Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới các doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp khắc phục

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 CHƯƠNG 1: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM. 3 1.1 Khái quát về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 -2008 3 1.2 Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới các doanh nghiệp Việt Nam. 7 1.2.1 Doanh nghiệp thiếu vốn sản xuất 7 1.2.2 Giá các yếu tố đầu vào tăng cao 9 1.2.3 Thị trường đầu ra bị thu hẹp. 11 1.2.4 Việc làm không đầy đủ. 14 1.2.5 Lợi nhuận giảm mạnh. 15 1.2.6 Nhiều doanh nghiệp phá sản. 16 CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP SAU KHỦNG HOẢNG. 18 2.1 Giải pháp từ phía nhà nước. 18 2.1.1 Cần tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ vốn sản xuất cho các doanh nghiệp 18 2.1.2 Kích thích đầu tư đi đôi với giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. 21 2.1.3 Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ thuế đối với doanh nghiệp. 23 2.2 Giải pháp thuộc về doanh nghiệp. 24 2.2.1 Thay đổi chiến lược kinh doanh. 24 2.2.2 Chú trọng hơn đến thị trường trong nước. 26 2.2.3 Kiểm soát tài chính chặt chẽ và hợp lý hóa chi phí sản xuất. 28 KẾT LUẬN 31 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 32 LỜI MỞ ĐẦU Khủng hoảng kinh tế là một hiện tượng mà ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế là vô cùng lớn. Khủng hoảng ảnh hưởng rất sâu rộng đối với nền kinh tế không chỉ trong một quốc gia mà đối với cả khu vực. Nó tác động làm cho tốc độ tăng trưởng giảm, đầu tư giảm, lạm phát tăng cao, thất nnghiệp gia tăng Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 vừa qua xảy ra tại Mỹ đã tác động rất lớn tới các nền kinh tế ở các quốc gia. Đặc biệt là đối với những nước phát triển như: Nga, Nhật, Đức, EU Nói như vậy không có nghĩa là các nước đang phát triển không bị ảnh hưởng. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp, các tập đoàn. Một thực tế là rất nhiều doanh nghiệp tồn tại hàng hơn trăm năm với đầy đủ kinh nghiệm, địa vị, thương hiệu nhưng cũng phải tuyên bố phá sản như Lehman Brothers. Vậy thì ta có thể tưởng tượng được rằng các doanh nghiệp ở những nước đang phát triển sẽ phải gặp những khó khăn như thế nào. Đề tài : “ Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới các doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp khắc phục” nhằm mục đích phân tích những tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới các doanh nghiệp Việt Nam trên phương diện về vốn, lao động, thị trường kinh doanh v.v. Từ đó cho thấy được những giải pháp của chính phủ nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua thời kì khó khăn . Thêm nữa tôi cũng xin cung cấp những thông tin cho thấy chính bản thân các doanh nghiệp cũng sẽ đã và đang nỗ lực để vượt qua khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nội dung đề tài gồm 2 chương: Chương 1: Khủng hoảng tài chính toàn cầu và tác động của nó tới nền kinh tế Việt Nam. Chương 2: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau khủng hoảng.

doc34 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9098 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới các doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuế là 400 USD trong khi các cặp vợ chồng sẽ nhận được khoản tín dụng thuế 800 USD. Nhiều sinh viên sẽ nhận được khoản tín dụng thuế cho học phí là 2.500 USD. Những người mua nhà lần đầu tiên có thể nhận được một khoản tín dụng thuế lên đến 8.000 USD. Đối với chính phủ Đức, ngày 13/1/2009 đã nhất trí với gói kích thích kinh tế trị giá 50 tỷ Euro ( 67 tỷ USD) nhằm giúp nền kinh tế Đức vượt qua thời kỳ suy thoái. Trong kế hoạch này, khoảng 17 tỷ Euro được chi cho cơ sở hạ tầng và khoảng 18 tỷ Euro là để giảm thuế cho các các nhân và doanh nghiệp. [6, Tr.27] Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho những nền kinh tế lớn mạnh nhất nhì trên thế giới cũng phải lúng túng trước những quyết định về chính sách của mình, những chính sách mà chưa từng được đưa ra để cứu nền kinh tế suy thoái từ trước cho tới nay. Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp thiếu vốn sản xuất. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bị ảnh hưởng lớn. Thị trường vốn của Việt Nam đang bị tác động bởi sự thay đổi hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài, nơi mà họ giữ một tỷ lệ không nhỏ giá trị cổ phiếu và trái phiếu ( hiện chiếm 20% tổng số vốn của thị trường chứng khoán Việt Nam). Trên thị trường chứng khoán đã có hiện tượng rút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài khi họ bán chứng khoán hàng loạt trên hai sàn giao dịch Hà Nội và TP Hồ Chí Minh và chuyển vốn ra nước ngoài. Luồng vốn FDI năm 2008 được duyệt lên đến 64 tỷ USD, gấp 3 lần năm 2007, nhưng trên thực tế vốn giải ngân chỉ khoảng 11 tỷ USD ( 17,2%). Trong năm 2009 nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã có sự suy giảm rõ rệt do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, các nhà đầu tư nước ngoài hạn chế hơn trong việc đầu tư mới hay mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong 3 tháng đầu năm 2009 Việt Nam chỉ thu được 2,1 tỷ USD đầu tư nước ngoài. Số tiền cam kết cho các dự án đã khởi động dự tính sẽ đạt 6 tỷ USD trong ba tháng đầu năm, thấp hơn cùng kỳ năm ngoái tới 40%. Trong khi đó đầu tư công khó có khả năng tăng trở lại do thâm hụt ngân sách của Việt Nam đang ở mức rất cao. Các doanh nghiệp đang gặp khó khăn cả về vốn lẫn đầu ra sản phẩm nên họ cũng không mặn mà với việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này khiến cho tổng mức đầu tư toàn xã hội sẽ suy giảm mạnh trong năm 2009. Còn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tuy vốn đăng ký dự án FDI năm 2008 là 64 tỷ USD, đạt mức kỷ lục kể từ khi có luật đầu tư trực tiếp nước ngoài (năm 1987) đến nay nhưng trước tác động của khủng hoảng kinh tế toàn, thị trường các nước bị thu hẹp, trong khi các dự án FDI chủ yếu là các dự án sản xuất xuất khẩu. Do vậy, một mặt do khả năng tài chính bị thu hẹp của các công ty mẹ tại chính quốc, mặt khác do thị trường thế giới thu hẹp nên các nhà đầu tư hạn chế triển khai dự án.[6, Tr.37] Xét một cách tổng quan thì do tác động của khủng hoảng toàn cầu khiến cho đầu tư suy giảm, gây ra những khó khăn cho các hoạt động của doanh nghiệp trong nước. Trong nội bộ nền kinh tế, các doanh nghiệp chua chát phải chịu lãi suất cao do các khoản phí cho vay, lãi suất đầu ra của nhiều ngân hàng thương mại đang đội trần tới vài phần trăm ( lên tới 21 – 22%), khiến cho nhiều doanh nghiệp đã thiếu vốn trong sản xuất lại phải đối diện với những lãi suất ngân hàng cao hoặc đứng trước sự lựa chọn giữa việc vay vốn ngân hàng với lãi suất cao để tiếp tục sản xuất. Tính đến năm 2010, doanh nghiệp đã kinh doanh có lãi hơn. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đã phải ngậm ngùi bỏ qua những hợp đồng xuất khẩu có giá trị do thiếu vốn. Đối với hàng nông sản, ngoài mặt hàng gạo, sắn lát khó khăn về đầu ra thì các mặt hàng khác đều có triển vọng tốt về xuất khẩu trong năm nay. Năm 2010, do thời tiết không thuận nên mùa vụ thất bát. Theo thông tin từ Chánh văn phòng Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, ông Trần Đức Tụng thì, vụ mùa hồ tiêu năm nay trên thế giới sản lượng giảm từ 20-25%, sản lượng tiêu của Việt Nam cũng giảm xấp xỉ 20%. Sản lượng của ngành điều năm 2010 cũng giảm từ 20-30%. Do sản lượng giảm nên giá cả xuất khẩu của các mặt hàng nông sản như điều, tiêu đứng ở giá cao. Đại diện Hiệp hội Điều cho rằng, giá điều nhân xuất khẩu trong 6 tháng cuối năm có thể sẽ tăng thêm 14% nữa so với mức giá hiện nay. Hiện tại, rất nhiều doanh nghiệp điều đã kí được hợp đồng với giá rất tốt. Dù tình hình xuất khẩu khả quan về lượng cũng như giá. Tuy nhiên, các hiệp hội cho rằng, do không tiếp cận được với nguồn vốn nên các doanh nghiệp trong ngành không thể dự trữ đủ nguyên liệu cho sản xuất. Mặt khác, do lãi suất lên cao trong thời điểm các doanh nghiệp thu mua nguyên liệu cho nên các doanh nghiệp ngành điều mới chỉ mua được 300.000 tấn điều thô trong nước và nhập khẩu khoảng 100.000 tấn. Hiện ngành điều cần có 1.100 tỷ đồng để mua hết lượng hạt điều thô còn tồn đọng trong nước khoảng 50.000 tấn và 5.700 tỷ đồng để nhập khẩu 350.000 tấn điều thô đáp ứng cho nhu cầu sản xuất 6 tháng cuối năm. Giá điều thô nhập khẩu đang ở mức 1.100 USD/tấn. Đến nay, ngành điều đã sản xuất gần hết lượng nguyên liệu đã thu mua được. Năng suất sản xuất của ngành điều Việt Nam là 650.000 tấn/năm. Còn đối với ngành cà phê, do không có tiền nên các doanh nghiệp chỉ mua dự trữ được 7-8% so với kế hoạch là 200.000 tấn trong lúc giá cà phê xuống thấp ở thời gian qua. Như vậy, doanh nghiệp cà phê trong nước lại càng chịu thêm nhiều áp lực với các đơn vị liên doanh với nước ngoài.[17] Giá các yếu tố đầu vào tăng cao Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 khiến cho nhiều doanh nghiệp điêu đứng trước sự tăng giá của nguyên liệu đầu vào. Đặc biệt là ngành dệt may gặp khá nhiều khó khăn khi giá nhập khẩu nguyên phụ liệu tăng cao. Từ tháng 10/2008, giá sắt thép đã tăng 55%, tương ứng với 16.000 VNĐ và 20.000 VNĐ/ kg, trong khi giá gạch tăng 50%. Do tác dộng của giá phôi trên thị trường thế giới cùng với chi phí đầu vào tăng cao, giá bán thép xây dựng trong 2 tháng đầu năm 2009 tăng từ 14 – 18 % do giá thép nhập khẩu , giá thép phế để sản xuất phôi thép, và giá dầu mazud dùng để sản xuất thép đều tăng cao. Giá thép và nguyên vật liệu xây dựng tăng đã khiến việc xây dựng trở nên khó khăn và nhiều nhà thầu phải điêu đứng. Bộ Công Thương cho biết, giá trị sản xuất công nghiệp tháng 5 ước đạt 65,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,3% so với tháng 4 và tăng 13,8% so với tháng 5/2009. Như vậy, tính chung 5 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 301,5 nghìn tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ, trong đó: khu vực kinh tế Nhà nước tăng 9,8%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước có tốc độ tăng 12,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng cao nhất 16,8%. Cũng theo Bộ Công Thương, 5 tháng qua, các sản phẩm phục vụ sản xuất có mức tăng trưởng cao như: điện tăng 17,7%, than tăng 4,3%, khí đốt tăng 16,7%, khí hóa lỏng (LPG) tăng gấp 2 lần, xăng dầu các loại tăng gấp 7 lần ... Nhóm các sản phẩm cơ khí cũng có mức tăng trưởng cao như: động cơ điện tăng 26,7%, động cơ diezen tăng 41,7%, máy công cụ tăng 44,8%... các sản phẩm phục vụ tiêu dùng như may mặc, sữa bột, bia lần lượt tăng 14,4%, 35,8% và 15.3%… Riêng các sản phẩm phục vụ ngành nông nghiệp như: phân urê giảm 2,3%; phân NPK giảm 14,2% do nhu cầu hạn chế.[12] Bộ Công Thương cũng đưa ra nhận định sản xuất công nghiệp từ nay đến cuối năm có khả năng đạt và vượt kế hoạch năm (trên 12%). Tuy nhiên, do tình hình cung ứng điện trong mùa khô có khó khăn, trong thời gian từ cuối tháng 4 đến giữa tháng 6 phải điều tiết, sẽ có phần nào ảnh hưởng đến sản xuất. Hơn nữa, giá đầu vào cho sản xuất tiếp tục tăng nhanh hơn giá bán sản phẩm, nên hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không cao; việc vay vốn tín dụng cho đầu tư cũng như cho hoạt động xuất khẩu hạn chế, nhiều dự án không vay được, trong khi vốn ngân sách thuộc kế hoạch năm 2010 không đáp ứng nhu cầu và một số dự án đã có khối lượng thực hiện cao, nên khả năng bảo đảm tiến độ đầu tư rất khó khăn. [12] Thị trường đầu ra bị thu hẹp. * Thị trường xuất khẩu. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 23 – 25 %. Không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ, mà cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ còn tác động gián tiến đến tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU và Nhật Bản – hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Do bị tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng, người tiêu dùng của các thị trường này cũng cắt giảm chi tiêu, nên nhu cầu nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng giảm. Tỷ trọng của thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng đã giảm, chỉ còn 16.5% trong khi năm 2007 là 18%.[6, Tr38] Về nông sản xuất khẩu, đến tháng 12/2008 giá các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã giảm mạnh. So với thời điểm giá cao nhất trong năm thì giá gạo giảm 58%, cà phê giảm 24%, cao su giảm 48%, hạt điều, hạt tiêu đều có mức giảm 20%. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 12/2008 đạt 1,15 tỷ USD, giảm 2% so với tháng 11/2008 ( đạt 1,17tyr USD), giảm 34% so với tháng 7/2008 – tháng đạt kỷ lục 1,75 tỷ USD. Xuất khẩu nông sản gặp nhiều trở ngại do việc thanh toán quốc tế. Tình trạng này xảy ra nhiều ở các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ, chè, thủy sản, cà phê. [16,tr.18] Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 1-2009 ước tính đạt 3,8 tỉ USD, giảm 18,6% so với tháng 12-2008 và giảm 24,2% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 1-2009 ước tính đạt 4,1 tỉ USD, giảm 27,6% so với tháng trước đó và giảm 44,8% so với cùng kỳ năm 2008. Do tốc độ giảm của kim ngạch hàng hóa nhập khẩu nhanh hơn tốc độ giảm của kim ngạch hàng hóa xuất khẩu nên mức nhập siêu tháng 1-2009 đã giảm nhiều, ước tính 300 triệu USD, bằng 7,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, thấp hơn nhiều so với mức nhập siêu 2,4 tỉ USD của cùng kỳ năm trước. Qua phân tích cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam có thể nhận thấy, trong năm 2008, sáu thị trường xuất khẩu chính là Mỹ, EU, ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc và Ô-xtrây-li-a đã chiếm tới 80% tổng khối lượng hàng hóa xuất khẩu. Bản thân nền kinh tế các nước ASEAN và Trung Quốc cũng phụ thuộc rất lớn vào các nền kinh tế còn lại, nên suy thoái kinh tế của Mỹ, EU và Nhật Bản sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2009. Các mặt hàng chủ lực xuất khẩu vào thị trường Mỹ là giầy dép, hàng dệt may và các sản phẩm về gỗ; vào EU là giầy dép, hàng dệt may và hải sản; vào ASEAN là dầu thô và gạo; vào Nhật Bản và Ô-xtrây-li-a là dầu thô; vào Trung Quốc là cao su, sẽ chịu nhiều ảnh hưởng không nhỏ.[13] Qua những con số về kim ngạch xuất – nhập khẩu của Việt Nam vào thị trường các nước trên thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản… ta có thể thấy được thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam đã bị thu hẹp. Điều này đã gây cho doanh nghiệp Việt Nam những trăn trở rất lớn là cần phải có những chính sách như thế nào để có thể đưa được sản phẩm của Việt Nam thâm nhập vào thị trường nước ngoài trong bối cảnh khó khăn như hiện nay. * Thị trường nội địa. Theo mô hình tổng cầu của Keynes, tổng cầu của nền kinh tế đo bằng tổng sản phẩm quốc nội GDP, được tính trên cơ sở tổng tiêu dùng tư nhân, tiêu dùng chính phủ, đầu tư, và xuất khẩu ròng ( đo bằng tổng kim ngạch xuất khẩu trừ đi tổng kim ngạch nhập khẩu). Theo cách này thì cơ cấu GDP của Việt Nam đã có chuyển biến khá tích cực từ năm 1990 tới năm 2000 và ổn định cho tới năm 2006, trước khi gặp những biến động mạnh trong năm 2007, sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Cơ cấu chi tiêu của khu vực tư nhân và của Chính Phủ đã có những chuyển biến tích cực theo hướng giảm chi tiêu và tăng tích lũy để đầu tư tạo vốn. Bảng 1.1: Cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội tính theo % GDP Đơn vị: % STT Cơ cấu tống sản phẩm quốc nội. 1990 1995 2000 2005 2006 2007 1 Tiêu dùng tư nhân 84,8 73,6 66,5 63,5 63,3 64,9 2 Tiêu dùng Chính phủ 12,3 8,2 6,4 6,2 6,0 6,1 3 Đầu tư (tạo lập vốn) 12,6 27,1 29,6 35,6 36,8 41,7 4 Xuất khẩu ròng -9,2 -9,1 -2,5 -4,2 -5,0 -13,4 (Nguồn: ADB, Tổng cục Thống kê) Trong giai đoạn trước năm 2007, cơ cấu GDP đã duy trì ở mức tích cực với tốc độ tạo lập vốn đầu tư duy trì trong khoảng 35% - 36%, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng trong trung và dài hạn. Trong năm 2007, với việc gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp đổ vào nước ta đã kéo theo việc gia tăng thâm hụt thương mại, đặc biệt trong hai quý cuối năm 2007. Kết quả là, thâm hụt thương mại năm 2007 lên tới 14,1 tỷ USD, chiếm khoảng 13,4% GDP. Tuy nhiên, phần này được bù đắp hoàn toàn bằng 8 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, và 6,24 tỷ vốn đầu tư gián tiếp và lượng kiều hối đạt kỷ lục 6,18 tỷ USD. Khuynh hướng này tiếp tục kéo dài sang năm 2008, cùng với việc biến động giá tăng của hầu hết các hàng hóa nhập khẩu đầu vào sản xuất ở Việt Nam khiến thâm hụt thương mại lên tới 18 tỷ USD, đạt mức kỷ lục và chiếm khoảng 16,1% GDP. Tuy nhiên, năm 2008 cũng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký đạt mức kỷ lục 64 tỷ USD, và vốn thực hiện đạt 11,5 tỷ USD.[13] Qua bảng cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội tính theo % GDP ở trên cho thấy, mức tiêu dùng tư nhân đã suy giảm trông thấy qua các năm. Thêm nữa, là những cắt giảm chi tiêu của chính phủ. Một điểm đặc biệt nữa đó là thời điểm mới chớm của khủng hoảng, xuất khẩu ròng đã cho thấy khả năng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường nước ngoài đã suy giảm nghiêm trọng -13,4 năm 2007 so với -5 năm 2006, báo hiệu bắt đầu cho một sự suy giảm xuất khẩu ròng trong những năm tiếp theo. Việc làm không đầy đủ. Khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động làm cho các doanh nghiệp, tập đoàn phá sản gây ra thiếu việc làm cho người lao động. Những công việc thường ngày để tạo ra sản phẩm của họ nay đã không được dùng đến, họ đang đứng trước cảnh không có việc làm, phải chịu cảnh thất nghiệp. Việt Nam cũng là một nước chịu tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chính vì vậy mà tình trạng thất nghiệp đã trở thành sự kiện thời sự với những tin tức xuất hiện hầu như hàng ngày trên các phương tiên thông tin đại chúng về doanh nghiệp, khu công nghiệp quyết định sa thải công nhân. Thêm nữa là có cả những bài viết, phóng sự về cuộc sống bi đát của họ khi mất việc làm, đặc biệt là đối với người dân ngoại tỉnh. Chỉ tính riêng tại Sài Gòn, cuối năm 2008 số công nhân thất nghiệp đang tăng từ hàng ngàn lên hàng chục ngàn và được dự đoán là sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn, nhiều hơn. Phần lớn những công nhân thất nghiệp bị sa thải hoặc do công ty phá sản. Mà chủ yếu những công ty này thuộc ngành may mặc, giày da, dép, ngành gỗ, ngành nhựa và ngành sản xuất túi xốp, có vốn đầu tư trong nước và nước ngoài như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Na Uy, Hoa Kỳ, Pháp. Nỗi lo của người lao động đã tăng lên bởi thực tế trước kia khi họ mất việc ở các công ty này thì họ sẽ dễ dàng kiếm được công việc khác. Nhưng trước tình hình này không mấy người có thể kiếm được việc làm khi mà bị sa thải khỏi công ty hiện tại. Bởi lẽ không có một công ty nào tuyển lao động. Trước tình hình này người dân phải đối diện với nhiều khó khăn hơn trong cuộc sống với những vấn đề về nhà ở về sinh hoạt cho bản thân, rồi sinh hoạt cho người thân trong gia đình. Theo báo cáo của 40 tỉnh, thành phố đến hết tháng 1/2009 đã có trên 85 ngàn người mất việc làm ( TP Hồ Chí Minh 19.041 người, Hà Nội 10.707 người, Bắc Ninh 8.761 người, Thanh Hóa 8.735 người, Bình Dương 8.515 người, Đà Nẵng 2.227 người…) Ngoài ra, trên 40 ngàn người bị cặt việc làm và trên 20 ngàn người tạm nghỉ chờ việc. Năm 2009 suy thoái kinh tế làm cho 400,000 người thất nghiệp, con số lao động thất nghiệp sẽ tiếp tục gia tăng. Việt Nam có khoảng 45 triệu người trong độ tuổi lao động, trong đó có 70% ở nông thôn và lao động có hợp đồng làm việc chỉ chừng 20%. Với số lao động bị mất việc khá lớn: Hà Nội ( 10.707 người), TP Hồ Chí Minh ( 19.041 người), Bắc Ninh ( 8.761 người), Bình Dương ( 8.515 người), đây là những địa phương dẫn đầu về số lượng lao động thất nghiệp. Lao động từ các khu công nghiệp của nhiều thành phố lớn này kéo về nông thôn tìm việc. Nhiều lao động gốc miền Bắc, từng vào miền Nam làm việc, nay cũng quay về quê tìm việc làm mới. Chưa kể đến nông thôn, nơi chiếm 70% dân số, vốn cũng đang có vô số khó khăn do nông dân mất đất, mùa màng thất bát, gia súc và gia cầm liên tục bị dịch, nông sản không có người mua hoặc mất giá thê thảm.[6, Tr.43] Với các con số thất nghiệp ở trên, phần nào cho chúng ta hiểu một cách tổng quát tình trạng hoạt động của doanh nghiệp đang gặp khó khăn như thế nào mới để cho người lao động không có việc làm, thất nghiệp tràn lan. Lợi nhuận giảm mạnh. Khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua đã làm giá cả đầu vào tăng cao như vừa nói ở trên. Ngoài ra, doanh nghiệp sản xuất nhưng sản phẩm không tiêu thụ được, không có thị trường để xuất khẩu dẫn đến chí phí bỏ ra nhưng khó thu hồi. Nhưng vào thời điểm đáy khủng hoảng, một số DN đã nhanh tay tập trung vốn mua dự trữ nhiều nguyên liệu với giá cực rẻ hoặc các DN bất động sản được hưởng lợi nhờ sự ấm lên của thị trường, nhờ đó trong quý II đã thu lợi nhuận ấn tượng. Thế nhưng, khi nguồn nguyên liệu giá rẻ đã tiêu thụ hết thì DN phải mua nguyên liệu theo mặt bằng giá mới, làm cho lợi nhuận từ quý III bắt đầu suy giảm, thậm chí nhiều đơn vị lỗ nặng. Tính đến cuối năm 2009, theo báo cáo tài chính của Công ty Dầu Tường An (TAC), trong quý II, đơn vị đạt doanh thu 686 tỉ đồng và lợi nhuận là 20 tỉ đồng nhưng sang quý III, doanh thu giảm xuống còn 629 tỉ đồng và bất ngờ... lỗ 68 tỉ đồng. Nguyên nhân lỗ là do doanh số bán hàng giảm, chi phí tài chính tăng cao.  Còn Công ty Đầu tư bất động sản VN (VNI), doanh thu quý II đạt 6 tỉ đồng và lợi nhuận âm 63 triệu đồng nhưng sang quý III, doanh thu chỉ còn 35 triệu đồng và bị lỗ 695 triệu đồng... Ngoài ra, nhiều DN khác như Công ty BaSa (BAS) từ đầu năm đến nay liên tục bị lỗ, Công ty Nước giải khát Sài Gòn (TRI) tiếp tục bị lỗ quý thứ tư...[22] Thêm nữa, hậu quả của khủng hoảng đã khiến cho lượt khách du lịch giảm thiều đáng kể. Theo thống kê của Hãng hàng không quốc gia Vietnam Airlines công bố lợi nhuận trước thuế năm 2008 chỉ đạt 14 triệu đôla, giảm so với 23 triệu đôla của năm trước đó.Lợi nhuận bị giảm mặc dù doanh thu toàn tổng công ty đạt 1.56 tỉ đôla, so với 1.27 tỉ đôla trong năm 2007. Trong nửa đầu năm ngoái, hãng lỗ mất 83 tỉ đồng Việt Nam (chừng 5 triệu đôla), khi giá dầu toàn cầu đạt đỉnh, nhưng phục hồi trong nửa cuối năm.[24] Ngoài ra, thông tin từ công ty chứng khoán – ngân hàng ngoại thương Việt Nam, trong quý IV/2009 đạt 70,8 tỷ đồng doanh thu thuần, lũy kế cả năm đạt 275 tỷ đồng tăng nhẹ so với cùng kỳ (tương đương 5,1 tỷ đồng). Sau khi khấu trừ 216,3 tỷ đồng giá vốn hàng bán. Lợi nhuận gộp năm 2009 đạt 58,7 tỷ đồng, giảm 22,7 tỷ đồng so với cùng kỳ. Nhiều doanh nghiệp phá sản. Tính trong năm 2008, theo phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, Việt Nam hiện có khoảng 350.000 doanh nghiệp tư nhân có quy mô vừa và nhỏ ( có vốn chứa 10 tỷ đồng và sử dụng 3000 công nhân trở xuống). Trong đó số doanh nghiệp phá sản khoảng 70.000 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp khác đang trong tình trạng khó khăn là 200.000, trong đó có 70.000 doanh nghiệp là đang làm ăn có hiệu quả. Tính đến quý I/2009 trong tổng số 20% DNNVV đứng trên bờ vực phá sản đã có tới 7.000 doanh nghiệp tuyên bố giải thể và 3000 doanh nghiệp phải ngừng sản xuất. Xét trong cả khối DNNVV thì mức suy giảm lên tới 30 – 50% so với trước. Như vậy gần nửa số 20% DNNVV có nguy cơ phá sản, thì 10% đã ngừng hoạt động hoặc có thể chuyển hướng, 10% còn lại bị tác động lạm phát, nếu có chính sách tốt lên họ sẽ cải thiện tình hình tốt hơn.[18] Một điều đặc biệt quan trọng đó là sản lượng công nghiệp của cả tư nhân trong nước lẫn tư nhân nước ngoài – nghĩa là khu vực đầu tư có vốn nước ngoài chiếm 75% tổng sản lượng. Từ đó các chuyên gia kinh tế nhận định khu vực tư nhân đổ vỡ hàng loạt sẽ là một thảm họa kinh tế xã hội. Tình trạng doanh nghiệp phá sản hoặc ngưng sản xuất cứ tiếp tục diễn ra sẽ có tác động xấu tới nền kinh tế quốc gia. Nó không chỉ làm cho tăng trưởng giảm sút mà còn gây cho người dân mất việc, tiếp đến sẽ ảnh hưởng lớn tới an sinh xã hội. CHƯƠNG 2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP SAU KHỦNG HOẢNG. Giải pháp để khắc phục những khó khăn là rất nhiều và liên quan đến tất cả các mặt trong đời sống. Tuy nhiên, với đề tài này tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hậu quả mà khủng hoảng tác động vào các doanh nghiệp được tôi nêu ra ở trên. Trong phần này, giải pháp không chỉ riêng của chính phủ mà là giải pháp thiên cả về bên trong của mỗi doanh nghiệp. Để từ đó cho thấy không phải chỉ riêng chính phủ lo lắng trước tình hình suy thoái của nền kinh tế mà ngay cả doanh nghiệp cũng tự mình tìm cách để vượt qua những khó khăn đang gặp phải. Giải pháp từ phía nhà nước. Cần tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ vốn sản xuất cho các doanh nghiệp. Nhằm mục đích hỗ trợ doanh nghiệp trước tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhà nước đã triển khai gói kích cầu thứ nhất và đã đem lại kết quả trông thấy. Nhưng gói kích cầu thứ nhất kết thúc vào cuối năm 2009, để trách gây sốc cho các doanh nghiệp khi gói kích cầu thứ nhất kết thúc Chính Phủ đã triển khai gói kích cầu thứ hai nhằm mục đích hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã chưa tiếp cận được vốn. Cụ thể gói kích cầu thứ 2, vẫn hỗ trợ lãi suất 4% vay vốn tín dụng cho các khoản vay vốn trung, dài hạn để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, mua máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp... tiếp tục kéo dài tới hết 31/12/2010 và căn cứ vào tình hình cụ thể, có thể xem xét điều chỉnh mức lãi suất này xuống dưới 4%. Đối với khoản hỗ trợ lãi suất 4% cho vay vốn lưu động của các DN không phân biệt thành phần kinh tế được kéo dài tới hết quý I/2010 nhưng giảm mức hỗ trợ lãi suất xuống 2% và thu hẹp đối tượng thụ hưởng. Trong đó, gói hỗ trợ này sẽ ưu tiên cho các DN sử dụng nhiều lao động, các DN làm hàng xuất khẩu. Theo công bố của Bộ KH-ĐT, trong gói kích cầu thứ nhất, riêng gói hỗ trợ lãi suất (18.000 tỷ đồng) thì đến hết năm 2009 mới chi hết khoảng 10.000 tỷ đồng, còn khoảng 8.000 tỷ đồng sẽ tiếp tục thực hiện trong năm 2010.[15] Về gói hỗ trợ an sinh xã hội, Chính phủ quyết định giữ nguyên các mục tiêu đã đề ra, bảo đảm đủ vốn cho vùng nghèo, vùng bị thiên tai, tăng cường hỗ trợ cho nông dân về kênh mương, thủy lợi. Một yêu cầu nữa được Thủ tướng đặt ra cho các bộ, ngành chức năng là triển khai hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí; giải quyết triệt để các vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài. Việc giảm bội chi ngân sách được thực hiện bằng cách phấn đấu tăng thu và cắt giảm các khoản chi không cần thiết (như hội họp, tiếp khách, xăng xe) chứ không thực hiện bằng cách cắt giảm các khoản chi an sinh xã hội.[15] Gói kích cầu thứ 2 sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế chưa được tiếp cận với nguồn vốn từ gói kích cầu lần 1 sẽ có điều kiện để tiếp cận và thực hiện khắc phục hậu quả khủng hoảng tốt hơn. Thêm nữa, chính phủ cũng tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp đã được vay vốn từ gói kích cầu lần 1 tiếp tục được vay vốn với lãi suất hỗ trợ với thời gian kéo dài hơn giúp doanh nghiệp yên tâm sản xuất kinh doanh. Hiện nay, gói kích cầu thứ hai vẫn chưa kết thúc nhưng đến cuối năm 2010 gói kích cầu này sẽ kết thúc. Các doanh nghiệp phần lớn đã hoạt động bình thường, nhưng những doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Vậy nên Chính Phủ cần có những chính sách hỗ trợ những doanh nghiệp này nhằm tạo ra sân chơi lành mạnh đối với những doanh nghiệp còn yếu thế và gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra. Thêm nữa, các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập, doanh nghiệp vừa và nhỏ được phân bố rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, thu hút được lực lượng lao động lớn. Sự phát triển tích cực của DNNV đã góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định lại tình hình kinh tế, an sinh xã hội trong những năm vừa qua. Tuy vậy, DNNVV vẫn còn có những khó khăn nhất định mang tính đặc trưng và lâu dài, như về quy mô DN nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu, khả năng quản trị doanh nghiệp yếu, việc tiếp cận nguồn tín dụng và mặt bằng sản xuất khó,... Nhận định sâu sắc những khó khăn này, Chính phủ tiếp tục có những quyết sách giúp DNNVV phát triển bền vững, đồng đều và có sức vươn ra thị trường quốc tế. [25] Trong số các biện pháp lớn được Chính phủ đưa ra, đáng chú ý là việc tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng và huy động các nguồn lực hỗ trợ tài chính cho DNNVV. Trong vấn đề tăng cường khả năng tiếp cận và huy động vốn, Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước chủ trì việc tiếp tục thực hiện các biện pháp điều chỉnh chính sách tiền tệ để kiểm soát hoạt động tín dụng theo hướng tập trung phục vụ các nhu cầu vốn đối với các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn, DNNVV. Lần lượt trong các quý III, IV/2010, Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước đề xuất các giải pháp thúc đẩy phát triển các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với DNNVV như bao thanh toán, cho thuê tài chính...; Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng đề án thành lập Quỹ phát triển DNNVV, trình Thủ tướng. [25] Ngoài ra, Chính Phủ còn quan tâm giải quyết gốc rễ các khó khăn, hạn chế của DNNVV. Trước vấn đề khả năng cạnh tranh và tiếp cận nguồn tín dụng của DNNVV đang được xem là một trong những hạn chế mang tính đặc trưng, Chính phủ quyết nghị giao Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì nghiên cứu, mở rộng đối tượng cho vay vốn, tăng mức vốn vay đối với mỗi dự án đem lại hiệu quả cao về tạo việc làm của DN, chú trọng đối tượng DNNV theo chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, nghiên cứu mở rộng đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ theo quy định. Từ cuối năm 2007 đến nay, nền kinh tế nước ta chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng số lượng DN đăng ký thành lập mới vẫn tăng. Tính đến hết 2009, gần 85.000 DN đăng ký thành lập mới, tăng gần 30% so với năm 2008. Các DNNVV có vốn đầu tư ban đầu tuy không lớn, nhưng được hình thành và phát triển rộng khắp, ở hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực. Đây cũng là khu vực khai thác và huy động các nguồn lực, tiềm năng, tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư và tạo ra một thị trường cạnh tranh lành mạnh hơn. Chính vì vậy, Chính Phủ cần tích cực hỗ trợ tất cả các doanh nghiệp nhất là về vốn để các doanh nghiệp có điều kiện hoạt động có hiệu quả. [25] Kích thích đầu tư đi đôi với giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động làm tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta tăng lên nhanh chóng theo như số liệu tôi đã nêu ở trên. Trước tình hình này, Chính Phủ đã có nhiều biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và hỗ trợ cho lao động không có việc làm. Ngoài ra, lao động nông thôn không có việc làm đã ngày một tăng kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua do các doanh nghiệp đào thải những công nhân không có tay nghề hoặc tay nghề kém. Từ những khó khăn đó, Chính Phủ đã đưa ra chính sách mới nhằm kích thích đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng - xã hội nông thôn, đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và khu vực dịch vụ để tăng thu nhập, tạo thêm việc làm và góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Theo Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, hiện cả nước có khoảng 39.414 doanh nghiệp ( DN ) hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, chiếm 30% tổng số DN của cả nước. Tỷ lệ DN nông nghiệp hoạt động có lãi tương đối thấp, trong khi số DN bị thua lỗ khá lớn. Bởi việc đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn khó kiếm lợi nhuận cao, thời gian thu hồi vốn dài, đối mặt với nhiều rủi ro. Do vậy Nghị định này ra đời hứa hẹn sẽ mang một luồng gió mới cho làn sóng đầu tư của các doanh nghiệp vào khu vực nông nghiệp, nông thôn nhằm giúp nông dân tiêu thụ, chế biến nông, lâm, thủy sản, khai thác tiềm năng thế mạnh... đem lại lợi ích cho nông dân cũng như cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp (DN) đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn sẽ được hưởng một số ưu đãi và hỗ trợ đầu tư bổ sung của Nhà nước về đất đai, đào tạo nhân lực, phát triển thị trường, hỗ trợ dịch vụ tư vấn, áp dụng khoa học công nghệ và hỗ trợ về cước phí vận tải. Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 61/2010/NĐ-CP quy định một số ưu đãi và hỗ trợ đầu tư bổ sung của Nhà nước dành cho DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, có hiệu lực từ ngày 25/7/2010. [26] Chính sách cụ thể được thực hiện như sau: Nghị định quy định, nhà đầu tư có dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư, nếu được Nhà nước giao đất thì được miễn tiền sử dụng đất phải nộp ngân sách Nhà nước đối với dự án đầu tư đó. Nếu thuê đất của Nhà nước thì được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước kể từ ngày xây dựng hoàn thành đưa dự án vào hoạt động. Trường hợp Nhà đầu tư có dự án nông nghiệp ưu đãi đầu tư, dự án khuyến khích đầu tư, nếu được Nhà nước giao đất thì được giảm 70% hoặc 50% tiền sử dụng đất. Nếu thuê đất, thuê mặt nước của Nhà nước thì được miễn tiền thuê đất, mặt nước trong 15 năm hoặc 11 năm đầu kể từ ngày xây dựng hoàn thành đưa dự án vào hoạt động; đồng thời, được thuê với mức giá thấp nhất theo khung giá thuê đất do UBND tỉnh quy định. Ngoài ra, đối với cả 3 loại dự án đặc biệt ưu đãi đầu tư, ưu đãi đầu tư hay khuyến khích đầu tư, nhà đầu tư đều được miễn tiền thuê đất đối với diện tích đất xây dựng nhà ở tập thể cho công nhân, đất trồng cây xanh và đất phục vụ phúc lợi công cộng. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng hỗ trợ nhà đầu tư thuê đất, thuê mặt nước của hộ gia đình, cá nhân để tiến hành dự án đầu tư. Cụ thể, nếu nhà đầu tư có dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư thì được Nhà nước hỗ trợ 20% tiền thuê đất, thuê mặt nước của hộ gia đình, cá nhân theo khung giá đất, mặt nước của địa phương cho 5 năm đầu tiên kể từ khi hoàn thành xây dựng cơ bản. Ngoài ra, Chính Phủ khuyến khích DN có các dự án nông nghiệp tích tụ đất hình thành vùng nguyên liệu thông qua hình thức hộ gia đình, cá nhân góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với các dự án không thu hồi đất. Nhà nước cũng có chính sách miễn, giảm tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất. [26] Ngoài hỗ trợ về đất đai, Nhà nước cũng có nhiều chính sách hỗ trợ đầu tư như đào tạo nguồn nhân lực, phát triển thị trường, hỗ trợ dịch vụ tư vấn, áp dụng khoa học công nghệ và hỗ trợ về cước phí vận tải. Cụ thể, các DN sẽ được ngân sách nhà nước hỗ trợ từ 50%-100% kinh phí đào tạo nghề trong nước; 50%-70% chi phí quảng cáo DN và sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh và thành phố nơi DN đầu tư; 50%-70% kinh phí triển lãm hội chợ trong nước; được giảm 50% hoặc miễn phí tiếp cận thông tin thị trường, giá cả dịch vụ từ cơ quan xúc tiến thương mại của nhà nước. Ngoài ra, DN còn được Quỹ Hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ hỗ trợ 50% kinh phí thực hiện đề tài nghiên cứu tạo ra công nghệ mới do DN chủ trì thực hiện; hỗ trợ 30% tổng kinh phí đầu tư mới để thực hiện dự án sản xuất thử nghiệm được cấp có thẩm quyền phê duyệt... [26] Với chính sách mới này của Chính Phủ, sẽ khuyến khích doanh nghiệp chú trọng đầu tư vào thị trường trong nước, hơn thế nữa tạo điều kiện giải quyết việc làm cho người lao động đặc biệt là lao động nông thôn. Thêm nữa, chính sách mới này nhằm mục đích tiêu thụ đầu ra cho bà con nông dân trong tình hình kinh tế khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ thuế đối với doanh nghiệp. Bắt đầu từ năm 2010, Chính phủ sẽ không áp dụng chính sách miễn giảm thuế nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế trong năm 2009 gồm thuế thu nhập DN, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và lệ phí. Tuy nhiên, Chính phủ đồng ý tiếp tục giãn thời hạn nộp thuế thu nhập DN 3 tháng đối với DN sản xuất, gia công dệt may, da, giày để hỗ trợ các DN giảm gánh nặng do dồn kỳ nộp thuế từ năm 2009; tiếp tục thực hiện các biện pháp hoãn thuế, giãn thời gian nộp thuế nhập khẩu như năm 2009. Quy định mới của Chính Phủ về áp dụng chính sách miễn giảm thuế vào năm 2010 đã thu hẹp lại. Nhưng xét một cách tổng quan đó là chính sách điều hành kinh tế của nhà nước, Chính Phủ đã tạo điều kiện tối đa để các doanh nghiệp gồng dậy vượt qua khó khăn. Cho tới thời điểm hiện nay các doanh nghiệp đã đi vào hoạt động sản xuất bình thường. Tuy nhiên, Chính Phủ vẫn tiếp tục hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kể trên. Tuy nhiên, Chính Phủ đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có lãi hơn. Tiêu biểu như Chính Phủ vừa mới áp dụng chính sách giảm thuế đối với các mặt hàng xăng dầu nhập khẩu, giảm từ 3 -5 %. Với chính sách này các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu sẽ hoạt động tốt hơn rất nhiều vì trên thị trường thế giới giá xăng dầu đang có xu hướng tiếp tục tăng. Từ đó cho thấy các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu Việt Nam vẫn nhận được những hỗ trợ rất nhiều từ phía Nhà Nước. Ngoài ra, Chính Phủ cần có những chính sách phù hợp khuyến khích doanh nghiệp đầu tư khai thác thị trường trong nước để giảm thiểu các khoản chi phí phát sinh như thuế xuất - nhập khẩu từ những nguyên liệu hoặc sản phẩm nhập từ nước ngoài. Thêm nữa, Chính Phủ nên có những chính sách ưu đãi đặc biệt hơn đối với doanh nghiệp đầu tư vào thị trường nông thôn. Giải pháp thuộc về doanh nghiệp. Thay đổi chiến lược kinh doanh. Khủng hoảng là cơ hội tốt để doanh nghiệp tái cơ cấu. Các chiến lược mua bán, sáp nhập, chia tách và chuyển đổi doanh nghiệp là những cách thức để có thể vượt qua khó khăn. Doanh nghiệp phải coi khủng hoảng là cơ hội để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của mình trên thị trường. Khi tái cơ cấu thì cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp không những phải phù hợp với tính chất của từng công việc, từng ngành nghề mà còn phải phù hợp với chuẩn mực quốc tế, để tránh những rủi ro không đáng có khi Việt Nam dần tiến sâu hơn vào hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải thay đổi chiến lược kinh doanh để tận dụng cơ hội sau khủng hoảng như tập trung hóa để vượt qua khủng hoảng. Doanh nghiệp Việt Nam, nhất là những doanh nghiệp nhỏ, tư nhân nên học tập các tập đoàn lớn trên thế giới đó là tập trung hóa thương hiệu của mình. Trong khủng hoảng, sự mở rộng thương hiệu ( mở rộng ngành nghề) thường phải được nghiên cứu kỹ lưỡng và đặt trong một chiến lược dài hạn. Một số trường hợp tiêu biểu như Intel sau nhiều năm cũng không xa rời ngành sản xuất chip mũi nhọn của mình, Toyota luôn cố gắng để dành vị trí dẫn đầu trên thế giới trong ngành sản xuất xe hơi, hang quả táo Apple tận dụng thế mạnh về sự sáng tạo để mở rộng những thương hiệu như Ipod, Iphone,Macbook nhưng vẫn không xa rời ngành công nghiệp truyền thống của mình… Chính vì vậy, các tập đoàn càng phải tập trung và tránh phân tán nguồn lực của mình. Cần phải tập trung toàn bộ năng lượng để tạo nên một tia laser nhỏ có sức mạnh kinh khủng hơn là dàn trải năng lượng trên một diện tích lớn. Ở Việt Nam, Vinamilk là một công ty theo đuổi chiến lược thương hiệu tập trung và đã đạt được những thành công trong việc thực thi chiến lược này. Việc tái cấu trúc lại thương hiệu với một thương hiệu lớn (mega brand) Vinamilk đã tập trung xây dựng thương hiệu lớn này trên nhiều dòng sản phẩm và đã tạo những chiến dịch marketing cũng rất tập trung, lấy lại thị phần từ Dutch Lady cũng như nâng tầm hình ảnh thương hiệu trong người tiêu dùng. Thay vì mang lợi nhuận đầu tư sang các ngành bất động sản hay tài chính, Vinamilk tiếp tục đầu tư cho hệ thống nhà máy sản xuất sữa, mở rộng chiến lược kinh doanh sang ngành hàng nước giải khát có lợi cho sức khỏe, ngành mà công ty cũng có nhiều lợi thế trong phân phối và tiếp thị. Chính những chiến lược thương hiệu tập đoàn tập trung và được thực thi có kỷ luật đã đưa Vinamilk lên một trong những công ty đứng đầu trong thị trường chứng khoán. [23] Điều tốt nhất đối với doanh nghiệp trong thời kỳ khó khăn là tập trung nhiều hơn và tập trung tốt hơn vào những mục tiêu chính. Nhờ thu hẹp nguồn lực trên thị trường, doanh nghiệp có thể tập trung chăm sóc khách hàng, các phân khúc thị trường chính, các bộ phận chủ yếu của doanh nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp hoạt động quá dàn trải, chủ yếu phát triển theo chiều rộng. Vì thế cần đánh giá lại nhóm khách hàng hiện tại để tập trung nỗ lực marketing vào những nhóm khách hàng tiềm năng có nhu cầu và có sức mua cao. Chú trọng tập trung vào các công cụ “đẩy” chứ không phải “kéo” và chuyển mạnh từ marketing gián tiếp sang marketing trực tiếp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần chủ động tham gia vào các hiệp hội ngành hàng, các tổ chức kinh doanh để chia sẻ thông tin, liên kết kinh doanh và phối hợp hành động trên thị trường. Doanh nghiệp có thể chủ động điều chỉnh hoạt động marketing cho phù hợp với những thay đổi trong chính sách điều hành vĩ mô của Chính phủ. Muốn vậy, doanh nghiệp phải theo dõi sát những thay đổi của Chính phủ và đón trước những cơ hội do các chính sách kinh tế vĩ mô tạo ra. Doanh nghiệp cần khôn ngoan và chủ động trong việc chống chọi với cơn bão suy thoái, phát huy được các đặc tính “mạnh”, “nhanh”, “lỳ” và “khôn” để cạnh tranh trong thời kỳ khó khăn này [11] Nói tóm lại, doanh nghiệp cần phải thay đổi chiến lược theo cách tập trung hóa, cần phải hướng vào những mục tiêu mà doanh nghiệp đã lựa chọn tránh dàn trải, phân bổ nguồn lực. Thêm nữa cần theo sát sự chuyển biến của thị trường và thay đổi của Chính Phủ về chính sách điều hành vĩ mô để có hướng xử lý kịp thời. Chú trọng hơn đến thị trường trong nước. Khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra, giá cả tăng cao, thu nhập không ổn định, người tiêu dùng càng cẩn trọng hơn trong việc mua sắm. Đây là vấn đề xảy ra ở tất cả các nước chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Doanh nghiệp đứng trước cảnh hàng hóa ế ẩm, không tiêu thụ được, không quay vòng sản xuất được. Từ đó hình thành nên những khó khăn trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Ngoài ra, sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường nước ngoài mà không tiêu thụ được thì sẽ phát sinh rất nhiều chi phí. Vì lẽ đó, doanh nghiệp nên chú trọng vào thị trường trong nước về cả đầu vào lẫn đầu ra. Từ trước tới nay, các quốc gia thường khai thác thị trường trong nước. Chỉ có những năm gần đây khi hội nhập kinh tế quốc tế thì tỷ lệ nhập khẩu nhiều hơn, những quốc gia này ít chú trọng khai thác thị trường trong nước nữa mà chủ yếu nhập khẩu những hàng hóa có sẵn, từ đó phát sinh thêm nhiều chi phí trong quá trình nhập nguyên liệu đầu vào. Chính vì vậy, Cần khai thác tối đa thị trường trong nước để giảm quy mô nhập khẩu, nhằm giảm mức độ phụ thuộc của Việt Nam vào các thị trường nguyên, nhiên, vật liệu đối với các nước trong khu vực. Nghiên cứu, điều chỉnh công nghệ, nâng cao phần giá trị gia tăng sản xuất trong nước thông qua việc khai thác các nguồn nguyên, nhiên, vật liệu sẵn có trong nước. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu, đặc biệt là dệt may, giày dép, thiết bị điện tử đã đáp ứng được nhu cầu của các thị trường khó tính như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, cần nỗ lực khai thác thị trường nội địa để duy trì quy mô hoạt động trong thời kỳ khó khăn, đồng thời đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước, giảm áp lực nhập khẩu hàng tiêu dùng, góp phần cân bằng cán cân thương mại, nhất là hỗ trợ cho các nhà sản xuất lúc thị trường xuất khẩu có biến động xấu.[13] Thêm nữa, Cùng với gói chính sách hỗ trợ của Nhà nước, doanh nghiệp cần tăng cường khai thác thị trường trong nước để hướng gói kích cầu vào đúng hàng hóa trong nước chứ không phải là hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt là doanh nghiệp trong các ngành dệt may, gia dày, thủ công nghiệp, chế biến nông nghiệp và thủy sản vốn trước đây chú trọng ưu tiên thị trường xuất khẩu hơn. Doanh nghiệp nên chú trọng thâm nhập mạnh vào các vùng nông thôn, một thị trường tiềm năng lâu nay bị bỏ ngỏ. Để có thể thâm nhập thị trường trong nước, doanh nghiệp cần: (1) nghiên cứu thị trường để nắm nhu cầu thị trường về mẫu mã, chất lượng, giá cả, cơ cấu dòng sản phẩm…; (2) chú trọng khâu phát triển sản phẩm cho thị trường trong nước. Dù doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn, nhưng sản phẩm chủ yếu làm theo mẫu của khách hàng nước ngoài (đặc biệt là ngành dệt may, da giày). Nếu muốn sản xuất để bán tại thị trường trong nước, doanh nghiệp cần phát triển các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách hàng trong nước; (3) kênh phân phối là điều kiện không kém phần quan trọng. Doanh nghiệp có thể liên kết với các doanh nghiệp đã có kênh phân phối khá vững nhằm hỗ trợ cho việc tiêu thụ hàng hóa. Mặt khác, để thành công tại thị trường trong nước, doanh nghiệp cần định vị thị trường này như một chiến lược lâu dài, phải có sự đầu tư dài hơi và thỏa đáng về các mặt nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm, khâu nguyên liệu và kênh phân phối. Mục tiêu chính là thị trường trong nước, tuy nhiên cũng không nên quá khắt khe trong vấn đề này trong khi thị trường nước ngoài sẽ đem lại lợi nhuận lớn cho các doanh nghiệp. Hiện nay, khu vực Trung Đông, Ấn Độ được coi là không bị ảnh hưởng nhiều từ suy thoái kinh tế thế giới, nên sẽ thu hút hàng nhập khẩu từ nhiều quốc gia, đây là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam. Thị trường Trung Đông gồm 15 quốc gia với tăng trưởng khu vực năm 2008 là 5,9% và ước đạt 5% trong năm 2009. Năm 2008, thị trường Trung Đông nhập khẩu 541,5 tỉ đô la Mỹ, trong khi Việt Nam chỉ xuất khẩu sang thị trường này được 1,27 tỉ. Như vậy, tăng cường xuất khẩu sang Trung Đông có thể bù đắp cho sự suy giảm của các thị trường truyền thống là Mỹ, EU, Nhật. Bên cạnh đó, các hiệp hội cùng với doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư vào hệ thống phân phối ở các thị trường truyền thống này. Kiểm soát tài chính chặt chẽ và hợp lý hóa chi phí sản xuất. Một khi đã hiểu rõ mình bị tác động như thế nào, doanh nghiệp cần có kế hoạch để đưa doanh nghiệp vượt qua cơn bão khủng hoảng và thoát ra ở vị trí tốt nhất có thể. Việc này nên bắt đầu từ việc bảo vệ các nền tảng tài chính cơ bản của doanh nghiệp như đảm bảo dòng tiền dương, tiếp cận nguồn vốn và khả năng thanh khoản là những yếu tố cơ bản khi nền kinh tế suy thoái, thực hiện quản lý tiền mặt chặt chẽ. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần xem xét tỷ lệ vay hợp lý, đồng thời tăng cường hiệu quả hoạt động. Lãnh đạo doanh nghiệp nên làm cho mọi thành viên trong doanh nghiệp hiểu và sử dụng các khoản chi phí một cách hợp lý, giúp họ thấy được trách nhiệm lúc này của họ là cùng với doanh nghiệp vượt qua khó khăn.[11] Đó là các giải pháp tái cơ cấu vốn, tài sản và xử lý các vấn đề liên quan đến đầu tư và dòng tiền mặt bổ sung, cũng như các giải pháp kiểm soát và quản lý tiền mặt. Tổ chức lại quá trình sản xuất và phân phối, từ đó xác định tổng chi phí cần thiết. Sau đó, doanh nghiệp cần phát triển cơ cấu vốn thích hợp nhằm hỗ trợ hiệu quả cho mô hình kinh doanh mới theo dự trù của mình. Cụ thể doanh nghiệp nên kiểm soát tài chính chặt chẽ để tránh sự biển thủ và các kiểu gian lận tài chính trong công ty mà các hình thức phổ biến nhất chính kẻ cắp là nhân viên. Các doanh nghiệp nhỏ có xu hướng là nạn nhân của sự bịp bợm này vì họ không có các qui trình để kiểm soát và ngăn ngừa được nó. Chính vì vậy, các chủ doanh nghiệp cần: Phân công công việc cho những người. Không giao cho một nhân viên duy nhất kiểm soát một giao dịch tài chính từ đầu đến cuối. Người viết séc sẽ không bao giờ là người ký séc. Người mở thư sẽ không bao giờ là người vào sổ theo dõi công nợ và đối chiếu các tài khoản. Bằng cách chia nhỏ trách nhiệm, sẽ làm cho người có ý định biển thủ gặp khó khăn nếu họ có ý định thay đổi các con số để che dấu hành động biển thủ của họ. Chủ doanh nghiệp đích thân đi lấy các báo cáo của ngân hàng. Không giao cho một người ở vị trí có thể biển thủ tiền một cơ hội nào để huỷ hoặc di chuyển các chứng cớ của những việc làm đã sai. Người chủ doanh nghiệp hoặc một người kế toán thuê ngoài phải được nhận những giấy báo chưa mở niêm phong của ngân hàng và huỷ những tấm séc mỗi tháng. Hãy kiểm tra những tấm séc này thật cẩn thận. Và hãy kiểm tra những người nhận tiền, các chữ ký và ký hậu trên mỗi tấm séc. Theo dõi kỹ các hoá đơn thu tiền bằng cách thu xếp tối thiểu là hai nhân viên trở lên để đếm và kiểm tra xác minh các khoản tiền thu vào. Đảm bảo rằng tất cả các tấm séc thu vào đều được ký hậu đúng. Cần cân nhắc việc mua con dấu "chỉ để ký quỹ" và đóng chúng lên các tấm séc đến – điều này có thể ngăn ngừa nhân viên đổi chúng ra tiền mặt. Cho kiểm toán sổ sách thường xuyên. Hãy sử dụng bên thứ ba để thực hiện kiểm toán sổ sách ít nhất là một lần trong năm . Điều này làm cho những kẻ biển thủ công quỹ gặp khó khăn khi cố gắng che dấu hành vi ăn cắp. Việc kiểm toán nên thực hiện bất ngờ và gây ngạc nhiên; và bạn đừng để nó xảy ra vào cùng một thời gian trong mỗi năm.[19] Bằng những cách thức như trên thì tài chính doanh nghiệp sẽ được rõ ràng và chặt chẽ hơn. Đặc biệt có lợi hơn rất nhiều trong tình trạng khó khăn đang xảy ra và nguồn vốn vô cùng khan hiếm. Về phương diện kinh doanh, doanh nghiệp khó khăn do sản phẩm không tiêu thụ được. Bên cạnh đó cũng phải kể đến tình trạng giá cả sản phẩm tăng cao trong khi thu nhập của người dân giảm sút khiến nhiều người chùn ty khi mua sắm, đến nỗi thực phẩm thiết yếu còn giảm sức mua nữa là hàng xa xỉ phẩm. Trước thực trạng như vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có sự tính toán phù hợp về chi phí sản xuất để sao cho giá cả và chất lượng hấp dẫn người tiêu dùng. Một thực tế hiện nay trên thị trường đó là các doanh nghiệp thường đưa ra các chiến lược khuyến mại để kích thích tiêu dùng. Đó là một cách giúp doanh nghiệp có thể hoạt động, sản xuất bình thường trước những khó khăn đang gặp phải. Tuy nhiên, hạn hẹp về nguồn thu là yếu tố khó có thể kích thích được người dân tiêu dùng sản phẩm. Chính vì vậy, doanh nghiệp nào mà có chiến lược sản phẩm, chiến lược khuyến mại có giá thành sản phẩm thấp hơn so với những hãng khác sản xuất cùng loại sẽ kích thích nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của người dân. Đó là một thành công lớn đối với doanh nghiệp hiện nay. KẾT LUẬN Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 tại Mỹ đã gây ra hậu quả tồi tệ nhất từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay. Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn phải tuyên bố phá sản đã gây ra những trấn động lớn trên thị trường trong nước và khu vực. Xảy ra vấn đề lớn như vậy là do sự kiểm soát các hoạt động kinh doanh đối với các sản phẩm phái sinh trên thị trường tài chính Mỹ không chặt chẽ. Trước tình hình này, Chính Phủ các quốc gia đã và đang có những biện pháp nhằm khắc phục tình trạng đi xuống của nền kinh tế trong nước thông qua cac biện pháp về chính sách tài chính và chính sách tài khóa. Đối với Việt Nam, khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động không chỉ làm cho kim ngạch xuất khẩu sụt giảm, đầu tư trong nước và nước ngoài khó khăn mà còn gây phá sản cho nhiều doanh nghiệp. Đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ và vừa ( DNNVV). Trước tình hình này, Chính Phủ Việt Nam đã có chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng như giãn thuế, giảm thuế, hỗ trợ về vốn… Mặt khác, cũng phải kể đến sự linh hoạt của các doanh nghiệp, đã biết tận dụng sự hỗ trợ của Chính Phủ và nội lực bên trong doanh nghiệp để làm bàn đạp vượt qua khó khăn. Bên cạnh những kết quả đạt được cũng phải kể đến có nhiều doanh nghiệp vẫn khó khăn trong việc tiếp cận về vốn từ các ngân hàng. Chính vì vậy đòi hỏi Chính Phủ cần có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp với những khoản vốn nhanh hơn để khắc phục khó khăn. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã gây ra những khó khăn rất lớn đối với các nước, đặc biệt là các nước phát triển. Đối với Việt Nam, là nước ít bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ cuộc khủng hoảng này. Chính vì thế mà trong tương lai thị trường Việt Nam sẽ là thị trường ổn định hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Vì vậy, Chính Phủ Việt Nam và các doanh nghiệp cần có những chính sách, biện pháp để kích thích đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài. Đó sẽ là thuận lợi lớn để giúp Việt Nam phát triển trong tương lai. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO H.Anh, “DDM: Năm 2009 lợi nhuận giảm 92,1% so với cùng kỳ (HOSE: 27/2/2010)” Phạm Văn Dũng, Giáo trình “ Kinh tế chính trị Mac - Lenin”, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, Tr. 138 – 140. Khương Duy (2008), “ Kinh tế Mỹ 2008 – vật lộn chống lại suy thoái và triển vọng 2009”, Tạp chí Những vấn đề Kinh Tế và Chính Trị thế giới, (12), Tr.29 – 40. Tiến Đức (2009), “ Gói kích cầu thứ hai của Chính Phủ - khơi thông nguồn vốn cho nền kinh tế”. Phước Hà (2008), “ 20% doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản”. Nguyễn Thị Thu Hường (2009), “ Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam”, Tr. 17 - 47. Ngọc Lan (2009), “ Gói kích cầu thứ hai sẽ hướng vào trung và dài hạn?”. Ngọc Lê (2009), “ 17.000 tỷ đồng kích cầu dành cho mọi thành phần kinh tế”. TSKH. Võ Đại Lược (2008), “ Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay và những tác động”, Tạp chí Những vấn đề Kinh Tế và Chính Trị thế giới, (10), Tr.3 – 10. Ts. Phan Minh Ngọc, “ Khủng hoảng và thất nghiệp”. Nguyễn Ngọc Sơn (2009), “ “ Mạnh, nhanh, lỳ và khôn” để vượt qua khủng hoảng”. Nam Thắng (2010), “Công nghiệp gặp khó do giá đầu vào tăng cao” Nguyễn Đình Thọ (2009), “ Xuất – nhập khẩu và tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2009”. Nguyễn Hồng Thu : “ Tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính”, Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh Tế 2009 – 2010 Việt Nam và Thế Giới, Tr. 95 – 97. Bá Tú (2009), “ Tiếp tục thực hiện gói kích cầu thứ hai: nhưng có trọng tâm, trọng điểm”. Đỗ Xuân Trường (2009), “ Tác động của khủng hoảng tài chính thế giới đến nông nghiệp Việt Nam và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, (5), Tr.19 – 22. Ái Vân ( 2010), “ Doanh nghiệp xuất khẩu mất cơ hội vì thiếu vốn” “ Doanh nghiệp phá sản hàng loạt, thất nghiệp tràn lan”. “Để kiểm soát tài chính của công ty” “Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp: Tiếp sức cho doanh nghiệp vượt khó” “ Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007 - 2009”. “ Nhiều doanh nghiệp suy giảm lợi nhuận” “ Thay đổi chiến lược để tận dụng cơ hội sau suy thoái”. “ Vietnam Airlines giảm lợi nhuận ” " Quyết sách lớn hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển" " Ưu đãi, hỗ trợ đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn "

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới các doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp khắc phục.doc