1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài sản lớn của quốc gia và mọi gia đình, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là điều kiện tối thiểu đảm bảo cho quá trình tái sản xuất giúp xã hội tồn tại và phát triển. Chính sách đất đai từ năm 1988 đến nay đã sửa đổi, bổ sung, hướng tới đầy đủ các mặt kinh tế, chính trị xã hội; khai thác, sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả, phát huy tối đa tiềm năng, nguồn lực về đất đai; đầu tư mở rộng diện tích, nâng cao chất lượng và bảo vệ đất canh tác nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và môi trường sinh thái.
Những đổi mới trong chính sách, pháp luật đất đai hơn 15 năm qua đã đưa đến những kết quả tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Người sử dụng đất gắn bó nhiều hơn với đất đai. Đất đai trong nông nghiệp được sử dụng có hiệu quả hơn, nền nông nghiệp nước ta về cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá, phát triển tương đối toàn diện, tăng trưởng khá, đời sống nhân dân ở hầu hết các vùng đều được cải thiện rõ rệt.
Đối với đất nông nghiệp, Luật Đất đai cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; Khuyến khích các thành phần kinh tế khai hoang, phục hoá, mở rộng diện tích đất nông nghiệp trên nguyên tắc tuân theo quy hoạch và bảo đảm an toàn lương thực, nhưng Nhà nước cũng đề ra các chính sách kiểm soát việc tích tụ ruộng đất canh tác để vừa khuyến khích sản xuất hàng hoá vừa ngăn chặn tình trạng người làm nông nghiệp không có đất sản xuất. Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn chuyển dịch chậm, chưa theo sát thị trường. Sản xuất nông nghiệp ở nhiều nơi ruộng đất còn phân tán, manh mún, mang yếu tố tự phát; ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất còn chậm.
Hệ thống chính sách và hệ thống quản lý đất đai ở Việt Nam tuy đã được hình thành nhưng vẫn phải liên tục điều chỉnh, còn nhiều chính sách chưa phù hợp với thực tiễn.
Vì vậy, việc nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách đất đai đến việc sử dụng đất nông nghiệp phục vụ yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Nam Định là rất cần thiết, nhằm chuyển dịch cơ cấu đất đai, kinh tế ở nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; đảm bảo an ninh lương thực, phát triển sản xuất và chế biến nông sản hàng hoá xuất khẩu. Chú trọng làm tốt quy hoạch những vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn với tiềm năng thế mạnh của từng vùng trong Tỉnh.
Xuất phát từ những ý nghĩa đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
"Ttác động của chính sách đất đai đến việc sử dụng đất nông nghiệp và đề xuất phương án sử dụng đất nông nghiệp đến năm 2015 tại tỉnh Nam Định"
1.2. Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Đánh giá ảnh hưởng của chính sách đất đai (thời kỳ 1995 đến nay) đến việc sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn của Tỉnh nhằm đề xuất việc chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất trên địa bàn Tỉnh theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế và tiến tới xây dựng nền nông nghiệp bền vững.
1.2.2. Yêu cầu
- Nghiên cứu các yếu tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp và biến động đất nông nghiệp
- Phân tích tóm tắt các chính sách đất đai trong thời gian vừa qua.
- Nghiên cứu tác động của chính sách đất đai đến việc sử dụng đất nông nghiệp.
- Đề xuất phương án sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn Tỉnh theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế.
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cở sở lý luận của đề tài
2.1.1. Chính sách đất đai ở một số nước
2.1.1.1. Trung Quốc
Hệ thống sở hữu đất ở Trung Quốc kết hợp giữa quyền sử dụng cá nhân với sở hữu công cộng nhằm mục đích ưu đãi khuyến khích phát triển kinh tế cho các hộ nông dân. Trong khi đó, Chính phủ Trung Quốc chưa cho phép trao toàn quyền sở hữu và chuyển nhượng đất cho nông dân. Thông thường, đất nông nghiệp thuộc sở hữu chung của một nhóm từ 30-40 hộ gia đình, gọi là xiaozu trong một số trường hợp, một làng là chủ sở hữu (có khoảng 10 nhóm trong mỗi làng).
Theo cách sở hữu chung, nông dân Trung Quốc không có quyền sở hữu đối với đất đai và đương nhiên càng không có quyền mua bán. Thay vào đó, các quan chức địa phương tiến hành phân bổ quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình hoặc quyền canh tác trên những mảnh đất chuyên canh.
Sở hữu đất đai là vấn đề lớn của Trung Quốc vì bản thân nông dân không có quyền sở hữu đất và không được tiến hành mua bán nên không nhận được lợi ích gì khi giá trị đất đai tăng lên do nền kinh tế tăng trưởng. Thực tế, do quyền sở hữu không rõ ràng, thật khó có thể biết chính xác ai là người sẽ nhận được lợi ích từ sự tăng giá vô hình của đất đai. Trong khi kinh tế nông thôn đang phải đối phó với những thay đổi lớn về kinh tế và toàn cầu hoá, hệ thống sở hữu đất có thể đang là một rào cản hạn chế việc điều chỉnh kinh tế nông thôn Trung Quốc. Sự thiếu vắng thị trường đất đai và những mâu thuẫn vốn có bên trong hệ thống sở hữu đất đang làm chậm lại quá trình chuyển đổi đất có giá trị sử dụng thấp sang đất có giá trị sử dụng cao và cản trở những điều chỉnh cần thiết trong ngành nông nghiệp Trung Quốc. Việc không cho phép thuê đất phổ biến có thể ngăn không cho các hộ gia đình mở rộng trồng các cây hoa màu có lợi và đa dạng hoá cây trồng, nhất là ở những làng xã các nhà lãnh đạo địa phương khuyến khích việc sản xuất các loại lương thực thiết yếu. Những làng xã có các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả đang cần đất để mở rộng hoạt động sang lĩnh vực phi nông nghiệp sẽ đề đạt nguyện vọng lên lãnh đạo địa phương bởi không chắc là các hộ gia đình có quyền lợi bị ảnh hưởng sẽ sẵn sàng từ bỏ quyền lợi. Những khoản tiền trả cho các hộ gia đình để họ từ bỏ quyền sử dụng đất có thể hoặc không được coi là khoản đền bù cho những thiệt hại mà các hộ gia đình này phải gánh chịu.
Quyền sử dụng đất gắn chặt với việc cư trú và phân bổ hạn ngạch ngũ cốc làm cho lao động ở các địa phương không được khuyến khích đổ về các thành phố, thị trấn tìm việc làm nếu không họ sẽ bị tước mất quyền sử dụng đất. Những quy định này cùng với cơ chế đăng ký hộ khẩu tại các khu vực thành thị đã giải thích tại sao ở Trung Quốc hầu hết dòng dân di cư chỉ diễn ra tạm thời và trên quy mô cá nhân hơn là gia đình.
Nông dân không có quyền sở hữu đất đai nên ít chú ý đầu tư để cải thiện đất và có rất ít tài sản để cầm cố cho các khoản vay, nên luôn rơi vào tình trạng thiếu vốn. Rủi ro về khả năng phân bổ lại quyền sử dụng đất đã hạn chế các khoản đầu tư lớn vào các vườn cây, các khu đất trồng rừng hoặc các dự án dài hạn. Sở hữu đất bị giới hạn cũng không khuyến khích nông dân bảo tồn đất, ngược lại nông dân có xu hướng trồng và sử dụng các biện pháp có hiệu quả nhanh để thời gian thu hồi vốn ngắn, chẳng hạn như sử dụng chất hoá học nồng độ cao. Ngoài ra, giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng không rõ ràng còn khiến nông dân canh tác theo hướng không có lợi cho đất, dẫn tới tình trạng xói mòn nhanh chóng.
Theo Luật đất đai mới nhất ban hành năm 1999, hầu hết các quy định đều cho rằng các hộ nông dân được phép kéo dài thời gian thuê đất 30 năm để đảm bảo quyền sử dụng đất cho người dân. Luật đất đai được đưa ra cũng nhằm giảm bớt số lần và những thất thường trong phân bổ lại quyền sử dụng đất. Các làng và các thị trấn thuộc các tỉnh duyên hải phát triển tự do hơn trong việc thử nghiệm những biện pháp mới đối với các hình thức sở hữu đất ổn định như hợp tác xã, thế chấp bằng đất và các công ty liên doanh, nhờ đó các hộ nông dân có thể biến đất được phép sử dụng thành các trang trại quy mô lớn hoặc đưa vào sử dụng theo nhiều mục đích khác. Hiện nay các làng xã đang áp dụng các hình thức sở hữu mới và các hình thức sở hữu này sẽ trở thành mô hình để tiến hành các cuộc cải cách về sở hữu đất đai trong tương lai, tạo đà phát triển sản xuất. Trung Quốc có chủ trương “kéo dài thời hạn khoán ruộng đất để khuyến khích nông dân đầu tư bồi bổ sức đất, thực hiện thâm canh”. Chủ trương này nhằm kiện toàn chế độ khoán sản phẩm đến hộ nông dân, khắc phục tình trạng nông dân bóc ngắn cắn dài, kinh doanh có tính chất quá lạm dụng độ màu mỡ của đất đai. Thời hạn khoán ruộng đất từ 15 năm trở lên, đối với loại kinh doanh chu kỳ sản xuất dài có tính chất khai hoang như vườn, rừng, đồi hoang. thì thời hạn khoán cần phải dài hơn. Trước khi kéo dài thời hạn khoán, nếu quần chúng có yêu cầu điều chỉnh ruộng đất thì có thể dựa vào nguyên tắc “đại ổn định, tiểu điều chỉnh” (nghĩa là, về cơ bản phải ổn định, nhưng có thể điều chỉnh một phần nhỏ ruộng đất khoán chưa hợp lý), thông qua thương lượng một cách đầy đủ, sau đó tập thể thống nhất điều chỉnh. Ngoài ra còn cho phép hộ nông dân có quyền nhượng ruộng khoán, cụ thể là “khuyến khích từng bước tập trung ruộng đất vào tay những người làm ruộng giỏi”.
Chính phủ Trung Quốc áp dụng những phương pháp quản lý đất đai sử dụng cho xây dựng nhằm tập trung vào phạm vi đất đai và giao đất cho các dự án, do đó những dự án xây dựng có thể sử dụng những diện tích sử dụng không hiệu quả cho các mục đích nông nghiệp. Theo sự cho phép bảo đảm khối lượng chất lượng ban đầu của việc bảo tồn trạng trại cơ bản, trang trại mới tương đương về chất lượng và số lượng phải được phục hồi để bồi thường khi ai đó đang sử dụng. Với phương diện quản lý tài nguyên đất đai, Trung Quốc phải đối mặt với vấn đề thiết lập và cải thiện cơ chế theo định hướng thị trường, chính sách và quy định, việc hiện đại hóa quản lý đất đai cần thiết để hỗ trợ tạo nên sự ảnh hưởng cơ bản của cơ chế thị trường đến việc giao tài nguyên đất đai, đồng thời tăng cường sự can thiệp lô gíc của chính quyền để thực thi việc sử dụng đất hiệu quả cao, công bằng và bền vững. Trước hết là bảo vệ đất canh tác, và thực hiện hóa sự cân bằng động của nó trong tổng thể. Những mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên đất đai hạn hữu và sự gia tăng nhu cầu phải được làm rõ rằng chúng ta sẽ kiên quyết thực thi các chính sách nghiêm ngặt để bảo vệ đất canh tác, tăng cường sự phát triển và phục hồi đất canh tác cũng như bảo vệ môi trường thiên nhiên, tổng đất canh tác cần phải cân bằng động nhằm cải thiện tích cực và hiệu quả chất lượng tài nguyên đất đai.[39]
2.1.1.2. Đài Loan
Chính quyền đã thực hiện cải cách ruộng đất theo nguyên tắc phân phối đồng đều ruộng đất cho nông dân. Ruộng đất đã được trưng thu, tịch thu, mua lại của các địa chủ rồi bán chịu, bán trả dần cho nông dân. Điêù này đã tạo điều kiện cho ra đời các trang trại gia đình quy mô nhỏ. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn sau này đòi hỏi phải mở rộng quy mô của các trang trại gia đình nhằm ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Nhưng ruộng đất vẫn không được tích tụ cho dù đã có nhiều người tuy là chủ đất nhưng đã chuyển sang làm những nghề phi nông nghiệp, vì người dân coi ruộng đất là tiêu chí để đánh giá vị trí của họ trong xã hội nên ít có sự chuyển nhượng đất. Năm 1983 Đài loan công bố Luật phát triển nông nghiệp trong đó công nhận phương thức sản xuất uỷ thác của các hộ nông dân, Nhà nước công nhận sự chuyển quyền sử dụng ruộng đất cho các hộ khác nhưng chủ ruộng cũ vẫn được thừa nhận quyền sở hữu, ước tính đã có tới trên 75% số trang trại áp dụng phương thức này để mở rộng quy mô ruộng đất sản xuất. Ngoài ra để mở rộng quy mô sản xuất các trang trại trong cùng thôn xóm còn tiến hành các hoạt động hợp tác như làm đất, mua bán chung một số vật tư, sản phẩm nông nghiệp [2].
2.1.2 Chính sách pháp luật đất đai của Việt Nam
2.1.2.1. Khái quát chung:
Các chính sách đất đai nói chung và chính sách ruộng đất nói riêng đối với nông dân luôn có tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt, các chính sách ruộng đất ở nước ta luôn luôn phải xem xét giải quyết mọi hiện tượng và tình huống về đất đai không đơn thuần chỉ về mặt hiệu quả kinh tế mà còn cả về các mặt chính trị, xã hội đan xen và phải giữ được các nguyên tắc cơ bản theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm đáp ứng yêu cầu của các thời điểm phát triển nông nghiệp và nông thôn một cách ổn định, bền vững, thuận theo tiến trình đổi mới chung của đất nước.
Hiến pháp năm 1980 quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa. đều thuộc sở hữu toàn dân”; “Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm. Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động cuả mình theo quy định của pháp luật. Đất dành cho nông nghiệp và lâm nghiệp không được dùng vào việc khác, nếu không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, đánh dấu một bước chuyển cơ bản và quan trọng về chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước ta kể từ sau cải cách ruộng đất và tập thể hoá nông nghiệp.
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 13/1/1981 về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiêp”, quy định: “. hợp tác xã nông nghiệp phải quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất, trước hết là ruộng đất, sức kéo, phân bón, các công cụ và cơ sở vật chất - kỹ thuật của tập thể.”; “. Tổ chức tốt việc giao diện tích ruộng đất cho đội sản xuất, cho nhóm và người lao động sử dụng để thực hiện sản lượng khoán, tránh để đồng ruộng bị chia cắt manh mún. Khi diện tích giao khoán cho người lao động được phân bố hợp lý, thì có thể ổn định trong vài ba năm để xã viên yên tâm thâm canh trên diện tích đó.”.
Chỉ thị 29 ngày 21/11/1983 và Chỉ thị 56 ngày 29/01/1985 về giao đất, giao rừng cho hộ nông dân và việc củng cố quan hệ sản xuất ở miền núi, chủ trương thực hiện việc giao đất, giao rừng đến hộ nông dân, gắn quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích vật chất để khuyến khích nông dân trồng rừng trên đất trống, đồi núi trọc; nông dân được quyền thừa kế tài sản trên đất trồng rừng và cây công nghiệp dài ngày. ; trong hợp tác xã, thực hiện cơ chế khoán gọn cho hộ xã viên.
Trong vòng 5 năm thi hành Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và các Chỉ thị, Nghị quyết khác của Trung ương về cải tạo và quản lý nông nghiệp, và có liên quan về chính sách ruộng đất, mặc dầu vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn về vốn đầu tư, về vật tư cung ứng cho nông nghiệp nhưng sản lượng lương thực tăng 27%, năng suất lúa tăng 23,8%, diện tích cây công nghiệp tăng 62,1%. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp bình quân hàng năm cao hơn hẳn các thời kỳ trước. Tổng sản lượng nông nghiệp tăng 6%, thu nhập quốc dân trong nông nghiệp tăng 5,6%, lương thực bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước. Tuy vậy, đến những năm 1986 - 1987, nông nghiệp nước ta lại gặp phải những khó khăn mới, cùng với khó khăn chung của nền kinh tế quốc dân, đã dẫn đến cuộc khủng hoảng lúc bấy giờ.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra 3 chương trình kinh tế lớn, nhấn mạnh vị trí đặc biệt của nông nghiệp, chủ trương đổi mới cơ chế quản lý trong các hợp tác xã nông nghiệp, phát huy triệt để vai trò chủ động của hộ nông dân, phấn đấu đưa nông nghiệp nước ta trở thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa. Sau Đại hội, đời sống kinh tế - xã hội từng bước có chuyển biến, trên mặt trận nông nghiệp, cơ chế khoán sản phẩm theo tinh thần Chỉ thị 100, sau một thời gian phát huy tác dụng. Tuy nhiên, về cơ bản, mô hình hợp tác xã vẫn dựa trên sở hữu tập thể, quản lý tập trung, cùng với thiên tai xẩy ra năm 1987, trong hai năm 1987 - 1988, nước ta rơi vào tình trạng thiếu lương thực.
Luật Đất đai được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 12 năm 1987 và công bố ngày 8 tháng 01 năm 1988, là một đạo luật quan trọng trong bước khởi đầu đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội đất nước. Với mục đích “. Để nâng cao tinh thần trách nhiệm của mọi tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ và sử dụng đất đai, bảo vệ môi trường, đưa việc quản lý và sử dụng đất đai vào quy chế chặt chẽ, khai thác tiềm năng của đất đai một cách hợp lý và có hiệu quả, triệt để tiết kiệm đất, góp phần vào công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội, từng bước đưa nông nghiệp, lâm nghiệp lên sản xuất lớn, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Luật đã căn cứ vào tinh thần các Nghị quyết của Đại hội VI để thể chế hoá một phần rất quan trọng về chính sách đất đai đối với các thành phần và tổ chức kinh tế., đồng thời cũng tăng cường chế độ quản lý thống nhất của nhà nước đối với đất đai, trong khi, vào thời điểm này, đang có tình hình tranh chấp đất đai ở nhiều địa phương bên cạnh sự lỏng lẻo trong quản lý đất đai ở các cơ sở.
Năm 1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 10 về “Đổi mới quản lý nông nghiệp”, trong đó chỉ rõ: “. Củng cố và tăng cường các hợp tác xã quy mô toàn xã sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Điều chỉnh quy mô quá lớn của một số hợp tác xã ở các tỉnh đồng bằng và trung du phía Bắc, duyên hải miền Trung, Tây Nguyên mà sản xuất trì trệ, quản lý kém và xã viên yêu cầu, thành các hợp tác xã có quy mô thích hợp.”; “. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và hộ xã viên, đến người lao động và đến tổ, đội sản xuất tuỳ theo điều kiện của ngành nghề cụ thể ở từng nơi, gắn kế hoạch sản xuất với kế hoạch phân phối từ đầu. Trong trồng trọt, về cơ bản khoán đến hộ hoặc nhóm hộ xã viên.”; “. Trong ngành trồng trọt, phải điều chỉnh diện tích giao khoán, khắc phục tình trạng phân chia ruộng đất manh mún, bảo đảm cho người nhận khoán canh tác trên diện tích có quy mô thích hợp và ổn định trong khoảng 15 năm. Ở các vùng còn nhiều đất đai, mặt nước chưa khai thác, tuỳ tình hình cụ thể mà Nhà nước có thể cho thuê hoặc giao quyền sử dụng một số ruộng đất, đất rừng, mặt nước cho hộ cá thể, tư nhân để họ tổ chức sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật. Đối với đất trồng rừng và cây công nghiệp dài ngày, có thể giao quyền sử dụng từ 1 đến 2 chu kỳ kinh doanh. Đối với mặt nước và đất trồng cây lương thực, cây công nghiệp hàng năm, thời gian đó có thể từ 15 đến 20 năm. Luật đất đai năm 1988 và Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã có một bước quyết định cơ bản về chính sách ruộng đất đối với nông dân. Nhờ vậy, cùng với các chính sách khác của Đảng và Nhà nước ta tình hình sản xuất nông nghiệp và xã hội nông thôn đã có bước chuyển biến tích cực, sản xuất lương thực có bước ngoặt lớn, năm 1989 đạt 20,5 triệu tấn lương thực, tăng 3 triệu tấn so với năm 1987. Từ một nước thiếu lương thực triền miên, nước ta đã vươn lên hàng các nước xuất khẩu gạo lớn của thế giới. Đời sống nông thôn được cải thiện rõ rệt.
Về vấn đề ruộng đất, tại Đại hội Đảng lần thứ VII tháng 6 năm 1991 đã ghi vào văn kiện: “Ruộng đất thuộc quyền sở hữu toàn dân, giao cho nông dân quyền sử dụng lâu dài. Hội nghị Trung ương 2 khoá VII tháng 3 năm 1992 quyết định: ".Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng ruộng đất phải được pháp luật quy định cụ thể theo hướng khuyến khích nông dân an tâm đầu tư kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo điều kiện từng bước tích tụ ruộng đất trong giới hạn hợp lý để phát triển hàng hoá, đi đôi với mở rộng phân công lao động và phân bố lao động gắn với quá trình công nghiệp hoá. Quy định rõ các điều kiện cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất, ngăn ngừa tình trạng người sống bằng nghề nông không còn ruộng đất, người mua quyền sử dụng ruộng đất không phải để sản xuất mà để buôn bán ruộng đất, phát canh thu tô. Mức tập trung ruộng đất vào một hộ cũng phải quy định giới hạn tối đa tuỳ theo vùng và loại đất.".
Hiến pháp năm 1992 tại Điều 17 và 18 khẳng định lại những quyết định cơ bản của Đại hội Đảng và của Trung ương về quan hệ ruộng đất trong tình hình mới.
Hội nghị Trung ương 5 khoá VII tháng 6 năm 1993 về "Tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội nông thôn" quyết định: "Kiên trì và nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đổi mới kinh tế hợp tác, phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên Khẳng định đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân. Quy định thời gian sử dụng đất hợp lý đối với cây ngắn ngày và cây lâu năm. Khi hết thời hạn, người sử dụng đất có nhu cầu và đủ điều kiện sẽ được quyền tiếp tục sử dụng. Đối với những người đang sử dụng đất trên hạn mức thì Chính phủ có quy định và hướng dẫn riêng để họ an tâm sản xuất. Nhà nước có chính sách bảo đảm kết hợp lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài trong việc khai thác và sử dụng đất trống đồi núi trọc, đất khai hoang, lấn biến. Đối với quỹ đất công ích, nơi nào có nhu cầu thì được để lại không quá 5% diện tích canh tác của xã, nhưng phải bảo đảm quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả.".[30], [5],[6],[7]
Luật Đất đai năm 1993 quy định: ". Nhà nước cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất. Nhà nước cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất"; "Người sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hộ gia đình, cá nhân được nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất. Thời gian giao đất sử dụng ổn định lâu dài để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản là 20 năm, để trồng cây lâu năm là 50 năm.[5]
124 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5741 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động của chính sách đất đai đến việc sử dụng đất nông nghiệp và đề xuất phương án sử dụng đất nông nghiệp đến năm 2015 tại tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đã xác định vùng nghiên cứu có hơn 50 loài tảo thuộc 5 ngành tảo (Cyanobacteria, Bacillario, Phyta, Cholorophita, Pyrrophyta). Số lượng thực vật phù du dao động từ 7000 - 11500 tế bào/m3 vào tháng 11 - 12. Phù du nguồn nước ven biển không ổn định, có biên độ cao. Tuy nhiên vào mùa nuôi trồng thuỷ sản mật độ phù du khá cao.
Nhìn chung chất lượng nước, thành phần loài và số lượng thực vật, phù du ở vùng ven biền rất phù hợp với nuôi trồng thuỷ sản.
Kết hợp với đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường, trên cơ sở kết quả xác định các yêu cầu sử dụng đất của từng loại hình, tổng hợp đặc tính của các đơn vị đất đai, đã xem xét đánh giá mức độ thích nghi tối đa của từng loại hình sử dụng đất, lập bản đồ thích nghi cho từng loại hình sử dụng đất với mức thích nghi và yếu tố hạn chế cụ thể. Kết quả phân hạng thích nghi các loại hình hiện tại cho từng loại hình sử dụng đất nông nghiệp như trong bảng dưới đây.
Bảng 4.22. Kết quả phân hạng thích nghi các loại hình hiện tại- tỉnh Nam Định
LMU
Diện tích (ha)
2 lúa
2 lúa - 1 màu
2 màu - 1 lúa
Màu & CCN ngắn ngày
Lúa - thuỷ sản
Nuôi trồng thuỷ hải sản
Trồng cây lâm nghiệp
Lựa chọn thích hợp nhất
1
2
3
4
5
6
7
1
4.762,72
Nei
Nei
Nei
S3e.i
Nei
Nei
S1
7
2
1.800,73
S3gi
S3gi
S3i
S1
Ne
Ne
S2g
4
3
6.153,89
Nx.ft
Nx.ft
Nx.ft
Nx.ft
Nx.ft
S2
S1(rừngngập mặn)
7
4
2.403,85
Nx
Nx
Nx
Nx
Nx
S1
Ne
6
5
7.058,25
S2
S3x
Nex
Nex
S3e
S2e
Ne
1
6
4.222,64
S2
Neg
Ng
Ng
S2g
S3eg
Ne
5
7
23.094,33
S1
S2it
S3et
Nte
S3i
Ne
Ne
1
7b
13.729,64
S2
S3e
Net
Nte
S2
Ne
Ne
1
8
17.813,04
S1
S2
S3xt
Nxt
S3ei
S3e
Ne
1
9
4.385,54
S3gi
S3i
S1
S2
Ne
Ne
S3e
3
10
8.410,41
S2g
S3e
Nte
Nte
S3i
Nie
Ne
1
11
22.235,12
S2
S1
S3it
Nte
Nei
Ne
Ne
2
12
5.504,52
Ng
S3ig
S2
S1
Nei
Ne
S3e
4
13
7.556,72
S2g
Ngf
Nf
Nf
S1
S3ei
Nf
5
14
564,74
Ng
Ng
Ng
Ng
Nie
Nie
S1
7
15
119,77
Ng
Ng
Ng
Ng
Nie
Nie
S1
7
Tổng
60.105,67
22.235,12
4.385,54
7.305,25
16.779,36
7.403,85
11.511,12
(Nguồn: Báo cáo đánh giá thích nghi đất đai- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Nam Định, năm 2006)
* Nhận định chung kết quả đánh giá đất thích nghi cho nông nghiệp:
- Đất thích nghi cao cho loại hình sử dụng đất 2 lúa - 1 màu, loại hình lúa - cá, màu và cây công nghiệp ngắn ngày có diện tích lớn hơn diện tích hiện trạng sử dụng đất cho các loại hình này. Ngược lại diện tích đất thích nghi cao cho loại hình 2 lúa thấp hơn hiện trạng sử dụng. Điều đó có phần nguyên nhân do vấn đề sản xuất lương thực là quan trọng lên một số diện tích đất không thích nghi cao cho trồng lúa 2 vụ những năm qua vẫn được đưa vào trồng lúa, trong khi nếu trồng 2 vụ lúa - vụ đông hoặc trồng 1 vụ lúa - kết hợp nuôi cá thì về kinh tế nói chung đều là những loại hình sử dụng đất cho tổng thu nhập cao hơn.
- Toàn tỉnh có 9 loại hình sử dụng đất thích nghi nhất ở hiện tại, 8 loại hình sử dụng thích nghi nhất trong tương lai, trong đó các loại hình sử dụng mang tính đặc thù là: Rừng phòng hộ, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối. Cụ thể:
+ Thích nghi đất đai hiện tại:
* Đất trồng lúa: Tổng diện tích hiện tại hàng năm đã trồng hai vụ lúa đạt 60.105 ha, diện tích thích nghi cao (S1) 40.407 ha. Đất trồng hai vụ lúa và 1 vụ đông 22.235 ha là diện tích thích nghi cao đã được thực tế lựa chọn qua các vụ đông từ năm 2001-2006.
Đất trồng 1 vụ lúa và quay vòng 2- 3 vụ màu hiện nay có trên 4.000 ha, vì diện tích manh mún và các hộ nông dân trồng 1 vụ lúa trong giải pháp tình thế không để bỏ trống đất, diện tích này thường không được thống kê.
4.4.1.2.3 Một số tiềm năng khác
Tiềm năng tăng vụ trên đất trồng lúa màu khoảng 45.000-50.000 ha, được phân bổ cho các huyện như sau:
Huyện Giao Thuỷ khoảng trên 10000 ha.
Huyện Hải Hậu có trên 12.000 ha đất ruộng lúa, lúa - màu sẽ đầu tư hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi, sử dụng giống lúa mới, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật... để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sử dụng đất.
Huyện Mỹ Lộc tiềm năng tăng vụ trên đất lúa màu khoảng 600 ha.
Huyện Nghĩa Hưng khoảng 1.700 ha.
Huyện Nam Trực dự kiến đến năm 2010 sẽ chuyển 40 ha đất lúa 1 vụ (ở Nam Hoa có địa hình cao, vàn cao), có khả năng trồng cây vụ đông lên 3 vụ. Chuyển đất 1 vụ và toàn bộ diện tích đất chuyên mạ lên 2 vụ khoảng 1.100 ha.
Huyện Trực Ninh có khả năng chuyển khoảng 900 ha diện tích ruộng 2 vụ trên địa bàn 19 xã trong huyện bằng biện pháp thuỷ lợi (tưới tiêu chủ động). Như vậy nâng cao hệ số sử dụng đất lên 2,3 lần.
Thành phố Nam Định cũng có thể chuyển khoảng 250 ha diện tích ruộng 1 vụ lên sản xuất 2 vụ bằng biện pháp thuỷ lợi (tưới tiêu chủ động). Như vậy nâng cao hệ số sử dụng đất lên 2,5 lần.
Huyện Vụ Bản có khả năng tăng vụ trên đất trồng lúa và đất màu khoảng 4.600 ha.
Huyện Xuân Trường có khả năng tăng vụ đạt 6.340 ha. Như vậy đưa hệ số sử dụng đất 2,2¸2,5 lần đến năm 2010.
Tiềm năng chuyển đổi cơ cấu giống lúa, đặc biệt là giống lúa đặc sản và lúa chất lượng cao ở các huyện phía nam của tỉnh khá lớn khoảng 35.000-40.000 ha. Trong đó:
Huyện Giao Thuỷ tiềm năng chuyển đổi cơ cấu giống lúa, đặc biệt là giống lúa đặc sản và lúa chất lượng cao (ở 1 số xã ven biển và phía Nam sông Cồn Nhất) khoảng 1000 ha.
Huyện Hải Hậu ở những khu vực có địa hình vàn, vàn thấp, thuộc nhóm đất phù sa không được bồi hàng năm, thành phần cơ giới thịt trung bình, hàm lượng mùn khá, có tiềm năng phát triển lúa đặc sản, lúa giống.
Huyện Nghĩa Hưng tiềm năng chuyển đổi cơ cấu giống lúa, đặc biệt là giống lúa nếp tám có chất lượng cao khoảng trên 6.000 ha.
Huyện Trực Ninh tiềm năng chuyển đổi cơ cấu giống lúa, đặc biệt là lúa đặc sản và lúa chất lượng cao chủ yếu ở các xã Trực Cường, Liêm Hải, Trực Nội, Trung Đông, Trực Chính, Trực Tuấn, Trực Mỹ khoảng 600 - 800 ha.
Huyện Xuân Trường tiềm năng chuyển đổi cơ cấu giống lúa đặc biệt là giống lúa đặc sản và lúa chất lượng cao khoảng 3.300 ha tập trung ở các xã: Xuân Thuỷ, Thọ Nghiệp, Xuân Thượng, Xuân Thành, Xuân Phong, Xuân Đài, Xuân Tân, Xuân Phú.
Huyện Ý Yên tiềm năng chuyển đổi cơ cấu giống lúa đặc biệt là lúa chất lượng cao với diện tích khoảng 2000 - 3000 ha.
* Đất màu + CCN-NN: diện tích thích nghi cao nhất (S1) là 7.305 ha, khả năng phát triển có thể lên khoảng 16.500 ha và còn có thể phát triển trên diện rộng ở vụ đông, song thực tế hiện tại mới sử dụng gieo trồng chưa tới 3.000 ha.
Khả năng phát triển đất màu + CCN-NN thuận lợi ở các huyện như sau: huyện Giao Thuỷ khoảng 350 ha; huyện Mỹ Lộc khoảng 140 ha; huyện Nam Trực bằng biện pháp thuỷ lợi và thâm canh có thể: chuyển từ đất 2 vụ, 1 vụ, màu ngắn ngày, nuôi trồng thuỷ sản, thành cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao và đất vườn hoa cây cảnh; huyện Trực Ninh có thể thích nghi trên diện rộng khoảng trên 500 ha; thành phố Nam Định khoảng trên 200 ha; huyện Vụ Bản với diện tích khoảng 440 ha; huyện Xuân Trường tập trung ở vùng bãi sông Hồng, sông Ninh Cơ khoảng 600 ha; huyện Ý Yên tiềm năng chuyên canh rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày khoảng 2000 - 2500 ha.
Nhóm cây công nghiệp ngắn ngày có khả năng tăng mạnh diện tích, đặc biệt là lạc, đỗ tương, đay.
* Đất lúa - thuỷ sản: có khả năng 16.779 ha, song hiện tại mô hình này mới phát triển trên 500 ha ở Vụ Bản, Ý Yên, Trực Ninh…
* Đất trồng cây lâu năm: có khả năng phát triển trên đất vườn tạp và đất ruộng 1 vụ lúa để trồng cây ăn quả với diện tích khoảng 5.000-10.000 ha. Một số huyện có thể tăng diện tích đất trồng đất cây ăn quả trên những diện tích đất tận dụng ở các triền sông, bãi sông, bờ sông lớn, dọc các kênh cấp I, II.
* Đất cho nuôi trồng thuỷ sản thích nghi 7.403 ha.
Nam Định có tiềm năng thuỷ sản lớn trên cả 3 vùng nước mặn, lợ, ngọt. Vùng ngập mặn ven biển có diện tích trên 20.000 ha, có khả năng nuôi tôm sú, cua biển, các loại cá . Ở vùng cồn bãi xa đất liền, ngư dân dùng lưới quây lại thành những “vuông nuôi” nhuyễn thể, đặc biệt là vạng, vọp. Vùng nước ngọt nội đồng có diện tích 12.000 ha, bao gồm ao, hồ nhỏ trong dân, vùng hồ mặt nước lớn, vùng ruộng chiêm trũng và trên 6.000 ha sông ngòi (nơi có thể nuôi cá bằng lồng bè) có thể nuôi các loại tôm càng xanh, rô phi đơn tính, chép, trôi, trắm, trê lai.
* Tiềm năng đất lâm nghiệp tập trung chủ yếu trên địa bàn của 3 huyện ven biển. Vùng ven biển của tỉnh có gần 2000 ha đất bãi bồi có thể phát triển lâm nghiệp trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Do diện tích đất có khả năng trồng rừng hạn chế, tỉnh đã chuyển hướng sang trồng cây xanh để cải tạo môi trường sinh thái và cảnh quan.
+ Thích nghi đất đai tương lai: kết hợp giữa đánh giá đất đai thích nghi và hiệu quả sử dụng đất của các mô hình đã được ứng dụng các năm qua, mức độ thích nghi nhất của các loại hình sử dụng đất trong tương lai được lựa chọn là:
* Đất trồng lúa: 76.872 ha, trong đó loại hình sử dụng đất 2 lúa có 31.542 ha chiếm 41% đất trồng lúa, loại hình sử dụng đất 2 lúa - 1 vụ đông 45.329 ha chiếm 59% đất trồng lúa.
* Đất màu và CCN-NN: phấn đấu gieo trồng tối đa diện tích thích nghi nhất (S1, S2) 11.689 ha.
* Các loại hình sử dụng đất đặc thù: Lúa-thuỷ sản 20.189 ha, nuôi trồng thuỷ sản 15.615 ha và trồng rừng 5.507 ha.
Xu hướng của tương lai là vừa khai thác vừa bảo vệ môi trường và lựa chọn cây con có năng suất chất lượng cao đem lại hiệu quả lớn nhất bởi đa phần diện tích đất của Nam Định có thể luân canh, đa canh, 100% diện tích có thể lập vườn, trang trại.
Kết quả đánh giá tiềm năng đất đai cho sản xuất nông lâm nghiệp làm cơ sở để điều chỉnh việc bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý, tạo vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá nông lâm sản, thuỷ sản; duy trì và phát triển hợp lý vốn rừng, đảm bảo môi trường sinh thái phát triển bền vững.
Khái quát tiềm năng đất đai theo địa bàn lãnh thổ
Về tổng thể các yếu tố điều kiện tự nhiên, đất đai của tỉnh Nam Định chia ra 2 vùng là vùng bắc sông Đào và vùng nam sông Đào.
- Vùng lãnh thổ phía bắc sông Đào (gồm các huyện Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và TP. Nam Định): Đặc điểm của vùng là địa hình có độ chênh lệch khá lớn, đồng ruộng đã được cải tạo song vẫn có một phần nhỏ diện tích bị ngập úng cục bộ, tưới tiêu động lực là chủ yếu, độ màu mỡ đất đai và năng suất lúa đều kém hơn vùng nam sông Đào. Trong vùng đất trồng lúa hiện chiếm phần lớn nhưng cũng có một diện tích đất khá lớn phù hợp với chuyên canh trồng cây màu, cây công nghiệp ngắn ngày và đất lúa có địa hình tương đối cao trồng màu vụ đông. Về điều kiện kinh tế - xã hội, hạ tầng: vùng bắc sông Đào có số dân lớn, mật độ dân cư đông, hệ thống giao thông phát triển và tập trung đầu mối, có TP. Nam Định là trung tâm với thực lực kinh tế công nghiệp - dịch vụ cao.
Đặc điểm này là một lợi thế để bố trí đất phát triển kinh tế phi nông nghiệp cũng như cho nhiều lĩnh vực xã hội, về nông nghiệp có thể chuyển đổi cây trồng vật nuôi theo hướng đẩy mạnh phát triển cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao: thâm canh lúa – màu, lúa - cá; chuyên trồng màu, cây công nghiệp ngắn ngày; trồng hoa, cây cảnh; phát triển kinh tế trang trại mô hình VAC hoặc VA.
- Vùng lãnh thổ phía nam sông Đào (gồm các huyện Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa Hưng): Vùng nam sông Đào có địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ, có hệ thống thuỷ lợi đồng bộ, nguồn nước tưới là nước phù sa sông Hồng tưới tiêu thuận lợi. Trong vùng có nhiều diện tích mặt nước lợ, nước mặn, bãi cát, cồn và vùng nước nông ven bờ biển, có Khu bảo tồn Quốc gia Xuân Thủy. Có điều kiện thuận lợi nhất để thâm canh lúa đảm bảo mục tiêu an toàn lương thực của tỉnh, thuận lợi trong việc bố trí đất phát triển kinh tế theo hướng tăng dịch vụ tham quan du lịch, nuôi trồng thủy hải sản, phát triển rừng phòng hộ và bảo tồn sinh thái môi trường biển. Tuy nhiên vùng này có truyền thống trồng lúa thâm canh cao nên nhìn chung đa phần lãnh thổ xa biển ít có điều kiện để đạt được sự chuyển dịch mạnh như đối với vùng bắc sông Đào.
4.4.1.3. Mục tiêu phát triển nông lâm thuỷ sản
Sử dụng đất cho nông nghiệp nhằm mục tiêu phát triển nông nghiệp trên cơ sở thâm canh tăng năng suất, chất lượng, đạt hiệu quả cao và sử dụng tài nguyên hợp lý. Tập trung khai thác tốt nhất các lợi thế phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng đa canh, trong đó sản phẩm hàng hóa chủ lực là giống cây trồng (lúa, rau quả- hoa cây cảnh); giống thủy sản nước ngọt, mặn, lợ (cá, tôm, nhuyến thể) đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Xây dựng mô hình nông nghiệp thành vành đai xanh phát triển bền vững cả về kinh tế - xã hội và cảnh quan môi trường. Ứng dụng được công nghệ cao như là mũi đột phá trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản, phấn đấu đưa Nam Định trở thành trung tâm ứng dụng và chuyển giao khoa học - kỹ thuật cho ngành nông - ngư nghiệp vùng nam đồng bằng sông Hồng. Về kinh tế tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá và đảm bảo giữ vững an ninh lương thực, nuôi trồng cây con đặc sản có giá trị kinh tế cao. Trong tổ chức sản xuất nông nghiệp khuyến khích dồn điền đổi thửa, xây dựng nhiều mô hình kinh tế trang trại vừa và nhỏ, mô hình doanh nghiệp ở nông thôn, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng giá trị sản xuất lên 42 triệu/1 ha năm 2010, 50 - 60 triệu đồng/ha vào năm 2020.
Dự kiến giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp tăng bình quân 5,1%/năm giai đoạn 2006 - 2010, tăng 4,1%/năm giai đoạn 2011 - 2015 và 3,4%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Trong cơ cấu sản xuất, tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm, tỷ trọng của ngành thuỷ sản tăng dần.
- Về trồng trọt: Thâm canh, tăng năng suất, chất lượng lúa để đảm bảo an ninh lương thực và phục vụ xuất khẩu. Sản lượng lương thực sản xuất năm 2015 đạt khoảng 950 nghìn tấn và năm 2020 khoảng 900 nghìn tấn. Tăng tỷ suất hàng hoá lên khoảng 35 - 40% vào năm 2010 và 45 - 55% vào năm 2020; phấn đấu giá trị sản phẩm trên mỗi ha đất canh tác đạt 42 triệu đồng/năm vào năm 2015 và đạt khoảng 55 - 60 triệu đồng/năm vào năm 2020. Tiếp tục chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ theo hướng đa dạng hoá cây trồng, đa thời vụ, mở rộng nhanh diện tích những cây có hiệu qủa kinh tế cao (cây vụ đông, cây ăn qủa, hoa, cây cảnh).
- Về chăn nuôi: Phát triển chăn nuôi toàn diện, đa dạng gồm đàn lợn, đàn bò, các loại gia cầm để cho năng suất và chất lượng sản phẩm cao phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Thuỷ sản: Mục tiêu phấn đấu giá trị sản xuất ngành thuỷ sản tăng 15%/năm giai đoạn 2006-2015, tăng 9,0%/năm giai đoạn 2011-2015 và đạt 6,5%/năm giai đoạn 2016-2020. Đưa tỷ trọng của thuỷ sản ngày càng cao trong cơ cấu nông lâm nghiệp của tỉnh Nam Định. Phát triển sản xuất gắn với phát triển mạng lưới dịch vụ thu gom, chế biến xuất khẩu... để tăng giá trị sản phẩm hàng hoá và tăng thu nhập cho nông, ngư dân.
+ Về nuôi trồng thuỷ sản: Tập trung phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá, đảm bảo có hiệu quả cao và bền vững. Trong nuôi trồng thuỷ sản chú trọng sản xuất tôm sú giống và nuôi tôm thương phẩm, nuôi cá rô phi đơn tính và ngao.
+ Về khai thác hải sản: Tiếp tục tăng cường năng lực khai thác hải sản; ổn định khai thác hải sản ven bờ, tăng cường công tác quản lý, tìm chọn phương thức tốt nhất khai thác hải sản xa bờ. ưu tiên đầu tư cho phát triển thuỷ hải sản, gắn sản xuất với công nghiệp chế biến và dịch vụ. Chuyển đổi những diện tích làm muối, trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ hải sản. Đẩy mạnh mô hình kinh tế trang trại vùng biển có quy mô hợp lý.
- Lâm nghiệp: Trọng tâm là kết hợp việc trồng rừng phòng hộ gắn với bảo vệ cảnh quan, môi trường phát triển du lịch và nuôi trồng thuỷ sản ven biển. Đẩy mạnh trồng cây phân tán, vành đai cây xanh ở các đô thị.
Phát triển nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng có khả năng cạnh tranh cao, đẩy nhanh hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn; phát triển trồng trọt và chăn nuôi các cây, con đem lại giá trị và hiệu quả kinh tế cao; xây dựng các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung, các khu nông nghiệp công nghệ cao với phương thức sản xuất hiện đại, sản xuất gắn với chế biến; đẩy mạnh phát triển công nghiệp và ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn.
Xây dựng quy hoạch về an toàn lương thực và bảo vệ môi trường sinh thái nông thôn, vừa sử dụng hợp lý đất đai, mặt nước, vừa chủ động phòng chống thiên tai.
Việc áp dụng các phương pháp công nghiệp và tổ chức tiên tiến vào sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, tạo năng suất cao và chất lượng hàng hóa nông sản đáp ứng yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước, sẽ bảo đảm cho thu nhập của người nông dân được nâng lên. Muốn đạt được yêu cầu trên, trước hết cần đầu tư vào các biện pháp kỹ thuật: thủy lợi hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa và điện khí hóa. Bên cạnh đó, các giải pháp về tổ chức sản xuất đang đặt ra những vấn đề bức xúc. Không thể công nghiệp hóa nông nghiệp trên cơ sở những mảnh ruộng quá manh mún, những tổ chức sản xuất quá nhỏ bé, luôn bị động về tiêu thụ sản phẩm và khó khăn về áp dụng các biện pháp công nghệ mới. Các hình thức hợp tác xã sản xuất ở đồng bằng và các kiểu trang trại ở vùng trung du, miền núi và ven biển phải đóng góp vào việc mở rộng quy mô khai thác, nhờ đó các biện pháp kỹ thuật mới mới dễ được tiếp nhận và phát huy được hiệu quả. Mặt khác, muốn đưa nông nghiệp lên trình độ hiện đại thì đã đến lúc cần tạo điều kiện để áp dụng một cách phổ biến các công nghệ mới vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xây dựng những khu nông nghiệp công nghệ cao, đổi mới kỹ thuật và tổ chức sản xuất, kể cả tổ chức lại cuộc sống ở các vùng nông thôn.
Vấn đề cơ cấu lại kinh tế và lao động nông thôn, theo số liệu thống kê, lao động nông nghiệp hiện đang đóng góp khoảng 20% GDP toàn tỉnh, tỷ lệ đó sẽ giảm dần (tuy giá trị tuyệt đối vẫn tăng), dự báo có thể xuống dưới 10% sau năm 2020. Như vậy, muốn tăng thu nhập của nông dân lên gần với mức chung của cả nước thì tỷ lệ lao động trong nông nghiệp còn cần giảm nhiều, diện tích đất canh tác cho mỗi lao động phải tăng lên... Do đó số lao động dôi dư ở vùng nông thôn sẽ rất lớn. Nếu không thực hiện được mục tiêu này thì chẳng những tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp sẽ trầm trọng thêm, mà năng suất lao động nông nghiệp và thu nhập của người nông dân cũng sẽ khó có thể được cải thiện, chưa nói khoảng cách giàu - nghèo, nông thôn - thành thị càng doãng ra nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển bền vững.
Nông nghiệp và nông thôn phải có bước chuyển mạnh thành một nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng, gắn với phát triển công nghiệp chế biến và các ngành nghề phi nông nghiệp, phân công lại lao động ở nông thôn.
Sản xuất nông nghiệp phải chuyển dịch cả về cơ cấu cây trồng, vật nuôi và cơ cấu sản phẩm nhằm đáp ứng cùng một lúc nhiều yêu cầu: phù hợp với nhu cầu thị trường, với điều kiện khí hậu, sinh thái, giảm nhẹ nguy cơ bị thiệt hại do thiên tai, tạo ra những sản phẩm có chất lượng, có giá trị kinh tế cao, có lợi thế cạnh tranh. Đi đôi với việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, nền nông nghiệp của Tỉnh có điều kiện bố trí cơ cấu cây trồng đa dạng, linh hoạt, chuyển hướng sản xuất hoặc đổi giống, đổi thời vụ đối với những diện tích cây trồng kém hiệu quả, kể cả một bộ phận đất trồng lúa. Phát triển mạnh một số cây trồng mà Tỉnh có điều kiện sản xuất có hiệu quả, nhưng hiện nay nước ta còn phải dựa vào nhập khẩu khối lượng lớn, như đậu tương, ngô...
Phát triển chăn nuôi với mức tăng trưởng nhanh hơn trồng trọt, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, kể cả thịt, sữa, da. Thủy sản là một thế mạnh, có thể tăng trưởng nhanh, nâng đáng kể tỷ trọng trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp và chiếm vị trí quan trọng trong khu vực.
Một biện pháp đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp có hiệu quả là kết hợp tính sáng tạo, chủ động vươn lên của kinh tế hộ gia đình với vai trò của các doanh nghiệp tiêu thụ, chế biến nông sản thuộc các thành phần kinh tế (trong đó có vai trò quan trọng của hợp tác xã kiểu mới) làm cầu nối trực tiếp sản xuất nông nghiệp với thị trường bằng hợp đồng đặt hàng và cung ứng, hỗ trợ "đầu vào" cho nông dân, đưa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ vào nông, lâm, ngư nghiệp. Bằng cách đó, những người tham gia quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản liên kết với nhau trên cơ sở điều hòa các lợi ích và được Nhà nước hỗ trợ để tạo nên những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, có sức cạnh tranh cao về chất lượng và giá cả.
Muốn bảo đảm sự phát triển bền vững cần thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhất là chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp để khu vực này hỗ trợ cho công nghiệp hóa, trong đó trọng tâm là chuyển đổi cơ cấu đất đai một cách hợp lý. Đất đai vừa là phương tiện để bảo đảm đời sống, vừa là một nhân tố sản xuất để tích lũy vốn. Vì vậy, việc tiếp cận với ruộng đất, quyền sở hữu hay quyền sử dụng, đều phải có tác dụng đến sản xuất, giúp nông dân thoát khỏi tự cấp, vươn lên phát triển nông nghiệp hàng hóa, đồng thời tham gia vào việc đầu tư để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất phù hợp với điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội:
Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất phù hợp với điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội sẽ đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội và đây là vấn đề mang ý nghĩa sống còn đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm tới. Ở góc độ này, một số vấn đề cụ thể như sau:
- Sử dụng đất trong lĩnh vực nông nghiệp: Trong những năm tới phát triển thuỷ sản, rau màu thực phẩm và hoa cây cảnh tiếp tục là ưu tiên chính trong phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh, do đó việc chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất để phát triển các đối tượng này sẽ được tiếp tục thực hiện trên phạm vi rộng hơn trên cơ sở chắc chắn đúc rút được từ những năm vừa qua về tổng thể hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường và kết quả đánh gía thích nghi đất đai.
Chuyển đổi sử dụng đất phải gắn liền với bảo vệ môi trường:
- Mọi chuyển đổi sử dụng đất đều phải gắn liền với bảo vệ môi trường, tái tạo tài nguyên, đa dạng sinh học bảo vệ các danh lam thắng cảnh.
- Trong sản xuất nông nghiệp, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phải tránh gây ô nhiễm môi trường đất, làm suy thoái đất do bố trí cây trồng, vật nuôi không phù hợp hoặc phải sử dụng các biện pháp kỹ thuật, vật tư không thích hợp.
4.4.2 Phương án sử dụng đất nông nghiệp tới năm 2015
4.4.2.1 Đề xuất phương án sử dụng đất nông nghiệp
Bảng 4.23. Tổng hợp phương án sử dụng đất nông nghiệp tỉnh Nam Định đến năm 2015
TT
Loại đất
Diện tích năm 2005 (ha)
Diện tích năm 2015 (ha)
Diên tích đất nông nghiệp
115.414
114282
01
Đất trồng cây hàng năm
89.190
83005
02
Đất trồng cây lâu năm
7.732
8093
03
Đất dùng vào chăn nuôi
9
9
04
Mặt nước nuôi trồng thuỷ sản
12.855
17.179
05
Diện tích làm muối
1.104
1046
06
Đất lâm nghiệp
4.368
4950
Trên cơ sở đề xuất diện tích đất nông nghiệp củaTỉnh đến năm 2015; thời kỳ từ năm 2006 đến năm 2015 do đẩy mạnh công nghiệp hoá và đô thị hoá nên diện tích đất nông nghiệp của tỉnh sẽ giảm nhiều. Diện tích đất nông nghiệp bổ sung chủ yếu từ diện tích ngập nước và bãi bồi ven biển dự kiến có khoảng 3.000 - 4.000 ha.
Đất nông nghiệp đến năm 2015 có khoảng 110.000 - 111.000 ha trong đó: đất sản xuất nông nghiệp còn khoảng 83.500 ha (trong đó đất trồng lúa 75.000 ha); đất lâm nghiệp 8.000 ha; đất chuyên nuôi trồng thủy sản 18.000 ha. Đất nông nghiệp được bố trí theo hướng sản xuất thâm canh, trang trại sinh thái để nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất.
* Đất trồng trọt:
Trong thời gian này diện tích đất sản xuất nông nghiệp phải chuyển cho mục đích chuyên dùng và đất ở khoảng 12.000 - 13.000 ha, bình quân mỗi năm giảm 8.000 - 9.000 ha. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp bổ sung rất nhỏ do nguồn cung han chế.
- Đất trồng lúa: Đến năm 2015 đất trồng lúa có khoảng 75.000 ha. Để đảm bảo an ninh lương thực, tăng sản lượng lúa đặc sản, lúa hàng hóa sẽ phải thực hiện thâm canh tăng năng suất lúa, tăng diện tích lúa có chất lượng cao. Cụ thể là thực hiện:
Ổn định diện tích đất chuyên trồng lúa (2 vụ lúa) khoảng 75000 ha, năng suất 13 - 14 tấn/ha/năm thì sẽ có sản lượng từ 900 - 950 nghìn tấn và đảm bảo bình quân lương thực đầu người đạt 450 - 470 kg/năm trở lên. Trên địa bàn tỉnh hình thành những vùng sản xuất lúa chính sau:
+ Vùng trồng lúa đặc sản: diện tích có thể nâng lên 16.000 ha vào năm 2015, sản lượng lúa đặc sản đạt từ 55.000 tấn năm 2015. Các giống lúa đặc sản sẽ phát triển có tám xoan, tám tiêu, nếp bắc, nếp cái hoa vàng. Các giống lúa đặc sản không đòi hỏi đầu tư thâm canh lớn, năng suất không cao, nhưng giá trị gấp 2 đến 2,5 lần so với lúa tẻ thường. Các giống lúa này chỉ gieo cấy được trong vụ mùa, thích hợp với đất vàn thấp, sâu màu, đất bị ảnh hưởng mặn nhẹ nên hướng bố trí chủ yếu ở các huyện phía Nam của tỉnh như: Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Xuân Trường, Trực Ninh... Các huyện khác có thể trồng được nhưng diện tích không nhiều.
+ Vùng lúa chất lượng cao: Trên địa bàn tỉnh, đã xác định được một số giống lúa thuần, chất lượng gạo tốt có thể tham gia xuất khẩu. Đến năm 2015 phát triển vùng lúa chất lượng cao vào vụ mùa, khoảng 20.000 ha, trên địa bàn các huyện Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu, Trực Ninh, Nghĩa Hưng.
Như vậy diện tích đất trồng lúa của toàn tỉnh sẽ giảm từ 86.272 ha năm 2005 xuống còn khoảng 80.000 ha vào năm 2015 và còn 75.000 ha ở năm 2015. Những diện tích lúa kém hiệu quả, ruộng úng trũng, đất trồng 1 vụ lúa - 2 màu sẽ chuyển sang sản xuất rau màu, cây công nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.
- Đất trồng các cây công nghiệp ngắn ngày gồm các cây chính là lạc, đay, cói, dâu tằm... Diện tích chuyên trồng các loại cây này có khoảng 2.000 ha. Tuy nhiên, diện tích gieo trồng các loại cây này phải phát triển chủ yếu trên đất trồng lúa ở vụ đông để hình thành các vùng cây công nghiệp ngắn ngày chính như sau:
+ Vùng lạc: Lạc có nhu cầu sử dụng ngày càng lớn, giá trị kinh tế cao và ổn định. Cây lạc có thể trồng trên các chân cao, vàn cao. Các huyện có diện tích đất thích hợp cho phát triển cây lạc là Ý Yên, Vụ Bản, Nam Trực... Đến năm 2015 diện tích trồng lạc khoảng 5.500 - 6.000 ha.
+ Vùng đay: Địa bàn có các dải đất phù sa ngoài đê sông Hồng, Sông Đáy thuộc các huyện Mỹ Lộc, Trực Ninh, Xuân Trường, Nghĩa Hưng. Dự kiến đến năm 2010, diện tích đay là 200 ha.
+ Vùng cói: Một số diện tích đất ven biển của các huyện Nghĩa Hưng, Giao Thủy được bố trí trồng cói phục vụ cho tiêu dùng và phát triển nghề thủ công. Đến năm 2015, diện tích trồng cói là 270 ha trong đó lớn nhất là ở hai nông trường Bạch Long và nông trường Rạng Đông.
+ Vùng dâu tằm: Trồng dâu nuôi tằm là nghề truyền thống, có hiệu quả kinh tế, tuy nhiên chỉ nên bố trí trồng dâu nuôi tằm ở những nơi có kinh nghiệm và mở rộng dần. Dự kiến đến năm 2010, diện tích trồng dâu là 1.500 ha, được bố trí nhiều ở các huyện Xuân Trường, Nghĩa Hưng, Trực Ninh, Hải Hậu, Giao Thuỷ, Nam Trực.
- Đất trồng rau, đậu thực phẩm: Các cây rau đậu thực phẩm đa dạng nhưng chủ yếu là khoai tây, dưa chuột, rau bí, cà chua. Các loại cây này phát triển tập trung chủ yếu ở địa bàn truyền thống ở 40 xã thuộc 10 huyện thành trong tỉnh (TP. Nam Định 4 xã, Nam Trực 3 xã, Trực Ninh 6 xã, Ý Yên 7 xã, Vụ Bản 2 xã, Mỹ Lộc 2 xã, Nghĩa Hưng 7 xã, Giao Thủy 3 xã) nhưng cũng được phát triển rộng ở nhiều xã khác bằng trồng vụ đông.
Vùng rau hoa giá trị cao: Dự kiến đến năm 2015 phát triển khoảng 3.000 ha phục vụ các đô thị, khu công nghiệp tập trung ở các huyện, thành phố trong tỉnh. Dự kiến phát triển ở các huyện: Nam Trực 500 ha, Trực Ninh 330 ha, Hải Hậu 500 ha, Xuân Trường 320 ha, Giao Thuỷ 340 ha, Ý Yên 350 ha, Vụ Bản 360 ha, Mỹ Lộc 300 ha.
- Đất trồng cây ăn quả, hoa và cây cảnh: Phát triển cây cảnh, các loại hoa trước hết phục vụ nhu cầu địa phương, sau này có thể xuất khẩu, địa bàn phát triển chính là ven thành phố Nam Định, các huyện Nam Trực và Hải Hậu. Về cây ăn quả chủ yếu cải tạo vườn tạp trong các khu dân cư, ngoài ra cũng hình thành các trang trại quy mô vừa và nhỏ ở một số vùng đất cao.
* Đất cho chăn nuôi : Các loại gia súc, gia cầm phát triển chính là lợn, trâu bò thịt, gà vịt các loại. Về tổ chức sản xuất sẽ chuyển dần theo hướng sản xuất hàng hoá theo phương pháp công nghiệp, chăn nuôi trang trại quy mô vừa và nhỏ sẽ được mở rộng dần. Do đó vấn đề bố trí đất cho chăn nuôi bao gồm cả đất cho sản xuất thức ăn chăn nuôi, đất trang trại sản xuất.
* Đất nuôi trồng thủy sản: Với phương hướng tập trung phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá (gồm sản xuất giống tôm sú và nuôi tôm thương phẩm, cá rô phi đơn tính, ngao và nhuyễn thể hai mảnh vỏ), phấn đấu đưa sản lượng thuỷ sản nuôi trồng năm 2015 tăng lên 63 nghìn tấn, trong đó 4-5 nghìn tấn tôm. Về diện tích đất cho nuôi trồng thủy sản dự kiến như sau :
+ Dự kiến diện tích nuôi trồng đến năm 2015 khoảng 17.000 ha và năm 2020 đạt khoảng 18.000 - 19.000 ha. Mục tiêu mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản quan trọng nhất là vùng nước lợ và nước mặn theo hướng thâm canh và bán thâm canh ở các huyện Nghĩa Hưng, Giao Thuỷ và Hải Hậu. Về đất sử dụng diện tích nước mặn, lợ chưa sử dụng, đất làm muối hiệu quả thấp đối với vùng ven biển; nhưng đối với địa bàn các huyện vùng bắc sông Đào phần chính là chuyển diện tích đất trồng lúa úng trũng sang nuôi trồng thủy sản cùng với việc tận dụng hết các thùng đào thùng đấu.
+ Bố trí đất tập trung để phát triển nuôi tôm giống, tôm thương phẩm theo hình thức nuôi công nghiệp. Tại những vùng này đầu tư đồng bộ hệ thống cung cấp nước, tiêu nước cũng như hệ thống điện, giao thông, cơ sở phục vụ cung ứng cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
+ Về nuôi cá: hình thành vùng nuôi tập trung hình thức trang trại chuyển đổi đất lúa hoặc trang trại hình thành từ vùng nước lợ ngập sâu, trọng tâm là nuôi cá rô phi đơn tính địa bàn nước ngọt, nước lợ,
+ Vùng nuôi ngao và nhuyễn thể hai mảnh vỏ : Khu vực có nước triều ven biển các huyện Giao Thủy và Nghĩa Hưng với diện tích khoảng 1.000 ha hoặc lớn hơn.
* Đất lâm nghiệp: Khả năng mở rộng diện tích đất lâm nghiệp khoảng 3.000 - 4.000 ha bằng khai hoang lấn biển là chủ yếu. Cùng với việc giữ trên 4.000 ha đất lâm nghiệp đã có, diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh đến năm 2015 sẽ có 6.000 ha, chiếm 4,68% diện tích tự nhiên. Trong đó phân bố ở hai huyện Vụ Bản và Ý Yên khoảng 100 ha, còn lại ở 3 huyện ven biển Giao Thủy, Hải Hậu và Nghĩa Hưng.
* Bố trí sử dụng đất trồng lúa:
- Giảm diện tích đất trồng lúa 6.097 ha (từ 86.272 ha năm 2005 xuống còn 80.003 ha vào năm 2010). Diện tích đất trồng lúa giảm do chuyển sang:
Sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp 3.470 ha;
Nuôi trồng thủy sản 2.054 ha;
Chuyển đổi trong nội bộ đất nông nghiệp 573 ha.
Diện tích đất lúa giảm ở những nơi đã có quy hoạch phát triển các công trình của các ngành, lĩnh vực của tỉnh đã được cấp có thẩm quyền quyết định, như để xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở, mở rộng xây dựng đô thị, các khu dân cư, các khu, cụm, cơ sở công nghiệp ...
Diện tích giảm do thực hiện chuyển đổi đất đai trong nội bộ nông nghiệp là 573 ha. Những diện tích chuyển đổi nhằm vào: Đất trồng lúa kém hiệu quả, đất trồng 1 vụ lúa - 2 màu, đất đang trồng lúa có mức độ thích nghi thấp (S3).
- Ổn định diện tích đất chuyên trồng lúa (2 vụ lúa) khoảng 75.000 ha trên những địa bàn đất thích hợp nhất (chủ yếu S1 và một phần S2) cho cây lúa, tiếp tục thâm canh tăng năng suất lúa, giữ sản lượng lương thực của toàn tỉnh khoảng 950 nghìn tấn/năm, bình quân lương thực đầu người đạt 450 - 470 kg/năm trở lên.
- Bố trí diện tích đất trồng lúa đặc sản từ 16.000 - 17.000 ha để có sản lượng khoảng 55.000 tấn.
Nam Định là quê hương của các giống lúa đặc sản như tám xoan, tám tiêu, nếp bắc, nếp cái hoa vàng. Các giống lúa đặc sản thường có phản ứng chặt chẽ với chu kỳ ánh sáng ngày ngắn, chỉ gieo cấy được trong vụ mùa, thích hợp với đất vàn thấp, sâu màu, đất bị ảnh hưởng mặn nhẹ nên chỉ gieo cấy được ở các huyện phía Nam của tỉnh như: Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Xuân Trường, Trực Ninh... Dự kiến phát triển lúa đặc sản trên địa bàn các huyện: Nghĩa Hưng 4.500 - 5.000 ha; Xuân Trường 1.500-1.800 ha; Trực Ninh 2.800-3.000 ha; Hải Hậu 3.500- 4.000 ha; Các huyện khác 3.700- 4.200 ha
- Bố trí diện tích đất trồng lúa chất lượng cao: Nam Định đã thực hiện được mục tiêu 1 triệu tấn lượng thực/năm. An ninh lương thực được bảo đảm, chăn nuôi phát triển, lượng lương thực dư thừa hàng năm từ 350 đến 400 nghìn tấn thóc, đã hình thành nền sản xuất lương thực hàng hóa, theo yêu cầu thị trường, phát triển lúa chất lượng gạo tốt có thể tham gia xuất khẩu. Đến năm 2015 phát triển vùng lúa chất lượng cao khoảng 20.000 ha, gieo trồng vào vụ mùa trên địa bàn các huyện Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu, Trực Ninh, Nghĩa Hưng.
* Bố trí sử dụng đất trồng cây công nghiệp hàng năm, cây màu, rau đậu thực phẩm: Diện tích đất chuyên để trồng các loại cây trồng này có trên 2.900 ha. Phấn đấu đạt diện tích gieo trồng lớn hơn bằng trồng vào vụ đông trên đất trồng lúa.
- Vùng lạc: Đất trồng lạc chọn các chân cao, vàn cao. Đến năm 2015, diện tích gieo trồng lạc khoảng 5.500 - 6.000 ha, phân bổ ở các huyện: Huyện Ý Yên 2.100-2.300 ha; Vụ Bản 1.000 - 1.100 ha; Nam Trực 1.100 - 1.200 ha; Các huyện khác 1.300 - 1.400 ha.
+ Vùng đay: Địa bàn có các dải đất phù sa ngoài đê sông Hồng, Sông Đáy. Dự kiến đến năm 2010, diện tích đay là 200 ha, được bố trí tại các huyện: Nghĩa Hưng 40 ha; Xuân Trường 40 ha; Trực Ninh 40 ha; Mỹ Lộc 80 ha
+ Vùng cói: Một số diện tích đất ven biển của các huyện Nghĩa Hưng, Giao Thủy được bố trí trồng cói phục vụ cho tiêu dùng và phát triển nghề thủ công của Tỉnh. Đến năm 2015, diện tích trồng cói là 270 ha, trong đó:Nông trường Rạng Đông 90 ha; Nông trường Bạch Long 135 ha; Nghĩa Hưng10 ha; Giao Thuỷ 35 ha
+ Vùng dâu tằm: Trồng dâu nuôi tằm là nghề truyền thống, có hiệu quả kinh tế. Bố trí đất trồng dâu nuôi tằm ở những nơi có kinh nghiệm và mở rộng dần. Dự kiến đến năm 2015, diện tích trồng dâu là 1.500 ha, được bố trí ở các huyện sau: Nam Trực 80 ha; Trực Ninh 200 ha; Xuân Trường 600 ha; Hải Hậu 100 ha; Giao Thuỷ 100 ha; Nghĩa Hưng 250 ha; các huyện khác170 ha
+ Vùng rau, hoa giá trị cao: Dự kiến đến năm 2015 bố trí khoảng 3.000 ha trồng các loại rau, hoa có giá trị cao phục vụ các đô thị, khu công nghiệp tập trung ở các huyện, thành phố trong tỉnh. Trong đó huyện Nam Trực 500 ha, Trực Ninh 330 ha, Hải Hậu 500 ha, Xuân Trường 320 ha, Giao Thuỷ 340 ha, Ý Yên 350 ha, Vụ Bản 360 ha, Mỹ Lộc 300 ha.
* Đất lâm nghiệp:
Dự kiến mở rộng diện tích đất lâm nghiệp khoảng 600 ha bằng khai hoang lấn biển, chuyển một phần đất nuôi trồng thủy sản ở địa bàn quy hoạch phát triển rừng phòng hộ sang phát triển rừng phòng hộ. Diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh đến năm 2015 có 4.950 ha, chiếm 3,% diện tích tự nhiên.
* Đất cho nuôi trồng thủy sản:
Mục tiêu mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản, nhất là thuỷ sản nước lợ và nước mặn theo hướng thâm canh và bán thâm canh. Phấn đấu đến năm 2015 sản lượng thuỷ sản nuôi trồng khoảng 45-50 nghìn tấn, trong đó 4-5 nghìn tấn tôm.
Diện tích đất nuôi trồng thủy sản đến năm 2015 có 17.179 ha, trong đó 12855 ha tiếp tục sử dụng từ năm 2005 đã có và 4324 ha mới đưa vào sử dụng. Diện tích mới tăng thêm này khai thác từ đất, mặt nước chưa sử dụng, chuyển diện tích mặt nước chuyên dùng, đất thủy lợi sang nuôi trồng thủy sản và chuyển đổi từ đất trồng lúa, đất trồng cây hàng năm khác sang nuôi trồng thủy sản.
Dự kiến từng bước phát triển vùng nuôi trồng thuỷ sản mặn lợ khoảng 7.400 ha ở các huyện Nghĩa Hưng, Giao Thuỷ và Hải Hậu.
4.4.2.2 Về giải pháp thực hiện phương án sử dụng đất đến năm 2015
- Quy hoạch sử dụng đất, đặt biệt là quy hoạch lại cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp được coi là giải pháp quan trọng, đây là cơ sở để tiến hành tổ chức lại sản xuất trên đồng ruộng, cần kết hợp giữa qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất với việc tổ chức lại sản xuất, công tác qui hoạch phải gắn với việc xây dựng phương án chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá, theo đó tạo lập được các vùng chuyên canh sản xuất tập trung; cùng với việc qui hoạch vùng chuyên canh là chuyển đổi ruộng đất, thu hút và tạo điều kiện cho hộ nông dân có vốn, lao động, kỹ thuật canh tác, nhằm phát huy đến mức độ tối đa tiềm năng đất đai, vốn liếng và những lợi thế về lao động, kỹ thuật của từng hộ gia đình.
- Đầu tư tăng năng lực của hệ thống dịch vụ thuỷ nông, các công trình, đầu mối, kiên cố hoá hệ thống kênh mương, củng cố hệ thống đê sông, đê biển chủ động đảm bảo an toàn trong mùa mưa bão; hệ thống trại giống cây, giống con, bảo vệ thực vật, điện, cơ khí nông nghiệp; quy hoạch xây dựng hệ thống thuỷ lợi hoàn chỉnh cho từng vùng, theo từng bước tập trung thực hiện chuyển đổi.
- Thực hiện tốt các dự án phát triển Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ theo quy hoạch, dự án trồng rừng phòng hộ ven biển. Tích cực trồng cây xanh, cải tạo vườn tạp thành vườn cây có giá trị thu nhập cao trên khu đất dân cư, ven đường giao thông và các khu, cụm công nghiệp, khu đô thị mới và các thị trấn, thị tứ.
- Tích cực quai đê, lấn biển để mỗi giai đoạn của kế hoạch 5 năm đưa thêm khoảng 1.500 ha vào sản xuất, nhằm bù lại diện tích đất trồng trọt bị giảm do sử dụng vào mục đích xây dựng cơ bản.
- Trong chăn nuôi đẩy mạnh cải tạo giống con nuôi để nâng cao chất lượng thịt phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Chuyển chăn nuôi theo hướng hàng hoá quy mô trang trại theo phương pháp công nghiệp. Đảm bảo đủ thức ăn nhất là thức ăn công nghiệp.
- Tập trung phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá (bao gồm cả sản xuất con giống và thương phẩm), ưu tiên phát triển chương trình nuôi trồng thuỷ sản theo hướng chuyển nhanh sang phương thức công nghiệp và bán công nghiệp. Tận dụng triệt để mặt nước ao, hồ, đầm để phát triển nuôi trồng thuỷ sản, nhất là nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, lợ.
- Làm tốt công tác quy hoạch nông thôn, khuyến khích sản xuất, kinh doanh đa dạng và phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, trong đó coi trọng cả kinh tế hợp tác, kinh tế hộ, kinh tế trang trại. Đẩy mạnh đầu tư phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn như mây tre đan, thêu ren, mộc, cơ khí nhỏ, sửa chữa máy móc, chế biến nông sản… Khuyến khích nghề dệt may vào các cụm công nghiệp - làng nghề nông thôn, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển tổng hợp các ngành công nghiệp, dịch vụ.
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
* Luật đất đai năm 1993 và Luật đất đai năm 2003 đã tạo cho nông dân an tâm đầu tư vào sản xuất trên phần ruộng của hộ gia đình, thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, hiệu quả sử dụng đất ngày càng cao, sản xuất nông nghiệp đã từng bước chuyển sang hàng hóa, an ninh lương thực được đảm bảo.
* Kết quả nghiên cứu cho thấy việc sử dụng đất nông nghiệp đã có nhiều thay đổi theo một số hình thức cơ bản, đó là:
Chuyển đất nông nghiệp sang đất ở
Chuyển đất nông nghiệp sang đất dịch vụ
Chuyển đất sản suất cây hàng năm sang cây lâu năm, tăng diện tích trồng ba vụ các công thức luân canh cây trồng đa dạng hơn trước, đặc biệt đa dạng cây trồng vụ đông.
Chuyển đất lúa sang trồng cây màu khác như rau quả, cây cảnh...
Diện tích lúa, đay cói giảm đáng kể trong khi đó diện tích trồng lạc, đậu tương, cây ăn quả tăng lên.
* Việc giao đất ổn định lâu dài cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp để sử dụng theo hạn mức và thời hạn đối với cây trồng hàng năm là 20 năm và 50 năm đối với cây trồng lâu năm; ngoài hạn mức sử dụng đất quy định, người sử dụng đất có thể thuê đất của Nhà nước để mở rộng sản xuất. Chính vì vậy mà việc khai thác đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản, đất ven biển vào sản xuất nông nghiệp từ năm 1995 đến nay trên địa bàn Tỉnh ngày càng tăng và sử dụng có hiệu quả kinh tế cao.
* Đất nông nghiệp được chuyển đổi phù hợp với mục đích của người sản xuất, phù hợp với thị trường và điều kiện sinh thái cụ thể từng địa phương nên đã góp phần tăng sản lương lương thực qui thóc từ 874.835 tấn năm 1995 lên 1002561 tấn vào năm 2005.
* Tổng giá trị sản lượng của Tỉnh tăng đáng kể từ 2.688 triệu năm 1995 lên 4.572 triệu năm 2005. Lao động đi làm thuê cũng tăng cao, tạo thêm thu nhập cho nông dân.
* Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp đến 2015 theo ba hướng chính:
- Giảm diện tích trồng cây hàng năm
- Tăng diện tích trồng cây lâu năm cho hiệu quả kinh tế cao hơn
- Tăng diện tích nuôi trồng thuỷ sản
Đối với cây lâu năm, diện tích trồng các loại cây vừa có giá trị kinh tế cao vừa cải tạo đất để bảo tồn tài nguyên như các loại đậu, lạc, cây đặc sản...
5.2 Kiến nghị
* Nhà nước cần tiếp tục đổi mới chính sách ruộng đất, tạo điều kiện cho việc sử dụng đất ngày càng hiệu quả hơn, bằng việc:
- Việc giao đất ổn định cho nông dân đã tạo cho người nông dân gắn bó nhiều hơn với đất đai, chủ động hơn trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân ở địa phương thời gian qua đã thực hiện theo chủ trương công bằng xã hội, bằng cách chia đều ruộng đất tính trên nhân khẩu cho các hộ gia đình, cá nhân; Vì vậy, mỗi hộ gia đình, cá nhân đều có phần ruộng trên những mảnh ruộng xa, ruộng gần, ruộng tốt, ruộng xấu. Điều này dẫn đến tình trạng manh mún ruộng đất, hao phí công lao động, đặc biệt là khó khăn trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên phần đất của hộ gia đình, cá nhân. Nhà nước cần có chính sách dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất để phát triển kinh tế trang trại, tạo điều kiện để người nông dân ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cao, đầu tư có hiệu quả và tạo ra sản phẩm hàng hoá lớn cho nông nghiệp. Nếu ruộng đất của hộ gia đình, cá nhân được tập trung với thửa đất lớn sẽ góp phần tích cực vào chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Việc quy định áp dụng chế độ hạn mức sử dụng đất có tác dụng tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội nông thôn hiện nay, các hộ nông dân sử dụng đất với quy mô lớn không chỉ nâng cao thu nhập cho chính mình mà còn tạo việc làm nâng cao thu nhập cho một số lượng lớn lao động nông nghiệp, là tiền đề cho việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy quá trình cơ giới hóa, công nghiệp hóa nền sản xuất nông nghiệp, sử dụng đất có hiệu quả hơn.
- Tại một số địa phương trong Tỉnh có hiện tượng người nông dân chuyển nhượng ruộng đất, vì cho rằng thời điểm giao đất ổn định, lâu dài là năm 1993 thì đến 2013 là hết thời hạn, ruộng đất sẽ được chia lại, cho nên việc đầu tư vào đất đai đang diễn ra cầm chừng. Vì vậy, cần sớm xây dựng các chính sách tạo điều kiện cho nông dân không bị mất đất, có đất sản xuất ổn định lâu dài, được an tâm đầu tư cơ sở vật chất trên đất sản xuất phục vụ trực tiếp cho sản xuất, phát huy hiệu quả sử dụng đất.
- Nhà nước cần tăng cường chủ động đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động nông thôn, rà soát và điều chỉnh các chính sách hiện hành để tạo điều kiện thuận lợi để lao động thuần nông có thể tự chuyển dần sang công nghiệp, dịch vụ trước khi thu hồi đất.
- Đối với diện tích đất chuyên trồng lúa ổn định lâu dài, cần có chính sách bảo vệ và đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng đồng ruộng để người sản xuất có thể tăng đầu tư, ứng dụng công nghệ và sản xuất đạt hiệu quả cao.
- Chính sách tạo điều kiện cho nông dân thực hiện chuyển đổi cây trồng vật nuôi trên đất không phải chuyên trồng lúa, nhưng vẫn phải giữ tính chất đất canh tác để có thể quay trở lại trồng lúa khi cần thiết.
- Có quy định chặt chẽ hạn chế đến mức thấp nhất việc chuyển diện tích đất sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là diện tích đất chuyên trồng lúa, đất chuyên trồng màu có năng suất và hiệu quả kinh tế cao sang mục đích phi nông nghiệp.
- Xây dựng chương trình tư vấn cho người dân sử dụng kinh phí đền bù đúng mục đích, có hiệu quả như tạo điều kiện cho các hộ dân mua lại đất sản xuất hoặc đầu tư cho sản xuất nông nghiệp và các ngành nghề kinh doanh khác.
- Về chính sách thuế đối với đất sản xuất nông nghiệp: những năm gần đây, Nhà nước đã có chính sách miễn giảm tiền sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân, nông dân rất phấn khởi; tuy nhiên, phần thuế sử dụng đất nông nghiệp trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ bé, các khoản đóng góp như thủy lợi phí và các khoản đóng góp khác lại chiếm phần lớn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân, vì vậy về lâu dài nhà nước nên bỏ thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân và xem xét hộ trợ kinh phí tiền thủy lợi phí cũng như các khoản thu do địa phương đặt ra.
* Có chính sách cho nông dân vay vốn để phát triển sản xuất: Trong những năm qua Nhà nước đã có chính sách hộ trợ cho nông dân vay vốn (không phải cầm cố, thế chấp) để sản xuất kinh doanh, nhưng ngồn vốn cho vay đối với mỗi hộ gia đình nông dân thấp và việc vay vốn chủ yếu là vay ngắn hạn; vì vậy, nông dân khó có điều kiện để mở rộng và đầu tư sản xuất với qui mô lớn và lâu dài nhất là việc trồng các cây công nghiệp lâu năm hay việc đầu tư để chuyển đổi các khu ruộng trũng, năng xuất thấp sang nuôi trồng thủy sản. Để tạo điều kiện cho nông dân phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, nhà nước cần có chính sách tăng lượng vốn vay cho mỗi hộ nông dân, thời gian vay vốn dài hơn; việc vay vốn của hộ nông dân cần có sự phối hợp với các tổ chức của cấp chính quyền địa phương nhằm giúp nông dân vay vốn sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
Lê Hữu Ảnh (2002), Sử dụng đất đai ở Việt Nam: Tác động của chính sách tín dụng và thuế. Bài trình bầy về hội thảo về sử dụng đất đai ở Việt Nam : ‘Các vấn đề về chính sách và nghiên cứu chính sách’. Đại học Sydney, Úc,14-15 tháng 11 năm 2002
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2003), Báo cáo nghiên cứu đề xuất các giải pháp khắc phục tình trạng manh mún đất đai trong nông nghiệp
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2007), Báo cáo tình hình thu hồi đất của nông dân để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005), Báo cáo về tình hình sử dụng đất nông nghiệp xây dựng các khu công nghiệp và đời sống của người có đất bị thu hồi
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2004), Hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường năm Nhà xuất bản bản đồ
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005), Hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường năm Nhà xuất bản bản đồ
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2006), Hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường năm Nhà xuất bản bản đồ
Đỗ Kinh Chung (2000), Thị trường đất nông nghiệp ở Việt Nam : Thực trạng và giải pháp, Nghiên cứu kinh tế số1
Huyện Giao Thuỷ (2007), Báo cáo điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010. Kế hoạch phát triển KTXH 2006-2010 huyện Giao Thuỷ
Huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định (2007). Báo cáo điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 huyện Hải Hậu
Huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định (2007). Báo cáo điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010
Huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định (2007). Báo cáo điều chỉnh bổ sung quy hoạch đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2006-2010) huyện Nghĩa Hưng
Huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định (2006), Báo cáo điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 huyện Trực Ninh
Huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định (2007), Báo cáo điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 huyện Vụ Bản.
Huyện Ý Yên tỉnh Nam Định (2007), Báo cáo điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 huyện Ý Yên. Báo cáo tổng hợp Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm giai đoàn 2006-2010.
Luật đất đai năm 1993, năm 2001, năm 2003. Nhà xuất bản bản đồ
Nguyễn Quang Ngọc (2000), Địa lý và dân cư
Sở Công Nghiệp tỉnh Nam Định, Rà soát điều chỉnh quy hoach phát triển công nghiệp tỉnh Nam Đinh giai đoạn 2001-2010
Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Nam Định, (2004), Hệ thống các Văn bản về phát triển kinh tế -xã hội tỉnh Nam Định, năm 2004
Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Nam Định, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2006-2010)
Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Nam Định, Báo cáo quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp thời kỳ 2001-2010 tỉnh Nam Định
Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Nam Định, Báo cáo tổng hợp kết quả điều tra khảo sát tài liệu bản đồ thổ nhưỡng tỉnh Nam Định tỷ lệ 1/50.000 theo tiêu chuẩn FAO-UNESCO
Sở Thuỷ Sản tỉnh Nam Định, Báo cáo công tác nuôi trồng thủy sản 6 năm (2000-2005) và phương hướng phát triển thời kỳ 2006-2010
Sở Thuỷ Sản tỉnh Nam Định, Báo cáo quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản 3 huyện ven biển (Giao Thuỷ- Hải Hậu- Nghĩa Hưng) thời kỳ 2001-2010
Tỉnh Nam Định (2002). Niên giám thống kê tỉnh Nam Định 2002
Tỉnh Nam Định (2003). Niên giám thống kê tỉnh Nam Định 2003 (2 quyển)
Tỉnh Nam Định (2005). Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội và phương hướng phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 - Tỉnh Nam Định
Tỉnh Nam Định, Báo cáo kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2001-2005) tỉnh Nam Định
Tổng cục thống kê (2004). Niên giám thống kê năm 2003. Nhà xuất bản thông kê, Hà Hội
Trung tâm điều tra Quy hoạch đất đai Bộ Tài nguyên Môi trường (2006). Nghiên cứu đổi mới hệ thống đất đai để hình thành và phát triển thị trường bất động sản ở Việt Nam.
Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội (2001), Tác động của chính sách nông nghiệp, nông thôn đến quản lý tài nguyên và cuộc sống người dân vùng thượng nguồn lưu vực sông cả
Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (2006), Báo cáo điều`chỉnh quy hoạch sử dụng đất tỉnh Nam Định đến năm 2010
Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp-Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Báo cáo rà soát quy hoạch nông lâm nghiệp và thuỷ lợi phụ vụ cơ cấu sản xuất nông lâm, lâm nghiệp tỉnh Nam Định đến 2010
Tài liệu nước ngoài
AusAID.2001.VietNam : Land administration. Workinh Paper 4, Commonwealth of Australia, Australian Agency for Internatoinal Development : Canberra.
Binswanger, H.P &Elgin, M.1998 Reflections on land reform and farm size. In Eicher, C.K. &Staatz, J.M.(eds) ‘International Agricultural Development’,pp.316-328.The John Hopkins University Press : Maryland
Deininger, K.2003. Land policies for growth and poverty reduction. World Bank Policy Research Report. World Bank and Oxford University Press: Washinhton, DC.
Do, QT. &Iyer, L.2003.Land rights and economic development:evidence form Vietnam.Workinh paper 3120, World Bank:Washinhton, DC.{online}.Available at 2003
Feder, G.& Feeny,D.1991. Land tenure and property rights: theory and implications for development policy. The World Bank economic Review 5(1), 135-153.
China' s Management and Legal Systems for Land Resources )]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động của chính sách đất đai đến việc sử dụng đất nông nghiệp và đề xuất phương án sử dụng đất nông nghiệp đến năm 2015 tại tỉnh Nam Định.doc