Sự vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp của Nguyễn Ái Quốc trong cương lĩnh đầu tiên của đảng cộng sản Việt Nam (3.2.1930)

Trong công cuộc đổi mới đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp, tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức làm nền tảng; lấy mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh” làm điểm tương đồng. Mục tiêu đó không phải chỉ là vấn đề giai cấp mà vừa là giai cấp, vừa là dân tộc. Nó chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản mới đại biểu chân chính cho lợi ích dân tộc, mới xây dựng được mặt trận đại đoàn kết dân tộc để thực hiện mục tiêu trên.

pdf8 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6381 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp của Nguyễn Ái Quốc trong cương lĩnh đầu tiên của đảng cộng sản Việt Nam (3.2.1930), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 31 Sự vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa mác – lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp của nguyễn ái quốc trong c−ơng lĩnh đầu tiên của đảng cộng sản Việt nam (3.2.1930) Thái Bình D−ơng (a) Tóm tắt. Thông qua bài viết này, tác giả đã chỉ rõ sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin của Nguyễn ái Quốc về vấn đề dân tộc và thuộc địa vào một n−ớc nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Qua đó, tác giả cũng làm sáng tỏ t− t−ởng độc lập tự chủ của Nguyễn ái Quốc thông qua giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong C−ơng lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. ại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “T− t−ởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của n−ớc ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại” [3, tr. 83]. Để làm sáng tỏ khẳng định của Đảng, ở bài viết này chúng tôi đi sâu nghiên cứu một trong những vấn đề vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin của Hồ Chí Minh là: vấn đề dân tộc và giai cấp trong C−ơng lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (3.2.1930). 1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam Vào những năm đầu thế kỷ XX, tr−ớc sự thất bại của các phong trào dân tộc, Nguyễn Tất Thành khâm phục tinh thần yêu n−ớc của các bậc tiền bối đ−ơng thời nh−ng không tán thành con đ−ờng, ph−ơng pháp cách mạng của họ, Ng−ời đã ra đi tìm con đ−ờng cứu n−ớc mới, với mong muốn là “làm sao cho n−ớc ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng đ−ợc học hành”. Cuộc hành trình đi qua các châu lục đã giúp Ng−ời có điều kiện nghiên cứu các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, nh− cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp, nh−ng các cuộc cách mạng đó vẫn là cách mạng dân chủ t− sản, “không đến nơi đến chốn”. Sau gần m−ời năm tìm tòi khảo nghiệm ở các n−ớc t− bản, các thuộc địa trên thế giới, tháng 7-1920, Nguyễn ái Quốc đã đọc Sơ thảo lần thứ nhất những Luận c−ơng về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, bản Luận c−ơng đó đã đáp ứng nguyện vọng, khát khao tìm kiếm của Ng−ời. Nguyễn ái Quốc đã viết: “Luận c−ơng của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin t−ởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc . Nhận bài ngày 03/5/2006. Sửa chữa xong 22/12/2006. Đ Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 32 lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên nh− đang nói tr−ớc quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đ−ờng giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” [6, tr. 127]. Tháng 12 năm 1920, Nguyễn ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp. Ng−ời đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, trở thành một trong những ng−ời sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Đây là mốc chuyển biến quan trọng trong quá trình tìm đ−ờng cứu n−ớc của Nguyễn ái Quốc, từ một ng−ời yêu n−ớc trở thành một chiến sĩ cộng sản, từ chủ nghĩa yêu n−ớc đến chủ nghĩa quốc tế vô sản, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp. Theo Ng−ời, khi chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ thống, cách mạng giải phóng dân tộc không thể tiến hành riêng lẻ, muốn thắng lợi phải đặt vào quỹ đạo cách mạng vô sản, phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên thế giới, tập hợp lực l−ợng để chống chủ nghĩa đế quốc. V−ợt qua những hạn chế về t− t−ởng của các nhà yêu n−ớc tiền bối và đ−ơng thời, Nguyễn ái Quốc đã đến với học thuyết cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm đ−ợc con đ−ờng cứu n−ớc và giải phóng dân tộc: con đ−ờng cách mạng vô sản. Con đ−ờng đó đã đáp ứng yêu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam và phù hợp với xu thế của thời đại – thời đại quá độ từ chủ nghĩa t− bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cách mạng tháng M−ời Nga (1917). Sau khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn ái Quốc đã tích cực hoạt động trong phong trào Cộng sản công nhân quốc tế; đồng thời Ng−ời đã nghiên cứu và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng thuộc địa, xây dựng hệ thống lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tổ chức truyền bá lý luận đó vào Việt Nam, từng b−ớc chuẩn bị về chính trị, t− t−ởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ng−ời đã viết nhiều bài báo đăng trên các báo Ng−ời cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân, Th− tín Quốc tế, Sự thật và các tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Đ−ờng cách mệnh, nhằm vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân và từng b−ớc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân, phong trào yêu n−ớc. Tháng 11 năm 1924, Ng−ời từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc), Ng−ời đã tiếp cận với tổ chức Tâm tâm xã, giúp đỡ, cải tổ và sáng lập Hội Việt Nam Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 33 Cách mạng Thanh niên (6 – 1925), hạt nhân là Cộng sản đoàn. Đây là một b−ớc chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có ảnh h−ởng ngày càng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng Việt Nam, làm cho khuynh h−ớng cứu n−ớc, giải phóng dân tộc theo con đ−ờng cách mạng vô sản ngày càng chiếm −u thế. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin của Nguyễn ái Quốc vào phong trào công nhân và phong trào yêu n−ớc, cùng với việc xây dựng các tổ chức chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở cả ba kỳ đã thúc đẩy phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam: Đông D−ơng Cộng sản Đảng (6 - 1929), An Nam Cộng sản Đảng (8 - 1929) và Đông D−ơng Cộng sản Liên đoàn (1 - 1930). Với t− cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông D−ơng, Nguyễn ái Quốc đã chủ động triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để lập ra một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Hội nghị bắt đầu họp ngày 06 tháng 01 năm 1930, tại Cửu Long, H−ơng Cảng (Trung Quốc). Tham dự Hội nghị có Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, đại biểu của Đông D−ơng Cộng sản Đảng; Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu, đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng. Hội nghị đã thông qua Chánh c−ơng vắn tắt, Sách l−ợc vắn tắt của Đảng.., do Nguyễn ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành C−ơng lĩnh đầu tiên của Đảng ta. Bản C−ơng lĩnh rất ngắn gọn, cô đọng, đã xác định những vấn đề cơ bản về chiến l−ợc, sách l−ợc, ph−ơng h−ớng, nhiệm vụ tr−ớc mắt và lâu dài của Đảng, của cách mạng Việt Nam. 2. Sự vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp của Nguyễn ái Quốc trong C−ơng lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam Phân tích tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam, C−ơng lĩnh chỉ rõ: “T− bản bản xứ đã thuộc t− bản Pháp, vì t− bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang đ−ợc. Còn về nông nghệ một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy t− bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc đ−ợc, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ tr−ơng làm t− sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 34 để đi tới xã hội cộng sản” [5, tr. 1]. Nh− vậy, ngay trong C−ơng lĩnh đầu tiên của Đảng, Nguyễn ái Quốc đã chỉ rõ cách mạng Việt Nam phải đi từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, đây là nội dung cốt lõi, sợi chỉ đỏ xuyên suốt t− t−ởng của Ng−ời. Về nhiệm vụ cụ thể của cách mạng: Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho n−ớc Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức ra quân đội công nông. Về kinh tế, tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho chính phủ công nông binh, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ. Về văn hoá xã hội, dân chúng đ−ợc tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo h−ớng công nông hoá. Những nhiệm vụ trên đây đã bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Nh− vậy, ngay trong các văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên trên hết, tr−ớc hết. Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Nguyễn ái Quốc. Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, vấn đề quan trọng, cốt lõi của cách mạng vô sản là đấu tranh giai cấp. Bởi vì, vấn đề dân tộc luôn gắn với một giai cấp nhất định, không có dân tộc phi giai cấp, siêu giai cấp. Vấn đề dân tộc ở các n−ớc Tây Âu đã đ−ợc giai cấp t− sản giải quyết. Nguyễn ái Quốc đã nghiên cứu sâu và nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó có vấn đề dân tộc và giai cấp. Theo Ng−ời, “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nh−ng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó ch−a phải là toàn thể nhân loại” [4, tr. 465]. Phải bổ sung phát triển cho chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học ph−ơng Đông. Theo Ng−ời, ở các n−ớc Tây Âu là các quốc gia, dân tộc độc lập, không có sự xâm l−ợc của chủ nghĩa đế quốc mà chính các n−ớc đó lại đi xâm l−ợc, áp bức thuộc địa. Mặt khác, ở các n−ớc Tây Âu xã hội công dân ra đời sớm, sự phân hoá giai cấp diễn ra sâu sắc giữa t− sản và vô sản đối chọi nhau, một mất, một còn. Giai cấp vô sản đấu tranh lật đổ t− Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 35 sản, thiết lập chuyên chính vô sản để giải phóng cho giai cấp mình nh−ng đồng thời cũng giải phóng cho dân tộc khỏi sự kìm hãm của giai cấp t− sản. Vì thế, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác đã kêu gọi: “giai cấp vô sản mỗi n−ớc tr−ớc hết phải giành lấy chính quyền, phải tự v−ơn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa nh− giai cấp t− sản hiểu” [8, tr. 623]. Vấn đề Mác, Ăngghen quan tâm là vấn đề mà xã hội Tây Âu quan tâm: đấu tranh giai cấp. Điều đó hoàn toàn đúng ở Tây Âu. Đ−a vấn đề đó vào Việt Nam thì đúng nh−ng ch−a đủ, vì ở Việt Nam xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, mâu thuẫn giai cấp ch−a phát triển cao nh− ở Tây Âu. Vấn đề này đã đ−ợc Ng−ời chỉ rõ “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra nh− ở ph−ơng Tây”, bởi vì “về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội ph−ơng Tây thời Trung cổ, cũng nh− thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt nh− ở đây” [4, tr. 465]. Nguyễn ái Quốc phân tích làm sáng rõ: “Những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ và những kẻ mà ở đó đ−ợc coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt, bên cạnh những ng−ời trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ”... “nếu nông dân gần nh− chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn; nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc. Sự xung đột về quyền lợi của họ đ−ợc giảm thiểu. Điều đó, không thể chối cãi đ−ợc” [4, tr. 464]. Mặt khác, Việt Nam còn bị sự xâm l−ợc của chủ nghĩa đế quốc, dân tộc còn nô lệ. Cho nên, địa chủ, nông dân, t− sản dân tộc, tiểu t− sản đều có điểm t−ơng đồng là ng−ời dân nô lệ, mất n−ớc và có nguyện vọng giải phóng dân tộc. Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam cần giải quyết là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc xâm l−ợc. Vì vậy, muốn giải phóng giai cấp vô sản theo học thuyết Mác – Lênin thì tr−ớc hết phải giải phóng cho dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Có giải phóng đ−ợc dân tộc mới giải phóng đ−ợc giai cấp, nếu chỉ đấu tranh giải phóng giai cấp thì không thể giải phóng đ−ợc giai cấp và cũng không thể giải phóng đ−ợc dân tộc. Về vấn đề này, Đại hội lần thứ VI (1928) của Quốc tế Cộng sản cũng cho rằng, cách mạng ở các n−ớc thuộc địa nh− Trung Quốc, ấn Độ và các thuộc địa t−ơng tự, phải tiến hành cách mạng dân chủ t− sản; đồng thời hai nhiệm vụ Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 36 chiến l−ợc là chống đế quốc và chống phong kiến, song song với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, vấn đề cách mạng ruộng đất là vấn đề mấu chốt; là x−ơng sống của cách mạng dân chủ t− sản ở các n−ớc thuộc địa tiên tiến. Đánh giá về thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp, Quốc tế Cộng sản cho rằng, “giai cấp t− sản mại bản ở thuộc địa là đồng minh của chủ nghĩa đế quốc. Giai cấp t− sản dân tộc do dự, sẵn sàng thoả hiệp, theo chủ nghĩa dân tộc cải l−ơng” [9, tr. 121]. Đối với tầng lớp tiểu t− sản trí thức, Quốc tế Cộng sản cho rằng, phong trào quần chúng lại có thể lôi cuốn họ và cũng có thể đẩy họ về phe phản động nhất hoặc truyền bá trong hàng ngũ của họ những khuynh h−ớng phản động không t−ởng. Nh− vậy, Quốc tế Cộng sản đã nhận định đúng tác dụng của yếu tố dân tộc đối với tiến trình cách mạng nh−ng đã đánh giá không chính xác giai cấp t− sản dân tộc và tầng lớp tiểu t− sản. Nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã độc lập, tự chủ đề ra đ−ờng lối chiến l−ợc, sách l−ợc đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, không giáo điều, rập khuôn. Từ sự phân tích, thấy rõ vai trò, vị trí của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, Ng−ời chủ tr−ơng liên minh các giai cấp, các tầng lớp yêu n−ớc: “Đảng phải thu phục cho đ−ợc đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn địa chủ và phong kiến. … Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu t− sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,.v.v.. để lôi kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và t− bản An Nam mà ch−a rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến v.v..) thì phải đánh đổ” [5, tr. 3]. Nguyễn ái Quốc đặt giải phóng dân tộc lên hàng đầu nhằm đoàn kết tập hợp hết thảy các lực l−ợng yêu n−ớc, th−ơng nòi, tạo ra sức mạnh dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, Ng−ời luôn đứng vững trên lập tr−ờng, quan điểm của giai cấp vô sản để giải quyết vấn đề dân tộc: “Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải cẩn thận, không khi nào nh−ợng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đ−ờng thoả hiệp” [5, tr. 3]. Nh− vậy, Nguyễn ái Quốc đã đứng vững trên lập tr−ờng của giai cấp vô sản để giải quyết vấn đề dân tộc. T− t−ởng của Ng−ời đ−ợc thể hiện trong C−ơng lĩnh đầu tiên Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 37 của Đảng “là một c−ơng lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo theo con đ−ờng cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm đ−ợm tinh thần dân tộc vì độc lập tự do, tiến hành cách mạng t− sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản là t− t−ởng cốt lõi của c−ơng lĩnh này” [1, tr. 58]. T− t−ởng đó đã soi sáng cho Đảng và nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám (1945). Lựa chọn con đ−ờng cứu n−ớc, giải phóng dân tộc theo con đ−ờng cách mạng vô sản, Nguyễn ái Quốc đã vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc do giai cấp vô sản lãnh đạo ở một n−ớc thuộc địa, nửa phong kiến. Đúng nh− nguyên Tổng bí th− Lê Duẩn đã viết: “Chủ nghĩa xã hội của Mác – Lênin đã đ−ợc nhà cách mạng sáng suốt nhất và cũng đầy nhiệt huyết nhất của dân tộc Việt Nam hoà và trao lại cho giai cấp công nhân Việt Nam. Nhà cách mạng ấy là đồng chí Nguyễn ái Quốc” [1, tr.58]. Trong công cuộc đổi mới đ−a đất n−ớc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã quán triệt t− t−ởng Hồ Chí Minh, nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp, tăng c−ờng và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức làm nền tảng; lấy mục tiêu “dân giàu, n−ớc mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh” làm điểm t−ơng đồng. Mục tiêu đó không phải chỉ là vấn đề giai cấp mà vừa là giai cấp, vừa là dân tộc. Nó chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản mới đại biểu chân chính cho lợi ích dân tộc, mới xây dựng đ−ợc mặt trận đại đoàn kết dân tộc để thực hiện mục tiêu trên. Nhìn lại thắng lợi cách mạng Việt Nam hơn bảy m−ơi năm qua d−ới sự lãnh đạo của Đảng và nhìn rộng ra tình hình thế giới vào những thập niên cuối thế kỷ XX, chúng ta dễ dàng nhận thấy đâu là nguyên nhân dẫn đến thắng lợi, đâu là nguyên nhân dẫn đến sự tan rã, sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa; của chiến tranh dân tộc, xung đột sắc tộc, chúng ta càng trân trọng và tự hào với di sản t− t−ởng lý luận quý báu mà Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và cho dân tộc. Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 38 Tài liệu tham khảo [1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội 2005. [2] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình t− t−ởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005. [3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001. [4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000. [5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000. [6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000. [7] Lê Duẩn, Một số đặc điểm của cách mạng Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội 1987. [8] C. Mác và Ph. ăngghen, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. [9] Nguyễn Thành, Quốc tế Cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa, NXB Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội, 1987. Summary Ho chi minh’s creative application and development of Marxism-leninism about the nation and class issues in the first platform of the communist party of Vietnam (3-2-1930) This article clarifies that Ho Chi Minh’s ideology of independence and sovereignty is the creative application and the development of Marxism - Leninism in a semi-feudal and semi colonial country through solving the relation between the nation and class in the first Platform of the communist Party of Vietnam. (a) Khoa giáo dục chính trị, tr−ờng Đại học Vinh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4thaibinhduong8tr31_38_091105152131_429.pdf
Luận văn liên quan