Phần 1: Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển về cơ sở hạ tầng nên nhu cầu về vật liệu xây dựng là rất lớn. Chính vì vậy, ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng luôn là nghành được đầu tư, ưu tiên phát triển trước. Và trên thực tế ở nước ta, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng luôn gắn liền với sự phát triển của đất nước, mạnh nhất là từ khi thống nhất đất nước (1975) đến nay.
Từ sau đại hôị Đảng lần thứ 6 (1986), quan điểm của Đảng và nhà nước ta là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với mục tiêu cơ bản là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về mặt vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế. Chính sách này tạo điều kiện để nhiều nghành kinh tế phát triển, điều đó đòi hỏi cơ sở hạ tầng phải được đầu tư rất lớn. Chính vì vậy, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng là ngành có vai trò quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được về mặt kinh tế thì những hệ lụy về môi trường, đến sức khỏe con người do tác động của quá trình sản xuất vật liệu xây dựng đang là những thách thức lớn đối với nước ta.
Là một bộ phận quan trọng của nghành sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp sản xuất xi măng đã phát triển từ rất sớm và ngày càng được đầu tư công nghệ hiện đại để nhằm nâng cao năng lực sản xuất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường nhằm đáp ứng cho nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, ở một số vùng hiện nay, việc sản xuất xi măng vẫn còn áp dụng công nghệ lò đứng (là công nghệ đã cũ và lạc hậu), một công nghệ phát thải khói bụi trực tiếp ra không khí mà không qua xử lý, gây ô nhiễm môi trường sống tại vùng đồng thời, để lại những hậu quả tiêu cực cho sức khỏe của con người và xã hội (còn nữa)
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
Môi trường sống và sức khỏe là những thứ quy giá nhất của con người, bởi vậy, đây là đối tượng nghiên cứu của nhiều nghành khoa học khác nhau như Y tế, khoa học môi trường, xã hội học Trong Xã hội học, vấn đề này được nghiên cứu theo nhiều khía cạnh xã hội như: xã hội học sức khỏe, xã hội học môi trường .Đã có nhiều nhà xã hội học đã bỏ công sức về vấn đề nghiên cứu như: T.Parsons hay cả những nhà xã hội học Macxit mà điển hình là F.Engel đã có nhiều quan điểm liên quan đến vấn đề sức khỏe của con người.
Môi trường sống và sức khỏe của người dân đang là những vấn đề xã hội đặt ra cho các nhà quản lý sản xuất, các cơ quan chức năng liên quan quan tâm và giải quyết . (còn nữa)
.
35 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6277 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động của khói bụi công nghiệp đến môi trường sống của người dân (nghiên cứu cụ thể tại Hà Nội), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên cứu:
Đề tài này hướng đến xem xét những ảnh hưởng từ hoạt động của nhà máy xi măng đến môi trường và sức khoẻ của người dân trong vùng.
4.2 Khách thể nghiên cứu:
+ Người dân định cư xung quanh nhà máy Sài Sơn bao gồm: Cư dân của 3 thôn,1 trại (trên tổng số 5 thông, 7 trại) của xã Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Nội. Do đây là những nơi (trong đó tập trung vào làng Khánh Tân, nơi mà nhà máy xi măng đặt ngay giữa làng nên là vùng chịu nhiều ảnh hưởng nhất)
+ Công nhân và cán bộ trong nhà máy
5. Mẫu nghiên cứu:
Dự kiến:
100 mẫu phỏng vấn bằng bảng hỏi với cơ cấu như sau:
+ 50 mẫu tại thôn Khánh tân
+ 30 mẫu tại thôn Đa phúc
+ 30 mẫu tại thôn Phúc Đức (là thôn chịu ít ảnh hưởng của nhà máy xi măng nhất – kết quả tại đây được dùng để so sánh với 2 thôn chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ khói bụi xi măng)
10 biên bản phỏng vấn sâu cá nhân và hộ gia đình (5 mẫu ở thôn Khánh Tân, 2 ở thôn Đa Phúc, 2 người là cán bộ, công nhân nhà máy, 1 người là cán bộ y tế ở địa phương.)
6. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ 28-02-2011 đến 28-03-2011
- Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện tại xã Sài Sơn, Quốc Oai – TP HN.
7. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.1. Phương pháp phân tích tài liệu:
Để báo cáo được hoàn thành về cả mặt lý luận cũng như sự phong phú thêm về mặt thông tin, đề tài nghiên cứu đã sử dụng phương pháp này để thể hiện qua việc thu thập và phân tích các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: Các Sách, báo, tạp chí, các chuyên đề, báo cáo của Phường, thành phố… qua đó nắm được những kiến thức cơ bản liên quan tới nghiên cứu như: các nghiên cứu đi trước, các lý thuyết và hệ thống khái niệm cụ thể…
7.2. Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân
Để có được những đánh giá khách quan từ chính những người dân nơi đây về ảnh hưởng từ hoạt động của nhà máy xi măng đến sức khỏe và môi trường, phương pháp phỏng vấn sâu là một trong những phương pháp chủ yếu được vận dụng. Đồng thời, qua những thông tin định tính thu được trong quá trình phỏng vấn có những so sánh, kết hợp với các thông tin, số liệu thu được từ các phương pháp nghiên cứu xã hội học khác nhằm mô tả thực trạng vấn đề nghiên cứu tại địa phương và đưa ra những kết luận cụ thể trong báo cáo.
7.3. Phương pháp quan sát
Qua quá trình khảo sát, phỏng vấn tiếp xúc trực tiếp với người dân trong phường, tác giả nghiên cứu đã thực hiện quan sát các điều kiện về môi trường (nước thải, không khí, tiếng ồn,…) từ đó đối chiếu đánh giá với các số liệu, các thông tin thu thập được từ nhằm làm phong phú thêm cho các giả thuyết và phần kết quả trong báo cáo.
7.4. Phương pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi
Việc thực hiện thu thập thông tin bằng bảng hỏi là lựa chọn hợp lý để thu thập nguồn thông tin định lượng một cách có hiệu quả. Thông qua phương pháp này, việc phân tích kết quả định lượng kết hợp với những thông tin định tính thu được sẽ là kết quả cuối cùng cho đề tài.
8. Giả thuyết nghiên cứu
Với công nghệ sản xuất theo mô hình lò đứng (2 ống xả khí) đã lạc hậu so với công nghệ ngày nay, khí thải ra từ nhà máy không qua quá trình xử lý đã khiến cho môi trường nơi đây trở nên ô nhiễm vì khói bụi và nước thải.
Mặc dù gần đây nhà máy đã ngưng sản xuất, nhưng với trên 50 năm sống trong khói bụi và ô nhiễm như vậy, đã gây nên nhiều tác động xấu tới sức khỏe người dân trong vùng.
Phần lớn những bệnh ở đây là bệnh về hô hấp, bệnh ngoài da, đau mắt do khói bụi và tiếng ồn từ nhà máy gây ra.
Từ giả thuyết của đề tài xin đưa ra khung lý thuyết.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
Khai thác và sản xuất xi măng
Ô nhiễm môi trường
Tiếng ồn
Nguồn nước
Sức khỏe của người dân
Không khí
Thể chất
Tinh thần
môi trường tự nhiên
môi trường xã hội
giao thông
cảnh quan
Phần 2: Nội dung chính
Chương 1: Cơ sở lý luận, thực tiễn của đề tài
Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Trong những năm gần đây, nhiều căn bệnh lạ xuất hiện, khiến sức khoẻ người dân càng giảm sút. Một trong những nguyên nhân cơ bản đó là do môi trường sống của con người ngày càng bị ô nhiễm bên cạnh sự phát triển của kinh tế, khoa học kỹ thuật. Để tìm cách khắc phục, trên thế giới và cả ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu cả về lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề ô nhiễm môi trường và tác động của nó, tới bệnh tật, sức khoẻ của con người như: Các nghiên cứu về sức khoẻ bệnh tật và hệ thống y tế từ cách tiếp cận nhân học của tác giả Selimonique Bernardhours…
Ở Việt Nam, cũng có khá nhiều nghiên cứu về tác động của ô nhiễm môi trường đến sức khoẻ con người.
Cuốn sách “Ô nhiễm không khí và xử lý khí thải” của GS.TS Trần Ngọc Chấn (NXB KHKT)” bên cạnh những chỉ số toán học chi tiết, cuốn sách còn là tập hợp những nghiên cứu của GS về các vấn đề xã hội có mối quan hệ với ô nhiễm môi trường. Đặc biệt là các yếu tố về môi trường sống, về sức khỏe của con người do ảnh hưởng từ khói bụi công nghiệp.
Cũng nghiên cứu về vấn đề môi trường và sức khỏe, “ Trung tâm môi trường lao dộng” thuộc Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội là nơi thực hiện rất nhiều nghiên cứu. Các dự án, nghiên cứu ở đây tập trung nghiên cứu tới vấn đề ảnh hưởng của môi trường sống đến sức khoẻ con người. một trong các dự án tiêu biểu đó là dự án cấp nhà nước : “Đời sống, việc làm của người lao động làm các nghề nặng nhọc, nguy hiểm”. Dự án này có đề cập đến vấn đề môi trường sống ô nhiễm gây ảnh hưởng cho sức khoẻ của công nhân. Tuy nhiên, tất cả khách thể nghiên cứu trong các dự án này chỉ tập trung vào người lao động.
Một nghiên cứu khác đó là “Chuyên đề giáo dục môi trường” (thuộc sở GD & ĐT tỉnh Quảng Ninh 03/2009) cũng là một nghiên cứu khá cụ thể về vấn đề môi trường và ảnh hưởng của môi trường đến sức khỏe con người..
Chuyên đề này đi sâu vào những tác động xấu của hoạt động khai khác khoáng sản (bao gồm khai thác đá, cát, đất, than…) đến môi trường ở Quảng Ninh. Bằng việc đưa ra các số liệu chi tiết đã qua đo lường, chuyên đề đã chỉ ra được những hậu quả nghiêm trọng của hoạt động khai thác khoáng sản đến môi trường tự nhiên như: Sự ô nhiễm không khí do khói bụi, mùi hôi thối và nồng độ các chất độc hại có trong không khí, ô nhiễm đất do nhiễm các hóa chất độc hại, ô nhiễm nguồn nước do nhiễm kim loại và các hóa chất. Ngoài ra còn có những hậu quả về mặt xã hội như: gia tăng về tệ nạn xã hội.v.v… Tuy nhiên, chuyên đề này phân tích vấn đê quá rộng. Việc đánh giá phần lớn chỉ dựa vào các chỉ số đo lường chứ không thu thập từ ý kiến đánh giá của người dân xung quanh.
Tóm lại, các nghiên cứu lớn về vấn đề này thường tập trung vào việc đưa ra các thông số vật lý để mô tả hiện tượng, hơn nữa, các nghiên cứu trên đều không tập trung vào một vấn đề nghiên cứu cụ thể mà chỉ nói qua loavề ảnh hưởng do khói bụi công nghiệp đến môi trường sống và sức khoẻ con người.
Ngoài ra, còn có rất nhiều báo cáo cũng như các bài báo đề cập tới vấn đề ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng của nó, tuy nhiên, tất cả chỉ dừng lại ở phương diện phản ánh chung chung và chưa cụ thể.
1.2. Cơ sở lý luận
Để nhìn nhận vấn đề một cách sâu sắc và toàn diện, đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là phương pháp luận chung nhất, có ý nghĩa to lớn trong nhận thức và trong thực tiễn xã hội.
Triết học Macxit cho rằng: “cần xem xét mọi sự vật hiện tượng một cách khách quan, toàn diện nằm trong mối quan hệ phổ biến và phát triển.” Nguyên lý này khẳng định sự vật không tồn tại một cách biệt lập mà chúng nằm trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau để tạo ra sự phát triển.
Marx cho rằng: “phải xem xét sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng theo một quá trình trong những giai đoạn lịch sử phát triển khác nhau để tìm ra tính tất yếu, tìm ra những quy luật chi phối đến sự vận động phát triển của chúng. Mặt khác, luôn nhìn nhận sự vật trong một thể thống nhất của các mặt đối lập, mâu thuẫn với nhau đấu tranh để hình thành một chỉnh thể mới.” Đó chính là nguồn gốc bên trong của sự phát triển và vận động. Mối liên hệ của sự vật luôn được đặt trong mối quan hệ nhân quả vì bản thân mỗi vấn đề luôn chứa đựng trong nó những nguyên nhân và kết quả của một quá trình tác động dẫn đến tình trạng đó.
Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử, tất cả các hiện tượng nảy sinh trong xã hội đều có quá trình phát sinh, phát triển. Trong mỗi hoàn cảnh cụ thể của xã hội việc khai thác than trái phép sẽ có các yếu tố khác nhau tác động đến môi trường sống. Việc tìm hiểu ảnh hưởng từ khí thait nhà máy xi măng đến môi trường sống phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng với đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội..., Theo đó, môi trường là nơi cung cấp các nhu cầu về tài nguyên cho con người. Tất cả các tài nguyên này đều do môi trường cung cấp và giá trị của tài nguyên phụ thuộc và mức độ khan hiếm và giá trị của nó trong xã hội. Đồng thời, môi trường là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải của con người trong quá trình sử dụng các tài nguyên thải vào môi trường. Các tài nguyên sau khi hết hạn sử dụng, chúng bị thải vào môi trường dưới dạng các chất thải. Các chất thải này bị các quá trình vật lý, hóa học, sinh học phân hủy thành các chất vô cơ, vi sinh quay trở lại phục vụ con người. Tuy nhiên chức năng là nơi chứa đựng chất thải của môi trường là có giới hạn. Nếu con người vượt quá giới hạn này thì sẽ gây ra mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm môi trường. Đó có thể coi đó là kết quả của một quá trình tác động bởi một tập hợp các nguyên nhân phức tạp.
1.2.1 Lý thuyết áp dụng: Lý thuyết cạnh tranh chức năng môi trường
Cơ sở sinh thái học của suy thoái môi trường có lẽ được miêu tả tốt nhất trong ba sự canh tranh chức năng môi trường của Cantton và Dunlap. Mô hình Cantton và Dunlap chỉ rõ ba chức năng chung mà môi trường phục vụ cho con người: Trạm cung cấp, không gian sống, và Kho chưa rác thải. Được sử dụng như một trạm cung cấp, môi trường là nguồn tài nguyên thiên nhiên tái sinh và không tái sinh (không khí, nước, rừng, nguyên liệu rắn) thiết yếu cho cuộc sống. Sự lạm dụng những nguồn tài nguyên đó sẽ dẫn đến sự thiếu hụt hoặc sự khan hiếm. Không gian sống, hoặc môi trường, cung cấp nhà cửa, hệ thống giao thông, và các thứ thiết yếu khác của đời sống hàng ngày. Lạm dụng chức năng này dẫn đến sự quá tải về dân số, sự tắc nghẽn và suy thoái môi trường sống của các loài khác. Với chức năng kho chứa rác thải, môi trường thẩm thấu rác thải, ô nhiễm công nghiệp và rác thảu loại khác. Vượt quá chức năng của hệ sinh thái trong việc hấp thu rác thải sẽ dẫn tới vấn đề bệnh tật từ rác thải đọc hại và phá vỡ hệ sinh thái. Thêm nữa, các chức năng cạnh tranh nhau để chiếm khoảng không gian, và thường va chạm nhau. Sự chồng chéo, và do đó xung đôt giữa ba chức năng của môi trường đã phát triển nhanh chóng.
Như vậy, có thể thấy rằng theo mô hình của Cantton và Dunlap, các chức năng của môi trường luôn xung đột lẫn nhau, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà các vấn đề về môi trường và sức khỏe đang ngày càng trở nên gay gắt. Theo đó, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc xây dựng và phát triển hàng loạt các cơ sở sản xuất và thu hẹp phạm vi sống của dân cư, sinh vật, đã dẫn đến những xung đột và vấn đề gay gắt về môi trường và sức khỏe. Sự lạm dụng để xây dựng các khu nhà máy, (nhà máy xi măng) trong khi thiếu sự quy hoạch, đồng thời đã tận dụng quá lớn nguồn lực môi trường, vượt ngưỡng chịu đựng của không khí đã dẫn đến tình trạng quá tải sinh thái, và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Với sự ô nhiễm nước,… đặc biệt là môi trường không khi với lương khói bụi nguy hại do nhà máy xi măng xả ra đã ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Và điều đó như là một biểu hiện rõ ràng, rõ nét cho sự xung đột chức năng môi trường mà Cantton và Dunlap đã nêu trong sơ sơ đồ, lý thuyết tiếp cận về cạnh tranh chức năng của môi trường của mình.
1.2.2 Các khái niệm công cụ
Môi trường sống
Theo (Điều 1, Luật Bảo Vệ Môi Trường Việt Nam, 1993): Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên .
Môi trường sống là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế.
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại:
- Môi trường tự nhiên: bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giả trí, làm cho cuộc sống cong người thêm phong phú.
- Môi trường xã hội: là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác
Nói chung, môi trường của một khách thể bao gồm các vật chất, điều kiện hoàn cảnh, các đối tượng khác hay các điều kiện nào đó mà chúng bao quanh khách thể này hay các hoạt động của khách thể diễn ra trong chúng.
Ô nhiễm môi trường sống
Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường.
Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khoẻ con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hoá chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu. (nguồn: Hoàng Hưng, Nguyễn Thị Kim Loan, sách “Con người và môi trường”, NXB ĐHQG TPHCM, 2005).
Các dạng ô nhiễm môi trường sống
Ô nhiễm môi trường nước: Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý – hoá học – sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật.
Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại chất thải và nước thải công nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà chưa qua xử lí đúng mức; các loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu ngấm vào nguồn nước ngầm và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven sông.
Ô nhiễm không khí: Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự tỏa mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhin xa do bui.. Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt, đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng.
Ô nhiễm tiếng ồn:
Tiếng ồn là tập hợp những âm thanh có cường độ và tần số khác nhau, sắp xếp không có trật tự, gây cảm giác khó chịu cho người nghe, ảnh hưởng đến quá trình làm việc và nghỉ ngơi của cong người. Hay là những âm thanh phát ra không đúng lúc, không đúng nơi, âm thanh phát ra với cường độ quá lớn, vượt quá mức chịu đựng của con người. (Theo luật bảo vệ môi trường nước CHXHCN khóa IX, kì họp thứ 4 từ ngày 6-30/12/1993)
• Khái niệm sức khỏe:
Trạng thái hoàn toàn khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương tật (WHO, Hiến chương Ottawa, 1974).
Sức khỏe của con người không chỉ phụ thuộc vào yếu tố sinh học mà còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố tâm lý, xã hội khác.cho dùng thuốc.
Quan điểm của y học lâm sàng: cá nhân bị bệnh/ốm là do bị nhiễmkhuẩn hoặc nhiễm vi rút.
Quan điểm của xã hội học sức khỏe: chỉ bị nhiễm vi khuẩn hoặc vi rút thì chưa đủ điều kiện phát triển thành bệnh (được khẳng định qua nghiên cứu về bệnh lao phổi).
Quan điểm chủ chốt của các nhà xã hội học sức khỏe là chính các đặc điểm xã hội của cá nhân mới là yếu tố quyết định sức khỏe của họ.
Khi gặp một người bệnh, các nhà xã hội học quan tâm đến nhóm xã hội mà cá nhân đó là thành viên và các điều kiện trong nhóm.
Đối với các nhà xã hội học, yếu tố làm cho cá nhân bị bệnh hay bị tử vong không chỉ được giải thích đơn giản bằng đặc điểm về tính cách hay về sinh học.
Chương 2: Kết quả nghiên cứu
1. Tổng quan địa bàn nghiên cứu
1.1. Vài nét chung về địa bàn nghiên cứu
Huyện Quốc Oai thuộc đại phận tỉnh Hà Tây cũ (nay là Hà Nội) nằm cách trung tâm thành phố Hà Nôi khoảng 20km về phía Tây.
Huyện bao gồm có 1 thị trấn và 20 xã: Phú Mãn, Phú Cát, Hoà Thạch, Tuyết Nghĩa, Đông Yên, Liệp Tuyết, Ngọc Liệp, Ngọc Mỹ, Cấn Hữu, Nghĩa Hương, Thạch Thán, Đồng Quang, Sài Sơn, Yên Sơn, Phượng Cách, Tân Phú, Đại Thành, Tân Hoà, Cộng Hoà, Đông Xuân. Với tổng diện tích 147km2, dân số là 163.355 người, mật độ dân số là 1111 người /km2(1/4/2009).
Với vị trí gần thủ đô, cộng với một nguồn tài nguyên đá vôi tương đối lớn, Huyện Quốc Oai đã là nơi được chọn xây dựng nhà máy xi măng thứ 2 của nước ta (11/1958, chỉ sau nhà máy xi măng Hải Phòng). Nhà máy được đạt trên địa bàn thôn Khánh Tân, xã Sài Sơn thuộc huyện Quốc Oai.
Xã sài Sơn là một trong những xã có diện tích và dân số lớn nhất trong huyện, Xã bao gồm 06 thôn: Đa Phúc, Thụy Khuê, Khánh Tân, Sài Khê, Phúc Đức và Năm Trại.
Tuy là một xã có nguồn tài nguyên đá vôi dồi dàovới hàng chục núi đá vôi, nhưng đất đai ở vùng vẫn tương đối bằng phẳng với diện tích đất nông nghiệp khá lớn. Một thế mạnh nữa là về du lịch, tại xã có nhiều ngôi chùa cổ, đặc biệt là Chùa Thầy, thắng cảnh nổi tiếng đã được công nhận là Thắng cảnh quốc gia.
Với nguồn lực trên, cơ cấu kinh tế của xã chủ yếu dựa vào nông nghiệp và dịch vụ du lịch. Công nghiệp của xã gần như không phát triển, ngoại trừ khu tổ hợp nhà máy sản xuất xi măng Sài Sơn được xây dựng từ năm 1958.
Thôn Khánh Tân (là nơi được chọn để xây dựng nhà máy xi măng năm 1958) bao gồm hơn 300 hộ với trên 1000 nhân khẩu. Sự phân bố dân cư trong thôn theo hướng mô hình tập trung, tức là toàn bộ dân cư cùng tập trung tại một vùng. Đa phần người dân trong thôn gắn bó với nghề trồng lúa và hoa màu. Một bộ phận nhỏ được nhận vào làm công nhân trong nhà máy xi măng.
Thôn Sài Khê, là thôn sát với thôn Khánh Tân, với dân số khoảng 1200 người. Tương tự với thôn Khánh Tân, do Sài Khê chỉ cách nhà máy xi măng khoảng 700m nên cũng là thôn phải chịu nhiều ảnh hưởng từ nhà máy xi măng (chủ yếu là khói bụi và tiếng ồn). Tuy nhiên, người dân thôn này không nhận được sự ưu tiên trong việc xin vào làm công nhân trong nhà máy xi măng, nên phần lớn người dân gắn bó với nghề làm ruộng, 1 bộ phận làm dịch vụ và đi làm xa nhà.
Tóm lại, đây là hai thôn phải chịu những tác động nhiều nhất từ ảnh hưởng của nhà máy xi măng Sài Sơn. Ngoài ra còng một số thôn cũng chịu nhiều ảnh hưởng khác là: thôn Thụy Khuê, thôn Đa Phúc và năm Trại, nhưng mức độ nhẹ hơn nhiều.
Nhà máy xi măng Sài Sơn
Công ty Cổ phần Xi măng Sài Sơn tiền thân là Xí nghiệp Xi măng Sài Sơn được thành lập từ ngày 28/11/1958 dưới sự quản lý của Tổng cục Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là cơ sở sản xuất xi măng lò đứng đầu tiên của Việt Nam và là cơ sở sản xuất xi măng thứ hai của Việt Nam sau xi măng Hải Phòng.
Năm 1964, Xí nghiệp Xi măng Sài Sơn được chuyển sang khối kinh tế được sự quản lý của Ty Kiến trúc tỉnh.
Tháng 12/1996, Xí nghiệp Xi măng Sài Sơn được đổi tên thành Công ty Xi măng Sài Sơn.
Tháng 11/1998, Công ty Xi măng Sài Sơn đã đầu tư xong dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng cơ giới hoá của Trung Quốc với công suất thiết kế 60.000 tấn xi măng/năm tại xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Tây cũ. Ngay từ năm đầu tiên vận hành dây chuyền sản xuất mới, Công ty đã đạt được 70.000 tấn/năm vượt công suất thiết kế. Cùng với hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001, chất lượng sản phẩm được ổn định và nâng cao, có uy tín trên thị trường và được người sử dụng tin dùng, nhu cầu đối với sản phẩm của Công ty ngày một tăng.
Từ năm 2002 - 2003, Công ty đầu tư thêm một dây chuyền sản xuất đồng bộ, nâng tổng công suất thiết kế của hai dây chuyền lên 120.000 tấn/năm. Tổng vốn đầu tư của dây chuyền thứ hai bằng 1/3 vốn đầu tư dây chuyền thứ nhất. Do đó, chi phí quản lý doanh nghiệp, quản lý phân xưởng và chi phí nhân công/tấn sản phẩm giảm so với dây chuyền thứ nhất, ví dụ tiêu hao điện/tấn sản phẩm giảm 25% dẫn đến giá thành sản phẩm giảm. Năm 2005, Công ty sản xuất và tiêu thụ 205.000 tấn.
Tháng 4/2006, Công ty đã thuê trạm nghiền công suất 150.000 tấn/năm ở Xuân Mai – Chương Mỹ – Hà Tây và thành lập Chi nhánh Chương Mỹ. Chi nhánh sản xuất xi măng hiệu Xi măng Sài Sơn PCB 30 và Xi măng Nam Sơn PCB 40. Năm 2006, Công ty sản xuất và tiêu thụ 257.000 tấn xi măng. Năm 2007, Công ty dự kiến sản xuất và tiêu thụ trên 300.000 tấn xi măng các loại cung cấp chủ yếu cho thị trường Hà Tây, Hà Nội và các vùng lân cận.
Để nâng cao năng lực sản xuẩt, Công ty đã quyết định đầu tư xây dựng nhà máy xi măng Nam Sơn công suất 1.000 tấn clinker/ngày tại xã Nam Phương Tiến – Huyện Chương Mỹ – Tỉnh Hà Tây. Dự án đã được UBND tỉnh Hà Tây cấp giấy chứng nhận đầu tư số 02121000002 ngày 15/11/2006. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây đã giao 163.156 m2 đất tại xã Nam Phương Tiến cho công ty để thực hiện dự án theo quyết định số 11/QĐ-UBND ngày 3/1/2007. Hiện nay dự án đã hoàn thành khâu san lấp mặt bằng, xây tường bao và đang tiến hành tổ chức đấu thầu EPC xây dựng nhà máy.
Ngày 13/11/2003, UBND tỉnh Hà tây có Quyết định số 2368 QĐ/UB về việc phê duyệt phương án cổ phần hoá và chuyển Công ty Xi măng Sài Sơn thành Công ty CP Xi măng Sài Sơn. Công ty cổ phần Xi măng Sài Sơn đăng ký kinh doanh lần đầu ngày 25/12/2003 và đăng ký thay đổi lần thứ nhất ngày 08/03/2007.
2.. Kết quả nghiên cứu
2. 1 Thực trạng ảnh hưởng của nhà máy xi măng Sài Sơn tới môi trường
Do sử dụng công nghệ lò đứng trong sản xuất xi măng (nay đã lạc hậu) nên trong quá trình hoạt động không bảo đảm về vệ sinh môi trường. Đặc biệt, từ những năm 1996 - 1997 cho tới nay, tình trạng ô nhiễm khói bụi do Nhà máy xi măng Sài Sơn gây ra ngày càng nặng. Vào những ngày gặp hướng gió chính thổi qua, làn khói, bụi màu trắng từ các ống khói của Công ty CP Xi măng Sài Sơn tràn xuống bao phủ cả khu dân cư tạo nên màn sương mù dày đặc. Cây cối, nhà cửa ở đây đều được phủ một lớp bụi trắng ám lại lâu ngày. Kể cả khi các hộ gia đình đã che chắn cửa kỹ càng thì những hạt bụi mịn và nhỏ vẫn len lỏi vào từng nhà, phủ trắng nền nhà và tất cả đồ đạc kèm theo mùi khói hăng hắc, khét lẹt. Hàng chục năm qua, các hộ dân thuộc các thôn Khánh Tân, Thụy Khuê, Đa Phúc, Năm Trại của xã Sài Sơn hiếm có một ngày yên ổn vì phải sống chung với bụi khói phả ra từ Nhà máy xi măng Sài Sơn, kéo theo nhiều nỗi lo về sức khỏe và môi trường. Trong đó, chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ hoạt động của nhà máy xi măng là 2 thôn Khánh Tân và Sài Khê. Người dân ở 2 thôn này quanh năm ngày tháng phải sống chung với khói, bụi nên bị ảnh hưởng sức khỏe rất nhiều do bị các bệnh về mắt, đường hô hấp, tiêu hóa. Dù có bịt hết cửa lại cho đỡ bụi thì vẫn không chắn được tiếng ồn rất khó chịu do nhà máy gây ra.
Được biết, những năm qua, lãnh đạo công ty đã có nhiều biện pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng đến các hộ dân xung quanh, như xây dựng ống khói cao lên, cải tạo hệ thống xử lý nước thải nhưng chưa hiệu quả và triệt để. Thực tế cho thấy, ngoài hàng trăm hộ dân ở thôn Khánh Tân đang trực tiếp bị khói, bụi xi măng "bủa vây", hàng trăm hộ dân khác ở các thôn Đa Phúc, Năm Trại… của xã cũng bị ảnh hưởng nặng nề.
Theo kết quả thu được từ 100 mẫu tại 2 thôn Khánh Tân và Sài Khê về hoạt động của nhà máy xi măng, ta thu được kết quả sau:
Bảng 1: Đánh giá của người dân về các hoạt động của nhà máy xi măng ảnh hưởng tới môi trường (100 mẫu)
Hoạt động
Số người lựa chọn
Tỉ lệ (%)
Xả khói bụi
90
90
Gây tiếng ồn
83
83
Xả nước thải
63
63
Hoạt động khác
03
03
Bảng 2: Tần suất hoạt động của nhà máy xi măng .
Hoạt động
Số người lựa chọn
Tỉ lệ (%)
Cả ngày đêm
89
89
Chỉ làm ca ngày
3
3
½ ngày
8
8
Khác
00
00
Tổng
100
100
Dựa trên bảng số liệu có thể thấy mức độ ảnh hưởng đến môi trường từ các hoạt động từ nhà máy xi măng là rất lớn. Trong tổng số 100 người được hỏi, có tới 100%, tức tất cả họ đều cho rằng, hoạt động của nhà máy xi măng có những ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của họ. Xét trên từng biểu hiện cụ thể, mỗi biểu hiện có mức ảnh hưởng nhiều hay ít khác nhau, cụ thể:
Xả ra khói bụi là biểu hiện được nhiều người lựa chọn nhất (100%), với tỉ lệ tuyệt đối như vậy, nhà máy lại nằm trong vùng dân cư đông đúc, hẳn chúng ta đã thấy được mức độ ảnh hưởng rất lớn từ hoạt động của nhà máy xi măng đến môi trường. Cùng với khói bụi, tiếng ồn (83% người lựa chọn) và nước thải (63%) là các yếu tố có ảnh hưởng to lớn đến môi trường sống của người dân.
Mặt khác, cùng với những yếu tố trên, thì tần suất hoạt động của nhà máy đã góp phần làm mức độ ảnh hưởng đến nhà máy trở nên nặng nề hơn. Trong 100 người được hỏi, có đến 89% người được chọn cho rằng: “nhà máy hoạt động suốt ngày đêm”.
Khi được hỏi về thời gian hoạt động của nhà máy xi măng, một người dân trả lời rằng: “Nhà tôi ở gần, con lại là công nhân nhà máy nên tôi khẳng định với anh rằng, nhà máy làm việc cả ngày lẫn đêm. Con trai cả tôi làm ca đêm, còn thằng út làm ca ngày, nếu chia ca như vậy thì chắc chắn là hoạt động cả ngày đêm rồi…” (Nguyễn Văn Tám 60 tuổi – thôn Khánh Tân)
Với công suất hoạt động như vậy, cộng với tuổi đời trên 50 năm hoạt động và sán xuất tại đây, có thể thấy được những ảnh hưởng của nhà máy xi măng này đến đời sống của người dân lớn đến như thế nào.
Từ kết quả thu thập được khi tìm hiểu về các biểu hiện của sự ảnh hưởng do nhà máy xi măng gây ra, có được bảng sau:
Bảng 3: Đánh giá của người dân về những ảnh hưởng đến môi trường do hoạt động của nhà máy xi măng
Ảnh hưởng
Số người lựa chọn
Tỉ lệ (%)
Gây ô nhiễm môi trường
94
94
Làm xấu cảnh quan
68
68
Khó khăn trong giao thông, đi lại
46
46
Tác động xấu tới sức khỏe
73
73
Khác
13
13
Từ kết quả trên cho thấy, môi trường sống của người dân trong vùng phải chịu những ảnh hưởng tầm trọng từ hoạt động của nhà máy xi măng. 94% người được hỏi cho rằng: hoạt động của nhà máy xi măng khiến môi trường bị ô nhiễm, 73% cho rằng hoạt động của nhà máy xi măng gây nên hoặc làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tật của họ. Tiếp theo là những ảnh hưởng đến cảnh quan (68%), tiếp theo là “gây khó khăn trong đi lại” 46%.
Các số liệu trên đã cho thấy những ảnh hưởng của nhà máy xi măng là như thế nào, trong đó, “khói bụi” chính là nguyên nhân gây ra nhiều hậu quả nhất. Đây cũng là yếu tố có phạm vi ảnh hưởng rộng, do dễ phát tán và bị các yếu tố tự nhiên tác động đến như gió, mưa. Hơn nữa, khói bụi cũng là yếu tố góp mặt ở mọi biểu hiện ảnh hưởng đến môi trường. Trong khi đó, mức độ ảnh hưởng trong giao thông, đi lại mặc dù được khá nhiều người lựa chọn, nhưng mức ảnh hưởng lại chỉ đứng thứ ba. Điều này gắn với vị trí nhà dân và tầm ảnh hưởng của nhà máy, khi người dân ở gần nhà máy, mức độ ảnh hưởng nặng nề hơn, nên họ thường phải đối mặt với nhiều hình thức ảnh hưởng khác nhau.
Ảnh hưởng của hoạt việc xả thải của nhà máy xi măng đến môi trường sống.:
Với 100% người lựa chon cho rằng, “hoạt động của nhà máy xi măng ảnh hưởng đến môi trường sống của họ” đã mô tả hình ảnh môi trường sống của một vùng quê chịu nhiều ảnh hưởng từ hoạt động công nghiệp nặng.
Việc đánh giá những tác động đến môi trường sống muốn được làm rõ cần được phân tích sâu vào các khía cạnh của vấn đề. Theo định nghĩa, môi trường sống bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Để phân tích cụ thể được vấn đề đặt ra, cần phải làm rõ được mức độ ảnh hưởng của nhà máy xi măng đến từng thành phần của môi trường.
2.2.1: Ô nhiễm môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Trên phương diện những tác động có thể đến từ hoạt động của nhà máy xi măng, kết quả nghiên cứu đã thống kê được các dạng ô nhiễm môi trường tự nhiên do ảnh hưởng của nhà máy xi măng như sau:
Bảng 4: Đánh giá của người dân về thực trạng ô nhiễm môi trường tự nhiên ở địa phương
Tình trạng
Số người lựa chọn
Tỉ lệ (%)
Ô nhiễm nguồn nước
79
79
Ô nhiễm không khí
90
90
Ô nhiễm âm thanh
74
74
Ô nhiễm đất
31
31
Từ kết quả trên cho thấy, không khí là yếu tố chịu nhiều ảnh hưởng nhất từ hoạt động của nhà máy xi măng với 90% số người được hỏi cho rằng: môi trường của họ đang bị ô nhiễm. Các ảnh hưởng tiếp theo lần lượt là ô nhiễm môi trường nước (70%), ô nhiễm âm thanh do tiếng ồn (74%) và ô nhiễm đất là 31%. Sở dĩ ô nhiễm đất ít chịu ảnh hưởng hơn các yếu tố khác là do đất đai thường chỉ bị ô nhiễm ở khu vực sát với nhà máy, do chất thải rắn, nước và khí thải có nồng độ ô nhiễm cao hơn.
Đánh giá vấn đề ô nhiễm môi trường, khi quan sát, có thễ dễ dàng nhận ra các biểu hiện của vấn đề này bằng mắt thường. Chỉ cần tìm một vị trí quan sát tốt, ai cũng có thể nhìn thấy những quầng khói, những mái nhà, cây cối đầy bụi, hay nguồn nước đặc quánh và mùi clinker nồng nặc.
Để khách quan hơn, dựa trên kết quả thu được từ quá trình nghiên cứu, có biểu đồ sau:
Biểu đồ: biểu đồ thể hiện mức độ ảnh hưởng của nhà máy xi măng đến môi trường qua ý kiến người dân.
Thông qua biểu đồ, có thể thấy rõ, nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm môi trường khói bụi (94%) tiếp theo là nước thải (56%). Tiếng ồn 51%, mùi hôi thối 43 % và cuối cùng là các nguyên nhân khác, bao gồm sỉ than, vật liệu rơi… chiếm 3%.
Để làm rõ và phân tích cụ thể được vấn đề đặt ra, cần phải làm rõ được mức độ ảnh hưởng của nhà máy xi măng đến từng thành phần của ô nhiễm môi trường.
Ô nhiếm môi trường không khí:
Với sự ảnh hưởng rất lớn từ khói bụi, cùng với các yếu tố khác, môi trường không khí trong vùng được người đánh giá là rất trầm trọng. Từ bảng 4 ta có thể thấy 90% là tỉ lệ người lựa chọn cho rằng, không khí trong vùng họ sinh sống đang bị ô nhiễm trầm trọng.
Một thực tế là, nếu chỉ cần đứng ở một vị trí không bị khuất tầm nhìn, thì dù đứng cách khu vực này cả chục km, vẫn có thể nhìn thấy những cột khói, cùng một khoảng trắng bởi khói xi măng bao trùm. Nếu đến sát với địa bàn, có thể thấy được một loại mùi hắc hắc trộn lẫn với mùi Clinker tuy không nặng mùi nhưng gây ra cảm giác rất khó chịu.
Ngoài hiện tượng có thể dễ dàng quan sát đó, còn có những hiện tượng khác, nhưng phải qua những khoảng thời gian nhất định mới có thể nhận ra được. Một trong những hiện tượng đó chính là sự ngột ngạt khi trời oi nóng, hay hiện tượng khói không tan do trời lặng gió, khi không khí có độ ảm cao.
Khi được hỏi về mức độ ảnh hưởng do ô nhiễm không khí, bác Hoa chia sẻ: Bác kể:
“Tính đến nay nhà tôi đã có... ba đời sống chung với cái nhà máy bụi này. Quanh năm suốt tháng, hầu như ngày nào khói cũng toả mù trời. Nhất là mùa đông, nhiều lúc giữa trưa mà có cảm tưởng như buổi sáng sớm bởi khói phủ trắng như sương. Nhà tôi đóng cửa suốt ngày. Bọn trẻ không đứa nào dám ở nhà vào ban ngày. Đêm đến thì ngột ngạt không sao chịu nổi. Khổ lắm anh à. (nữ, 63 tuổi, thôn Khánh Tân))
Mặt khác, khi được hỏi về mức độ ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đến môi trường sống, thu được kết quả sau:
Biểu đồ thể hiện cơ cấu đánh giá của người dân về mức độ ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đến đời sống.
Qua biểu đồ trên cho thấy, có đến 100% người dân cho rằng, ô nhiễm không khí có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ nhưng với những mức độ khác nhau. Trong đó, tỉ lệ lựa chọn câu trả lời là ảnh hưởng rất nhiều lớn nhất với 63%, tiếp theo là ảnh hưởng nhiều với 31 %. 6% là tỉ lệ cho rằng ô nhiễm không khí chỉ ảnh hưởng ít, nhóm này chủ yếu tập trung vào những gia đình nằm xa nhà máy xi măng nhất.
Một người dân được hỏi về tình trạng ô nhiễm không khí ở địa phương trả lời: Hàng ngày mỗi khi ra khỏi nhà là mọi người phải dùng đến khẩu trang. Khi nhà máy hoạt động, khói bụi tràn xuống, không khí nơi đây mù mịt và âm u hẳn đi. Có khi hai người đứng cách xa 12 - 15m không thể nhìn thấy nhau". (Nữ, 36 tuổi, thôn Khánh Tân)
Hay: “Mới tháng trước tôi vừa quét dọn trên này. Chỗ bụi này là mới hình thành. Cứ 3 tuần đến 1 tháng là tôi phải tôi phải quét dọn 1 lần". (Nam. 58 tuổi, người làng Khánh Tân)
Những câu trả lời của người dân một lần nữa cho thấy rõ hơn tình trạng ô nhiễm môi trường tại địa phương.Điều đó đã góp phần minh chứng cho sự ô nhiễm không khí nơi đây.
Tóm lại, với việc xả khí thải, nước thải cùng với khói bụi từ các phương tiện cơ giới làm việc trong nhà máy đã khiến bầu không khí nơi đây trở nên ô nhiễm trầm trọng.
Ô nhiễm môi trường nước
Nhiều đời nay, người dân tại xã Sài Sơn đã quen sử dụng nước mưa cho sinh hoạt, ăn uống. Nguồn nước ngọt đồng thời cũng là yếu tố quan trọng trong công tác sản xuất, do đa số người dân trong vùng gắn bó với nông nghiệp. Tuy nhiên, tác động của nhà máy xi măng đã khiến cho nguồn nước nơi đây bị ô nhiễm, đặc biệt là đối với các khu dân cư nằm sát với nhà máy xi măng.
Mỗi khi mưa, phải đợi ít nhất là nửa giờ đồng hồ, chúng tôi mới dám bắc ống hứng nước mưa vào bể để sử dụng. Đồng thời tôi còn phải làm hệ thống bể lọc nữa. Chứ cứ để vậy mà ăn thì sợ bệnh lắm. Làng này từ trước đến nay ối người ung thư đấy…”(nam 55tuổi, thôn Khánh Tân) Một người dân khi được hỏi về tình hình ô nhiễm nguồn nước ở địa phương trả lời.
Hay: Cháu nhìn cái ao trước mắt mà xem, xung quanh nhà máy còn mấy cái nữa đấy, từng đám cặn bẩn vón cục, nổi lều phều trên mặt nước, người dân cũng không còn dám thò chân, tay xuống rửa. Đấy là chưa kể đến mùa hè nóng bức, mùi hôi, mùi Clinker nồng nặc, khó chịu lắm cháu à. (nữ 54 tuổi, thôn Khánh Tân)
Việc tồn tại một nhà máy xi măng giữa khu dân cư mà không đảm bảo điều kiện vệ sinh môi trường như hiện nay quả là vấn đề cấp bách. Nguồn nước luôn là yếu tố có vai trò quan trọng trong đời sống của người dân, do vậy, khi nguồn nước bị ô nhiễm, cuộc sống của người dân chắc chắn sẽ phải chịu những ảnh hưởng tiêu cực.
Dựa trên những đánh giá của người dân, có biểu đồ sau:
Biểu đồ thể hiện cơ cấu đánh giá của người dân về mức độ ảnh hưởng của ô nhiễm nguồn nước đến đời sống.
Từ biểu đồ trên cho thấy, mức độ ảnh hưởng của ô nhiễm nguồn nước đến môi trường sống của người dân là rất lớn. Tổng cộng có đến 84% số người trả lời nhận định rằng, nguồn nước bị ô nhiễm ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. 16% còn lại cho rằng nguồn nước của họ không bị ảnh hưởng do nhà họ cách khá xa nhà máy.
Trong số % chịu ảnh hưởng trên, cũng có những mức độ khác nhau. Đáng báo động là phương án :ảnh hưởng rất nhiều và nhiều” lại là những đánh giá được chọn nhiều nhất (39% và 27%). Điều đó cho thấy, một bộ phận lớn người dân đang phải đối mặt với những ảnh hưởng nặng nề do nguồn nước bị ô nhiễm.
Từ những kết quả trên cho thấy, nguồn nước bị ô nhiễm do hoạt động của nhà máy xi măng đang là một vấn đề cấp bách, gây ra những ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của người dân.
Ô nhiễm tiếng ồn:
Với đặc thù là vùng nằm sát với nhà máy xi măng (điểm gần nhất chỉ cách 30m, điểm xa nhất là 800m, nên những ảnh hưởng do tiếng ồn từ máy móc nhà máy và các phương tiện cơ giới làm việc cho nhà máy đến đời sống người dân hai thôn Khánh Tân và Sài Khê đang là một vấn đề gây bức xúc.
Thực trạng đó được thể hiện qua chỉ số số người đồng ý (trong bảng số 3) về tình trạng ô nhiễm âm thanh ở địa phương lên tới 74%.
Trong đó, mức độ ảnh hưởng qua đánh giá của người dân là một minh chứng cho tình trạng này:
Từ biểu đồ , có thể thấy, tổng cộng có đến 72% người dân được hỏi cho rằng, tiếng ồn đang là vấn đề gây nên những ảnh hưởng tiêu cực cho cuộc sống của họ. Và cũng giống như các ảnh hưởng trước, mức độ ảnh hưởng của tiếng ồn chủ yều được chọn mức rất nhiều (35%) và nhiều (22%).
Tuy nhiên, tỉ lệ người cho rằng tình trạng này không ảnh hưởng đến cuộc sống của họ cao hơn rất nhiều (28%) so với các dạng ô nhiễm môi trường nước và không khí. Giải thích cho nguyên nhân này, việc sống ở những vị trí xa hơn chính là câu trả lời thích đáng nhất. Khi mà tiếng ồn thường chỉ tập trung ở khu vực gần nhà máy.
Ngoài ra, theo những thông tin định tính thu được trong phỏng vấn sâu, chúng ta có thể thấy được sự ảnh hưởng của tiếng ồn do hoạt động khai thác than này gây ra: “Ồn ào chứ. Đêm nào cũng thế, nào thì tiếng xe tải chạy, tiếng máy chạy ầm ầm, khiến tôi thường xuyên bị đau đầu và khó ngủ lắm… (Nữ, 47 tuổi – thôn Khánh Tân)
Hay: Nhà tôi chỉ cách khu sản xuất của nhà máy đúng một bức tường. Đứng trong nhà lúc nào cũng có cảm giác người rung lên bần bật do sức rung của máy móc chạy ầm ầm bên cạnh…” Ông Đáng cho biết: “vào mùa hè, nhà tôi không khác nào một cái lò bát quái. Không thể ngồi trong nhà lấy được một phút. Đến bữa cơm cũng phải nuốt vội vì ồn ào và ngột ngạt. “Suốt mấy chục năm qua, chưa có ngày nào chúng tôi được sống một ngày bình yên. Cả năm may chăng được mấy ngày tết là yên tĩnh. Nhưng chỉ riêng công việc quét dọn nhà cửa, thau rửa bể nước, lau chùi đồ đạc khỏi bụi cũng đủ ngốn hết mấy ngày tết rồi”. (Nam, 76 tuổi, thôn Khánh Tân)
Từ kết quả thu được và những ý kiến của người dân đã cho thấy tình trạng ô nhiễm môi trường do tiếng ồn ở đây là một vấn đề đáng báo động. Ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của người dân địa phương.
Ô nhiễm đất đai
Có thể nói, đây là vấn đề ít được để ý nhất do ảnh hưởng của ô nhiễm không khí và nguồn nước quá lớn, khiến ván đề này dường như bị bỏ quên.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào tỉ lệ 31% số người được hỏi cho rằng: Ô nhiễm đất đai do ảnh hưởng từ nhà máy xi măng , và ảnh hưởng này tác động đến cuộc sống của họ. Điều này cho thấy, ô nhiễm đất là một trong những hậu quả do ảnh hưởng của nhà máy xi măng.
“Đất vườn nhà tôi bị phủ một lớp xi măng mỏng, tuy cây cối vẫn sống, nhưng khả năng phát triển rất kém, lại thường xuyên bị sâu hại nữa…” (Nữ, 26 tuổi, thôn Khánh Tân)
Hay: Từ lâu tôi đã không thể trồng rau quả nữa, do đất đai bị nhiễm hóa chất, trồng rau lên được, nhưng người ta đồn ràng, ăn rau trồng ở đây sẽ bị ung thư nên không ai trồng cả” (Nữ, 42 tuổi, thôn Khánh Tân)
Cùng với sự lo lắng của người dân, thống kê kết quả thu thập được về mức độ ảnh hưởng do ô nhiễm đất cho ra kết quả sau:
Biểu đồ thể hiện cơ cấu đánh giá của người dân về mức độ ảnh hưởng của ô nhiễm đất đến đời sống.
Nhìn vào biểu đồ có thể dễ dàng nhận ra rằng, vấn đề ô nhiễm đất là thấp hơn cả so với các loại ô nhiễm khác. Tuy nhiên, với 13% số người trả lời cho rằng đây là vấn đề gây ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của họ là một thực trạng cần phải quan tâm.
2.2.2 Ảnh hưởng đến môi trường xã hội
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác.
Nói cách khác môi trường của người dân tại đây bao gồm các, điều kiện vật chất,hoàn cảnh, các đối tượng khác hay các điều kiện nào đó mà chúng bao quanh khách thể này hay các hoạt động của khách thể diễn ra trong chúng.
Môi trường xã hội bị ô nhiễm khi các yếu tố, các điều kiện trên bị những ảnh hưởng khiến chúng thay đổi bản chất theo xu hướng tiêu cực.
Là một vùng đông dân cư, lại nằm sát với nhà máy xi măng, nên những biểu hiện của sự ô nhiễm môi trường xã hội là khá rõ ràng.
Dựa vào kết quả thu thập được trong quá trình nghiên cứu, ra kết quả sau:
Bảng 5: Đánh giá của người dân về những ảnh hưởng đến môi trường do hoạt động của nhà máy xi măng
Ảnh hưởng
Số người lựa chọn
Tỉ lệ (%)
Gây ô nhiễm môi trường tự nhiên
94
94
Làm xấu cảnh quan
68
68
Khó khăn trong giao thông, đi lại
46
46
Tác động xấu tới sức khỏe
73
73
Khác
13
13
Dựa vào kết quả thu được, có thể thấy rằng, dù được tách biệt ra khỏi “ô nhiễm môi trường” nhưng ba vấn đề còn lại chính là các biểu hiện của hiện tượng “môi trường xã hội bị ô nhiễm”
Để làm rõ ảnh hưởng này, cách hiệu quả nhất là đi sâu vào những vấn đề cụ thể.
Tác động đến cảnh quan:
Là một vùng có tiềm năng du lịch khá lớn, với các danh thắng nổi tiếng và có lịch sử lâu đời, vì vậy, du lịch đang ngày càng phát triển tại xã Sài Sơn. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của khói bụi từ nhà máy xi măng, khiến nhiều nơi cảnh quan bị ảnh hưởng:
“Khói bụi làm nhiều cây cối chết, những cây lớn thì đầy bụi trắng, nhìn thật mất thiện cảm. Mình sống ở đây còn thấy như vậy nữa là khách…” (nữ, 30 tuổi, làm nghề hướng dẫn du lịch, thôn Sài Khê)’
Mặt khác, từ kết quả thu thập được cũng cho thấy : (lấy từ bảng 3)
Có 46% số người được chọn cho rằng: hoạt động của nhà máy xi măng gây ảnh hưởng xấu tới cảnh quan.
“Cháu nhìn mà xem, bụi dính đầy tường nhà và mái ngói, cây cối thì đầy bụi xi măng, đường lớn ngoài kia thì sụt lún, đầy đất đá….” (nam, 60 tuổi, thôn Khánh Tân).
Để làm rõ hơn mức độ ảnh hưởng của vấn đề này, ta có biểu đồ sau:
Biểu đồ thể hiện cơ cấu đánh giá của người dân về mức độ ảnh hưởng tới cảnh quan, nhà cửa do hoạt động của nhà máy xi măng.
Nhìn biểu đồ, có thể thấy rõ sự ảnh hưởng đến cảnh quan do tác động của nhà máy xi măng lớn như thế nào. Tổng cộng có tới 80% số người dược hỏi cho rằng, điều này là một thực trạng có nguyên nhân từ hoạt động của nhà máy xi măng.
Trong cơ cấu này, 60% là tỉ lệ cho rằng, hiện tượng này gây ảnh hưởng nhiều tới cảnh quan. Sở dĩ tỉ lệ này cao, một phần là do những hiện trạng này thường được biểu hiện ra ngoài, nên nhiều người dễ dàng nhận ra bằng cách quan sát.
Ảnh hưởng đến giao thông, đi lại
Một thực trạng nữa xảy ra do những ảnh hưởng của khói bụi xi măng, đó là việc giao thông đi lại gặp những khó khăn
“Những hôm không khí ẩm, lặng gió, khói xi măng thường xuống rất thấp và bao trùm lên một vùng rộng lớn. Anh đi xe mà mắt tức lắm, tầm nhìn lại rất hạn chế, gây nhiều khó khăn… ”(nam, 25 tuổi, thôn Sài Khê)
Tuy nhiên, ảnh hưởng này thường phụ thuộc vào tình hình thời tiết, nên khả năng diễn ra thường xuyên rất thấp.
Tóm lại, qua quá trình tìm hiểu từng khía cạnh nhỏ của môi trường sống, đã cho thấy ảnh hưởng của nhà máy xi măng đến môi trường nơi đây rất lớn. Những ảnh hưởng trên cùng với một quá trình tích lũy dài (trên 50 năm) đã khiến môi trường sống nơi đây đang bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Tác động đến sức khỏe của người dân
Sức khỏe bao giờ cũng là một tài sản quý giá của con người, tuy nhiên, ở một số vùng dân cư, người dân lại phải chịu những tác động xấu đến sức khỏe của mình, và mặc dù biết là như vậy, song ở nhiều địa phương, những điều kiện môi trường không đảm bảo đang là một nguyên nhân khiến sức khỏe con người giảm sút.
Dựa trên những kết quả thu được về tác động của nhà máy xi măng đến môi trường sống, có biểu đồ sau:
Để tìm hiểu những tác động đến sức khỏe do hoạt động của nhà máy xi măng, “Sức khỏe” được chia ra thành 2 phần như sau
Ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất
Qua biểu đồ trên, có thể thấy được ảnh hưởng chủ yếu do tác động của nhà máy xi măng đến sức khỏe chính là bệnh tật với tổng cộng có đến 75% số người trả lời cho rằng, bệnh tật là vấn đề gây ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
Mặt khác, theo số liệu của trạm y tế xã Sài Sơn (2010) cho thấy, tỉ lệ người đến khám và điều trị lên quan đến các bệnh về đường hô hấp, tiêu hóa luôn cao hơn so với các thôn khác khoảng 1,5 lần. (ví dụ: số bệnh nhân đến khám do viêm mũi ở thôn Khánh Tân năm 2010 là 45 trường hợp, cao gấp trên 2 lần so với tỉ lệ bệnh nhân viêm mũi đến khám ở thôn Đa Phúc 21 trường hợp- thống kê trạm xá xã Sài Sơn 2010.)
Từ kết quả thu thập được về mức độ những biểu hiện ảnh hưởng đến sức khỏe người dân, lập ra biểu đồ sau:
Biểu đồ cơ cấu thể hiện mức độ ảnh hưởng tới sức khỏe.
Từ biểu đồ trên cho thấy mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe với người dân hai thôn khá lớn. Trong đó, bệnh tật là vấn đề gây ảnh hưởng lớn nhất với tổng cộng 75% người trả lời lựa chọn.
Các ảnh hưởng tiếp theo là: Gây khó thở do khói bụi 64%, gây mất ngủ do tiếng ồn 51%, và gây khó chịu do tiếng ồn 42%.
Từ việc sức khỏe thể chất bị ảnh hưởng, kéo theo những tác động đến sức khỏe tinh thần. Qua quá trình tiếp cận với người dân, đã thu được những kết quả như sau:
Sức khỏe tinh thần
Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng không có bệnh hay thương tật. Chính vì vậy, để đánh giá sức khỏe tinh thần không thể dựa vào một mà phải dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau.
Từ những kết quả thu thập được ở trên cho thấy một thực trạng là, 100% người dân cho rằng mình đang sống trong một môi trường ô nhiễm, phải đối mặt với nhiều nguy cơ từ các yếu tố độc hại và phải chịu nhiều bện tật hơn so với vùng khác. Điều đó khiến cho tâm lý của người dân luôn phải sống trong sự cam chịu, nhất là khi tình trạng đó cứ kéo dãi mãi.
Trao đổi về vấn đề này, một người dân cho biết: “Từ khi có cái nhà máy xi măng này đêm nào tôi cũng phải thức giấc vì mùi khét, không khí thì ngột ngạt khó thở không tài nào mà ngủ được.
Hay: Ngày nào cũng phải hứng trực tiếp với bụi xi măng độc hại mà không bệnh mới là chuyện lạ. Tháng rồi tôi bị viêm họng cả tháng trời nói không ra tiếng, đi bác sĩ điều trị hết tiền triệu mà cũng không khỏi được. Bác sĩ bảo bệnh viêm mũi và viêm họng của tôi đã thành mãn tính, chỉ còn cách sống với nó chứ không chữa dứt được”.
Mặt khác, ngay trong vùng chịu ảnh hưởng nặng nề từ nhà máy xi măng, sự khác biệt về mức độ ảnh hưởng cũng được thể hiện khá rõ qua bảng sau:
Bảng 6: So sánh mức độ ảnh hưởng của nhà máy xi măng đến đời sống người dân các thôn
Biểu hiện
Mức độ (%)
Thôn Khánh Tân
Thôn Sài Khê
Gây ô nhiễm môi trường
53.2
46.8
Làm xấu cảnh quan
52.9
47.1
Khó khăn trong giao thông, đi lại
73.9
26.1
Tác động xấu tới sức khỏe
63.0
37.0
Cùng là hai thôn nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của nhà máy xi măng, nhưng thôn Khánh Tân lại là thôn ở gần hơn, do vậy, thôn này phải chịu những ảnh hưởng nặng nề hơn như: tác động đến cảnh quan, nhà cửa thôn Khánh Tân cao hơn gấp 2,8 lần so với thôn Sài Khê (73.9/26.1), chịu ảnh hưởng đến sức khỏe cao hơn gấp 1,7 lần. Ngoài ra, các ảnh hưởng khác thôn Khánh Tân cũng phải chịu tác động nặng nề hơn thôn Sài Khê. Điều đó làm nhiều người dân mong muốn có được một cuộc sống tố hơn, và chính điều đó đã cho thấy, họ đang phải chịu đựng .
Còn đối với thôn Sài Khê, không ai làm một phép so sánh như vậy nên họ luôn nghĩ rằng, họ cũng phải chịu những ảnh hưởng nặng nề từ nhà máy xi măng. Đồng thời, họ lai tỏ ra bức xúc hơn:
“… khổ lắm anh à, cả hai thôn đều bị ảnh hưởng do khói xi măng, vậy mà ben Khánh (Khánh Tân) lại được ưu tiên vào làm nhà máy, còn chúng tôi thì không. Bất công quá…. (nam, 49 tuổi, thôn Sài Khê).
Mặt khác, tình hình ô nhiễm cứ diễn ra như vậy mà không được cải thiện, khiến người dân rất bất bình.
“Bao năm nay rồi mà nói sao vẫn vậy, chúng tôi phản ánh nhiều lần mà tình hình chẳng thay đổi tí nào. Mấy năm trước nâng được chiều cao cái ống khói, nhưng lại tăng công suất thêm 30%, thành ra còn ô nhiễm kinh khủng hơn - …thời gian qua chúng nó (lãnh đạo nhà máy) rêu rao là sẽ chuyển nhà máy đi chỗ khác, vậy mà cả năm rồi vẫn cứ như thế…(Nam, 44 tuổi, thôn Khánh Tân)
Rồi đan xen cả những tâm trạng lo lắng: . “Mấy năm gần đây, mọi người nản lòng nên cũng chẳng ai kiện cáo gì nữa. Đành âm thầm chịu đựng. Tôi già rồi, cũng chả mấy chốc nữa được về với “các cụ”. Chỉ thương cho lũ trẻ. Bụng đứa nào cũng chứa đầy bụi đá. Còi cọc, dặt dẹo trông thương lắm. Ngày đi tránh bụi. Tối về lấy bông bịt lỗ tai mà học bài. Thử hỏi sống như thế thì làm sao mà chịu được” – (nữ, 65 tuổi, thôn Khánh Tân).
Tóm lại: Ô nhiễm môi trường và sức khỏe là những vấn đề chịu nhiều ảnh hưởng nhất do hoạt động của nhà máy xi măng.
Với trên 50 năm hoạt động, nhà máy xi măng Sài Sơn đã để lại những hậu quả to lớn đến môi trường. Trong đó, người dân hai thôn Khánh Tân và Sài Khê là nơi chịu những ảnh hưởng nặng nề nhất, các ảnh hưởng bao gồm: sự ra tăng bệnh tật, việc phải sống trong một môi trường ô nhiễm….
Kết luận
Qua kết quả thu được từ quá trình nghiên cứu, đã cho thấy rõ hình ảnh một vùng quê ô nhiễm bởi khói bụi xi măng. Đáng nói hơn là, sự ảnh hưởng đó đã diễn ra trên năm mươi năm nay mà vẫn chưa được cải thiện.
Từ thực trạng đó cho thấy, hoạt động khai thác và sản xuất xi măng không đơn thuần chỉ ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên, mà nghiêm trọng hơn, hoạt động này còn tác động đến môi trường xã hội và nguy hiểm nhất là ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân.
Mặt khác, qua kết quả nghiên cứu cũng đã cho thấy, công tác bảo vệ và giảm ô nhiễm môi trường tại vùng còn chưa tốt. Đây là một trong những nguyên nhân khiến dư luận người dân về vấn đề này càng ngày càng trở nên gay gắt.
Tóm lại, hoạt động của nhà máy xi măng Sài Sơn đã và đang là một nguyên nhân gây môi trường dân cư bị ô nhiễm, sức khỏe người dân giảm sút.
Tài liệu tham khảo
* Tài liệu sách, báo, tạp chí:
Lê Ngọc Hùng, Lịch sử và lí thuyết xã hội học, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội- 2007
Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng, Xã hội học đại cương, NXB Đại học Quốc Gia- 2001
Hoàng Hưng, Nguyễn Thị Kim Loan, sách “Con người và môi trường”, NXB ĐHQG TPHCM, 2005
Luật môi trường Việt Nam 1993
Từ điển xã hội học
Tạp chí XHH số 2/1993 –chuyên đề “nghiên cứu xã hội học sức khỏe”
Xã hội học môi trường – Vũ Cao Đàm – Nhà XBKH & KT 2002
Sách khoa học môi trường, tác giả Nguyễn Văn Mậu/NXB Thông tin 2002
Giáo trình bảo vệ môi trường, tác giả Nguyễn Khắc Cường/ ĐH Bách Khoa TPHCM 2005
“Ô nhiễm không khí và xử lý khí thải” của GS.TS Trần Ngọc Chấn (NXB KHKT 2005)”
Ressources Biologiques Et Environnement Au Viet Nam (Môi Trường Tài Nguyên Việt Nam) NXB Thế giới 2001
* Tài liệu mạng (internet)
giaoducsuckhoe.gov.vn
áo_dục_bảo_vệ_môi_trường_cho_học_sinh_phổ_thông.
ô%20nhiễm%20môi%20trường%20nước
áo_dục_bảo_vệ_môi_trường_cho_học_sinh_phổ_thông.
quocoai.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động của khói bụi công nghiệp đến môi trường sống của người dân (nghiên cứu cụ thể tại HN).doc