dựng, giám sát và bảo vệ Nhà nước. Chính quyền các cấp tôn trọng và tạo điều kiện để Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên Mặt trận và nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền. 3.3. Một số giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền. 3.3.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị, cụ thể hoá vai trò nhân dân tham gia xây dựng chính quyền nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh - Trong tình hình hiện nay, nước ta đã hội nhập hoàn toàn với thế giới. Ngoài những thời cơ và vận hội mới để phát triển, đất nước còn chịu tác động bởi nhiều thách thức từ mặt trái của cơ chế thị trường, của các vấn đề toàn cầu hoá… Đại đoàn kết toàn dân tộc càng là yếu tố cơ bản trong sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước và bảo vệ tổ quốc ngày nay. Do vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng phải được tôn trọng địa vị lịch sử, khẳng định vai trò, vị trí trong hệ thống chính trị với tư cách là tổ chức đại diện cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. - Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước về vai trò, vị trí, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhất là cấp huyện và cơ sở; tuyên truyền Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các văn bản liên tịch giữa Mặt trận và các cơ quan nhà nước. - Đại hội VI của Đảng đã xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đảng lãnh đạo là rất rõ, Nhà nước quản lý cũng rất rõ vai trò, chỉ còn vế nhân dân làm chủ là chưa được cụ thể hoá rõ thành các quan điểm, nội dung, giải pháp và phương thức mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, với Nhà nước. Do vậy, Đảng và Nhà nước nên có cơ chế tổng kết để trên cơ sở đó xây dựng thành pháp luật để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân. Mặt trận Tổ quốc là một liên minh chính trị – xã hội rộng lớn nên phải thay mặt cho toàn dân để tổ chức những hoạt động xã hội, những phong trào rộng khắp, lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia vào việc đảm bảo thực hiện quyền lực nhân dân. Nói cách khác, nhân dân tham chính bằng Mặt trận, nhân dân thực hiện quyền dân chủ, quyền làm chủ, quyền tham chính bằng các hình thức tổ chức ngoài Nhà nước. Phải tạo sự chuyển biến thật rõ nét về nhân dân tham gia các hoạt động tham chính không chỉ bằng nhà nước mà còn thông qua các tổ chức ở bên ngoài Nhà nước. Đó là sự cần thiết để Đảng và Nhà nước tiếp nhận tư vấn, phản biện, giám sát từ Mặt trận với đông đảo các tổ chức thành viên, làm cho Đảng và Nhà nước mạnh lên nhờ có dân chủ và nhờ phát huy sáng kiến, sáng tạo của nhân dân đóng góp xây dựng Đảng và Nhà nước của mình. Vai trò, chức năng, trách nhiệm và thẩm quyền của Mặt trận phải được khẳng định rõ ràng, minh định để hoạt động của Mặt trận đi đúng trọng tâm, thực chất. Đó chính là đại diện cho xã hội và toàn dân trong hoạt động giám sát, tư vấn, kiểm tra, phản biện đối với Đảng và Nhà nước. Công tác Mặt trận thực chất là công tác xã hội, công tác dân vận, phải thể hiện và phản ánh đúng tiếng nói, nguyện vọng, đòi hỏi của dân, không hành chính hoá, không quan liêu hoá kiểu nhà nước. Cần phân biệt chức năng chính yếu và những hoạt động bổ trợ, hỗ trợ mà Mặt trận tham gia phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước, với các đoàn thể khác. Đây là chỗ bộc lộ rõ nhất những bất cập, hạn chế hiện nay, một phần thuộc về Mặt trận, mặt khác, lớn hơn, chủ yếu hơn là thuộc về trách nhiệm của Đảng và Nhà nước. Thực tế cho thấy, các hoạt động của Mặt trận nói chung và công tác phối hợp với Nhà nước trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền chỉ có thể thu được kết quả như mong muốn một khi có sự ủng hộ, tạo điều kiện của cấp uỷ, chính quyền các cấp. Về chủ trương đường lối, nhìn chung là hết sức rõ ràng và có sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ, Đảng viên trong các cơ quan Đảng, Nhà nước còn hiểu chưa thấu đáo vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Chính vì vậy, nhiều nơi, nhất là cấp cơ sở có biểu hiện coi nhẹ Mặt trận, thiếu sự phối hợp công tác với Mặt trận, chưa tạo điều kiện thuận lợi theo quy định của pháp luật cho Mặt trận thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Cùng là cán bộ trong hệ thống chính trị, cùng được điều chỉnh bởi pháp luật cán bộ - công chức, nhưng có hiện tượng cán bộ các ban Đảng, cán bộ các cơ quan Nhà nước khi được điều động sang làm công tác Mặt trận và đoàn thể thường kém phấn khởi. Đây là hiện tượng phổ biến lâu nay ở tất cả các cấp. Chính vì vậy Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy (phần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) vừa qua đã nhấn mạnh chủ trương luân chuyển cán bộ cán bộ các ban Đảng, cán bộ tại các cơ quan Nhà nước sang làm công tác Mặt trận như vừa dẫn ở trên. Đây là một chủ trương rất đúng đắn của Đảng. Nếu được thực hiện tốt chắc chắn sẽ có được những cán bộ vừa có năng lực lãnh đạo, năng lực quản lý, điều hành, vừa có khả năng vận động, thuyết phục quần chúng, khắc phục tệ quan liêu, xa dân, xa rời thực tiễn của nhiều cán bộ Đảng, cán bộ Nhà nước ở các cấp hiện nay. 3.3.2. Tăng cường bổ sung và thực hiện quy chế phối hợp công tác giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp với Chính Phủ, Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban Nhân dân các cấp; Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong mối quan hệ phối hợp hoạt động với bộ máy chính quyền các cấp - Các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc đảm bảo các điều kiện cho Mặt trận Tổ quốc hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ trong hệ thống chính trị. Cấp uỷ các cấp cần lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cùng cấp trong việc thực hiện các phong trào, các cuộc vận động để đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả, tránh tình trạng phân tán, chồng chéo, hình thức; nghiên cứu, xem xét lại các tiêu chí, điều kiện và yêu cầu làm thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. - Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc cần cụ thể hoá và tăng cường hơn nữa việc thực hiện các nội dung, chương trình, kế hoạch phối hợp công tác giữa hai bên thông qua các quy chế phối hợp công tác, trong đó sớm ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Nhà nước phối hợp chặt chẽ và tạo điều kiện để Mặt trận tổ chức thực hiện tốt vai trò của mình. - Nghiên cứu, sửa đổi quy chế phối hợp hiện có giữa Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước…; giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp ở địa phương theo hướng cụ thể về nội dung phối hợp, phương thức phối hợp, quyền và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức tham gia phối hợp. Theo đó, nhấn mạnh và cụ thể hoá hơn trong công tác xây dựng pháp luật, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. - Nên thành lập một bộ phận liên tịch giúp việc để tham mưu theo dõi thực hiện nội dung chương trình phối hợp công tác giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc với các cơ quan phối hợp. - Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sớm nghiên cứu để xây dựng và ban hành quy chế phối hợp tổ chức tiếp xúc cử tri với đại biểu Quốc hội; trong đó cần xác định rõ nội dung tiếp xúc và mở rộng các hình thức tiếp xúc để những cử tri là những người trực tiếp sản xuất được tiếp xúc trực tiếp với đại biểu Quốc hội. Mặt khác Quy chế phối hợp cần quy định rõ trách nhiệm của đoàn đại biểu Quốc hội, của đại biểu Quốc hội và Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc xây dựng kế hoạch, thông báo công khai về địa điểm, thời gian tiếp xúc; trách nhiệm trình bày trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri để phản ảnh với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phản ánh tại kỳ họp Quốc hội những ý kiến kiến nghị của cử tri. Vấn đề phối hợp giám sát việc giải quyết kiến nghị của cơ quan nhà nước hữu quan và thông báo để cử tri được biết. Trong đó, phải đề cao chủ thể Quốc hội. Quyền lực cao nhất của Quốc hội là do nhân dân giao cho. Do đó trong mối quan hệ với Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác, Quốc hội phải chịu trách nhiệm cao nhất trước nhân dân và hơn nữa, phải liên đới chịu trách nhiệm trước nhân dân về hoạt động của các cơ quan nhà nướckhác mà Quốc hội phê chuẩn hoặc thành lập. Quyền lực tối thượng thuộc về nhân dân phải được thực hiện bằng những phương thức hiệu quả hơn, ngoài việc cải tiến thực hiện chế độ dân chủ đại diện, cần phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân (như thăm dò dư luận, trưng cầu ý kiến…) - Vấn đề tổ chức lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân tham gia vào các dự án Luật, Pháp lệnh trước khi ban hành hoặc trước khi Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước liên quan đến quốc kế dân sinh cần lấy ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Đến nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào quy định rõ về nội dung, hình thức, đối tượng, trình tự, thủ tục việc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp tiếp thu ý kiến, công bố công khai. Đề nghị Quốc hội sớm nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật trưng cầu dân ý. Như vậy, sẽ tạo cơ sở pháp lý cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên phản ánh ý kiến, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân với cơ quan quyền lực nhà nước. - Để triển khai sâu rộng Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Nghị định 50/CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp phối hợp với Mặt trận Tổ quốc cùng cấp triển khai thực hiện Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tới các tầng lớp nhân dân. - Chính phủ cần sớm có cơ chế cụ thể hơn để Mặt trận và các tổ chức thành viên phản ánh thường xuyên những vấn đề bức xúc lớn trong nhân dân và trong hệ thống chính trị mà Chính phủ cần biết để giải quyết. - Mặt trận với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, mối quan hệ giữa Mặt trận và Nhà nước là bình đẳng nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi bên theo quy định của pháp luật. Mối quan hệ phối hợp này ngày càng mở rộng, thiết thực và hiệu quả, ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Để đổi mới, hoàn thiện và tiếp tục tăng cường mối quan hệ này giải pháp đặt ra trước hết là tiếp tục đẩy mạnh việc phổ biến, tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vai trò, vị trí, quyền và trách nhiệm của Mặt trận trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận các cấp nhất là cấp tỉnh và cơ sở để cán bộ, công chức, đảng viên nhận thức đầy đủ, thống nhất. Chủ động nghiên cứu, đề xuất, sửa đổi bổ sung Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nghị định 50 CP và một số văn bản liên tịch cho phù hợp với chủ trương của Đảng tại Đại hội X, các đạo luật có liên quan sau khi ban hành văn bản liên tịch đó. Thường xuyên tổng kết hoạt động của Mặt trận trong quan hệ công tác với các cơ quan nhà nước; rà soát việc tham gia các Hội đồng, Ban chỉ đạo của Mặt trận để góp phần xây dựng cơ chế, quy chế các Hội đồng, Ban chỉ đạo với tinh thần gọn nhẹ, chất lượng, tránh tham gia một cách hình thức. Nghiên cứu, tổng kết phương thức quan hệ công tác, đề xuất các mẫu văn bản liên tịch để đảm bảo thống nhất về nội dung, hình thức, thủ tục, xây dựng và ban hành văn bản trong hệ thống Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc. 3.3.3. Xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Bổ sung quy định về nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Phải có cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc thực hiện phản biện xã hội một cách đúng đắn và có hiệu quả. Cần sớm ban hành cơ chế và xác định phạm vi, trình tự, thủ tục phản biện xã hội thống nhất trong toàn quốc. Phản biện xã hội phải thực hiện một cách nghiêm túc, công khai đối với các dự án luật, các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế, xã hội. Các dự án theo quy định phải thông qua phản biện xã hội nếu không làm đúng quy định thì không được trình ra cơ quan có thẩm quyền xét duyệt. - Quy định cụ thể về cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhất là trách nhiệm của cơ quan nhà nước và cá nhân khi thực hiện các kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc trong quá trình giám sát. Các cơ quan lãnh đạo của Mặt trận phải nâng cao tính chủ động, đặc biệt là chủ động đề xuất với Đảng, các cấp uỷ Đảng, các cấp chính quyền Nhà nước về hoạt động, về yêu cầu, nội dung tư vấn, giám sát, phản biện. - Luật phải quy định rõ hơn nữa quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc trong việc đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tự chủ trong việc lập danh sách bầu cử để thực sự phát hiện người đủ đức, đủ tài để đưa vào danh sách bầu cử, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân. Trong việc tuyển chọn thẩm phán, Kiểm sát viên, giới thiệu Hội thẩm nhân dân, Mặt trận phải thể hiện mạnh mẽ thái độ yêu cầu phải đảm bảo tiêu chuẩn, được sự tín nhiệm của nhân dân đối với các chức danh trên khi được đưa ra xem xét. Tại những cấp thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân, cần nghiên cứu tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong các khâu từ việc thành lập, tham gia vào hoạt động và giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân. 3.3.4. Những đề nghị đối với bản thân hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Cùng với những nội dung, hoạt động tích cực ở lĩnh vực dân sinh hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần chú trọng trong việc phát huy vai trò, trách nhiệm của chủ thể đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tầng lớp nhân dân trên lĩnh vực dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cụ thể, xác định nội dung và phương thức triển khai công tác giám sát, phản biện xã hội, tham gia giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội bảo đảm đem lại lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội. Công tác Mặt trận trong tình hình mới phải đi vào từng vấn đề cụ thể của cuộc sống người dân. Trên cơ sở quán triệt quan điểm: “Trong xã hội do dân làm chủ, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội gắn chặt và thống nhất với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp” (NQ 08B/NQ-TƯ của HN lần 8 BCDTƯ Đảng khoá VI về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân) để lựa chọn các phong trào, các cuộc vận động triển khai trong nhân dân phải đem lại lợi ích cho từng cá nhân, gia đình, địa phương và hài hoà với lợi ích của đất nước mới có sức thuyết phục, có sự hưởng ứng tích cực của nhân dân. - Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác phối hợp với Nhà nước vận động nhân dân xây dựng chính quyền, trong đó có việc phát huy vai trò nhân dân làm chủ và xây dựng chính quyền nhân dân các cấp. Hiện nay, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế nhân dân làm chủ, nhưng khâu tuyên truyền giáo dục pháp luật vẫn còn yếu. Do vậy, Mặt trận Tổ quốc cần có trách nhiệm cao hơn nữa trong việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về với cộng đồng, về với từng người dân. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Muốn làm được điều này phải phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong việc thực hành dân chủ và phát huy dân chủ của các tầng lớp nhân dân trong đời sống xã hội. Mặt trận Tổ quốc cần chủ động và tích cực hơn trong việc đề xuất các chủ trương, chính sách pháp luật với Đảng, Nhà nước và cụ thể hoá thành pháp luật những vấn đề lớn có liên quan đến việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận có nhiệm vụ tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tham gia quản lý xã hội, quản lý Nhà nước, thực hiện giám sát và phản biện xã hội. Do đó cần hướng dẫn các nội dung cụ thể như tham gia xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền; có biện pháp phòng chống tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí, thiếu tinh thần trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân. Xây dựng Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh có phần trách nhiệm to lớn của nhân dân. Mặt trận nâng cao trách nhiệm trong việc thực hiện Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, tham gia tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên; tham gia ý kiến xây dựng tổ chức Đảng, đảng viện, giám sát cán bộ, công chức, bỏ phiếu tín nhiệm cán bộ chủ chốt cấp xã. Mặt trận tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước, phối hợp với Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phát huy vai trò là đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân và của tổ chức Mặt trận- người đã hiệp thương giới thiệu mình để nhân dân bầu cử. Tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền là một nội dung quan trọng của việc đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân trong việc tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân - Đổi mới, nâng cao chất lượng về tổ chức bộ máy và cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung và công tác tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nói riêng, vai trò của người cán bộ Mặt trận là hết sức quan trọng. Cán bộ Mặt trận ngoài những phẩm chất chung như cán bộ các cơ quan, tổ chức khác trong hệ thống chính trị, còn đòi hỏi một phẩm chất không thể thiếu đó là có năng lực làm công tác vận động quần chúng và luôn luôn có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhân dân. Thực vậy, vấn đề cán bộ là vấn đề cốt lõi của mọi công việc, là nhân tố quyết định đến sự thành bại của toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Ở đâu có cán bộ có năng lực, trình độ và tâm huyết thì ở đó mọi phong trào, mọi công việc sẽ phát triển và có hiệu quả. Về vấn đề này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" và "Muốn có phong trào tốt, phải có cán bộ tốt". Như vậy, có thể khẳng định rằng, muốn cho các phong trào của Mặt trận tốt thì phải có đội ngũ cán bộ Mặt trận tốt. Thực trạng đội ngũ cán bộ Mặt trận hiện nay có thể nói là vừa thiếu, vừa yếu và không ổn định. Thực trạng còn chắp vá như hiện nay cho thấy quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận chưa rõ ràng. Muốn xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận cho tốt cần phải có quan điểm đúng về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và tính chất của tổ chức Mặt trận hiện nay. Không ít những quan niệm chưa thoả đáng, nếu như không nói là lệch lạc về công tác cán bộ của Mặt trận tồn tại ở nhiều cấp, kể cả trong Đảng và ngay cả trong tổ chức Mặt trận. Tư tưởng coi cán bộ Mặt trận là viên chức nhà nước là biểu hiện của hành chính hoá. Bên cạnh đó cán bộ chủ chốt của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp ở địa phương phần lớn không được quy hoạch, ít người được đào tạo cơ bản về công tác vận động quần chúng và thường rất biến động do sự sắp xếp, điều chuyển ở địa phương. Bộ máy tổ chức của các cấp Mặt trận nhìn chung còn đơn giản, nặng về công tác phong trào, công tác tham gia xây dựng và củng cố chính quyền chưa thật sự được chú trọng cả về nội dung hoạt động cũng như tổ chức, con người. Trước những yêu cầu ngày càng cao của công tác tham gia xây dựng và củng cố chính quyền hiện nay, đòi hỏi Mặt trận cần sớm đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng cán bộ. Mặt khác, cấp uỷ các cấp cần quan tâm lãnh đạo công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ chủ chốt Mặt trận; tôn trọng và phát huy nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Chính vì thế cần tập trung nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ Mặt trận theo những nội dung, yêu cầu chính như sau: - Phải có chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận thật sự khoa học và hợp lý; có năng lực và chuyên nghiệp. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận đòi hỏi phải tính đến một cơ cấu hợp lý; đảm bảo tính đồng bộ về cơ cấu ngành nghề chuyên môn, về trình độ, tuổi tác, về đội ngũ cán bộ chuyên trách hay không chuyên trách, về đội ngũ công tác viên. Cần tăng cường tuyển chọn những cán bộ có trình độ, chuyên môn về pháp lý, về quản lý Nhà nước để Mặt trận thực hiện tốt chức năng tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. - Phải thường xuyên bồi dưỡng, đạo tạo để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ Mặt trận dưới nhiều hình thức khác nhau như: thông qua hoạt động thực tiễn nhằm rèn luyện bản lĩnh và kinh nghiệm của cán bộ Mặt trận; qua việc cử cán bộ Mặt trận đi học tập tại các cơ sở đào tạo; thông qua việc mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn .v.v. Vì hiện nay, trong hệ thống Mặt trận chưa có các trường đào tạo về công tác Mặt trận, do đóởtớc mắt nên lồng ghép các khoa đào tạo về công tác Mặt trận vào các khoá đào tạo về công tác dân vận tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và các Trường chính trị tỉnh. Về lâu dài nên mở trường đào tạo riêng về công tác Mặt trận và về quản lý hành chính cho cán bộ Mặt trận nhằm bồi dưỡng và nâng cao kiến thức về công tác Mặt trận cho cán bộ Mặt trận. - Có chính sách chăm lo, đãi ngộ về vật chất một cách hợp lý và thoả đáng hơn đối với đội ngũ cán bộ Mặt trận, nhất là cấp cơ sở; đảm bảo cho đội ngũ này có cuộc sống ổn định để yên tâm công tác. KẾT LUẬN Sự phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền là một việc làm hết sức quan trọng và cấp bách, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, thể hiện đúng tính chất một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thể hiện mục tiêu lớn nhất của Đảng cộng sản Việt Nam và khát vọng của cả dân tộc Việt Nam. Trong sự vận hành của thể chế chính trị nước ta là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, thì vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là vô cùng to lớn. Mặt trận Tổ quốc chính chiếc cầu nối bền chặt giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, là người đại diện của nhân dân trong việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, phối hợp với Nhà nước vận động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong suốt chiều dài lịch sử, từ khi Mặt trận Dân tộc thống nhất ra đời, cho đến giai đoạn hiện nay, khi Đảng và Nhà nước thực hiện đường lối đổi mới, đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế đã nảy sinh nhiều vấn đề mới như vấn đề biến đổi giai cấp xã hội và những mâu thuẫn mới nảy sinh trong nhân dân như khoảng cách giàu nghèo gia tăng, tệ nạn quan liêu, tham nhũng, tha hoá về đạo đức, chủ nghĩa cá nhân, kể cả sự chống phá của các thế lực thù địch, cùng với những vấn đề dân tộc, tôn giáo… đã làm ảnh hưởng lớn tới hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở. Do vậy, việc nâng cao vai trò và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là việc mà Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc phải đặc biệt chú trọng, coi đây là phương hướng chiến lược để xây dựng đất nước, trong đó, thể hiện cao nhất là việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền, phát huy quyền làm chủ của mình, để nhân dân thực sự thấy được vai trò của mình trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. TÀI LIỆU THẢM KHẢO Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2000. Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2004. PGS.TS Bùi Xuân Đức(2004), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, NXB Tư pháp, Hà Nội - . Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB. Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB. Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. GS.TSKH. Đào Trí Úc (chủ biên), Những đặc trưng cơ bản và mô hình của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2004. Hà Huy Giáp (1992), Một vài suy nghĩ về tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Sự thật. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2002. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1995. Hồ Chí Minh (1977), Về quan điểm quần chúng, NXB, Sự Thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Về dân vận, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác Mặt trận, Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 10, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 11, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Học viện chính trị- Hành chính QG HCM (2010), Nhà nước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay- NXB Chính trị Quốc gia Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2004. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1999. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (sửa đổi), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2002. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2002. Luật Tổ chức Quốc hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2002 Luật Tổ chức Toà án nhân dân, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2002. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội IV, Hà Nội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2009), Cẩm nang công tác Mặt trận tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. MTTQVN- Ban Tuyên giáo TW- Học việc CT-HC Quốc gia HCM- (2010), Tham luận Hội thảo khoa học “Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam- Những chặng đường vẻ vang”. ThS. Nguyễn Văn Pha (Chủ biên), HN. 8/2009 "Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh". Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2002. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quyết tâm thực hiện thắng lợi cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1997. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2002), Niên giám 2000-2001, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2006), Sổ tay công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2007), Lịch sử Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, quyển III (1975-2004), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2009), 101 câu hỏi đáp về Mặt trận và công tác Mặt trận. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2009), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác Mặt trận- Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2009), Một số vấn đề lý lụân và thực tiễn công tác Mặt trận, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2009), Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao vị trí, vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ đất nước đổi mới, hội nhập quốc tế. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Biên niên các sự kiện lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, Tập I, từ 1930 - 1954, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội . Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Biên niên các sự kiện lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, Tập II, từ 1954 - 1975, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội . Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Biên niên các sự kiện lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, Tập III, từ 1975 - 2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội . Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, Quyển I, từ 1930 - 1954, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2006. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1999, Văn kiện Đảng về Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, Tập I, từ 1930 - 1945, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội . Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng về Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, Tập II, từ 1945 - 1977, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội . Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng về Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, Tập III, từ 1977 - 2004, Hà Nội . Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Đinh Thị Thanh Giang LỜI CẢM ƠN Sau gần 3 năm học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy, cô giáo đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của PGS - Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tri, sự giúp đỡ của các bạn và đồng nghiệp trong cơ quan, đến nay tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sỹ Quản lý hành chính công “Sự phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền”. Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình, chu đáo của các giáo sư, tiến sỹ, các thầy, cô giáo, các cán bộ lãnh đạo, chuyên viên của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành Luận văn này. Tác giả MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TÁC PHỐI HỢP GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG VIỆC VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN 6 1.1. Cơ sở lý luận 6 1.1.1 Khái niệm, chức năng, đặc trưng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác phối hợp với Nhà nước vận động nhân dân xây dựng chính quyền 6 1.1.2 Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 11 1.1.3 Mối quan hệ phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 17 1.2. Cơ sở pháp lý 22 1.2.1 Các văn bản pháp luật quy định công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền 22 1.2.2 Những nội dung cơ bản của công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền 25 Chương 2. THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC PHỐI HỢP GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG VIỆC VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN 34 2.1. Những hoạt động chủ yếu về công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền 34 2.1.1 Phối hợp vận động nhân dân tham gia công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp 34 2.1.2 Phối hợp vận động nhân dân tham gia giám sát thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở 45 2.1.3 Phối hợp vận động nhân dân tham gia xây dựng pháp luật; phối hợp tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân 63 2.1.4 Phối hợp vận động nhân dân tham gia hoạt động tố tụng, tuyển chọn thẩm phán, giới thiệu Hội thẩm nhân dân 71 2.2. Những tồn tại, hạn chế trong công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền; nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 76 2.2.1 Những tồn tại, hạn chế 76 2.2.2 Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 82 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG SỰ PHỐI HỢP GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG VIỆC VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN 85 3.1. Bối cảnh quốc tế, bối cảnh trong nước và tâm trạng các tầng lớp nhân dân 85 3.2. Một số quan điểm và phương hướng của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm tăng cường công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền 91 3.3. Một số giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền. 94 3.3.1 Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị, cụ thể hoá vai trò nhân dân xây dựng chính quyền nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh 94 3.3.2 Tăng cường bổ sung và thực hiện quy chế phối hợp công tác giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Chính Phủ, Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban Nhân dân; Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong mối quan hệ phối hợp hoạt động với bộ máy chính quyền các cấp 94 3.3.3 Xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 100 3.3.4 Những đề nghị đối với bản thân hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 101 KẾT LUẬN 106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền.doc
Luận văn liên quan