ĐÂY LÀ TOÀN BỘ BÀI TIỂU LUẬN MÔN NGUYÊN LÝ MÁC LÊ NIN:ĐÊ TÀI SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
MỤC LỤC
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
PHẦN NỘI DUNG
1.XHCN LÀ GÌ?
1.1Khái niệm xã hội chủ nghĩa
1.2 Khái niệm hệ thống xã hội chủ nghĩa
2.SỰ RA ĐỜI CỦA HỆ THỐNG CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1 Sự hình thành từ nguyên thủy đến xã hội chủ nghĩa
2.2 Những ảnh hưởng và tiền đề hình thành xã hội chủ nghĩa
2.2.1 Ảnh hưởng của thắng lợi cách mạng tháng 10 Nga
2.2.2 Ảnh hưởng của tư tưởng Mác-Lê nin và những yếu tố khác.
2.3 Sự phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.
2.3.1 Việt Nam cũng là một nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
2.4 Khó khăn và thách thức
2.4.1 Khó khăn
2.4.1.2 Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980
2.4.1.2 Giai đoạn từ cuối nhưng năm 1980 đến nay
2.4.2 Khắc phục
3/THÀNH TỰU
3.1 Về kinh tế:
3.2 Về chính trị.
3.3 Về văn hoá,khoa học kỹ thuật
3.4 Liên hệ với Việt Nam về những thành tựu đã đạt được
3.4.1 Kinh tế thị trường định hướng XHCN
C.LỜI KẾT
18 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 22843 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hôm nay làm ta thêm tự hào và tin tưởng hơn vào con đường đúng đắn ấy.
Tìm hiểu về sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và những thành tựu của nó ta cảm nhận được nhũng sự cố gắng của biết bao con người đặt những viên gạch đầu tiên xây nên nền móng cho Sự phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sau này
B/PHẦN NỘI DUNG
1.XHCN LÀ GÌ?
1.1Khái niệm xã hội chủ nghĩa
XHCN là một xã hội quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,trong đó giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo và cùng với nhân dân lao động xây dựng xã hội công bằng,dân chủ văn minh.
Một số dặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải là công cụ để đàn áp một giai cấp nào đó,nhà nước đó thực hiện một chính sách giai cấp vì lợi ích của tất cả người lao động nhưng dồng thời vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng của nó đối với nhà nước vẫn được duy trì.
- Cũng là công cụ của chuyên chính giai cấp,nhưng vì lợi ích của tất cả người lao dộng tức là tuyệt đại đa số nhân dân,nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện sự trấn áp những kẻ chống đối phá hoại sự nghiệp cách mạng của xã hội chủ nghĩa..
- Mặt tổ chức xây dựng là đặc trưng cơ bản nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, của chuyên chính vô sản.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,ngày càng hoàn thiện các hình thức đại diện nhân dân,mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lí nhà nước,quản lí xã hội.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, “nhà nước không còn nguyên nghĩa”,là “nửa nhà nước”.Sau khi những cơ sở kinh tế xã hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng không còn,nhà nước tự “tiêu vong”.
1.2 Khái niệm hệ thống xã hội chủ nghĩa
Hệ thống xã hội chủ nghĩa: là thể chế chính trị ở các nước có đảng cộng sản đã hoặc đang giữ độc quyền.các nước này,tạm gọi tắt là hệ thống Xô Viết,tự gọi mình là các nước xã hội chủ nghĩa,trong đó từ chủ ngĩa xã hội dùng theo nghĩa giai đoạn trước chủ nghĩa cộng sản
Một số đặc trưng của hệ thống các nước XHCN:
- Chỉ do một đảng lãnh đạo đó là đảng cộng sản
- Các đặc trưng của cơ cấu quyền lực chính là nền tảng để từ đó suy ra quy luật vận hành của chính hệ thống xã hội chủ nghĩa.
- Thể chế căn bản của cơ cấu quyền lực là đảng cộng sản.Các nước xã hội chủ nghĩa có hệ thông một đảng,trong đó không một đảng đối lập nào khác được hoạt động.Ở thời điểm đỉnh cao của quyền lực,đảng viên chiếm một tỉ lệ dân số đáng kể.
- Phương châm chủ đạo của nguyên tắc tổ chức đảng là nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Ban lãnh đạo được bầu tại đại hội tổ chức cơ sở theo từng nhiệm kì cụ thể.Mỗi tổ chức cơ sở có một bí thư lãnh đạo.
- Các cơ sở chịu sự lãnh đạo của tổ chức đảng cao hơn,thường được tổ chức theo nguyên tắc phạm vi lãnh thổ.
- Lãnh đạo cấp trung ương có bộ tham mưu rất lớn,là những người tạo ra hệ thống thứ bậc quan liêu bao gồm những người đứng đầu các ban,phó ban và những viên chức.Theo quy định chính thức,quan chức được chỉ định của đảng không có quyền lực,bởi vì quyền quyết định duy nhất thuộc về cơ quan bầu ra.Trên thực tế,họ có ảnh hưởng đến việc quản lý hoạt động.
- Các cán bộ lãnh đạo được bầu ra(làm việc chuyên trách) và công chức được của đảng thường được biết đến như là bộ máy của đảng.
- Theo hiến pháp,pháp luật và các quy phạm pháp luật,nhà nước dưới hệ thống xã hội chủ nghĩa cổ điển cũng giống như các nhà nước hiện đại khác.Nhà nước chia thành ba ngành:lập pháp,hành pháp và tư pháp;cơ quan quản lí nhà có trách nhiệm hành pháp và tư pháp.
2.SỰ RA ĐỜI CỦA HỆ THỐNG CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1 Sự hình thành từ nguyên thủy đến xã hội chủ nghĩa
Từ lúc sơ khai theo quy luật tiến hóa của lịch sử,loài người đi lên từ cái không có đến cái có.Từ xã hội nguyên thủy,xã hội nô lệ,xã hội phong kiến đến xã hội tư bản và tiến tới xã hội chủ nghĩa.Lịch sử cho thấy rằng,xã hội cộng sản nguyên thủy chỉ là một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,mọi người sống bình đẳng,chưa có giai cấp và chưa có nhiều nước.Tổ chức đầu tiên của xã hội loài người là chế độ thị tộc,bộ lạc phù hợp với tình trạng còn thấp kém lúc bấy giờ.Đứng đầu các thị tộc bộ lạc là các tộc trưởng,hội đồng các tộc trưởng cho nhân dân bầu ra.Họ chịu trách nhiệm trước nhân dân,coi sóc các công việc chung và có thể bị bãi nhiễm nếu không có sự tín nhiệm của nhân dân.Họ điều chỉnh các quan hệ xã hội,duy trì các quy tắc đời sống xã hội vừa điều khển các công việc sức mạnh của dư luận xã hội và uy tín của họ đối với xã hội.Trong tay họ không có và không cần có một công cụ cưỡng dức đặc biệt nào cả.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất vào thời kì cuối của xã hội nguyên thủy dẫn đến sự hình thành các chế độ tư hữu và bắt đầu phân thành những giai cấp nô lệ,quan hệ người áp bức,người thay thế quan hệ bình đẳng,hợp tác tương trợ sự đối kháng của giai cấp bóc lột đối với những nô lệ, giai cấp nô lệ phải phục tùng theo những trật tự do mình đặt ra,bộ máy đó là nhà nước.
2.2 Những ảnh hưởng và tiền đề hình thành xã hội chủ nghĩa
Những nhà nước đầu tiên xuất hiện trong lịch sử là những nhà nước chiếm hữu nôlệ, tiếp đó là những nước phong kiến,những nước tư sản và những nước xã hội chủ nghĩa.Đặc biệt,khi tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển mạnh làm cho mâu thuẫn giữa các tầng lớp ngày càng gay gắt.Những giai cấp bị bóc lột đứng lên đấu tranh chống áp bức,đòi quyền tự do cho chính bản thân mình. Tư tưởng lý luận mác – Lê nin ra đời và cách mạng tháng 10 Nga là những ảnh hưởng cũng như tiền đề quan trọng cho sự hình thành hệ thông các nước xã hôi chủ nghĩa trên trên toàn thế giới.
2.2.1 Ảnh hưởng của thắng lợi cách mạng tháng 10 Nga
Thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga đã làm nên một kì tích to lớn và tạo dựng nên một chế độ xã hội chủ nghĩa “ưu việt”,có ảnh hướng sâu sắc đến đời sống chính trị thế giới,ngay từ những năm tháng nó diễn ra cho đến mọi thời đại sau này.Cách mạng tháng 10 Nga là cột mốc lịch sử đánh dấu sự mở đầu của một thời đại lịch sử mới,thời đại quá độ từ chủ ngĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.Vì cuộc cách mạng này làm sụp đổ trật tự xã hội chủ nghĩa cũ-xã hội tư bản chủ nghĩa, tổ chức xây dựng một xã hội mới do nhân dân làm chủ.Sau cách mạng tháng 10,nhân dân Nga đã làm chủ bộ máy nhà nước,làm chủ những tư liệu sản xuất của chính mình,nhân dân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của của đảng cộng sản Liên xô, đã lao động quên mình,nhanh chóng biến nước Nga từ một nước lạc hậu thành một nước xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế phát triển,nhiều ngành khoa học tiên tiến,có một xã hội luôn luôn quan tâm đến đời sống của nhân dân lao động.
Với thành quả của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,với niềm tin vào lý tưởng cộng sản đã giúp cho nhân dân Liên Xô cùng với lượng dân chủ tiến bộ đập tan chủ nghĩa phát xít,cứu nhân loại khỏi họa diệt chủng,giải phóng hàng loạt các nước Đông Âu,tạo điều kiện cho các nước này đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ ngĩa xã hội với tính ưu việt của nó,đã cổ vũ hàng loạt các nước đứng lên đấu tranh giành độc lập cho dân tộc,dân chủ cho nhân dân,xóa bỏ chế độ bàn tích của của chế độ thực dân phong kiến.Nhiều nước,trong số đó đã lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa hoặc định hướng lên chủ nghĩa xã hội.chủ nghĩa xã hội đã vượt khỏi phạm vi của một nước trở thành hệ thống trên toàn thế giới đối lập với tư bản chủ nghia.
Tóm lại,cách mạng tháng 10 Nga đã mở đầu một thời đại mới thời kì qua dộ lên chủ nghĩa xã hội vì
Thứ nhất:sau cách mạng tháng 10 Nga chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành thực tiễn,đã xuất hiện hình thái kinh tế-XH cộng sản chủ nghĩa,là cái đối lập,là cái phủ định hình thái kinh tế-Xh tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai:chiều hướng phát triển chủ yếu,xuyên suốt của sự vận động lịch sử từ sau cách mạng tháng 10 là đấu tranh xoa bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa,thiết lập và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn thé giới.
Thứ ba:từ sau cách mangh tháng 10,các nước xã hội chủ nghĩa,phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng nòng cốt,đi đầu trong cuộc đấu tranh vì hòa bình,dân chủ và tiến bộ trên phạm vi toàn thế giới.
Sự vận động lịch sử là quanh co và phức tạp khi tiến,khi lùi.Do vậy,hiện nay mặc dù tình hình quốc tế diễn ra vô cùng phức tạp,nhưng đảng ta vẫn khẳng định “chủ ngĩa xã hội đứng trước nhiều khó khăn,thách thức,lịch sử thế giới hiện đang trải qua những bước quanh co,song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật của tiến hóa lịch sử”
Từ sau cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 tới kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai năm 1945.
Giai đoạn này là giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa mới hình thành trên phạm vi một số nước như Mông Cổ,Liên Xô,cuộc cách mạng tháng 10 là cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử đưa nhân dân lao động từ những người nô lệ,làm thuê trở thành những người làm chủ đất nước.Sức mạnh của chế độ mới đã giúp nhân dân lao động Nga đứng vững trong công cuộc nội chiến,đập tan âm mưu can thiệp của chủ nghĩa đế quốc,với khí thế lao động của những con người được giải phóng,thông qua chính sách kinh tế mới,thông qua con con đường hợp tác hóa nông nghiệp,công nghiệp hóa đất nước,sau 20 năm Liên Xô đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế.Đó là những nguyên nhân Liên Xô đánh bại chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới thứ 2,cứu nhân loại khỏi thảm họa chủ nghĩa phát xít.
Đây là giai đoạn chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định “giống như mặt trời chói lọi,cách mạng tháng 10 Nga chiếu sáng khắp năm châu,thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức bóc lột.Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào ý nghĩa to lớn và sâu sa như thế.
2.2.2 Ảnh hưởng của tư tưởng Mác-Lê nin và những yếu tố khác.
Thành công của cách mạng tháng 10 Nga ảnh hưởng không nhỏ dến sự ra đời của chủ nghĩa xã hội,bên cạch đó chủ nghĩa Mác- Lê nin cũng ảnh hưởng lớn lao,các phong trào cộng sản,công nhân quốc tế,các cuộc cách mạng để hình thành nên các nước xã hội chủ nghĩa.Điển hình như một số cuộc cách mạng như:Cuộc cách mạng tháng 03/1871 ở Pháp lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại,một kiểu nhà nước mới – nhà chuyên chính vô sản(công xã Parí)được thành lập,có thể coi là sự kiểm nghiệm vĩ đại đối với chủ nghĩa Mác- Lê nin.
Năm 1919,Quốc tế cộng sản được thành lập,năm 1922 Liên Bang CộngHòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết ra đời đánh dấu sự liên minh vô sản trong nhiều quốc gia.Chiên tranh thế giới thứ hai không chỉ bảo vệ được thành quả của giai cấp vô sản mà còn đưa chủ nghĩa xã hội phát triển ra ngoài biên giới của Liên Xô,hình thành nên cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô dẫn đầu.Với các thành viên như:Mông Cổ,Ba Lan,Rumani,Hungari,Việt Nam,nam Tư,Anbani,Tiệp khắc,Nam tư,Triều Tiên,CH DC Đức,Trung Quốc,Cu Ba.
Sự kiện này làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là các hệ thống duy nhất mà song song là một hệ thống chính trị đối lập với nó về bản chất và mục đích hoạt động.
Những sự kiện này cổ vũ mạnh mẽ phong trào công nhân của giai cấp công nhân toàn thế giới,thức tỉnh cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa.Vai trò định hướng của Chủ Nghĩa Mac lê-nin đã đem lại những thành quả lớn lao cho sự nghiệp vì hòa bình,độc lập dân tộc,dân chủ và tiến bộ xã hôi.
2.3 Sự phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản ở nhiều nước châu Âu và châu Á đã lãnh đạo quần chúng nhân dân phối hợp với Hồng quân Liên xô thành một mặt trận chống phát xít, có sự phối hợp chi viện cho nhau, tăng cường liên hệ quốc tế. Chính sự lớn mạnh của các Đảng Cộng sản trong thời kỳ chiến tranh là cơ sở để khi chủ nghĩa phát xít bị đánh bại, Đảng Cộng sản ở nhiều nước đã đứng lên lãnh đạo quần chúng nhân dân vũ trang giành chính quyền thành lập nhà nước dân chủ nhân dân. Trong thời gian 5 năm (từ năm 1944 đến năm 1949) ở châu Âu và châu Á đã có 11 nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo bằng 3 phương thức đã giành được chính quyền.
Phương thức thứ nhất chủ yếu dựa vào lực lượng vũ trang của nhân dân nước mình, xây dựng các căn cứ địa cách mạng, khi thời cơ đến đã lãnh đạo nhân dân đứng lên giành chính quyền như: cộng hoà nhân dân liên bang Nam Tư thành lập 1944; nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập 1945; cộng hoà nhân dân Anbani năm 1946 và cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Phương thức thứ hai chủ yếu dựa vào Hồng quân Liênxô giải phóng đồng thời phối hợp vũ trang của nhân dân nước mình như Cộng hoà nhân dân BaLan (1945), Bungari (1946), Rummani (1948), Hunggari và Tiệp Khắc (1946) nhưng sau đó phải đấu tranh trong nội bộ chính phủ để trục xuất các phần tử tư sản, trở thành nước cộng hoà dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo (Hunggari 7/1947; Tiệp Khắc 2/1948) và Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên.Phương thức thứ ba hoàn toàn do Hồng quân Liênxô giải phóng và dưới sự giúp đỡ của Liênxô để đi lên con đường chủ nghĩa xã hội như CHDC Đức(10/1949)
Vậy là sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội từ một nước đã mở rộng ra 13 nước ở châu Âu và châu Á; với thắng lợi của cách mạng dân chủ ở Cu Ba năm 1959, Phong trào 26 tháng 7 do Phiden Castrô lãnh đạo, nước cộng hoà Cu Ba chuyển sang chủ nghĩa xã hội. Như vậy chủ nghĩa xã hội đã không chỉ ở châu Âu, châu Á mà còn mở rộng đến châu Mỹ Latinh. Những nước này về hình thái ý thức đều lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm tư tưởng chỉ đạo. Về chính trị hình thành phe chủ nghĩa xã hội do Liênxô đứng đầu, về quân sự ở châu Âu hình thành tổ chức thông qua Hiệp ước Vacsava. Về quan hệ kinh tế, đó là những nước có chung một kiểu cơ sở kinh tế-xã hội, quyền sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất và thông qua các hiệp ước song phương và Hội đồng tương trợ kinh tế để tương trợ giúp đỡ lẫn nhau xây dựng cộng đồng thị trường thế giới xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống tồn tại song song với hệ thống tư bản chủ nghĩa.
2.3.1 Việt Nam cũng là một nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng.
Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Tại Đại hội IX của Đảng, khi tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Sự lựa chọn của Đảng ta của nhân dân ta là hoàn toàn chính xác.
Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy khắp mọi miền đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng ta đàn áp và thất bại.
Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở nên là yêu cầu cơ bản, cấp bách. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong “tình hình đen tối như không có đường ra”. Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh gách vác sứ mệnh lịch sử đó?
Nhưng rồi chính lịch sử có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người. Và người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến và đã bành trướng ra khắp thế giới, chi phối mọi mặt đời sống xã hội loài người. Chính vào thời điểm ấy Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra, mở đầu cho một xu thế mới của lịch sử thế giới, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam – nơi mà chính “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Vời kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại: năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng.
Đảng tuyên bố: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản”. Một cách tự nhiên, ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa Xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi, từ đó dọc theo thế kỷ XX, sang thế kỷ XXI, và tiếp tục đi cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc, có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui,hạnh phúc ấm no của con người.
Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam hôm nay và mai sau.
Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị của các chế độ ấy - những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng khác.
Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là: Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hoá, đối ngoại; xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia – dân tộc nào phải do quốc gia – dân tộc đó giải quyết,không có sự can thiệp từ con người.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xoá bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, Đảng đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn toàn không cân sức với “hai đế quốc to”, mở ra thời kỳ phi thực dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế giới.
Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng tiêu biểu bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tín độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong khu vực và trên thế giới.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù hợp với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới
2.4 Khó khăn và thách thức
2.4.1 Khó khăn
2.4.1.2 Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980
Trong giai đoạn này ở nhiều nươc XHCN không chú ý tới công tác xây dựng Đảng,nhiều kẻ cơ hội chui vào hang ngũ của Đảng Cộng Sản.Một số mắc vào tệ nạn sùng bái cá nhân, không ít người mắc bệnh kiêu ngạo cộng sản,không nhìn thấy và đánh giá đúng những thay đổi trong chính sách của chủ nghĩa tư bản.Ở không ít nước XHCN,bộ máy nhà nước trở lên quan liêu,vi phạm những quyền dân chủ của nhân dân.Trong xây dựng kinh tế chủ quan nóng vội,không tuân thủ nhưng quy đinh khách quan,chậm đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất.Trong lĩnh vực xã hội thực hiện bao cấp tràn lan,không kích thích được tính tích cực cá nhân,do vậy không tạo được động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Những sai lầm trên kéo dài,chậm được phát hiện và khắc phục triệt để đã hạn chế tốc độ phát triển kinh tế -xã hội của các nước,dẫn tới tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội ở nhiều nước,buộc các nước phải thay đổi.
Trong quá trình cải cách đổi mới,nhiều đảng cộng sản mắc những sai lầm mang tính nguyên tắc.Lợi dụng tình hình đó,những thế lực thù địch với CNXH ở bên ngoài,kết hợp với những kẻ phản bội bên trong,thậm chí cả những người đứng đầu cơ quan nhà nước của Đảng đã tấn công làm sụp đổ chế độ CNXH ở Đông Âu và Liên Xô.
Nguyên nhân chủ quan: Quan niệm giáo điều về CNXH
Trước hết, là do quan niệm giản đơn, phiến diện quy luật về mối quan hệ giữa sản xuất và lực lượng sản xuất; cho rằng, có thể dùng ý chí cách mạng để xây dựng nhanh quan hệ sản xuất tiên tiến trên cái nền lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém và lạc hậu, và cho rằng, quan hệ sản xuất tiên tiến tự nó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Sau khi V.I.Lênin qua đời ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hóa tập trung cao độ. Thời gian đầu, kế hoạch hóa tập trung đã phát huy tác dụng mạnh mẽ, song đã biến dạng thành kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới lần 2, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hóa, từ bỏ hay gần như từ bỏ một cách chủ quan duy ý chí nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động.
Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, xây dựng năng lực cầm quyền của một chính đảng cách mạng sau khi giành được chính quyền chưa thực hiện đầy đủ, khiến Đảng không phát huy được vai trò của người lãnh đạo, người tổ chức nhân dân; vừa không phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội..., dẫn đến tình trạng quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn
Một nguyên nhân chủ quan khác là đánh giá quá cao CNXH hiện thực và đánh giá quá thấp chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc; chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong việc hoạch định các bước đi của tiến trình xây dựng CNXH (như quan điểm của Liên Xô về “CNXH đã hoàn toàn thắng lợi”, “xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa”, “CNXH phát triển”...), không thấy hết tính chất lâu dài, quanh co, phức tạp của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH.
Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài trên cản trở sự cải tổ, cải cách, đổi mới đúng đắn là nguyên nhân sâu xa làm chế độ XHCN suy yếu, rơi vào khủng hoảng. Đó không phải những sai lầm khuyết tật do bản chất của chế độ XHCN, mà do quan niệm giáo điều về CNXH.
Nguyên nhân trực tiếp: Lệch lạc về hệ tư tưởng XHCN và sự can thiệp từ bên ngoài
Một là, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất. Những tuyên bố ban đầu: “cải tổ để có nhiều dân chủ hơn, nhiều CNXH hơn”, “chúng ta sẽ đi tới CNXH tốt đẹp hơn chứ không đi ra ngoài nó”, “chúng ta tìm trong khuôn khổ của CNXH chứ không phải ở ngoài giới hạn của nó những câu trả lời cho các vấn đề do cuộc sống đặt ra”..., rốt cuộc chỉ là những tuyên bố suông ngụy trang cho ý đồ phản bội.
Những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, từng bước, thậm chí ngày càng công khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu XHCN mà họ từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Bằng phát súng lệnh “công khai”, “dân chủ”, “không vùng cấm”, cải tổ đã nhanh chóng tạo ra làn sóng phê phán, công kích, bôi đen tất cả những gì gắn với lịch sử 70 năm xây dựng CNXH, phủ định sạch trơn mọi thành tựu của CNXH. Nó gây hoang mang, xáo động đến cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với những giá trị của CNXH. Người ta sử dụng toàn bộ phương tiện thông tin đại chúng để làm việc này và chiến dịch tuyên truyền, đào bới, phủ định quá khứ được các đài, báo phương Tây tiếp sức mạnh mẽ và lái theo những ý đồ, mục đích của phương Tây.
Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. Các chiến lược gia phương Tây sớm nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện tập trung ở “tư duy chính trị mới”. Hứa hẹn viện trợ kinh tế được dùng làm một thứ vũ khí rất lợi hại để lái cuộc cải tổ theo quỹ đạo mà phương Tây mong muốn. Chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” trong nội bộ.
Trong cuốn sách Chiến thắng không cần chiến tranh, Tổng thống Mỹ Níchxơn cho rằng “mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”. Ông ta viết: “Toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hiệp định mậu dịch, viện trợ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”.
Như vậy sự sụp đổ của CNXH ở Đông Âu và Liên Xô có nguyên nhân xâu xa là những sai lầm của các đảng cộng sản,các nhà nước XHCN,sự chống phá của các thế lực thù địch và sự phản bội của một số người đảng cộng sản,chứ không hoàn toàn là sự sụp đổ của CNXH và lí luận khoa học về CNXH như một số người vẫn đang rêu rao. Trong tình hình CNXH trì trệ và khủng hoảng do những sai lầm của mô hình cũ thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu. Vì chỉ có một cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới sâu sắc, toàn diện mới đưa CNXH thoát khỏi khủng hoảng để bước vào thời kỳ phát triển mới. Cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới là tất yếu nhưng sụp đổ thì không là tất yếu. Vấn đề ở chỗ: cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới thế nào, nhằm mục đích gì, theo đường lối nào.
Một số đảng cộng sản các nước trên thế giới đã nhận định nguyên nhân của sự sụp đổ này là: Sự lệch lạc về hệ tư tưởng của những người lãnh đạo đảng và sự thiếu hiểu biết về hệ tư tưởng XHCN của nhân dân; sự thiếu dân chủ trong xã hội và trong đảng; tình trạng quan liêu trong đảng, tham nhũng và sự xa lánh nhân dân của lãnh đạo đảng; một số sai lầm trong chính sách kinh tế của đảng cộng sản cầm quyền; và sự phá hoại tinh vi của chủ nghĩa đế quốc
Đây là những bài học kinh nghiệm trong quá trình đổi mới của các nước XHCN trong giai đoạn hiện nay.
2.4.1.2 Giai đoạn từ cuối nhưng năm 1980 đến nay
Giai đoạn hiện nay,CNXH thế giới tạm thời lâm vào thoái trào.
Cùng với sự sụp đổ của CNXH ở Đông Âu và Liên Xô,nhiều Đảng Cộng Sản và công nhân bị tan rã,nhiều đảng viên xin ra khỏi Đảng.Nhiều nước dân tộc chủ nghĩa đã định hướng lên CNXH,nhưng giờ đây mất chỗ dựa về tinh thần và vật chất,các lực lượng phản động giành lại chính quyền và đưa đất nước theo con đường khác.Ảnh hưởng của CNXH trên phạm vi toàn thế giới giảm đi nghiêm trọng
Những thế lực phản động quốc tế đang dùng trăm phương nghìn kế,bằng nhiều luận điệu khác nhau để xoá bỏ chủ nghĩa Mac-Lê nin và phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước XHCN trên toàn thế giới,nhằm xác lập địa vị thống trị của cgủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới.Lịch sử đang đặt ra những thử thách vô cùng to lớn cho CNXH,phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong thời đại ngày nay: “chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của dân tộc,có điều kiện tạo ra bước phát triển mới.Theo quy luật tiến hoá của lịch sử,loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”..
Thời đại ngày nay đang diễn ra cuộc đấu tranh gay go,quyết liệt giữa chủ nghĩa xã hội và tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới.Cuộc đấu tranh giữa hai chế độ xã hội khác nhau đã và đang chi phối quá trình vận động và phát triển của lịch sử nhân loại.
Đây là cuộc đấu tranh giữa một chế độ mới ra đời,đang trưởng thành và còn hạn chế về nhiều mặt với một chế độ đã lạc hậu về mặt lịch sử,nhưng đang có những ưu thế nhất đinh về kinh tế,quân sự.
Cuộc đấu tranh giữa hai chế độ khác nhau về bản chất đã và đang diễn ra trên tất các mặt của đời sỗng xã hội:kinh tế,chính trị,tư tưởng,văn hoá.vv..
+ Trong lĩnh vực kinh tế:
Các học giả tư sản đang tìm cách chứng minh nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là vĩnh cửu;chủ nghĩa tư bản không còn bóc lột như trước.
Thế giới tư bản chủ nghĩa đang dựa vào lợi thế kinh tế của mình;chủ nghĩa đế quốc đang tìm trăm phương ngàn kế để phá hoại,hạn chế sự phát triển kinh tế của các nước XHCN bằng bao vây,cấm vận kinh tế,hoặc thông qua chính sách toàn cầu hoá để tiếp tục áp bức bóc lột các nước nghèo đem lại lợi thế to lớn cho các nước phát triển.
+ Trong lĩnh vực chính trị:
Các đảng tư sản,chủ nghĩa đế quốc,đứng đầu là Mỹ đang dùng mọi cách để tuyên truyền quảng bá cho chế độ tư sản,tự do tư sản;biện minh cho chính sách bá truyền của họ để can thiệp vào công cuộc nội bộ các nước.
Bằng âm mưu thủ đoạn khác nhau như mua chuộc,dụ dỗ lôi kéo,lợi dụng những khuyết điểm,hạn chế của một số nước XHCN,tới những biện pháp đe dọa,chủ nghĩa tư bản đang thực hiện âm mưu ‘ diễn biến hoà bình’ nhằm lật đổ nhà nước XHCN,hòng khôi phục lại chế độ tư bản chủ nghĩa ở các nước này.
+ Trong lĩnh vực tư tưởng:
Chủ nghĩa tư bản dựa vào ưu thế kinh tế,khoa học-công nghệ và sức mạnh quân sự đang tìm mọi cách phổ biến những giá trị phương tây,tuyên truyền quan điểm đa phương chính trị,đa đảng hoặc đa giai cấp,phi ý thức hệ,phi chính trị,làm lẫn lộn giữa đúng và sai,phải trái,nhằm chống lại chủ nghĩa xã hội và những lực lượng và hoà bình thế giới.
Đặc biêt ở các nước XHCN,chủ nghĩa đế quốc đã thực hiện chiến lược diễn biến hoà bình,tuyên truyền các lý thuyết tư sản,tìm mọi cách phủ nhận học thyết Mác-Lê nin- lý luận cách mạnh,vũ khí sắc bén của giai cấp công nhân và nông dân lao động.Mặt khác,chúng đang tìm cách mua chuộc,làm thoái hoá về tư tưởng,đạo dức lối sống trong một bộ phận cán bộ đảng viên;tìm cách chia rẽ cán bộ với cán bộ,đảng với dân,cán bộ với nhân dân
2.4.2 Khắc phục
Để vượt qua những thử thách đó,các nước xã hội chủ nghĩa phải tự đổi mới,phải khắc phục những yếu kém,nhược điểm hạn chế trong các lĩnh vực của đời sống xã hội,tranh thủ những điều kiện thuận lợi do cuộc cách mang khoa học xã hội tạo ra,không ngừng nâng cao năng suất lao động,cải thiện đời sống nhân dân,để nâng cao sức mạnh mọi mặt của đất nước.
Trải qua những thăng trầm lịch sử,những người cộng sản ở các nước thuộc Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu hiện nay đã nhận rõ kẻ thù,đang ra sức tập hợp lực lượng,tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ nhằm khôi phục những giá trị của chủ nghĩa xã hội để đưa đất nước trở lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tế những năm vừa qua giúp cho giai cấp công nhân,nhân dân tiến bộ trên thế giới thấy được bộ mặt thật và tính chất nguy hiểm của chủ nghĩa tư bản hiện tại,từ đó đoàn kết nhau lại để đấu tranh xoá bỏ chủ nghĩa tư bản,đưa đát nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội đang tìm cách khẳng định mình,bằng cách huy động mọi tiềm năng,trí tuệ trong nhân dân,điều chỉnh những sai lầm trong cải cách,đổi mới,khắc phục yếu kém trong quản lí kinh tế,tranh thủ những thành tựu của khoa học công nghệ hiẹn đại để chứng minh tính ưu việt của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa..
Các nước xã hội chủ nghĩa,các đảng cộng sản phải tỉnh táo và chủ động kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù,bảo vệ đảng,bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa,bảo vệ thành quả cách mạng.Đồng thời giai cấp công nhân quốc tế,các nhà nước xã hội chủ nghĩa,phải làm rõ tính chất bạo động,hiếu chiến của các tập đoàn tư bản hiện nay,tập hợp mọi lực lượng tư bản tiến bộ,tấn công làm thất bại mọi âm mưu chống phá hoại của kẻ thù.
Các đảng cộng sản,các nhà nước xã hôi chủ nghĩa phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh tư tưởng bằng nhiều cách khác nhau,phê phán những tư tưởng phản động,hiếu chiến muốn duy trì sự thống trị,sự áp bức giữa nước giàu với các nước nghèo,nước lớn đối với nước nhỏ;cổ vũ cho cuộc đấu tranh,vì một thế giới hoà bình,hưu nghị,đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển
3/THÀNH TỰU
Thành tựu nổi bật của các nước xã hôi chủ nghĩa là xoá bỏ chế độ người bóc lột người,đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước,quản lý xã hội.Chính vì lẽ đó,Hồ Chí Minh đã từng bước khẳng định nước Nga có chuyện lạ đời,đem người nô lệ thành người tự do.Đi cùng với việc xây dựng một xã hội tốt đẹp,CNXH còn thiết lập một quan hệ quốc tế bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc.Điều này,hoàn toàn xa lạ với việc dân tộc này áp bức,bóc lột dân tộc khác nhau như trước đây.quan hệ quốc tế trước XHCN luôn luôn là cá lớn nuốt cá bé;nước mạnh,nước lớn thống trị nước nhỏ,nước yếu.CNXH ra dời đã xây dựng một mối quan hệ quốc tế hoàn toàn mới,tốt đẹp,tạo điều kiện cho các quốc gia,dân tộc giúp đỡ lẫn nhau để cùng phát triển.
Khi bắt đầu sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nước xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm khác nhau nhưng có điểm chung nổi bật là đều từ điểm xuất phát thấp về kinh tế-xã hội, nhiều nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Ở châu Âu, tuy kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phát triển ở trình độ nhất định nhưng giai cấp tư sản trước đó cũng chưa tạo được một nền công nghiệp tương đối hoàn chỉnh. Ở châu Á, các nước đi lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ đều là những nước lạc hậu từ sản xuất nhỏ chưa qua tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa các nước đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua những cuộc chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề. Có thấy hết những khó khăn khi bắt tay vào thực hiện những nhiệm vụ chưa từng có tiền lệ trong lịch sử, mới thấy được những thành tựu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội mà các nước đi theo con đường xã hội tạo ra.
Trải qua hơn 70 năm tồn tại và phát triển chủ nghĩa xã hội đã đem lại những thành quả.
Cho dù lịch sử có biến động như thế nào,dù có ai cố tình xuyên tạc lịch sử cũng không thể phủ nhận được sự thật Liên Xô và các nước Đông Âu đã có một thời phát triển rực rỡ và đạt được nhiều thành tựu to lớn sau đây:
3.1 Về kinh tế:
Từ những điểm xuất phát thấp, nhưng nhờ tập trung nguồn lực của cải vật chất, phát huy sức mạnh chính trị, các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu to lớn trong kinh tế. Nước Nga sau cách mạng Tháng Mười, qua 3 năm chiến tranh và nội chiến như người “bị đánh sắp chết” và tồn tại trong vòng vây thù địch của chủ nghĩa đế quốc nhưng đến năm 1938 sản lượng công nghiệp của Liênxô tăng hơn 9 lần so với 1913, trong khi đó Mỹ, Anh và Đức chỉ tăng khoảng 1,3 lần. Liênxô từ một nước nông nghiệp lạc hậu chỉ qua 3 kế hoạch 5 năm thực hiện công nghiệp hoá, điện khí hoá, tập thể hoá và cơ giới hoá nông nghiệp đã trở thành nước công nghiệp tiến tiến. Sự lớn mạnh về kinh tế tạo điều kiện để phát triển công nghiệp quốc phòng, đảm bảo cho Liênxô có điều kiện bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa và góp phần quyết định vào việc chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh thế giới thứ II, hệ thống xã hội chủ nghĩa có sự phát triển to lớn, chỉ tính riêng các nước tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế, khi mới thành lập (1949) chỉ chiếm 20% tổng sản lượng công nghiệp thế giới, đến đầu những năm 80 đã chiếm 40%. Nhịp độ phát triển kinh tế trong những năm 60, 70 của thế kỷ XX ở các nước xã hội chủ nghĩa đã cao hơn 2 lần so với các nước tư bản chủ nghĩa. Trong vong 20 năm đó tốc độ tăng trưởng kinh tế của cá nước XHCN đạt được mức trung bình trên 7%/năm.Trong khoảng gần 30 năm trước đây,Trung quốc luôn giữ được mức tăng trưởng kinh tế xấp xỉ 9%/năm(năm 1993 đạt 13.4%0,Việt Nam được xem là nước phát triển cao thứ hai Châu á(sau Trung Quốc)đã gần 20 năm giữu tốc độ tăng trưởng kinh tế xấp xỉ 8%/năm.
3.2 Về chính trị.
Chế độ người bóc lột người đã bị xoá bỏ, trên phạm vi toàn xã hội không còn tồn tại giai cấp bóc lột, chế độ xã hội chủ nghĩa từng bước được xây dựng, nhân dân lao động trở thành người làm chủ đất nước. Chế độ xã hội chủ nghĩa đã tạo nên sự thống nhất trong cộng đồng xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lí điều hành của nhà nước đã tập trung được mọi nguồn lực, sự đồng thuận của xã hội để vượt qua khó khăn thử thách.
Thứ nhất,Chế độ xã hội chủ nghĩa đã từng bước đưa nhân dân lao động lên làm chủ nghĩa xã hôi,thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế giới.
Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chế độ dân chủ tiến bộ được thiết lập.Bắt đầu từ bản chất giai cấp của nó,chế độ dân chủ chủ nghĩa,chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dâ lao động,thực hiện ngày càng đầy đủ những quyền dân chủ,ngăn ngừa và trấn áp những hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân.
Chế độ xã hội chủ nghĩa khống chỉ đảm bảo quyền làm chủ trên thực tế cho nhân dân lao động ở các nước xã hội chủ nghĩa,mà hơn thế nữa nó còn thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ ở các nước tư bản chủ nghĩa và trên toàn thế giới.
3.3 Về văn hoá,khoa học kỹ thuật.
Các nước xã hội chủ nghĩa cũng đã đạt được những thành tựu rực rỡ: nâng cao trình độ học vấn cho người lao động, dẫn đầu thế giới về nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực nghiên cứu chinh phục khoảng không vũ trụ. Trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế cũng có những thành tựu.
Với sức mạnh tổng hợp của mình, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã có ảnh hưởng to lớn đến đời sống chính trị thế giới. Chủ nghĩa xã hội trở thành chỗ dựa của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào bảo vệ hoà bình thế giới. Các nước xã hội chủ nghĩa đã góp phần thức tỉnh, cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Ở nhiều nước sau khi giành độc lập dân tộc đã lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa cho dân tộc mình. Cũng chính sự lớn mạnh của chủ nghĩa xã hội, sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động những thập niên 50, 60 và 70 của thế kỷ XX buộc các nước tư bản chủ nghĩa muốn tồn tại phải có những điều chỉnh của nó.
Trước khi cách mạng XHCN thành công thì hầu hết các nước này trình độ học vấn của nhân dân còn thấp kém,số người mù chữ chiếm tỉ lệ lớn (nước Nga trước cách mạng tháng 10 có đến trên 755 số người mù chữ) thế mà sau một thời gian xây dựng XHCH trình độ học vấn của các nước XHCN tương đối cao và đồng đều (năm 1987 Liên Xô có 154 triệu người có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở nên)
Không chỉ thu được nhiều thành tựu trên lĩnh vực chính trị,kinh tế,xã hội mà ngay trên lĩnh vực quân sự,quốc phòng các nước XHCN cũng gặt hái nhiều thành tựu to lớn.Nhờ vậy,các nước XHCN đã bảo vệ được thành quả cách mạng,bảo vệ nền hoà bình thế giới,chỗ dựa cho phong trào cách mạng thế giới.
Những thành tựu to lớn mà các nước XHCN giành được là hết sức đáng trân trọng,đáng ghi nhận.
Tóm lại,từ tháng 11 năm 1917 cho đến sự kiện tháng 8 năm 1991,chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã tồn tại hơn 70 năm,ở các nước Đông Âu hơn 40 năm kể từ năm 1945.Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã trải qua một thời kì phát triển mạnh mẽ,có những thành tựu to lớn và đã phát huy tác dụng mạnh mẽ đến tiến trình phát triển lịch sử của loài người.Sự phát triển như vũ bão của 3 dòng thác cách mạng trong suốt mấy thập kỷ qua đã gắn liền với sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thự và với hệ thống xã hội chủ nghĩa.
3.4 Liên hệ với Việt Nam về những thành tựu đã đạt được
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc… Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương, chính sách, sản xuất trong nước ngày càng phát triển, lưu thông ngày càng thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, xã hội ngày càng lành mạnh, qua đó, chế độ XHCN ngày càng được củng cố…
3.4.1 Kinh tế thị trường định hướng XHCN
Có thể nói, đây là thành quả to lớn và quan trọng của nghiên cứu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN là mô hình kinh tế mới mẻ chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Tư duy lý luận và nhận thức về KTTT định hướng XHCN là một quá trình lâu dài, thường xuyên và qua nhiều bước với mục tiêu không thay đổi là xây dựng thành công CNXH ở nước ta.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội; trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì thế không Kinh tế thị trường chỉ là “công nghệ”, là “phương tiện” để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó không chỉ gồm lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy rõ ràng là không thể có một nền KTTT chung chung, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước định hướng xã hội chủ nghĩa.Kinh tế thị trường hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của Kinh tế thị trường vừa chịu sự chi phối của các nhân tố định hướng xã hội chủ nghĩa.Vì thế ở nư Kinh tế thị trường nước ta vừa có những đặc trưng chung, phổ biến của mọi nền, vừa có n Kinh tế thị trường những đặc trưng mang tính đặc thù - định hướngxã hội chủ nghĩa.Theo tinh thần của các đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ lần thứ VI đến lần thứ X định hướng xã hội chủ nghĩa nền Kinh tế thị trường thể hiện ở các nội dung sau đây: Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, đồng thời khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng và giúp đỡ, tạo điều kiện để người khác thoát khỏi nghèo, từng bước khá giả hơn; phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng với nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội; phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.Sự khác nhau về bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình phát triển là điều kiện, là một “tiêu thức” quy định đặc trưng bản chất của nền Kinh tế thị trường nước ta. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định thành công sự phát triển rút ngắn, bền vững nền Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, Kinh tế thị trường... mới không bị chệch định hưVề tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (1986-1991) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi quá trình đổi mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo chủ quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng hoảng kinh tế thị trường.
Do tốc độ tăng GDP cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ 289 USD (năm 1995) lên 1.024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang từng bước vượt qua ranh giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và đang vươn lên nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo quy ước chung của quốc tế và xếp loại các nước theo trình độ phát triển thì nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp là những nước có GDP/người từ 765 đến 3.385 USD).Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế .
Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa, tích vực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới. Từ một quốc gia bị phong toả, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển và “đóng cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ; mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, Việt Nam còn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân cũng được cải thiện rõ rệt. Theo đánh giá của Liên hiệp quốc, Việt Nam về đích trước 10 năm với mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ.
Đánh giá về thành công của quá trình đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hộingày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận và công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản
C.LỜI KẾT
Sự ra đời của hệ thống các nước XHCN là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự trưởng thành của phong trào cách mạng chống áp bức bóc lột trên toàn thế giới.Tuy trong quá trình hình thành, phát triển hoàn thiện còn gặp nhiều thách thức,khó khăn nhưng với những cố gắng của những người trực tiếp lãnh đạo đảng và sự đồng lòng của các tầng lớp bị bóc lột.Các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa đã từng bươc khắc phục khó khăn và đạt được nhiều thành tựu trên mọi mặt của đời sống xã hội.Đây là một minh chứng cho sự đúng đắn của mô hình xã hội chủ nghĩa và lý luận Mác-Lê nin.Không ai có thể phủ nhận những thành quả mà xã hội chủ nghĩa mang lại.Những gì mà Việt nam đã và đang là trong tương lai nhằm phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn.Đặc biệt,chúng ta những sinh viên năm nhất của đại học công nghiệp chúng ta phải luôn cố gắng,phấn đấu nỗ lực học tập để có thế đóng góp sức lực của mình cho xã hội cũng như đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Website: www.tailieu.vn-tiểu luận hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.
Gs- Ts Đỗ Nguyên Phương(2010) GIÁO TRÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC ,nxb Chính Trị Quốc Gia
Bộ giáo dục và đào tạo(2007) CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC,Nxb Chính Trị Quôc Gia
HẾT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.doc