PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề nghèo đói hiện nay không chỉ là mối quan tâm của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, mà nó là một vấn đề mang tính toàn cầu. Nó diễn ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, ở cả những nước phát triển và đang phát triển.
Vấn đề này đã thu hút sự quan tâm của tất cả các quốc gia trên thế giới vì những hậu quả mà nó mang lại đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của từng quốc gia. Do vậy, vấn đề này không thể giải quyết trong một sớm, một chiều, không chỉ là những giải pháp mang tính chất riêng lẻ, đơn thuần của từng quốc gia. Nó đòi hỏi phải có sự liên kết, tương trợ lẫn nhau giữa các quốc gia cũng như các tổ chức trên toàn thế giới mới mong đem lại hiệu quả như mong muốn.
Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề này đối với sự phát triển của nhân loại. Liên Hợp Quốc đã đề ra mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, một trong những nội dung cơ bản là “triệt để loại bỏ tình trạng bần cùng (nghèo cùng cực và thiếu ăn)”. Các mục tiêu này đã được 189 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc nhất trí đạt được trong năm 2015.
Việt Nam là một nước nông nghiệp với xuất phát điểm đi lên nền kinh tế thị trường rất thấp, hậu quả sau 2 cuộc chiến tranh cùng với những sai lầm trong đường lối phát triển kinh tế trong một thời gian dài đã đưa nước ta lâm vào khủng hoảng trong một thời gian dài, nền kinh tế chậm phát triển, đời sống người dân vô cùng khó khăn, đã có thời kỳ nước ta phải nhập khẩu lương thực từ các quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nước ta đã từng bước thoát khỏi tình trạng khó khăn, từ một nước phải nhập khẩu lương thực, hiện nay nước ta là một trong những nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai, thứ ba trên thế giới.
Mặc dù vậy, tỷ lệ hộ nghèo nước ta vẫn chiếm tỷ lệ khá cao, đặc biệt là ở các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đời sống của người dân nơi đây gặp vô vàng khó khăn, và điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Chính vì vậy, ngay từ những năm đầu của thập niên 90, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo trên phạm vi cả nước. Ngày 17 tháng 10 hàng năm được chọn làm ngày vì người nghèo, đó cũng là ngày Liên Hợp Quốc chọn làm ngày thế giới chống đói nghèo.
Trong những năm gần đây, nhiều chính sách đã ra đời nhằm mục tiêu nâng cao đời sống của người nghèo. Một trong những chương trình thu hút được sự quan tâm của cộng đồng xã hội đó là Chương trình 135: chương trình phát triển kinh tế xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng chính phủ (gọi tắt là chương trình 135)
Tại tỉnh Bình Định, Vĩnh Thạnh là một trong ba huyện miền núi được thụ hưởng CT 135 ngay từ những năm đầu tiên của giai đoạn I . Kết thúc giai đoạn I, toàn huyện đã có 2 xã hoàn thành mục tiêu và đã tự nguyện ra khỏi CT là xã Vĩnh Hảo và xã Vĩnh Thịnh. Với những kết quả đạt được, Chính phủ đã quyết định cho huyện tiếp tục được thụ hưởng CT và Vĩnh Thuận là xã đã được bổ sung vào danh sách các xã được thụ hưởng chương trình 135 trong giai đoạn 2006-2010
Với đặc điểm là một xã mới được thành lập, dân số chủ yếu là đồng bào DTTS, lại ở vị trí cách xa trung tâm huyện nên đời sống bà con gặp rất nhiều khó khăn, cơ sở vật chất còn hạn chế nên khi CT được triển khai tại xã đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của bà con trong xã.
Sau 5 năm triển khai, CT đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, đời sống của bà con đã dần được cải thiện, bộ mặt của xã bước đầu đã có những chuyển biến rõ rệt.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu của khoá luận “Tác động của chương trình 135 đối với đời sống người dân xã Vĩnh Thuận- huyện Vĩnh Thạnh- tỉnh Bình Định (giai đoạn 2006-2010)” nhằm đánh giá những tác động mà CT đã mang lại đối với đời sống của người dân cũng như những mong muốn của bà con đối với CT.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chương trình 135 là một trong những chương trình đã thu hút sự quan tâm của toàn cả cộng đồng và toàn xã hội. Với nguồn ngân sách khổng lồ mà Trung ương cũng như ngân sách của từng địa phương dành cho chương trình, tổng kinh phí giai đoạn I (1998-2005) ước tính 1870 tỷ đồng, và giai đoạn II (2006-2010) trên 14.000 tỷ đồng đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt của các thôn, xã được thụ hưởng chương trình với 1715 xã được thụ hưởng chương trình trong giai đoạn I và 1779 xã, 3149 thôn, bản đặc biệt khó khăn thuộc 47 tỉnh được thụ hưởng chương trình. Đời sống người dân dần dần được cải thiện với thu nhập bình quân đầu người ở các xã trong CT đạt 4,2 triệu đồng/người/năm(so với mục tiêu của CT đến hết năm 2010 đạt trên 70% số hộ có thu nhập bình quân đầu người trên 3,5 triệu đồng/ người/ năm)[7;1].
Những kết quả đạt được đã cho thấy những hiệu quả mà CT đã mang lại đối với đời sống của bà con nghèo ở những vùng khó khăn.
Chính vì vậy, đã có rất nhiều bài báo viết về kết quả của CT 135 đối với các tỉnh có các thôn, xã được thụ hưởng CT như bài viết của tác giả Đức Bảo đăng trên wesbite của chương trình 135 với bài viết Nghệ An tổng kết chương trình 135 giai đoạn II(2006-2010) hay bài viết của tác giả Lê Hương trên website của báo Đăklăk với bài viết tổng kết chương trình 135 giai đoạn II tại Dak Lak: “Đầu tư hiệu quả, đúng đối tượng” số ra ngày 22/03/2011 hay bài viết của tác giả Hoàng Anh đăng trên website báo Thái Nguyên www.baothainguyen.org.vn ngày 21/01/2011 với tiêu đề “Tổng kết việc thực hiện chương trình 135 giai đoạn II” Các bài báo trên với nội dung chính là tổng kết việc thự hiện CT 135 được tiến hành tại địa phương với tổng số vốn đầu tư, số công trình được xây dựng hay việc tỷ lệ hộ nghèo giảm như thế nào sau khi CT được triển khai. Và còn rất nhiều bài báo khác đăng trên rất nhiều các tạp chí khác nhau.
Nhưng các bài viết nói trên chỉ mang tính chất thống kê những con số chứ chưa có một bài báo nào đánh giá tác động chủ CT đối với đời sống của người dân được thụ hưởng CT, những thay đổi trên các mặt khác nhau của đời sống kinh tế, xã hội tại địa phương được thụ hưởng CT.
Đề tài “Tác động của chương trình 135 đối với đời sống người dân xã Vĩnh Thuận – huyện Vĩnh Thạnh- tỉnh Bình Định (giai đoạn 2006-2010)” sẽ góp phần cung cấp những thông tin cụ thể về tác động của CT đối với đời sống kinh tế văn hoá xã hội của người dân, những mong muốn, nguyện vọng cũng như đề ra những giải pháp cụ thể nhằm giúp cho CT phát huy những hiệu quả tích cực mà nó mang lại đối với đời sống của người dân.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
¯ Mục đích nghiên cứu
- Đề tài nhằm mục đích tìm hiểu và đánh giá tác động của CT 135 giai đoạn II đối với đời sống người dân vã Vĩnh Thuận, đặc biệt là đời sống của đồng bào DTTS nơi đây, những khó khăn mà người dân gặp phải trưong quá trình tiếp nhận những hỗ trợ từ CT.
- Từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm giúp CT phát huy được những hiệu quả tích cực của nó, qua đó góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững mà UBND huyện đã đề ra.
¯ Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Hệ thống hoá một số vấn đề cơ sở lý luận về phát triển cộng đồng và vấn đề nghèo.
+ Đánh giá những chuyển biến về đời sống vật chất và đời sống tinh thần mà CT mang lại đối với bà con nơi đây.
+ Tìm hiểu những khó khăn cũng như những mong muốn, nguyện vọng của bà con đối với CT.
+ Đề ra các giải pháp cũng như những kiến nghị để CT phát huy hiệu quả trong công tác giảm nghèo trên địa bàn xã.
4. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
¯ Đối tượng nghiên cứu
Tác động của chương trình 135 đối với đời sống người dân xã Vĩnh Thuận- huyện Vĩnh Thạnh- tỉnh Bình Định (giai đoạn 2006-2010).
¯ Khách thể nghiên cứu
Khoá luận được tiến hành nghiên cứu trên số khách thể là 100 hộ dân thuộc diện hộ nghèo tại xã Vĩnh Thuận được thụ hưởng CT.
¯Phạm vi nghiên cứu
Khoá luận được thực hiện tại xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định.
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
¯ Ý nghĩa lý luận
- Những thông tin thu thập được trong quá trình nghiên cứu sẽ đóng góp thêm vào hệ thống cơ sở lý luận về PTCĐ và vấn đề nghèo.
- Là nguồn tư liệu tham khảo cho các nghiên cứu về sau trong lĩnh vực nghiên cứu, đánh giá tác động của các chương trình xoá đói giảm nghèo nói chung cũng như của CT 135 nói riêng.
¯ Ý nghĩa thực tiễn
- Phản ánh thực trạng những khó khăn mà bà con gặp phải trong đời sống và sản xuất hằng ngày trước khi CT 135 được triển khai, cũng như những mong muốn, nguyện vọng của bà con đối với CT.
- Đề xuất những giải pháp và kiến nghị cho CT, cũng như các ban ngành liên quan nhằm giúp cho bà con cải thiện cuộc sống của mình.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp trưng cầu ý kiến
Xây dựng hệ thống câu hỏi liên qua đến vấn đề đang nghiên cứu, gồm 29 câu hỏi, trong đó có 21 câu hỏi đóng, 7 câu hỏi vừa đóng vừa mở, 1 câu hỏi mở.
Tiến hành phát 100 bảng hỏi cho các hộ gia đình nghèo thuộc 8 làng của xã Vĩnh Thuận trong diện được thụ hưởng CT 135 giai đoạn II (2006-2010)
6.2 Phương pháp phỏng vấn
Tác giả sử dụng phương pháp này nhằm mục đích hiểu sâu sắc hơn về những tác động mà CT mang lại đối với đời sống của những người dân trong xã được thụ hưởng CT, những khó khăn, mong muốn của bà con.
Tác giả đã tiến hành 10 cuộc phỏng vấn trực tiếp đối với một số hộ dân trong xã, cán bộ làm công tác khuyến nông và cán bộ làm chính sách xã hội của xã.
6.3 Phương pháp quan sát
Trong quá trình phát bảng hỏi cũng như thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu, tác giả đã quan sát về điều kiện sống của các hộ dân, thái độ của người dân đối với CT như thế nào.
Sau đó, ghi chép và bổ sung thêm thông tin phục vụ cho vấn đề đang nghiên cứu.
6.4 Phương pháp thống kê toán học
Dựa trên những câu trả lời đã phát từ phiếu trưng cầu ý kiến thu thập được từ người dân, tác giả tiến hành thống kê số lượng các phương án trong từng câu hỏi, tính tỷ lệ %, từ đó xét mối tương quan giữa các câu hỏi nhằm mục đích lấy thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu .
6.5 Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu các báo cáo về tình hình phát triển kinh tế xã hội của xã Vĩnh Thuận, báo cáo tổng kết CT 135 giai đoạn II của huyện Vĩnh Thạnh và của xã Vĩnh Thuận.
Các tài liệu về lý luận PTCĐ, vấn đề nghèo, dự án PTCĐ, và TV PTCĐ.
Bên cạnh đó, kết hợp với các nguồn thông tin thu thập từ các sách báo, internet kết hợp với kết quả đã điều tra thực tế để đánh giá tác động của CT 135 đối với người dân trong xã.
7. Giả thiết nghiên cứu
- Vĩnh Thuận là một xã miền núi của huyện vùng cao Vĩnh Thạnh, là xã có tỷ lệ đồng bào DTTS đông nhất huyện, bà con trong xã gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất và đời sống, nên rất cần nhận được sự hỗ trợ của Đảng và Nhà nước để cải thiện đời sống của mình.
- CT 135 giai đoạn II được triển khai trên địa bàn xã nhằm mục đích nâng cao đời sống của bà con trong xã, cũng như tạo điều kiện thuận lợi để xã phát triển kinh tế xã hội, nên đã nhận được sự ủng hộ của chính quyền và người dân địa phương.
- Sau khi CT được triển khai, những khó khăn mà người dân gặp phải không được giải quyết một cách triệt để. Do vậy, đời sống của người dân trong xã vẫn chưa được cải thiện. Bà con nơi đây vẫn cần nhận được sự hỗ trợ từ CT để cải thiện đời sống của mình.
8. Cấu trúc khoá luận
Khoá luận ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, phần nội dung gồm 2 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Kết quả nghiên cứu
93 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3570 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động của chương trình 135 đối với đời sống người dân xã Vĩnh Thuận - Huyện Vĩnh Thạnh - tỉnh Bình Định (giai đoạn 2006 - 2010), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m nhiều thuận lợi cho bà con trong quá trình sử dụng các hỗ trợ từ CT.
Những chuyển biến về mặt chăm sóc sức khoẻ
Sức khoẻ là một trong những nhân tố quan trọng trong quá trình phát triển của bất kỳ một quốc gia nào, điều này đặc biệt quan trọng trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay, có một sức khoẻ tốt, trí tuệ minh mẫn sẽ giúp học tập và lao động đạt năng suất cao.
Nhìn thấy được tầm quan trọng của vấn đề này, khi nhận được hỗ trợ từ CT, chính quyền xã đã cân đối giữa các nguồn hỗ trợ để dành riêng một khoảng ngân sách dành riêng cho vấn đề này. Biểu hiện cụ thể là những hộ dân thuộc diện được hưởng trợ cấp từ CT để xây dựng nhà vệ sinh nhằm đảm bảo vấn đề sức khoẻ cho người dân.
Trước khi CT 135 được triển khai, vấn đề chăm sóc sức khoẻ chưa được người dân trong xã chú trọng quan tâm, đặc biệt là đối với đồng bào DTTS. Bà con đã quen với cách sinh hoạt không hợp vệ sinh nên khi có dịch bệnh xảy ra, tỷ lệ người có sức khoẻ để phòng chống bệnh tật là rất thấp, một khi dịch bệnh xuất hiện thì trẻ em và người già là đối tượng dễ bị nhiễm bệnh nhất.
Xã lại cách xa trung tâm huyện, đời sống của người dân rất khó khăn nên vấn đề chăm sóc sức khoẻ không được bà con chú trọng. Bên cạnh đó, trung tâm y tế xã mới được thành lập với đội ngũ y bác sỹ có trình độ chuyên môn không cao, có cơ số thuốc không phong phú, chỉ có thể điều trị những căn bệnh thông thường, nếu người dân mắc những căn bệnh hiểm nghèo thì buộc phải chuyển lên những bệnh viện tuyến trên.
Do vậy, ngay từ những năm đầu khi CT được triển khai, chính quyền xã đã quan tâm đến vấn đề này. Điều này thể hiện rõ qua bảng số liệu dưới đây:
Vấn đề chăm sóc sức khoẻ
Số lượng
Tỷ lệ (%)
1. Không được cải thiện
12
12
2. Được cải thiện nhưng không nhiều
42
42
3. Được cải thiện nhiều
46
46
Tổng
100
100
Qua bảng số liệu trên đây, ta nhận thấy 46% ý kiến người dân được hỏi cho biết vấn đề chăm sóc sức khoẻ của người dân địa phương đã được cải thiện rất nhiều sau khi CT 135 được triển khai trên địa bàn xã. 42% số ý kiến cho biết vấn đề chăm sóc sức khoẻ có được cải thiện nhưng không nhiều. Trong đó 42,8% người Kinh cho biết vấn đề chăm sóc sức khoẻ đã được cải thiện rất nhiều và con số này ở đồng bào DTTS là 55,3%(xem phụ lục III, bảng 3-21)
Đây là một con số đã thể hiện được những nỗ lực không nhỏ của chính quyền trong công tác tuyên truyền và chăm sóc sức khoẻ cho bà con trong xã.
Trạm y tế xã Vĩnh Thuận
2.9.3 Những chuyển biến trong nhu cầu vui chơi giải trí của người dân
Nhu cầu vui chơi giải trí của người dân trong xã bao gồm cả nhu cầu vui chơi của trẻ em trong làng và nhu cầu vui chơi giải trí của người dân trong xã.
Với điều kiện kinh tế gặp nhiều khó khăn, nhu cầu về ăn, mặc của người dân trong xã không được đảm bảo thì nhu cầu vui chơi giải trí của người dân nơi đây hầu như là không có. Trẻ em không có sân bãi hay những khu vực dành riêng cho nhu cầu vui chơi của mình. Ngoài giờ học trên trường, học sinh nơi đây hầu hết phải đi làm thêm để phụ giúp cho gia đình như chăn bò, thu hoạch vụ mùa…
Các hoạt động vui chơi giải trí dành cho thanh niên rất ít khi được tổ chức vì xã không có kinh phí.
Thêm vào đó, xã chưa có nhà rông chung cho cả làng để có thể tổ chức những hoạt động tập thể, nên các hoạt động trong xã chỉ mang tính riêng lẻ ở nhà rông của từng làng, thường là những buổi sinh hoạt chung mừng năm mới, hay những lễ hội của các dân tộc đang sinh sống trên địa bàn, nhưng quy mô tổ chức khá nhỏ và không có nhiều hoạt động kèm theo.
Khi nhận được hỗ trợ từ CT, xã đã trích một phần nguồn ngân sách để đáp ứng nhu cầu của người dân. Bên cạnh nguồn vốn hỗ trợ của CT, xã còn được tổ chức phi chính phủ New Dilen trong một chương trình hợp tác với chính phủ VIệt Nam đã hỗ trợ kinh phí xây dựng trường mẫu giáo và trường tiểu học cho học sinh trên địa bàn xã.
Sau khi CT 135 được triển khai, nhu cầu vui chơi giải trí của người dân đã được đáp ứng thể hiện qua bảng số liệu sau đây:
Nhu cầu vui chơi giải trí
Số lượng
Tỷ lệ (%)
1. Không đáp ứng được nhiều
15
15
2. Có đáp ứng nhưng không nhiều
58
58
3. Đáp ứng phần lớn nhu cầu
27
27
Tổng
100
100
58% ý kiến người dân cho biết nhu cầu vui chơi giải trí có đáp ứng một phần nhu cầu của bà con trong xã .Việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế của xã với những khó khăn hiện có đã là một việc làm quá sức đối với chính quyền xã. Do vậy, nhu cầu vui chơi giải trí của người dân khó có thể đáp ứng một cách đầy đủ.
Trong thời gian sắp tới, khi “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020” được triển khai trên địa bàn xã, xã sẽ nhận được sự hỗ trợ kinh phí để xây dựng nhà rông chung cho toàn xã đạt chuẩn, nhằm tổ chức các buổi sinh hoạt CĐ, đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của người dân trong xã, đặc biệt là đối với đồng bào DTTS.
27% số ý kiến cho rằng nhu cầu vui chơi giải trí của người dân trong xã đã được đáp ứng. Con số này mặc dù không lớn nhưng đó cũng là sự ghi nhận của người dân trong xã trước những nỗ lực của chính quyền xã nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho bà con.
Những chuyển biến trong vấn đề giáo dục
Một trong những chỉ tiêu của CT 135 là trên 95% số học sinh tiểu học, 75% học sinh THCS trong độ tuổi đến trường được đi học. Điều này đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc nâng cao trình độ dân trí cho người dân.
Không chỉ riêng xã Vĩnh Thuận mà hầu hết vấn đề học tập của học sinh trên địa bàn huyện gặp rất nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Ở xã Vĩnh Thuận, việc học tập của trẻ em nơi đây gặp rất nhiều khó khăn. Hầu hết các gia đình trong xã có điều kiện kinh tế gia đình rất khó khăn, do vậy vấn đề học tập của các em không được quan tâm đúng mức. Tình trạng các em bỏ học ở nhà phụ giúp gia đình diễn ra rất thường xuyên, đặc biệt ở các cấp học cao thì tỷ lệ này ngày càng tăng. Thêm vào đó, toàn xã chỉ có một trường mần non và một trường tiểu học, các em muốn đi học ở những cấp học cao hơn phải đi vài cây số mới đến được trung tâm huyện để học tại trường Phổ Thông Dân Tộc Nội Trú huyện.
Muốn phát triển kinh tế địa phương thì một trong những biện pháp quan trọng là nâng cao trình độ dân trí cho người dân, và tạo điều kiện học tập cho con em trong xã là một trong những biện pháp để thực hiện được mục tiêu đó.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, chính quyền xã đã quan tâm, tạo mọi điều kiện để trẻ em trong xã có điều kiện học tập.
Con cái được hỗ trợ đi học
Số lượng
Tỷ lệ (%)
1. Có
58
58
2. Không
42
42
Tổng
100
100
Qua bảng số liệu trên, ta thấy chỉ có 58%số người được hỏi cho biết con cái của họ được chính quyền xã hỗ trợ kinh phí trong quá trình đi học, con số này ở những hộ gia đình người Kinh là 57,1%, và đồng bào DTTS là 58,1%(xem phụ lục III, bảng 3-20)
Những hỗ trợ kinh phí học tập chỉ dành cho các em học mẫu giáo và tiểu học tại xã, nhưng em muốn học ở những cấp cao hơn thì hầu như không nhận được sự hỗ trợ từ chính quyền.
Do vậy, muốn nâng cao dân trí cho bà con trong xã cần có sự quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ của các ban ngành liên quan nhằm giúp xã đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Trường tiểu học xã Vĩnh Thuận
2.10 Sự quan tâm của người dân đối với Chương trình
Bất kỳ một chương trình hay dự án nào trên tất cả các lĩnh vực muốn thành công thì ngoài sự nỗ lực, tránh nhiệm của các cơ quan đảm nhận việc thực thi chương trình, dự án đó, thì một nhân tố không kém phần quan trọng làm nên sự thành công của dự án, chương trình này là sự quan tâm, đồng tình ủng hộ của các đối tượng được thụ hưởng chương trình.
CT 135 khi được triển khai trên địa bàn xã Vĩnh Thuận không phải là một ngoại lệ, đây là một chương trình thu hút được sự quan tâm của người dân trên địa bàn xã, thể hiện qua sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân qua bảng thống kê sau đây:
Tham gia đóng góp ý kiến
Sô lượng
Tỷ lệ(%)
1. Có
49
49
2. Không
51
51
Tổng
100
100
Tỷ lệ người dân tham gia đóng góp ý kiến cho chương trình so với tỷ lệ người dân không tham gia đóng góp ý kiến có sự chênh lệnh không nhiều. 49% số người được hỏi cho biết họ có tham gia đóng góp ý kiến, trong khi con số này ở phương án không là 51%.
Tuy nhiên, 51% ý kiến người dân cho rằng họ không tham gia đóng góp ý kiến, đây là một con số không nhỏ, thể hiện sự quan tâm chưa đúng mức của người dân dến CT. Vấn đề này do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến. Nhiều người dân còn có tâm lý ngại ngùng khi phát biểu ý kiến trong các buổi họp. Theo lời cụ Đinh Thị Quang làng 8 cho biết “không dám ý kiến, dân biết gì mà ý kiến, cán bộ mới dám ý kiến”. Điều này khá phổ biến đối với người dân là đồng bào DTTS vì họ cho rằng mình không hiểu biết, chỉ có cán bộ là người hiểu biết nên mới nói để cho dân hiểu.
Mặt khác, việc tuyên truyền phổ biến về CT 135 đến người dân chưa thực hiện một cách hiệu quả vì địa hình của xã chủ yếu là đồi núi, điều kiện đi lại khá khó khăn, trong thời gian CT được triển khai tại địa phương cùng thời gian với vụ mùa trồng đậu xanh và đậu đen của người dân trong xã. Bà con đi rẫy làm từ sáng tinh mơ đến tối mới về, nơi tổ chức họp lại khá xa nơi ở của một số người dân trong. Do vậy, tỷ lệ người dân đi họp và có những hiểu biết chung về CT khá thấp.
Một điểm đáng lưu ý là có sự khác nhau giữa vấn đề tham gia đóng góp ý kiến của người Kinh và đồng bào DTTS, điều này thể hiện qua bảng tương quan sau đây
Tham gia Dân tộc
Đóng góp ý kiến
Kinh
DTTS
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
1. Có
5
71,4
44
47,3
2. Không
2
28,6
49
52,7
Qua bảng tương quan trên, ta có thể nhận thấy nếu tỷ lệ người tham gia đóng góp ý kiến của những người nghèo là người Kinh chiếm tỷ lệ 71,4%, trong khi con số này ở đồng bào DTTS là 47,3%. Điều này đã phản ánh một thực tế đang tồn tại ở địa phương là sự quan tâm của đồng bào DTTS đối với CT là chưa cao. Bà con chưa ý thức được tầm quan trọng của CT đối với đời sống của mình, cũng như những lợi ích mà họ được hưởng khi tham gia CT.
Điều này rất dễ hiểu vì đa số đồng bào DTTS sống tại địa phương chủ yếu là dân thuộc diện tái định cư, tập tục sống du canh du cư vẫn còn tồn tại trong một bộ phận người dân khi chuyển đến nơi ở mới. Thêm vào đó, khi CT được triển khai trên địa bàn xã, chính quyền xã thông báo cho những hộ gia đình thuộc diện được hưởng trợ cấp từ CT, sau đó phân phát nguồn trợ cấp cho bà con, bà con có nhu cầu đóng góp ý kiến hay thắc mắc các vấn đề liên quan đến CT cũng không có điều kiện để tham gia đóng góp ý kiến.
Tỷ lệ người Kinh tham gia đóng góp ý kiến là khá cao, chiếm tỷ lệ 71,4%, điều này đã thể hiện sự quan tâm của người dân đối với CT, tinh thần chủ động vươn lên thoát nghèo của người dân.
Tỷ lệ người dân không tham gia đóng góp ý kến chiếm tỷ lệ cao như trên sẽ là một trong những trở ngại lớn của chính quyền xã trong việc đề ra các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương, cũng như trong công tác triển khai các chương trình giảm nghèo nói chung trên địa bàn xã. Khi người dân không tham gia phối hợp cùng với chính quyền địa phương trong việc triển khai CT, thì những kết quả mang lại sẽ không mang tính bền vững cao. Mặt khác, nếu chính quyền không tạo điều kiện để người dân phát biểu ý kiến thì sẽ không biết được bà con đang cần gì, thiếu những gì… để hỗ trợ cho bà con.
Trong những giai đoạn tiếp theo của CT, chính quyền xã cần tạo thêm nhiều cơ hội để bà con nói lên tâm tư, nguyện vọng của mình. Đây sẽ là một trong những hình thức mà chính quyền cùng với người dân hỗ trợ lẫn nhau để đạt được những mục tiêu mà CT đã đề ra.
2.11 Những khó khăn của người dân xã Vĩnh Thuận gặp phải trong quá trình triển khai Chương trình 135
Một chương trình hay dự án khi được triển khai ở bất kỳ cấp độ nào, dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều gặp phải những khó khăn trong quá trình thực hiện, những khó khăn đó có thể xuất phát từ chính quyền địa phương; ban điều hành, quản lý dự án hay những khó khăn xuất phát từ chính những người dân được thụ hưởng chương trình.
Khi CT 135 được triển khai trên địa bàn xã Vĩnh Thuận, những khó khăn của chính quyền địa phương trong việc triển khai CT không quá nhiều. Cán bộ xã được tham dự các lớp tập huấn do UBND huyện phối hợp với Phòng Nội Vụ tổ chức. Thêm vào đó, huyện Vĩnh Thạnh là một trong những huyện thực hiện khá thành công trong công tác triển khai CT 135 giai đoạn I và toàn huyện đã có 2 xã tự nguyện thoát khỏi CT 135 trong giai đoạn I. Do vậy, khi CT 135 được triển khai trên địa bàn xã, chính quyền địa phương nhận được rất nhiều sự hỗ trợ cũng như kinh nghiệm thực hiện từ các xã khác.
Trong khi đó, người dân lại gặp khá nhiều khó khăn khi thụ hưởng các nguồn hỗ trợ từ CT, điều này được thể hiện thông qua bảng số liệu dưới đây
Những khó khăn
Số lượng
Tỷ lệ (%)
1. Không biết các làm thủ tục, giấy tờ liên quan
24
24
2. Không hỗ trợ đủ vốn
52
52
3. Không biết phương pháp sản xuất hiệu quả
10
10
4. Không biết các sử dụng vốn hiệu quả
9
9
5. Các hỗ trợ không phù hợp với nhu cầu
13
13
6. Ý kiến khác
18
18
Tổng
126
100
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy, khó khăn lớn nhất mà người dân gặp phải là khó khăn về vốn, chiếm tỷ lệ 52%. Đây là một điều dễ hiểu, với tỷ lệ hộ nghèo toàn xã khá cao(71,06%), nhu cầu về nguồn vốn để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt hàng ngày là rất lớn, trong khi kinh phí hỗ trợ của CT dành cho xã nằm trong một mức nhất định, do đó không thể nào đáp ứng được hết nhu cầu về vốn sản xuất của người dân.
Khó khăn thứ 2 là khó khăn về việc làm các thủ tục, giấy tờ liên quan chiếm tỷ lệ 24%.
Với trình độ học vấn chung của toàn xã không cao, lại là địa bàn sinh sống phần lớn của đồng bào DTTS nên những khó khăn liên quan đến các thủ tục, giấy tờ là điều dễ hiểu.
Muốn nhận được các hỗ trợ từ CT, tiêu chí đầu tiên là bà con phải có giấy chúng nhận hộ nghèo do UBND huyện cấp và một số giấy tờ liên quan khác. Bà con nơi đây phần lớn là dân tái định cư nên khi chuyển đến nơi ở mới buộc phải làm lại các giấy tờ tùy thân, trong quá trình làm không thể tránh khỏi những sai sót. Do vậy, khi chính quyền xã yêu cầu nộp các loại giấy tờ liên quan để nhận hỗ trợ thì không ít bà con gặp khó khăn trong vấn đề này.
18% là số tỷ lệ của phương án trả lời là ý kiến khác, phần lớn câu trả lời của ý kiến này là không gặp khó khăn gì.
13% số ý kiến cho rằng các hỗ trợ không phù hợp với nhu cầu.
Sau nhiều năm triển khai CT 135 giai đoạn I trên phạm vi cả nước, một trong những hạn chế lớn nhất của CT là các hỗ trợ của CT dành cho người dân được thụ hưởng không phù hợp với nhu cầu của họ. Trước khi tiến hành hỗ trợ cho người dân, chính quyền địa phương không tìm hiểu nhu cầu, mong muốn cũng như nguyện vọng của người dân nghèo, xem họ đang thiếu thứ gì, đang cần thứ gì để hỗ trợ sao cho phù hợp, điều này đã gián tiếp gây thất thoát lãng phí một nguồn ngân sách không nhỏ của CT.
Xã Vĩnh Thuận cũng không ngoại lệ, khi tiến hành hỗ trợ, chính quyền xã không tìm hiểu nhu cầu của người dân mà lại phân phối đại trà nên một bộ phận người dân đã nhận được những hỗ trợ không thiết thực từ CT. Có 88% số ý kiến trả lời cho biết chính quyền địa phương xét hỗ trợ theo hình thức tự xét mà không tham khảo ý kiến của bà con (xem phụ lục II, bảng 26).
Ngoài hỗ trợ giống cây trồng cho bà con, với nguồn vốn mà CT đã hỗ trợ cho địa phương, chính quyền xã đã quy định cấp cho mỗi hộ 1 triệu đồng để xây chuồng bò và hơn 1 triệu đồng để xây dựng nhà vệ sinh. Việc này chỉ đáp ứng một phần nhu cầu của người dân, đối với những hộ dân không có chuồng bò mà vẫn phải buộc xây dựng chuồng bò, trong khi đó lại thiếu vốn để mua cây, con giống……
Đây là một trong những hạn chế rất lớn cần được khắc phục nếu CT 135 giai đoạn III được triển khai trên địa bàn xã nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
Do vậy, trong quá trình hoạch định CT, các nhà hoạch định cần có những biện pháp nhằm tăng cường tính chủ động của người dân, điều đó sẽ góp phần quan trọng trong việc khắc phục tình trạng trên.
10% số ý kiến cho rằng không biết phương pháp sản xuất hiệu quả và 9% người dân cho biết họ không được hướng dẫn cách thức sử dụng vốn hiệu quả.
Tuy nhiên, những khó khăn mà bà con gặp phải có sự khác nhau giữa bà con là người Kinh và bà con là người DTTS, điều này thể hiện rõ qua bảng tương quan sau đây
Bảng 3-17: Dân tộc - Những khó khăn khi nhận các hỗ trợ từ Chương trình
Dân tộc
Những khó
Khăn gặp phải
Kinh
DTTS
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ
lệ(%)
1. Không biết các làm thủ tục, giấy tờ liên quan
3
42,8
21
22,6
2. Không hỗ trợ đủ vốn
1
14,3
51
54,8
3. Không biết phương pháp sản xuất hiệu quả
1
15,3
9
9,7
4. Không biết các sử dụng vốn hiệu quả
0
0
9
9,7
5. Các hỗ trợ không phù hợp với nhu cầu
0
0
13
13,9
6. Ý kiến khác
2
28,6
16
17,2
Khó khăn lớn nhất khi nhận các hỗ trợ của đồng bào DTTS là không hỗ trợ đủ vốn chiếm tỷ lệ 54,8% thì con số này đối với người Kinh là 14,3%.
Nếu khó khăn lớn nhất đối với người Kinh khi nhận các hỗ trợ từ CT là không biết cách làm thủ tục, giấy tờ liên quan chiếm tỷ lệ 52,8%, con số này ở đông bào DTTS là 22,6%.
Qua những con số trên ta có thể thấy được một thực tế đang diên ra trên địa bàn xã hiện nay, trên địa bàn xã, người DTTS chiếm tỷ lệ lớn khoảng 98%, thậm chí trong cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền xã, phần lớn là người DTTS nên hầu như trong tất cả các chương trình, chính sách của nhà nước dành cho xã hầu hết đều ưu tiên cho đồng bào DTTS .
Trong quá trình phát bảng hỏi, tác giả nhận ra rằng mặc dù tỷ lệ người Kinh chiếm tỷ lệ rất ít trong tổng số dân của xã, và hầu hết họ đều thuộc diện hộ nghèo, nhưng không phải tất cả họ đều được nhận những hỗ trợ từ CT 135. Thậm chí trong nhiều trường hợp, họ không được đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương mặc dù họ đã sinh sống tại đây từ rất lâu.
Do vậy, muốn nhận được các hỗ trợ từ CT, bà con người Kinh buộc phải có rất nhiều giấy tờ liên quan nên tỷ lệ người Kinh gặp khó khăn về thủ tục giấy tờ lại chiếm tỷ lệ cao như vậy.
Đối với đồng bào DTTS quen với phương thức sản xuất truyền thống, phá rừng làm nương rẫy, nên khi chuyển về nơi tái định cư, bà con không được phép phá rừng mà buộc phải sản xuất trên phần rẫy của mình, thời tiết lại quá khắc nghiệt, không chủ động được nguồn nước nên bà con rất cần vốn để trang trải các chi phí trong quá trình sản xuất.
2.12 Những mong muốn của người dân đối với CT
Với điều kiện tự nhiên gặp khá nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất và phát triển kinh tế nên đời sống của người dân trong xã còn gặp khá nhiều khó khăn. Khi CT 135 giai đoạn II được tiến hành triển khai trên địa bàn xã đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của cán bộ chính quyền cũng như sự ủng hộ của bà con trong xã.
Tuy nhiên, với nguồn vốn hỗ trợ từ CT còn nhiều hạn chế nên những hỗ trợ mà CT không đáp ứng được nhu cầu của người dân, với 93% người dân được hỏi cho rằng những công trình mà CT đã xây dựng không đáp ứng hay chỉ đáp ứng một phần nhu cầu của người dân (xem phụ lục II, bảng16).
Điều này thể hiện qua những mong muốn, kiến nghị của người dân đối với CT được sắp xếp theo thứ tự từ cao đến thấp.
STT
Những mong muốn, kiến nghị của người dân
1
Xây dựng công trình thuỷ lợi(bể nước, xây giếng nước)
2
Làm đường xá
3
Làm cầu qua mương
4
Xây dựng khu vui chơi cho trẻ em
5
Xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng (nhà rông)
6
Hỗ trợ vốn
7
Xây dựng cổng làng
8
Hỗ trợ máy móc
9
Hỗ trợ giống cây trồng
10
Xây dựng nhà cửa
11
Bình xét công bằng
Qua những nhu cầu, nguyện vọng của người dân dành cho CT, ta thấy hầu hết trong số những mong muốn của người dân mong muốn CT xây dựng các công trình phục vụ cho đời sống và sản xuất của người dân. Đó là những mong muốn xuất phát từ những khó khăn trong đời sống hàng ngày và trong sản xuất của họ.
Người dân hy vọng, với sự hỗ trợ từ CT, đời sống của họ sẽ bới khó khăn hơn thông qua các công trình mà họ mong muồn CT sẽ xây dựng, thể hiện qua biểu đồ bên dưới
Qua biểu đồ trên, ta nhận thấy rằng, công trình mà người dân mong muốn chương trình xây dựng chiếm tỷ lệ cao nhất đó là các công trình thủy lợi chiếm 73%. Điều này càng thể hiện rõ qua mối tương quan giữa nam giới và nữ giới những công trình mà từng giới mong muốn xây dựng, với 75.5% nam giới có mong muốn xây dựng các công trình thủy lợi, và con số này ở nữ giới là 70.6% (xem phụ lục III, bảng 1-16).
Đời sống của bà con trong xã chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, do vậy, nguồn nước đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sản xuất của người dân địa phương.
Cả xã chỉ có một công trình thủy lợi duy nhất hiện nay đang còn hoạt động là Đập Tà Niêng ở làng 5, công trình này chỉ phục vụ phần lớn nhu cầu của bà con làng 5 và làng 7. Công trình này lại ở khá xa so với trung tâm xã và các làng khác nên bà con muốn sử dụng nước từ công trình này để phục vụ cho đời sống sinh hoạt hằng ngày gặp rất nhiều khó khăn, bà con phải đi một quảng đường khá xa mới đến được, đường đi đến đập là đường đất, chưa được bê tông hóa, vào mùa khô, người dân có thể lấy ống dẫn nước đưa nước lên rẫy của gia đình mình, nhưng mùa mưa thì hầu như không lấy được nước từ công trình.
Đập chứa nước Tà Niêng
Trong xã, những hộ gia đình có điều kiện kinh tế thì xây dựng bể lấy nước từ trên suối cho gia đình mình, những hộ khác không có điều kiện thì sử dụng nguồn nước tại bể nước chung của cả làng. Bên cạnh đó, UBND xã đã đầu tư xây dựng mỗi làng một bể nước công cộng tại nhà rông của từng làng để người dân sử dụng, nhưng cả giếng nước của từng hộ gia đình cũng như bể nước công cộng của từng làng cũng chỉ sử dụng được một, hai năm. Sau đó, nguồn nước trong làng bị nhiễm phèn, đóng vôi nên không sử dụng được. Bà con buộc phải lên rẫy lấy nước từ trên suối để sử dụng
Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày bà con đã gặp nhiều khó khăn về nguồn nước, thì trong sản xuất, khó khăn này lại càng tăng lên gấp bội. Việc sản xuất của bà con chủ yếu dựa vào nguồn nước tự nhiên nhưng tổng lượng mưa trung bình năm của xã là 1.716mm không đủ để đáp ứng nhu càu của người dân. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc sản xuất nông nghiệp của bà con đạt năng suất không cao, một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ hộ nghèo của toàn xã rất cao chiếm 71.06%[1;5]
Do vậy, việc xây dựng các công trình thủy lợi là một trong những yêu cầu cấp thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và phục vụ tốt hơn nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của người dân, nếu nhu cầu này được áp ứng sẽ góp phần đáng kể vào công tác giảm nghèo trên địa bàn toàn xã.
Đường xá xếp vị trí thứ 2 với tỷ lệ 30%. Đường xá trên địa bàn xã phần lớn đã được bê tông hóa, nhưng hiện nay nhiều đoạn đường đã xuất hiện những ổ gà, hay nhiều đoạn đường đã bị xuống cấp gây rất nhiều khó khăn trong quà trình đi lại, nhất là đoạn đường đi từ trung tâm huyện vào xã, hầu hết đều đã xuống cấp, lại là những đoạn đường đèo dốc nên việc đi lại gặp khá nhiều khó khăn.
Đoạn đường đã được bê tông hóa tại Làng 2 xã Vĩnh Thuận
Mặt khác, một trong những khó khăn trong vấn đề đi lại của người dân là những đoạn đường lên rẫy. Những đoạn đường lên rẫy phần lớn là đường đất, vào mùa khô, xe máy có thể đi được, nhưng vào mùa mưa, đường xá bị sạt lở nên không đi lại được, bà con cũng không thể lên rẫy sản xuất được nên bà con không thể sản xuất được nhiều vụ trong một năm.
Mong muốn xây dựng nhà văn hóa, trung tâm sinh hoạt cộng đồng xếp vị trí thứ 3, chiếm tỷ lệ 21%.
Như chúng ta đã biết, đối với người DTTS, nhà rông có vai trò rất quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của người dân. Chính vì lý do đó, có khá nhiều ý kiến mong muốn được xây dựng nhà rông cho làng mình.
Hiện nay, các làng đều có nhà rông riêng, nhưng phần lớn đều đã cũ, xuống cấp, không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt cộng đồng của người dân trong làng. Toàn xã chưa xây dựng được nhà rông cho toàn xã nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của bà con trong xã theo quy định của Chương trình phát triển nông thôn mới.
Toàn xã chỉ có nhà rông của làng 5 mới được xây dựng với tổng kinh phí trên 800 triệu đồng, đây là niềm tự hào của bà con làng 5. Hầu hết các buổi tập huấn, công tác triển khai các công tác, chương trình do cấp trên tổ chức trên địa bàn xã đều được triển khai tại nhà rông làng 5.
Nhà rông Làng 5- xã Vĩnh Thuận
Các ý kiến khác chiếm tỷ lệ 12% là những mong muốn xây dựng khu vui chơi giải trí cho trẻ em, hay cổng làng …., bệnh viện chiếm tỷ lệ 3%, trường học chiếm tỷ lệ 5%.
Như vậy có thể được, những công trình mà người dân mong muốn đều xuất phát từ những khó khăn trong sản xuất và sinh hoạt của họ. Hy vọng, Chương trình 135 giai đoạn III tiếp tục được triển khai trên địa bàn xã sẽ đáp ứng được những mong muốn của bà con.
Ngoài những công trình mà bà con mong muốn CT sẽ xây dựng, bà con còn mong muốn CT sẽ hỗ trợ thêm giống cây trồng, vốn và máy móc để phát triển sản xuất. điều đáng quan tâm là một số bà con đã có những mong muốn, kiến nghị mong CT trong quá trình triển khai sẽ bình xét công bằng, công khai những hỗ trợ mà CT dành cho người dân. Điều này chứng tỏ đã xuất hiện sự không hài lòng của một số người dân đối với chính quyền xã trong công tác phân phát các nguồn hỗ trợ của CT dành cho người dân.
2.13 Vai trò của chính quyền địa phương trong quá trình triển khai Chương trình 135
Để đưa một chương trình hay dự án đến được với đời sống của các đối tượng được thụ hưởng một cách thuận lợi và hiệu quả nhất thì vai trò của chính quyền địa phương là rất lớn. Vai trò của chính quyền địa phương được thể hiện rõ qua các hình thức mà chính quyền địa phương giúp đỡ người dân trong việc tiếp nhận các hỗ trợ từ CT.
Khi CT 135 được triển khai trên địa bàn xã Vĩnh Thuận, vai trò của chính quyền địa phương thể hiện qua các hình thức hỗ trợ cho người dân qua bảng thống kê dưới đây
Hỗ trợ của chính quyền địa phương
Số lượng
Tỷ lệ (%)
1. Hướng dẫn các thủ tục
16
16
2. Giải đáp thắc mắc
27
27
3. Hỗ trợ kiến thức
29
29
4. Hướng dẫn sử dụng vốn hiệu quả
22
22
5. Không hỗ trợ
32
32
6. Ý kiến khác
3
3
Tổng
129
100
Qua bảng số liệu trên, ta có thể thấy được trong quá trình triển khai CT, chính quyền địa phương chưa thể hiện rõ vai trò của mình trong việc hỗ trợ người dân với 32% số người được hỏi cho rằng chính quyền địa phương không hỗ trợ họ trong quá trình triển khai CT, đây là một con số không nhỏ và nó chiếm tỷ lệ cao nhất trong tất cả các phương án trả lời mà tác giả đã đưa ra.
Do vậy, khi được hỏi về vai trò của chính quyền địa phương trong việc triển khai CT có đến 44% người dân cho rằng chính quyền địa phương có vai trò không tích cực trong công việc của mình.[xem phụ lục II, bảng 27]
Các hình thức hỗ trợ còn lại như: hướng dẫn các thủ tục, giải đáp thắc mắc, hỗ trợ kiến thức, hướng dẫn sử dụng vốn hiệu quả người dân đều nhận được nhưng chiếm tỷ lệ không cao. Điều này chứng tỏ những hình thức hỗ trợ của chính quyền dành cho người dân không thật sự phát huy hiệu quả trong việc hỗ trợ người dân.
Điều này có nhiều nguyên nhân khách quan dẫn đến, mặc dù ban điều hành CT xã đã nhận được sự hỗ trợ từ UBND huyện và kinh nghiệm từ các xã khác trong huyện đã triển khai thành công CT, nhưng đây là lần đầu tiên một CT có quy mô quốc gia được triển khai trên địa bàn xã nên ban điều hành CT của xã gặp không ít khó khăn trong quá trình triển khai. Thêm vào đó, năng lực quản lý và tổ chức của một số cán bộ cấp xã còn nhiều yếu kém, kinh nghiệm triển khai các chương trình, dự án giảm nghèo còn yếu nên những hỗ trợ của chính quyền đề ra là hợp lý, nhưng trong quá trình triển khai gặp khó khăn nên chúng chưa phát huy được hiệu quả như mong muốn.
Tuy nhiên, trong quá trình hỗ trợ, ngoài những hạn chế nêu trên, chính quyền xã đã bộc lộ những bất cập trong quá trình hỗ trợ, điều này thể hiện rõ qua bảng tương quan sau đây
Hình thức Dân tộc
Chính quyền hỗ trợ
Kinh
DTTS
Số lượng
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
Tỷ lệ
(%)
1.Hướng dẫn các thủ tục
0
0
16
17,2
2.Giải đáp thắc mắc
0
0
27
29,0
3.Hỗ trợ kiến thức
3
42,8
26
27,9
4.Hướng dẫn sử dụng vốn hiệu quả
0
0
22
23,6
5.Không hỗ trợ
4
57,2
28
30,1
6.Ý kiến khác
0
0
3
3,2
Qua bảng tương quan trên ta dễ dàng nhận thấy nếu như tất cả các hình thức hỗ trợ mà chính quyền hỗ trợ đều dành cho đối tượng đồng bào DTTS thì đồng bào người Kinh chỉ nhận được một hình thức hỗ trợ duy nhất là hỗ trợ kiến thức chiếm tỷ lệ 42,8%.
Cả người kinh và đồng bào DTTS đều có tỷ lệ người dân không nhận được những hỗ trợ từ CT, nhưng tỷ lệ này ở người Kinh là 57,2%, trong khi đó, ở đồng bào DTTS là 30,1%, con số này ít hơn nhiều so với người Kinh.
Qua đây, ta thấy được sự bất bình đẳng trong việc thụ hưởng những thành quả của CT trong nội bộ người dân trong xã, mà trước hết là việc hỗ trợ của chính quyền địa phương.
Do vậy, vấn đề này cần sớm được khắc phục trong thời gian sớm nhất, tránh tình trạng xảy ra sự mất lòng tin của nhân dân đối với chính quyền và sự mâu thuẫn trong nội bộ dân chúng, gây ra những ảnh hưởng tiêu cực trong việc triển khai CT.
Điều này thể hiện rõ trong mối tương quan giữa dân tộc với vai trò của chính quyền địa phương.
Dân tộc
Vai trò của
Chính quyền địa phương
Kinh
DTTS
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ
lệ(%)
1.Tích cực
3
42,9
53
56,9
2.Không tích cực
4
57,1
40
43,1
Tỷ lệ người Kinh cho rằng chính quyền xã có vai trò tích cực chiếm tỷ lệ 42,9%, trong khi con số này ở đồng bào DTTS là 56,9%.
Qua bảng tương quan trên, ta có thể nhận thấy không chỉ có người Kinh mà cả đồng bào DTTS cũng có ý kiến cho rằng chính quyền không thể hiện được vai trò tích cực của mình chiếm tỷ lệ 43,1%.
Nếu như ở người Kinh, bà con không những nhận thấy chính quyền xã không thể hiện hết vai trò của mình mà còn thấy được sự bất bình đẳng trong việc nhận hỗ trợ của chính quyền. Trong khi đó, đối với đồng bào DTTS thì họ chỉ cho rằng chính quyền địa phương không tích cực do những hỗ trợ của họ chưa không đáp ứng được nhu cầu của mình.
Do vậy, trong những giai đoạn tiếp theo của CT, chính quyền địa phương cần rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc triển khai CT trong giai đoạn này, đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan tìm ra những giải pháp nhằm khắc phục được những hạn chế trên.
Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức cho chính quyền xã cũng như ban điều hành dự án để họ thấy được vai trò quan trong trong việc tham gia vào CT của người dân không chỉ giúp chính quyền giải quyết được những vướng mắc gặp phải trong quá trình triển khai CT, mà còn phát huy được những tác động tích cực mà CT mang đến cho đời sống của người dân.
Đây không chỉ là những mặt yếu của chính quyền xã trong việc triển khai CT, mà đây còn là mặt yếu chung của hầu hết các địa phương mà CT đã, đang và sẽ triển khai. Chính vì vậy, các cơ quan cấp trên khi để ra các chương trình không chỉ đề ra các mục tiêu cần đạt được mà còn đề ra những giải pháp để giúp người dân và chính quyền nơi CT đang triển khai khắc phục được những khó khăn trong quá trình thực hiện CT.
KẾT LUẬN
Chương trình 135 là một trong những CT đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo quần chúng nhân dân, các cơ quan ban ngành cũng như các tổ chức chính trị xã hội trong và ngoài nước quan tâm. Đây là CT giảm nghèo được triển khai trên phạm vi cả nước nhằm mục tiêu giảm nghèo cho các xã, thôn, bản miền núi, vùng sâu, vùng xa gặp nhiều khó khăn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo một cách bền vững, góp phần đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Để CT đạt được những mục tiêu đã đề ra và làm cơ sở cho việc triển khai CT trong những giai đoạn tiếp theo, tác giả đã đưa ra những nhóm giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm tạo điều kiện cho người dân xã Vĩnh Thuận nói riêng, cũng như những người dân nghèo trên cả nước nói chung thuộc diện được hưởng lợi từ CT thoát nghèo bền vững và tiến tới làm giàm cho bản thân, gia đình cũng như làm giàu cho Tổ quốc.
Sau đây là những nhóm giải pháp cụ thể
3.1 Nhóm giải pháp trước mắt:
- UBND tỉnh cần để nghị TW tiếp tục triển khai CT 135 giai đoạn III trên địa bàn xã Vĩnh Thuận để CT tiếp tục đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng và hỗ trợ sản xuất cho người dân trong xã.
- Tăng cường nguồn kinh phí cho CT để CT tiếp tục hỗ trợ bà con thông qua các biện pháp sau đây:
+ Kiến nghị TW và UBND tỉnh phân bổ nguồn ngân sách cao hơn giai đoạn trước vì Vĩnh Thạnh là một huyện miền núi gặp nhiều khó khăn nên ngân sách của huyện hỗ trợ cho các xã nghèo của huyện gặp nhiều hạn chế.
+ UBND huyện Vĩnh Thạnh cần xem xét trong việc phân bổ nguồn kinh phí hỗ trợ của CT cho các xã thuộc diện nhận hỗ trợ từ CT. Hiện nay trên địa bàn huyện Vĩnh Thạnh còn 4 xã đang được hưởng lợi từ CT đó là các xã Vĩnh Hoà, Vĩnh Kim, Vĩnh Sơn và Vĩnh Thuận. Trong số 4 xã này thì chỉ có xã Vĩnh Thuận được hưởng lợi từ CT trong giai đoạn II, các xã còn lại đều đựoc thụ hưởng CT từ những năm đầu của giai đoạn I nên đời sống bà con các xã này có phần đỡ vất vả và khó khăn hơn người dân ở xã Vĩnh Thuận . Do vậy, trong quá trình phân bổ nguồn vốn cần dành nhiều sự ưu tiên cho xã Vĩnh Thuận trong hợp phần xây dựng kết cấu hạ tầng và hỗ trợ phát triển sản xuất cho nhân dân trong xã.
- Hiện nay trên địa bàn huyện Vĩnh Thạnh, ngoài CT 135 đã và đang được triển khai thì còn có các CT khác đang được triển khai trên địa bàn huyện như CT xóa nhà tạm theo Nghị định 167; CT 134; Chính sách đối với 62 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a, CT kiên cố hoá trường, lớp học…UBND xã cần rà soát và có những kiến nghị để tăng tỷ lệ hộ dân trong xã được hưởng lợi từ các CT này.
- UBND xã cần kết hợp với UBND huyện và các ban ngành có liên quan chức năng giải quyết các vấn đề cấp thiết sau đây:
+ Về đất sản xuất: hiện nay trên địa bàn xã có 3 làng không có ruộng để bà con sản xuất đó là Làng 3,6,8 ; bà con chủ yếu trồng đậu xanh, đậu đen, điều… trên rẫy. Do vậy, đời sống các hộ dân trong các làng này gặp nhiều khó khăn hơn các làng khác. Do vậy, UBND xã cần có sự quy hoạch để mở rộng diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn các làng này.
+ Về vấn đề nước sinh hoạt: đây là một vấn đề cấp thiết cần được giải quyết, vấn đề này nếu đuợc giải quyết sẽ cải thiện đáng kể những khó khăn mà người dân gặp phải trong sản xuất và trong sinh hoạt hằng ngày. Bằng các biện pháp sau đây:
* Chính quyền xã cần phối hợp với các cơ quan chức năng tìm hiểu nguyên nhân và khắc phục tình trạng nguồn nước bị nhiễm phèn, các giếng nước bị đóng vôi trên địa bàn xã.
* Hỗ trợ kinh phí cho các gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn xây dựng được giếng nước riêng cho gia đình mình, cũng như hỗ trợ kinh phí để các gia đình mua máy bơm nước và ống dẫn nước để dẫn nước từ trên suồi hoặc các công trình thuỷ lợi về rẫy của mình để sản xuất.
* UBND huyện đã phê duyệt công trình xây dựng Đập tràn qua suối Xem nhằm cung cấp thêm nguồn nước để phục vụ sinh hoạt và sản xuất cho bà con. Do vậy, UBND huyện cần nhanh chóng giải ngân kinh phí để xã xây dựng công trình thuỷ lợi này nhằm cung cấp thêm nguồn nước cho bà con trong xã.
+ Một trong những vấn đề mà xã cần tập trung khắc phục bên cạnh đất sản xuất và nước sinh hoạt là cải thiện hệ thống đường giao thông trên địa bàn xã, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế, văn hoá với các xã khác trong huyện. Mặc dù mới được xây dựng nhưng hiện nay trên địa bàn xã, nhiều đoạn đường bê tông hoá đã bị hư hỏng nặng, gây khó khăn trong vấn đề đi lại của người dân.
- Chính quyền xã cần có những buổi tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân trong các cuộc họp dân hàng tháng của các làng để người dân nâng cao nhận thức trong việc sử dụng và bảo vệ những công trình công cộng trên địa bàn xã.
- Kết hợp với phòng Nông Nghiệp huyện và phòng Nội Vụ của huyện thường xuyên tổ chức các đợt tập huấn bồi dưỡng, nâng cao kiến thức kỹ năng cho các cán bộ thôn bản về công tác tổ chức quản lý cũng như công tác tuyên truyền, phổ biến các kiến thức mới trong sản xuất nông nghiệp cho bà con.
Trong giải pháp này, ta cần chú ý, đối với phong tục tập quán của đồng bào DTTS, già làng giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân. Do vậy, bên cạnh cán bộ chính quyền cấp thôn, xã cần quan tâm đến việc tập huấn cho các già làng nhằm tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của các già làng trong việc triển khai, phổ biến các chương trình, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước nói chung cũng như của CT 135 nói riêng.
Bên cạnh đó, cần tuyên truyền để nâng cao nhận thức của các cán bộ lãnh đạo, nhất là những cán bộ thuộc ban điều hành CT, để họ thấy được vai trò và tầm quan trọng trong việc người dân cùng với chính quyền xã tham gia vào công tác triển khai và thực hiện CT nhằm giúp chính quyền giải quyết được những khó khăn và nâng cao tính chủ động của người dân.
- Khi triển khai các mô hình trình diễn như mô hình thâm canh cây lúa, mô hình trồng thâm canh cây ngô lai, mô hình trồng thâm canh cây ngô lai….cần có những hướng dẫn cụ thể cho bà con cách thức sản xuất như thế nào cho đúng quy trình để đạt năng suất cao, hạn chế được những tác động xấu của thời tiết.
Việc triển khai các mô hình trên địa bàn xã cần đặc biệt quan tâm đến đối tượng đồng bào DTTS vì trình độ của họ còn nhiều hạn chế, phương thức sản xuất lạc hậu, không quen với những quy trình sản xuất. Do đó, khi phổ biến các mô hình, chính quyền xã cần tiến hành thử nghiệm các mô hình mẫu bằng cách mời một vài hộ dân trong xã làm thử nghiệm để bà con, đặc biệt là đồng bào DTTS thấy được hiệu quả, rút kinh nghiệm trong quá trình sản xuất của mình.
- Nếu CT 135 giai đoạn III tiếp tục được triển khai trên địa bàn xã, trước khi tiến hành hỗ trợ, chính quyền xã cần có một cuộc khảo sát để tìm hiểu nhu cầu, mong muốn của người dân như thế nào để có những hỗ trợ phù hợp, tránh thất thoát lãng phí tài sản của nhà nước.
- Trong quá trình điều tra, tác giả biết được rằng, số lượng giống cây trồng mà CT hỗ trợ không đáp ứng được nhu cầu của người dân, nên bà con phải mua giống từ các thương lái bên ngoài mà không biết rõ được nguồn gốc, chất lượng như thế nào.
Do vậy, cần xây dựng trung tâm cung ứng giống cây trồng, vật nuôi để đáp ứng nhu cầu của bà con trong xã.
- Cần phối hợp với Phòng Lao Động- Thương Binh & Xã Hội huyện tìm kiếm các cơ hội việc làm cho lực lượng thanh niên có trình độ học vấn trên địa bàn xã, hỗ trợ cho những người dân có nhu cầu xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
- Hiện nay trên địa bàn huyện đang triển khai xây dựng cụm công nghiệp Tà Súc nhằm thu hút lực lượng lao động đông đảo trên địa bàn huyện, giải quyết vấn đề việc làm và phát triển kinh tế huyện nhà. Do đó, cần đẩy mạnh tiến độ thi công để giải quyết nhu cầu việc làm cho người dân.
- Xây dựng và phát triển các nghề thủ công trên địa bàn xã như dệt thổ cẩm vừa bảo tồn, phát huy nền văn hoá của đồng bào, vừa tạo thêm nguồn thu nhập cho người dân.
- Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao ý thức vươn lên thoát nghèo cho người dân, tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Thêm vào đó, sản xuất tại địa phương gặp nhiều khó khăn nên một bộ phận người dân có xu hướng chuyển về nơi ở cũ, điều này sẽ gây ra những xáo trộn trong tình hình trật tự an ninh trên địa bàn xã. Do vậy cần tăng cường công tác tuyên truyền cho bà con hiểu để người dân cùng hỗ trợ với chính quyền xã trong công tác giảm nghèo.
3.2 Nhóm giải pháp lâu dài
Mục tiêu cuối cùng của CT 135 nói riêng cũng như các chính sách, chương trình,dự án liên quan đến người nghèo nói chung là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân nghèo, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội của các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn trên phạm vi cả nước.
Bên cạnh những giải pháp trong nhóm giải pháp trước mắt, muốn CT đạt được mục tiêu giảm nghèo một cách bền vững thì ngoài những giải pháp trước mắt, việc thực hiện nhóm giải pháp lâu dài sẽ mang lại những kết quả thiết thực và bền vững hơn.
Tác giả đề ra nhóm giải pháp này không chỉ áp dụng trên địa bàn xã Vĩnh Thuận mà còn áp dụng cho tất cả các xã, thôn, bản trên phạm vi cả nước được thụ hưởng CT.
Những giải pháp trong nhóm giải pháp lâu dài, đó là:
- TW và các cơ quan ban ngành thực hiện việc giải ngân nguồn kinh phí trong từng hợp phần của CT cần điều chỉnh sao cho phù hợp với những biến động tình hình giá cả trong giai đoạn hiện nay. Trong khi giá cả các mặt hàng vật liệu xây dựng, giống cây trồng, vật nuôi tăng lên theo sự gia tăng của giá cả thị trường hiện nay, thì nguồn kinh phí mà TW hỗ trợ cho các hợp phần trong giai đoạn hiện nay cần có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình thực tế.
- Việc giải quyết bài toán giảm nghèo, nâng cao đời sống cho người dân các vùng nghèo không chỉ là mối quan tâm, trách nhiệm của các cơ quan ban ngành mà cần có giúp đỡ, ủng hộ từ chính những người dân được thụ hưởng CT và các lực lượng khác trong xã hội cùng tham gia.
+ Đối với những hộ dân nghèo được hưởng lợi từ CT, ngoài việc hỗ trợ kinh phí hỗ trợ sản xuất, cần nâng cao nhận thức cho người dân, để họ thấy được những hậu quả mà vấn đề nghèo có những ảnh hưởng xấu đối với đời sống của gia đình, đến tương lai con cái họ như thế nào.
Cần nâng cao nhận thức cho người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS để họ hiểu được rằng, công tác giảm nghèo không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội, trong đó có những người dân nghèo, tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước. Thông qua các buổi tuyên truyền, chú trọng đến sự tham gia của các già làng đối với nhận thức của người dân. Việc thực hiện này cần phải tiến hành trong một thời gian dài vì muốn thay đổi nhận thức của người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS là không dễ dàng và mất rất nhiều thời gian.
Bên cạnh đó cần nâng cao ý thức vươn lên giảm nghèo cho người dân thụ hưởng CT. Dù chính sách được triển khai có hiệu quả như thế nào, nguồn kinh phí được hỗ trợ rất lớn nhưng bản thân người dân không có ý chí vươn lên thoát nghèo thì những kết quả mà chương trình đã đạt được sẽ không có tính bền vững.
Ngược lại, nếu có được sự ủng hộ của người dân, công tác triển khai hiệu quả thì chương trình sẽ đạt được những mục tiêu như mong muốn và kết quả mang tính bền vững cao
+ Đối với đội ngũ cán bộ thực hiện CT: cần đặc biệt chú trọng đào tạo, nâng cao kiến thức, năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo cấp cơ sở, đặc biệt cán bộ người DTTS để họ hiểu hết được ý nghĩa, tầm quan trọng của các chương trình, chính sách, quy trình thực hiện, các thủ tục liên quan để họ tuyên truyền và giải đáp các thắc mắc cho bà con. Cần nâng cao nhận thức để họ thấy được tầm quan trọng của người dân trong công tác triển khai các chương trình, dự án.
Đồng thời, cần quy định những quyền lợi, trách nhiệm cụ thể và rõ ràng cho các cán bộ thực thi chính sách để họ có trách nhiệm trong công việc của mình, tránh gây thất thoát, lãng phí tiền của của nhân dân.
- Nguyên nhân sâu xa, gốc rễ của tình trạng nghèo đói là do trình độ dân trí của người dân thấp nên khả năng có một công việc ổn định là rất khó khăn, phải làm việc trong môi trưòng độc hại dẫn đến bệnh tật và kéo theo sau đó là một cuộc sống đói nghèo.
Do vậy, một trong những biện pháp để giải quyết triệt để vấn đề nghèo là nâng cao trình độ dân trí cho người dân nghèo, vấn đề này cần có sự phối hợp của các lực lượng trong toàn xã hội thông qua những giải pháp cụ thể sau đây:
* Tạo điều kiện cho con em của những người dân nghèo có điều kiện đi học với những chính sách ưu đãi như miễn, giảm học phí, tặng sách vở, quần áo…, đặc biệt quan tâm đến học sinh nghèo người DTTS.
* Sau khi các em được đào tạo xong, tạo điều kiện cho các em có việc làm ổn định tại địa phương.
* Tuyên truyền và vận động cho phụ huynh của các em tạo mọi điều kiện cho trẻ em đi học, tránh tình trạng vì hoàn cảnh gia đình khó khăn mà buộc các em thôi học.
* Tuyên truyền cho người dân thực hiện tốt chương trình kế hoạch hóa gia đình để người dân có điều kiện chăm sóc con cái tốt hơn.
- Trong quá trình thực hiện và triển khai CT, cần có những bước đánh giá trong từng giai đoạn thực hiện và cả quá trình để rút ra những bài học kinh nghiệm để làm cơ sở đề ra các chính sách, chương trình giảm nghèo trong những giai đoạn tiếp theo.
- Chính phủ cần có những quy định cụ thể, rõ ràng về các chính sách dành cho những hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ vừa thoát nghèo để họ có ý chí vươn lên thoát nghèo, tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự trợ cấp của Nhà nước
Trên thực tế, có những hộ vừa thoát nghèo, hộ cận nghèo không được hưởng nhiều sự ưu đãi từ các chính sách của Nhà nước như những hộ thuộc diện nghèo, trong khi đó, đời sống của những hộ vừa thoát nghèo cũng gặp rất nhiều khó khăn và họ cần nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước để có thể thoát nghèo một cách bền vững.
- Huy động được sự tham gia của các lực lượng khác trong xã hội cả về mặt vật chất lẫn tinh thần như kêu gọi sự hỗ trợ của các công ty, xí nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ kinh phí cho công tác giảm nghèo thông qua các cuộc vận động như “Ngày vì người nghèo”…
Hay chính phủ cần đề ra những quy định cho các tập đoàn, công ty trích một phần ngân sách cho công tác giảm nghèo, nhằm thể hiện tinh thần “lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta.
3.2 Vai trò nhân viên công tác xã hội
Để các chính sách, chương trình của Đảng và Nhà nước thực sự mang lại hiệu quả cho các đối tượng được thụ hưởng, ngoài sự làm việc của các cơ quan ban ngành liên quan, chính quyền địa phương các cấp, sự tham gia nhiệt tình của người dân, nhân viên CTXH có vai trò không nhỏ trong việc tạo nên sự thành công của các dự án, chương trình, chính sách này.
Trong quá trình triển khai CT 135 trên địa bàn cả nước, hầu như không có sự trợ giúp của nhân viên CTXH, vì đây là một ngành mới nên số lượng nhân viên CTXH đáp ứng được nhu cầu thực tế trong việc triển khai CT rất hạn chế. Khi CT 135 được triển khai trên địa bàn xã Vĩnh Thuận cũng không có sự hỗ trợ trợ của nhân viên CTXH.
Do vậy, trong những giai đoạn tiếp theo của CT, cần chú ý tăng cường vai trò của nhân viên CTXH trong quá trình triển khai CT này
Khi CT 135 được triển khai, nhân viên CTXH có những vai trò sau đây:
* Nhân viên CTXH phối hợp cùng với chính quyền địa phương các xã tiến hành quy trình rà soát hộ nghèo theo đúng quy định của pháp luật, quá trình này phải tiến hành công khai, minh bạch tránh sự bất đồng từ nhân dân, lập danh sách để trình lên cấp trên xem xét và hỗ trợ cho người dân.
* Nhân viên CTXH cung cấp cho người dân, đặc biệt là các đối tượng được thụ hưởng các thông tin về chương trình, ý nghĩa, tầm quan trọng, cách tiến hành, quy trình thực hiện… cũng như giải đáp các thắc mắc của bà con về các vấn đề liên quan.
Bên cạnh đó, kết hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền cho người dân ý thức bảo vệ các công trình mà CT đã xây dựng cũng như ý thức thoát nghèo, hậu quả của vấn đề nghèo … cho người dân.
* Nhân viên CTXH tìm kiếm thêm các nguồn hỗ trợ khác từ các CT khác đang được triển khai trên địa bàn nơi CT đang triển khai để tạo điều kiện cho người dân được hưởng lợi từ các CT đó. Ví dụ CT 134, CT 30a , CT 167…
* Nhân viên CTXH cùng với cán bộ khuyến nông tìm ra các mô hình sản xuất hiệu quả, các giống cây con giống phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương để hướng dẫn bà con.
* Đánh giá quá trình triển khai CT để có những kiến nghị, báo cáo kịp thời với chính quyền cấp trên để có những điều chỉnh, bổ sung, thay đổi cho phù hợp với điều kiện tình hình thực tế tại địa phương.
* Tổ chức các buổi tuyên truyền, kêu gọi sự tài trợ của các cơ quan, công ty, xí nghiệp đang hoạt động trên địa bàn mà CT đang triển khai để huy động sự đóng góp, tham gia của các lực lượng trong xã hội cùng chung tay góp sức vào công cuộc giảm nghèo.
* Tham mưu cho chính quyền các cấp trong việc đưa ra các giải pháp thực hiện CT sao cho mang lại hiệu quả cao nhất như việc phân bổ nguồn vốn cho từng hợp phần như thế nào….
* Tìm hiểu nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng của bà con tại nơi CT đang triển khai xem họ có những mong muốn gì, gặp những khó khăn gì trong quá trình sản xuất và đời sống hằng ngày…để đưa ra những kiến nghị với cơ quan cấp trên có những hỗ trợ phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của người dân, tránh tình trạng những hỗ trợ không phù hợp với nhu cầu, gây thất thoát, lãng phí tài sản của nhà nước.
* Phổ biến sâu rộng các chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến người nghèo.
* Phối hợp với Hội phụ nữ, Đoàn Thanh Niên mở các lớp tập huấn về sử dụng nguồn vốn hiệu quả, các mô hình vay vốn sản xuất hiệu quả để bà con tham khảo và thực hiện tuỳ theo tình hình địa phương mình.
* Cùng với chính quyền nơi CT đang triển khai phối hợp với ngân hàng chính sách trên địa bàn đề nghị họ cho người nghèo vay với lãi suất ưu đãi để họ có điều kiện vay vốn sản xuất.
* Tìm kiếm cơ hội việc làm trên địa bàn để những người nghèo có nhu cầu và đủ khả năng đáp ứng về trình độ chuyên môn, thông qua các sàn giao dịch việc làm hay các thông báo tuyển dụng của các công ty, thậm chí có cả xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
* Phối hợp với cơ quan nông nghiệp tìm đầu ra cho các sản phẩm của bà con, tránh tình trạng ép giá đang phổ biến ở một số vùng nông thôn như hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II xã Vĩnh Thuận.
2.Báo cáo tổng kết Chương trình 135 giai đoạn II huyện Vĩnh Thạnh
3. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 2010 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2011 xã Vĩnh Thuận
4. Báo cáo tổng quan điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, nhân lực xã Vĩnh Thuận
5.Nguyễn Thị Oanh, Phát Triển Cộng Đồng, đại Học Mở Bán Công Thành Phố Hồ Chí Minh,2000
6. Tổng hợp kết quả điều tra hộ nghèo cấp xã Vĩnh Thuận năm 2010
7. Wesbite Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội www.molisa.gov.vn “ Năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giảm còn 28.8%” -21/01/2011
8.Wesbite chương trình 135 www.chuongtrinh135.vn “Bình Định chỉ đạo lồng ghép các chương trình, dự án với chương trình 135”
9.Wesbite Uỷ Ban Dân Tộc www.cema.gov.vn “Uỷ ban dân tộc tổ chức Hội nghị tổng kết Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi về tình hình thực hiện các chính sách dân tộc giai đoạn 2006-2010; tổng kết công tác dân tộc năm 2010 và triển khai nhiệm vụ năm 2011”. – 06/01/2011 Nguyễn Văn Phong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động của chương trình 135 đối với đời sống người dân xã Vĩnh Thuận- huyện Vĩnh Thạnh- tỉnh Bình Định (giai đoạn 2006-2010).doc