MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề quan trọng quyết định đến vận mệnh của dân tộc - đó là tư duy nhận thức của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, hoạt động nhận thức (tư duy) của Đảng có vai trò, ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trên cơ sở của một nhận thức nhất định mà Đảng vạch ra đường lối, chủ trương, chính sách. Nhận thức đúng, sai quyết định đến xu hướng, bước tiến, qui mô và có thành bại của cuộc cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những thành tựu nổi bật và độc đáo trong tư duy về con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đã được chủ nghĩa Mác - Lênin giải quyết khá căn bản về mặt lý luận. Dường như, sau khi giành được chính quyền, các Đảng Cộng sản chỉ việc quán triệt cho đầy đủ những luận điểm lý luận và sử dụng kinh nghiệm của các nước đi trước cho phù hợp với hoàn cảnh nước mình. Nhiều lắm là đem đến cho nó một vẻ riêng biệt nào đó trên cơ sở của cùng một con đường, đã được hình dung sẵn. Nhưng trong thực tế ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và ở Việt Nam, đã có một quá trình không đơn giản, thậm chí có không ít vấp váp, sai lầm, đến độ phải đổi mới nhận thức về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đảng ta hình dung ngay từ khi thành lập Đảng. Đó là con đường sau khi đã hoàn thành cuộc cách mạng điền địa và phản đế, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Đảng đã bước đầu chuẩn bị cho những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhưng phải đến năm 1954, sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, vấn đề quá độ mới thực sự được đặt ra. Những kinh nghiệm và nhận thức của hai Đảng lớn Liên Xô, Trung Quốc về thời kỳ quá độ khi ấy được thừa nhận là có ý nghĩa phổ biến.
Vì những lí do chủ quan và khách quan, mặc dù có nêu việc đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội (tại Hội nghị Trung ương lần VIII, 8-1955). Thời kỳ kỳ 1954 - 1957 Đảng chưa thể vạch ra một chương trình tổng thể xây dựng miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Những giải pháp kinh tế-xã hội xuất phát từ thực tiễn đất nước nhằm khôi phục kinh tế đã tỏ ra có hiệu quả to lớn. Nhưng nó sớn bị ngưng lại và dường như chỉ được coi là chuẩn bị tiền đề cho miền Bắc bắt đầu vào thời kỳ quá độ, hơn là những biện pháp, chủ trương cần có của chính thời kỳ quá độ.
Khi rõ ràng không còn khả năng hiệp thương hoà bình giải quyết vấn đề thống nhất đất nước, khi gánh nặng của cuộc cách mạng ở từng miền và cả nước tuỳ thuộc vào đôi vai của miền Bắc và sau Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân ở Matxơcơva 1957 và 1960. Đảng dứt khoát khẳng định miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ và mặc nhiên thừa nhận những quy luật của cuộc cách mạng theo các mô hình chung lúc đó.
Nhà nước chuyên chính vô sản trên nền tảng kinh tế của chế độ công hữu dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiến hành các cuộc cải biến về văn hoá - tư tưởng nhằm thiết lập hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa. Từ Đại hội III (9-1960) đến Đại hội IV (12-1976) của Đảng, những quan điểm đó không thay đổi, về hình thức, bước đi để giải quyết các nhiệm vụ kinh tế - chính trị của thời kỳ quá độ - Chủ trương tương đối nhất quán của Đảng là phải tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Từ 1976, Đảng có chủ trương kết thúc thời kỳ quá độ sau vài ba kế hoạch 5 năm. Có thể nói, với công thức chuyên chính vô sản - chế dộ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, mà Đại hội IV đề ra những quan niệm về “chủ nghĩa xã hội - Nhà nước” đã đạt đến nhận thức cao nhất vượt qua những điều kiện thực tiễn đất nước.
Nội dung nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thời kỳ 1975 - 1986 đã được nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu tổng kết bằng những nhận định, tư liệu phong phú và sâu sắc. Trong bài viết này tôi xin đi sâu hơn về quá trình nhận thức của Đảng. Đó là quá trình tìm tòi, phát hiện và không ngừng đấu tranh để giữ vững lập trường cách mạng theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình nhận thức được chia làm 2 thời kỳ và được đánh dấu bằng hai kỳ đại hội. Đó là đại hội IV và V của Đảng. Từ 1975 - 1986 nhận thức của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội càng được củng cố và nâng cao hơn.
A. MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 4
Chương 1: VÀI NÉT VỀ NHẬN THỨC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN, HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CSVN VỀ ĐỔI MỚI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM. 4
1.1. Khái niệm đổi mới 4
1.2. Quan điểm về thời kỳ quá độ lên CNXH 4
1.2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. 4
1.2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh. 11
1.2.3 Quan điểm của Đảng. 12
Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CNXH Ở NƯỚC TA TỪ 1986 – NAY. 13
2.1. Tính tất yếu của việc hình thành đường lối đổi mới trong công cuộc xây dựng CNXH Ở Việt Nam. 13
2.1.1. Về mặt khách quan: 13
2.1.2 Về mặt chủ quan: 17
2.2 Quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta từ 1986 đến nay. 19
2.2.1 Đường lối đổi mới từng bước được hình thành trong quấ trình Đảng chỉ đạo cách mạng Việt Nam 1975 - 1985. 19
2.2.2 Đại hội VI – Khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện các mặt và các Đại hội sau tiếp tục bổ sung 21
2.3 Đánh giá, nhận xét đường lối đổi mới trong công cuộc xây dựng CNXH từ 1986 đến nay. 31
2.3.1 Thành tựu đạt được. 31
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân hạn chế. 35
2.4 Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm về đường lối đổi mới của ta trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta từ 1986 đến nay. 36
2.4.1 Ý Nghĩa. 36
2.4.2. Bài học kinh nghiệm 37
C. KẾT LUẬN. 39
40 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11658 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc của Đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a, xã hội, chính trị và ngược lại chiến tranh, hợp tác song phương, đa phương.
Toàn cầu hóa bắt đầu từ quốc tế hóa sản xuất, biến đổi mạnh mẽ, phân công lao động, chuyên môn hóa thúc đẩy bởi những cải biến trong công cụ, cái yếu tố “ động’ nhất của LLSX, nới rộng thị trường, tăng lên không ngừng hoạt động thương mại.
- Toàn cầu hóa trong Khoa học – công nghệ
- Toàn cầu hóa và khuôn khổ một nền kinh tế toàn cầu là một xu thế lớn nhất của thế giới, nó chứa đựng các cơ hội đồng thời cũng là thách thức quan trọng đối với mọi quốc gia.
- Toàn cầu hóa không chỉ là tác nhân tạo cơ hội một mà mỗi quốc gia dân tộc cần phải đón kịp không bỏ lỡ bằng cách cổ đông hội nhập kinh tế quốc tế, ra sức hội nhập thành quả cách mạng Khoa học – công nghệ, phát sinh hậu quả tiêu cực là thách thức vượt qua- tác động toàn cầu hóa tới mọi mặt đời sống xã hội.
- Toàn cầu hóa gắn liền với mọi mở cửa hội nhập, gắn liền quá trình tiếp xúc – giao lưu, đàm thoại giữa các nền văn hóa của các dân tộc, thuộc các khu vực khác nhau, làm phong phú, sống động đời sống văn hóa trong thế giới toàn cầu hóa. Văn hóa thông qua đó tham dự phát triển đồng thời mọi chi phối, định hướng bản thân sự phát triển ấy.
- Cuộc khủng hoảng của CNXH hiện thực và vấn đề thời đại.
Cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX trong khi các nước TBCN phương tây ra sức tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng Khoa học – công nghệ vào sản xuất, nâng cao đáng kể năng xuất lao đỗngã hội với mức tăng trưởng kinh tế đồng thời áp dụng những công nghệ hiện đại vào quản lý, nhạy bén và năng động trước những cải cải cách của kinh tế - xã hội thì các nước XHCN lại rơi vào tình trạng trì trệ , xuất hiện những dấu hiệu khủng hoảng, đứng trước nguy cơ tụt hậu khá nghiêm trọng so với CNTB.
Đây là tình huống phức tạp, đặt CNXH hiện thực tiêu biể mô hình Liên Xô lúc đó( CNXH Xô Viết hay CNXH nhà nước) Trước những thử thách nặng nề , các nước CNXH bỏ lỡ mất cơ hội tận dụng thành tựu của cách mạng Khoa học – công nghệ. Thách thức đặt ra cho các nước XHCN từ Liên Xô từ Liên Xô – Tây Âu, hệ thống XHCN trên thế giới vào thế đối mặt trực tiếp, sự trì trệ của thể chế tập trung quan liêu, tâm lý bảo thủ, lạc hậu của lý luận, công tác tư tưởng gây tâm trạng khép kín phát triển đơn tuyến ( trong hệ thống XHCN với nhau). Công nghệ giáo điều, hình thức, bệnh quan liêu duy ý trí phổ biến đã cản trở nhận thức cái mới , chậm phát triển vấn đề , chậm sữa chữa khuyết tật mà các Đảng cầm quyền trong các nước XHCN mắc.
2.1.2 Về mặt chủ quan:
- Cách mạng Việt Nam chuyển sang một gia đoạn mới, xây dựng, phát triển theo di huấn của chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Cách mạng Việt Nam chuyển sang gia đoạn mới, cả nước cùng thực hiện một nhiệm vụ chiến lược, xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN. Tình hình mới xuất hiện yeeuu cầu mới , đòi hỏi chuyển biến , đổi mới đồng bộ của Đảng, nhà nước, nhân dân ta thuộc mọi phiến diện, từ tổ chức tới tác động, từ phương thức , phương pháp lãnh đạo, quản lý đến cơ chế chính sách thực hiện, từ nhận thức đến hoạt động của mỗi cá nhân trong tổ chức, các cấp, nghành từ tư đến địa phương, cơ sở.
Xuyên qua tất cả đòi hỏi đó là đổi mới quan hệ Đảng – Nhà nước – nhân dân phù hợp tình hình nhiệm vụ mới từ chiến tranh đến hòa bình, chiến tranh chống ngoại xâm giành độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ sang xây dựng tổ chức cuộc sống mới, phát triển kinh tế văn hóa nâng cao không ngừng cơ sở vật chất tinh thần cho nhân dân, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của toàn dân được sống trong độc lập tự do hạnh phúc.
Hậu quả nặng nề của chiến tranh, khó khăn phức tạp mới nảy sinh sau chiến tranh. Đế quốc Mỹ 25 năm ( 954 – 1975) tiếp sức cho chế độ ngụy quyền tay sai và xâm lược Miền Nam phát động chiến tranh phá hoại hủy diệt miền Bắc. Những khuyết điểm, những sai lầm trong chỉ đạo thực hiện đường lối chủ trương chính sách làm tăng thêm những khó khăn phức tạp của tình hình kinh tế xã hội, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng ở nước ta trước đổi mới. Những sai lầm của Đảng ta:
Trong nhận thức hoạt động chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, chưa nắm vững, vận dụng đứng quy luật, sự phù hợp giữa quan hệ sản xuât và tính chất trình độ LLSX.
Nhiều chính sách cơ chế lỗi thời chưa được thay đổi , một số thể chế còn chắp vá , không ăn khớp trái ngược. Tập trung quan lưu còn nặng, hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật khá phổ biến. Cần khắc phục hai khuynh hướng: Bảo thủ, trì trệ, không muốn đổi mới và nóng vội, giản đơn muốn giải quyết mọi vấn đề trong một thời gian ngắn.
Chưa có chính sách, cơ chế về tài chính gắn liền với chính sách đúng đắn về giá cả, tín dụng, tiền tệ, tiền lương.
Chi ngân sách nặng tính bao cấp, một thời gian dài vượt quá nguồn thu gây thâm hụt ngân sách dẫn đến lạm phát trầm trọng.
Phạm sai lầm trong việc giải quyết vấn đề giá, lương, tiền. Sai lầm trong lĩnh vực phân phối lưu thông là sai lầm rất nghiêm trọng trong lãnh đạo quản lý kinh tế. Những sai lầm trên là những sai lầm rất nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược, tổ chức thực hiện.
Sau khi giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta đã cũng đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức mới. Tư tưởng chủ quan, say xưa với chiến thắng, nóng vội muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cộng với những khuyết điểm của mô hình kinh tế hoạch hóa, tập trung quan lưu bao cấp ngày càng rõ làm cho tình hình kinh tế rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đó, cuối những năm 70 của thể kỷ XX ở một số địa phương, một số lĩnh vực bắt đầu có những tìm tòi thử thách, cách làm mới, đưa ra những lời giải đát cho những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Qua những thành công bước đầu đạt được trong quá trình tìm tòi, thử nghiệm đó. Đảng và nhân dân ta càng nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới cách làm nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách có hiệu quả hơn.
2.2 Quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta từ 1986 đến nay.
2.2.1 Đường lối đổi mới từng bước được hình thành trong quấ trình Đảng chỉ đạo cách mạng Việt Nam 1975 - 1985.
Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, nhân dân Việt Nam bắt tay xây dựng chủ nhĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Song do nhiều nguyên nhân khác nhau (cả chủ quan và khách quan) , công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta gặp nhiều khó khăn , thậm chí lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Niềm tin vào chủ nghĩa xã hội bị thách thức.
Cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế Việt Nam bị suy thoái. Nhu cầu tối thiểu trong đời sống của nhân dân không được đáp ứng, lương thực, thực phẩm thiếu trầm trọng (năm 1980 nhập 1.576.000 tấn lương thực). Nhiều sản phẩm công nghiệp giảm hoặc tăng không đáng kể. Mất cân đối nghiêm trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu (năm 1979 nhập 1.526 triệu rúp-đôla, xuất 320 triệu rúp – đôla) . Giá cả sinh hoạt tăng cao so với thu nhập của nhân dân. Năm 1976: 128%; năm 1977: 117%; năm 1978:120,9%; năm 1979: 119,4%; năm 1980: 125%.
Nhìn một cách tổng quát, thời kỳ 1976 – 1980, nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng trì trệ. Trong 5 năm 1976 – 1980, sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm là 0,6%, nông nghiệp là 1,9%, thu nhập quốc dân 0,4%, trong khi đó dân số tăng 4,5 triệu người.
Đứng trước những đòi hỏi bức xúc đó của cuộc sống, với xu thế phát triển của thời đại, lại chịu ảnh hưởng của các nước trong khu vực và trên thế giới, buộc Việt Nam phải đổi mới.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam có thể nói là bắt đầu từ Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khóa IV (8-1979). Đây là hội nhị chuyên bàn về những vấn đề kinh tế cấp bách và sản xuất hàng tiêu dùng. Tuy chưa cơ bản và toàn diện, nhưng Hội nghị trung ương sáu đã đưa ra một số quan niệm, chủ trương đổi mới có tính chất cục bộ, đây là bước khởi đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng cho toàn bộ sự nghiệp đổi mới tiếp theo.
Tư tưởng cơ bản trong Hội nghị lần này là “làm cho sản xuất bung ra” đúng hướng, nghĩa là phải phát triển lực lượng sản xuất, lấy lợi ích kinh tế làm đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất phát triển. Phải tận dụng mọi khả năng lao động, kỹ thuật, quản lý của các thành phần kinh tế: quốc doanh, công tư hợp doanh, tập thể, cá thể (kể cả tư sản được kinh doanh hợp pháp ) tham gia vào quá trình sản xuất xã hội, tạo ra nhiều sản phẩm để phục vụ đời sống và xuất khẩu. Nghị quyết Trung ương sáu như luồng sinh khí tốt lành thổi vào cuộc sống, xã hội Việt nam bắt đầu khởi sắc và có những chuyển biến tích cực.
Sau nghị quyết Trung ương sáu khóa IV,chỉ thị 100 – CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (1981) về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã – đây có thể coi là một bước đột phá hết sức quan trọng về mặt tư duy trong việc cải cách một phần mô hình hợp tác xã nông nghiệp Việt Nam.
Để có chỉ thị 100, chúng ta phải trải qua quá trình tìm tòi, thử nghiệm. Nếu như Trung Quốc có “khoán chui” ở An Huy, hay “nới lỏng và cởi mở các chính sách” ở Tứ Xuyên, thì ở Việt Nam cũng có “khoán chui” ở Vĩnh Phúc (1966 – 1979), cho dù đây là những trường hợp ngẫu nhiên, không có bất kỳ sự liên hệ nào giữa An Huy, Tứ Xuyên với Vĩnh Phúc cả. Rất có thể đây là cơ sở thực tiễn, trên cơ sở đó để Trung Quốc và Việt Nam tiến hành cải cách, mở cửa và đổi mới, mà bước khởi đầu là từ trong nông nghiệp, nông thôn.
Trong quản lý công nghiệp, chúng ta có Quyết định số 25 – CP, ngày 21 – 1 – 1981 về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh, là một đổi mới có ý nghĩa rất quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tháng 3 - 1982 đã đánh giá một cách đúng đắn những thành tựu có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, đồng thời chỉ ra những tồn tại và yếu kém mà chúng ta cần khắc phục. Đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế, đất nước ta đang đứng trước nhiều vấn đề gay gắt, cần tháo gỡ (sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh; thu nhạp quốc dân chưa đảm bảo nhu cầu tiêu dùng xã hội; lương thực vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu; chênh lệch giữa thu và chi tài chính, giữa hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn lớn…
2.2.2 Đại hội VI – Khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện các mặt và các Đại hội sau tiếp tục bổ sung
Nhận thức được sự thay đổi của tình hình và yêu cầu gay gắt phải tạo một bước ngoặt trong tiến trình phát triển đất nước, Đại hội Đảng lần VI Đảng Cộng Sản Việt Nam tuyên bố tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và triệt để. Chương trình phát triển đất nước được thông qua tại Đại hội này có nội dung đặt biệt quan trọng là chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường – mở cửa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được bước chuyển ấy khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định là phải đổi mới tư duy phát triển. Chính điều đó xác định giá trị lịch sử của Đại hội VI - Đại hội của đổi mới tư duy.
Quá trình đổi mới tư duy phát triển trên thực tế là quá trình đấu tranh về mặt lý luận và tư tưởng nhằm đạt đến nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
* Trước hết, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” Đại hội VI đã kiểm điểm và đánh giá theo tinh thần phê phán những sai lầm chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động nóng vội, chủ quan không tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
* Thứ hai, nội dung cốt lõi của tư duy đổi mới là bước chuyển từ quan niệm kinh tế xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp phải được xây dựng ngay trong thời kỳ quá độ sang khẳng định phải phát triển trong thời kỳ quá độ một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa tức là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Thứ ba, sự đổi mới tư duy phát triển còn thể hiện ở bài học thứ 3 mà Đại hội VI đã rút ra đó là “ phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.”
* Thứ tư, cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định phải ngày càng hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành cơ chế chung trong quản lý toàn xã hội.
* Thứ năm, sự đổi mới tư duy phát triển còn thể hiện ở khẳng định phải phát huy yếu tố con người, lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, coi nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước, là yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững, từ đó yêu cầu phải khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội như đã từng xảy ra trong thời kỳ trước đổi mới.
Đại hội đề ra mục tiêu của chúng ta trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên:
“Nhiệm vụ bao trùm mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong những chặng đường tiếp theo.”
Từ mục tiêu bao trùm đó đại hội đề ra 5 mục tiêu cụ thể:
Sản xuất cho tiêu dùng và có tích lũy.
Bước đầu tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất.
Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội.
Bảo đảm nhu cầu cũng cố quốc phòng và an ninh.
Để thực hiện được những mục tiêu trên thì Đại hội đã đề ra nhữn giải pháp:
Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư. Giải pháp này nhằm giải quyết một vấn đề lớn là nội dung công nghiệp hóa XHCN và xây dựng cơ cấu công – nông nghiệp mà trong nhiều năm qua Đảng ta đã đặt ra và cố gắng giải quyết. Song, do chưa giải đáp đúng vấn đề nên đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, phần nào làm tăng thêm mất cân đối trong nền kinh tế nước ta. Cụ thể, thời gian qua, chúng ta thiên về xây dựng công nghiệp nặng và công trình quy mô,không tập trung sức giải quyết vấn đề căn bản:lương thực thực phẩm,phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Điều đó không phù hợp với mục tiêu ổn định đời sống và ổn định nền kinh tế xã hội sau chiến tranh. Đại hội 5 đã phát hiện ra sai lầm đó và đã xác định “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và chủ trương xây dựng một số ngành công nghiệp nặng cần thiết. Đình chỉ một số công trình kém hiệu quả. Tuy nhiên việc chỉ đạo thực hiện lại không triệt để, không hiệu quả. Đến đại hội 6 lần này, về cơ chế kinh tế không có gì thay đổi, vẫn coi “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và chỉ xây dựng một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng. Vấn đề mới chính là bố trí lại cơ cấu sản xuất, thực hiện tập trung sức người sức của cho mặt trận nông nghiệp để thục hiện cho được 3 chương trình mục tiêu: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Sử dụng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, cải tạo đúng các thành phâng kinh tế. Giải pháp này góp phần giải quyết mọi năng lực sản xuất hiện có của đất nước và sử dụng hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế nhằm phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN. Điều này phản ánh nhận thức mới của Đảng về quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX dưới CNXH và phù hợp với đặc điểm nền kinh tế nhiều thành phần của thời kỳ quá độ.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp hành chính mệnh lệnh, chuyển sang cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Phát huy động lực của khoa học kỹ thuật.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: liên kết liên doanh, kêu gọi vồn đầu tư nước ngoài.
Đại hội VII khẳng định đường lối đổi mới khởi xướng từ Đại hội VI của Đảng là đúng đắn, cần tiếp tục đẩy mạnh một cách toàn diện và đồng bộ
Đại hội khẳng định, quyết tâm không gì lay chuyển nổi của Đảng và nhân dân ta là kiên trì con đường Xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng.
-Về những định hướng lớn trong chính sách kinh tế, Đại hội khẳng định phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, chính sách kinh tế nhiều thành phần là mục tiêu chiến lược được thực hiện nhất quán và lâu dài.
-Về cơ chế quản lý kinh tế, kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế.
Đổi mới hệ thống chính trị và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời với đổi mới kinh tế, tất yếu phải đổi mới hệ thống chính trị, nhưng phải xác định rõ nội dung, bước đi, hình thức cho phù hợp. Đổi mới hệ thống chính tri không phải là thay đổi chế độ chính trị, mà làm cho hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả, củng cố và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước và phát huy vái trò làm chủ của nhân dân.
Về vấn đề Đảng, Đại hội khẳng định Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim chỉ Nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đai hội lần thứ VII Đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh nêu ra đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
+ Do nhân dân lao động làm chủ.
+Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
+ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
+ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới
Đó là bước phát triển quan trọng đường lối đổi mới, làm rõ hơn nhận thức về CNXH ở nước ta. Đại hội khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đại hội VII nêu rõ đường lối đối ngoại: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới. Sau Đại hội VII, Việt Nam đứng vững trên con đường đổi mới vì CNXH, mặc dù chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Nền kinh tế Việt Nam chuyển mạnh sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Thúc đẩy CHN,HĐH đất nước, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế. Điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh cho phù hợp tình hình mới. Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đối ngoại, chuyển từ đối đầu sang đối thoại, phá thế bị bao vây, cấm vận. Đó là nhũng quyết sách rất quan trọng thể hiện sự tiếp tục phát triển đường lối đổi mới bảo đảm cho công cuộc đổi mới phát triển vững chắc trên con đường XHCN.
Đại hội VIII Công cuộc đổi mới trong 10 năm (1986-1996) thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội đề ra cho 5 năm (1991-1995) đã hoàn thành về cơ bản.
- Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.
- Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác định rõ hơn.
- Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
- Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc.
- Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc vơi sức mạnh của thời đại.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
* Đại hội cũng nêu rõ quan điểm chỉ đạo công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
- Giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
- Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh.
Đại hội IX:
Đại hội IX đã bổ sung, phát triển thêm những quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vớ những điểm cơ bản:
- Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Mô hình kinh tế tổng quát: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thành phần kinh tế: có 6 thành phần kinh tế (bổ sung thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài).
- Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế:
+ Nền kinh tế độc lập tự chủ trước hết phải độc lập về đường lối, chính sách đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh: có mức tích lũy ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành công nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ; giữ vững ổn định kinh tế - tài chính vĩ mô; đảm bảo an ninh lương thực, an toàn năng lượng, tài chính, môi trường.
+ Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.
Đại hội X:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng 4/2006 tổng kết hai 20 năm đổi mới nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Nhìn lại quá trình đổi mới Đại hội X của Đảng, đường lối đổi mới được phát triển quan trọng:
- Phát triển và thực hiện nhất quán nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đánh giá thành tựu của công cuộc đổi mới, Đại hội nhấn mạnh: “Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đại hội XI.
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội XI của Đảng họp vào lức toàn Đảng, toàn dân ta kết thức thập kỷ đầu của thập kỷ XXI, thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, nhiệm vụ của nghị quyết đại hội X và đã trải qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện cương lĩnh xây dặng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện nghị quyết Đại hội X của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ năm năm 2011 – 2015; Tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001- 2010; Xác định chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011 – 2020; tổng kết bổ sung và phát triển cương lĩnh năm 1991; Kiểm điểm sự lãnh đạo của ban chấp hành TW Đảng khóa 10; Bổ sung, sửa đổi điều lệ Đảng; bầu ban chấp hành TW Đảng khóa 11( nhiệm kỳ 2011 – 2015).
Đại hội có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguyên tắc chỉ đạo trong công cuộc đổi mới.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới là quy luật của sự phát triển, tiến hóa không ngừng. Đối với Việt Nam, đổi mới là yêu cầu bức thiết, là điều kiện thực hiện sự nghiệp cách mạng, là con đường tất yếu để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Song đổi mới không phải là “đổi màu”, không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho chủ nghĩa xã hội nhận thức đúng đắn và được thực tiễn hóa có hiệu quả hơn. Do đó, trong từng bước đi của công cuộc đổi mới, chúng ta phải kiên định các nguyên tắc nền tảng của chủ nghĩa xã hội được chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm sáng tỏ.
Giải phóng người lao động khỏi áp bức, bất công, nô dich. Quá trình giải phóng này có thể thực hiện từ từ từng bước nhưng không đi ngược lại. Làm cho đời sống người lao động tốt hơn cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Phát triển xã hội loài người theo nguyên tắc liên minh tự nguyện của người tự do và hòa hợp với thiên nhiên.
Xây dựng đất nước theo con đường XHCN trong bối cảnh ngày nay là một sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhất là trong giai đoạn thoái trào của phong trào XHCN thực tiễn. Những mục tiêu chủ nghĩa xã hội là hợp quy luật, là xu hướng tất yếu khách quan của xã hội loài người.
Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa và có bước đi, hình thức, cách làm phù hợp. Đổi mới không có nghĩa là xóa bỏ, phủ định sạch trơn cái cũ, không phải là đổi mới duy ý chí, theo phong trào, mà phải đổi mới trên cơ sở khoa học, có hệ thống, nhất quán và hiệu quả. Cần xem xét nội dung đổi mới, cái gì không phù hợp thì kiên q1uyết thay đổi cả tư duy và hoạt độngt hực tiễn: Từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lí của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội, nhưng không có nghĩa là cái gì cũng mới, hoặc đổi mới dàn đều, mà phải đổi mới có trọng tâm, trọng điểm, có sự cân nhắc cẩn trọng đối với các bước đi, hình thức, biện pháp thích hợp, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Đổi mới từng bước vững chắc, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, làm cơ sở, từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Muốn làm được như vậy phải tiến hành 3 nội dung thiết yếu sau:
Nghiên cứu cơ bản để xác định cụ thể, rõ ràng hiện trạng gì là hợp lí để phát huy, hiện trạng gì cần đổi mới.
Dự báo xu hướng phát triển của thế giới, quốc gia, ngành nghề, đơn vị cụ thể.
Xây dựng phương án hành động tối ưu cho quốc gia, ngành nghề, đơn vị cụ thể.
Trong quá trình đổi mới cần linh hoạt, nhạy bén với các yếu tố mới để điều chỉnh phương án hành động cho tối ưu. Không xác định đúng bước đi, vội vã, hấp tấp sẽ gây mất ổn định, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới, ngược lại, quá chậm chạp trong việc đổi mới hệ thống chính trị sẽ cản trở phát triển kinh tế cũng như toàn bộ công cuộc đổi mới.
Đổi mới vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những sáng kiến, nguyện vọng của nhân dân là cơ sở quan trọng hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Do đó, đường lối đổi mới của Đảng ta phải dựa vào nhân dân, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, bằng cách thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, khái quát thành quy luật phát triển . Để đẩy mạnh công cuộc đổi mới , Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện để nhân dân không ngừng sáng tạo, nâng cao vai trò giám sát của nhân dân.
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Trong bối cảnh hiện nay, công cuộc đổi mới ở nước ta phải dựa trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp cả trong nước lẫn ngoài nước, trong đó coi trọng nội lực, đó chính là nhân tố quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Đồng thời tìm mọi cách sử dụng có hiệu quả các nguồn ngoại lực, nhất là thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, nhất là trong liên kết để cạnh tranh, trong tận dụng môi trường quốc tế, bản sắc của đất nước. Tránh rập khuôn, theo mô hình sẵn có ở nước ngoài.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ Tổ quốc XHCN, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Để thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng đất nước, chúng ta phải luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Coi đó là điều kiện tối cần thiết để đưa đất nước phát triển bền vững, không có những điều kiện đó thì không có sự phát triển , không có hiệu quả và tiến bộ. Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là duy trì ổn định chính trị, nâng cao uy tín của Đảng và Nhà nước, nâng cao nhận thức và sức mạnh của quân đội, công an và kỉ năng bảo vệ của từng người dân. Điều kiện quan trọng hàng đầu là cả hệ thống chính trị phải tự trạng bị cho mình các tri thức, kỉ năng, phương tiện phù hợp với điều kện mới, nhân dân và doanh nghiệp phải tự nâng cao trình độ, kỉ năng, phương tiện để tự bảo vệ mình.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Sự lãnh đạo đúng đắn, hợp quy luật của Đảng là nhân tố quyết định công cuộc đổi mới ở nước ta. Do đó, phải tăng cường năng lực cầm quyền của Đảng phù hợp với các yêu cầu mới của thời đại. Đảng phải thật sự tiêu biểu cho ý chí, phẩm giá, sức mạnh và khát vọng của quốc gia, dân tộc, đủ năng lực đưa ra những quyết sách đúng đắn, có tầm chiến lược để định hướng cho hoạt động của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước không những hoạt động có hiệu quả mà còn thực sự đại diện cho quãng đại nhân dân lao động. Đồng thời với nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lí của Nhà nước, phải phát huy quyền tự chủ của nhân dân. Dân chủ được thể hiện và thực hiện qua vai trò , chức năng của bộ máy Nhà nước , qua quyền tự do mưu sinh theo pháp luật, kinh doanh, cư trú, đối thoại trực tiếp, quyền kểm tra, giám sát Đảng, Nhà nước thông qua mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Hiện nay, kết cấu: Đảng có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao; Nhà nước quản lý có hiệu lực, hiệu quả, nhân dân có trình độ tự chủ và có tính tổ chức cao là sự đảm bảo cho quốc gia vững mạnh, đoàn kết, phát triển và tiến bộ không ngừng.
Nhận thức được các nguyên tắc cơ bản trong lãnh đạo đổi mới đất nước là việc không dễ, nhưng thực thi các nguyên tắc đó trong thực tiễn khó khăn hơn nhiều lần. Các nguyên tắc đó không phải là ý chí chủ quan của bất kì ai mà là tri thức khoa học đã được Đảng, nhân dân ta tổng kết và kiểm nghiệm qua thực tiễn lịch sử. Với tinh thần cách mạng, thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nhất định phá tan các rào cản lợi ích cục bộ, bè phái nhất thời xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước VIệt Nam
2.3 Đánh giá, nhận xét đường lối đổi mới trong công cuộc xây dựng CNXH từ 1986 đến nay.
2.3.1 Thành tựu đạt được
Quá trình đổi mới trải qua những bước đi khó khăn, phức tạp. Song, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta phát huy truyên thống đoàn kết, đấu tranh kiên cường, lao động sáng tạo, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách thức, đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đưa đất nước vào một giai đoạn phát triển mới.
Những năm 1986-1988, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đã trở nên gay gắt nhất, khi lạm phát lên tới mức ''phi mã'' (ba con số), nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh của Nhà nước đình đốn, thua lỗ, sản xuất cầm chừng, thậm chl phải đóng cửa; bội chi ngân sách lớn; giá cả tăng vọt; tiền lương thực tế giảm; đời sống nhân dân giảm sút nghiêm trọng; khó khăn chồng chất, có lúc tưởng chừng Không thể vượt qua. Trong khi đó, công cuộc “cải tổ” ở Liên Xô ngày càng bế tắc; chủ nghĩa đế quốc đẩy mạnh cuộc tiến công xóa bỏ CNXH ở Liên Xô và Đông Âu. Một số khuynh hướng tư tưởng sai lầm nảy sinh, gây ảnh hưởng xấu tới cả cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.
Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3-1989) đã kịp thời xác định 6 nguyên tắc cơ bản định hướng cho công cuộc đổi mới ở nước ta. Nhờ đó, công cuộc đổi mới của nước ta không những tiếp tục được thực hiện mà còn vượt qua một “thách thức hiểm nghèo'' mới - đó là sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô vào cuối năm 1991.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) không chỉ đánh giá kết quả hơn 4 năm đổi mới với ''những thành tựu bước đầu rất quan trọng'', mà còn rút ra ''mấy kinh nghiệm bước đầu” về tiến hành công cuộc đổi mới và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh nêu những nét cơ bản, 6 đặc trưng của CNXH và xác định 7 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng CNXH, bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là định hướng XHCN cho con đường đi lên CNXH ở nước ta cũng như quá trình đổi mới nói riêng. Việc thể chế hóa kịp thời đường lối đổi mới của Đảng trong Hiến pháp 1992 càng thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới.
Nhờ đó, chỉ sau 3 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VII, nền kinh tế nước ta không những đứng vững trước những thử thách hiểm nghèo, mà còn đạt được những thành tựu nổi bật, khắc phục được nhiều mặt đình đốn, suy thoái, đạt tốc độ tăng trưởng khá và liên tục. Lạm phát được đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 còn 67% năm 1991, 17,5% năm 1992 và còn 5,2% năm l993. Việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế đạt được những tiến bộ rõ rệt. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hằng năm 7,2%. Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện; vấn đề lương thực được giải quyết tốt. Năm 1988 còn phải nhập 45 vạn tấn gạo, từ năm 1991 đã đáp ứng được nhu cầu lương thực trong nước, có dự trữ và xuất khẩu. Năng lực sản xuất một số ngành và sản phẩm công nghiệp quan trọng tăng thêm. Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa.
Tháng 1-1994, Đảng ta tổ chức Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ để tổng kết một bước công cuộc đổi mới từ Đại hội VI. Hội nghị nêu lên ba thành tựu lớn: khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội; tiếp tục giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị; quan hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín và vị trí của nước ta trên thế giới được nâng lên, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đánh giá tổng quát, Hội nghị nhận định: mặc dù còn nhiều mặt yếu kém phải khắc phục, song thành tựu quan trọng đạt được đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một nước CNH, HĐH đất nước.
Kết quả thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu do Hội nghị nói trên đề ra đã đưa công cuộc đổi mới ở nước ta chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 7-1996) kiểm điểm việc thực hiện nghị quyết Đại hội VII, tổng kết 10 năm đổi mới và đề ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện CNH, HĐH đất nước. Đại hội nhận định, công cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, ''nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm''. Kinh tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng GDP bình quân hằng năm thời kỳ 1991-1995 đạt 8,2%. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Nhiều công trình thuộc kết cấu hạ tầng và cơ sở công nghiệp trọng yếu được xây dựng. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN tiếp tục được xây dưng một cách đồng bộ và có hiệu quả hơn. Ổn định chính trị - xã hội tiếp tục được giữ vững. Xuất phát từ kết quả 10 năm đổi mới, từ những tiền đề đã được tạo ra, Đại hội nhận định rằng, nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đại hội xác định mục tiêu của CNH, HĐH là: ''xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội''.
Sau Đại hội VIII, công cuộc đổi mới diễn ra trong bối cảnh: bên cạnh một số thuận lợi, nước ta phải đương đầu với nhiều khó khăn, đặc biệt là phải đối phó với thiên tai lớn liên tiếp xảy ra và tác động xấu của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền iệ ở khu vực Đông - Nam Á và một số nước trên thế giới. Tình hình chính trị quốc tế cũng có những diễn biến mới phức tạp.
Mặc dù vậy, quá trình đổi mới theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tình trạng tăng trưởng kinh tế bị chững lại và giảm sút vào cuối thập niên 90, đến năm 2000 đã được chặn lại. Nhìn chung, kinh tế vẫn tăng trưởng khá, văn hóa, xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng. Hệ thống chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Đại hội IX (tháng 4-200l) không chỉ tổng kết 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VIII, mà còn đi sâu tổn kết l5 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kmh nghiệm sâu sắc, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối và định ra đường lối phát triển đất nước trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI.
Hiện nay, nhân dân ta đang nỗ lực phấn đấu đẩy mạnh quá trình đổi mới nhằm thực hiện mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 mà Đại hội IX đề ra là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao''.
Tóm lại, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng trên nhiều mặt.
Về kinh tế - xã hội, đất nước ta không những đã ra khỏi khủng hoảng chỉ sau 10 năm đổi mới, ngay cả khi còn bị Mỹ bao vây, cấm vận, tạo những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, mà còn đạt được tốc độ tăng trưởng khá. Thời kỳ 1991-2000, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt hơn 7,5%, đưa GDP tăng gấp đôi, trong khi phảí chịu những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á và trên thế giới vào cuối thập niên 90 của thế kỷ XX.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từng bước được khẳng định và xây dựng một cách đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn; đời sống vật chất của đại bộ phận nhân dân được cải thiện, đồng thời chú trọng thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo với những kết quả được thế giới đánh glá cao. Chỉ trong 5 năm 1993-1998, thu nhập bình quân đầu người trên cả nước đã tăng gấp 2,45 lần; tỷ lệ hộ đói nghèo về cả lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm đã giảm từ trên 50% giai đoạn l992-l993 xuống còn trên 30% giai đoạn 1997-1998.
Đi đôi với phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước luôn chăm lo xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đời sống tinh thần trong xã hội được cải thiện rõ rệt. Việc kiên trì định hướng phát triển vì con người đã đẫn tới kết quả chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam - theo xếp hạng của UNDP - tăng lên khá nhanh, từ thứ 121 năm 1990 lên thứ 101 năm 2000 trên 174 nước, năm 2003 đạt thứ l09 trên 175 nước.
Trên lĩnh vực chính trị, hệ thống chính trị từng bước được đổi mới. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản được ổn định, như Đại hội IX đã nhấn mạnh: đó vừa là điều kiện rất cơ bản, vừa là kết quả của đổl mới kinh tế - xã hội. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt. Với tinh thầ “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước'', đến nay chúng ta đã thiết tập quan hệ toàn diện với hầu hết các nước trên thế giới, là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực.
Những thành tựu của quá trình đổi mới vừa qua đã tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Quá trình đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế chính trị, văn hóa và xã hội - với những thành tựu quan trọng đã nêu trên đây – không tách rời quá trình đổi mới tư duy lý luận, từng bước khắc phục sự lạc hậu của nhận thức lý luận về CNXH. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội VI đã chỉ ra một nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến sự khủng hoảng của mô hình CNXH trước đổi mới là ''sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ''. Vì vậy, phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn, thực hiện đươc những mục tiêu do Đại hội VI đề ra. Từ đó, đổi mới tư duy lý luận và đổi mới đời sống xã hội luôn gắn bó với nhau như một chuỗi nhân - quả trong thực tiễn của quá trình đổi mới. Với nhận thức như vậy, có thể nói, sự phát triển nhận thức lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta là thành tựu rất quan trọng của công cuộc đổi mới, dù cho công tác lý luận vẫn còn yếu kém và bất cập trước yêu cầu thực tiễn cách mạng
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân hạn chế
Song, bên cạnh những thành tựu, tiến bộ đã đạt được sau gần 20 năm đổi mới, vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm làm gay gắt những mâu thuẫn của quá trình phát triển.
Nước ta còn nghèo và kém phát triển, chúng ta lại chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng để dồn vốn cho đầu tư phát triển. Tình trạng tiêu xài lãng phí phổ biến và nghiêm trọng. Việc huy động các nguồn vốn và sử dụng các nguồn lực còn phân tán, kém phát triển.
+ Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa được ngăn chặn Thất thoát, lãng phí trong quản lý kinh tế, đặc biệt trong quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý doanh nghiệp Nhà nước còn rất nghiêm trọng. Cuộc vận động Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm hoặc chưa giải quyết tốt.
Việc làm đang là vấn đề gay gắt. Sự phân hóa giàu-nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều nơi rất thấp. Tệ nạn xã hội phát triển. Trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp, làm cho quần chúng nhân dân lo lắng.Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng. Chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động. Việc quản lý kinh tế hợp tác, liên doanh với nước ngoài còn nhiều sơ hở.
+ Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm.
+ Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm. Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của đảng, hiệu lực quản lý và điều hành của nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cải cách hành chính trong hệ thống chính quyền chưa đạt yêu cầu đề ra. Nhiều nơi còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, việc thực hiện luật pháp, kỷ cương không nghiêm. Còn nhiều biểu hiện quan liêu, chưa tôn trọng, thậm chí còn vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ của nhân dân. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Điều đáng lo ngại là không ít cán bộ đảng viên phải nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức; sức chiến đấu của một bộ phận tổ chức cơ sở Đảng suy yếu. Chế độ tiền lương bất hợp lí, bộ phận người lao động, nông dân gặp khó khăn.
2.4 Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm về đường lối đổi mới của ta trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta từ 1986 đến nay.
2.4.1 Ý Nghĩa
Sau 20 năm đổi mới, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN. Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và đang đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, bước đầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng lãnh đạo được củng cố và tăng cường, sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên nhiều, vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Những thành tựu to lớn đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sang tạo; con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Điều rất quan trọng là sau 20 năm lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta ngày càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng sang tỏ hơn.
2.4.2. Bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn xây dựng Ðảng những năm đổi mới, có thể khái quát một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau đây:
Một là, phải kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, có nguyên tắc và sáng tạo; trong quá trình đổi mới, phải luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng.
Hai là, Ðảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đổi mới công tác xây dựng Ðảng. Phát huy dân chủ trong Ðảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật; thường xuyên tự phê bình và phê bình, nói thẳng, nói thật; giữ gìn và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Ðảng, đấu tranh kiên quyết đối với những phần tử cơ hội. Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, thẩm quyền, trách nhiệm rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
Ba là, Ðảng phải chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để hoàn thành nhiệm vụ. Phải tạo sự chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công tác cán bộ trên tất cả các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và chính sách. Ðặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt, trọng dụng nhân tài.
Bốn là, Ðảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng. Phải xây dựng các thiết chế mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự là công bộc của nhân dân.
Năm là, Ðảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, quyết định của Ðảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp thời sai lầm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát công tác, năng lực và phẩm chất của cán bộ, đảng viên, xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và cán bộ, đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của Mặt trận, các đoàn thể và của các cơ quan thông tin đại chúng.
Sáu là, Ðảng phải đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh đạo Nhà nước, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân. Phải xây dựng hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của Ðảng ở các ngành, các cấp. Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
C. KẾT LUẬN.
Để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; Đẩy mạnh CNH – HĐH; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần cho xã hội; Xây dựng nền dân chủ XHCN; Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ; Do nhân dân và vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; Tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế vì hòa bình, độc lập , hợp tác và phát triển.
Nhìn lại quá trình phát triển và đường lối đổi mới của Đảng, ta có thể rút ra một số kết luận sau:
Đường lối đổi mới là kết quả của một quá trình tìm tòi nghiên cứu, đó là quá trình đổi mới từ thấp đến cao, từ đổi mới bộ phận, từng mặt đến đổi mới toàn diện
Trong quá trình đổi mới Đảng biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, chắt lọc, tổng kết, khái quát, từ đó có những quyết sách đúng đắn, những chủ trương phù hợp.
Đổi mới là cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, nhiều khi nó diễn ra trong mỗi con người, trong từng tổ chức, thành công của Đảng là ở chỗ đã kiên quyết đổi mới, đổi mới là sống còn, nhưng phải làm từng bước vững chắc, thận trọng, có nguyên tắc, không xa rời mục tiêu.
Đường lối đổi mới được hình thành trên cơ sở độc lập tự chủ, sang tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời có tham khảo kinh nghiệm các nước khác có chọn lọc. Đường lối đúng, hợp quy luật, thuận lòng nhân dân đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và gạt hái được nhiều thành tựu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chude 2_xua.doc