Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu: bằng chứng từ phân tích dữ liệu Panel Data

Lisbon Process ấn định một vai trò nổi bật để cải cách tài chính công nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do đó, mục đích chính của phân tích này là để làm sáng tỏ về mối quan hệ giữa tài chính công và tăng trưởng của EU-15. Những phát hiện chính là các vấn đề chi tiêu của ngân sách dường như luôn ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn trong chu kỳ kinh doanh.Cụ thể, kích thước của chính phủ và tiêu dùng của chính phủ được tìm thấy có một tác động rõ ràng là tiêu cực đối với tăng trưởng, trong khi chi tiêu đầu tư tác động một cách tích cực đến tăng trưởng.

pdf28 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2137 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu: bằng chứng từ phân tích dữ liệu Panel Data, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.........................................................................................16 5.1 Quy trình ước lượng..............................................................................................16 5.2 Kết quả ước lượng .................................................................................................19 5.2.1 Tài chính công và tăng trưởng ..................................................................... 19 5.2.2 Thuế và đầu tư tư nhân ................................................................................. 21 6 Kết luận ..........................................................................................................................23 Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 5 1 Giới thiệu Hội đồng châu Âu đặt ra quá trình Lisbon để nâng cao tốc độ tăng trưởng sản lượng trong các nước EU. Mục tiêu của chính sách kinh tế này là bộ phận để thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức với công nghệ cao, nguồn nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp lý phù hợp. Trong một quá trình theo dõi Lisbon, các Ủy ban và Hội đồng ECOFIN nhấn mạnh rằng "chất lượng" tài chính công đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng và việc làm. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ điều tra mô hình tăng trưởng là kết quả của những cải cách chính sách trong tương lai của quá trình Lisbon. Phân tích kinh nghiệm trong quá khứ ở các nước châu Âu chỉ ra rằng tài chính công có khả năng để tăng tỷ lệ tăng trưởng vĩnh viễn. Nghiên cứu hồi quy “Barro-type” đã tuyên bố tìm thấy bằng chứng cho sự tăng trưởng nội sinh nếu chính sách đa dạng và biến thể chế đã bao gồm trong các hồi quy ảnh hưởng đến hiệu suất dài hạn. Nhưng phương pháp này sẽ không còn phù hợp kể từ khi mẫu châu Âu là đồng nhất hơn trong các giải thích đặc trưng. Tiếp đó, một bài nghiên cứu khác đã chủ yếu tập trung vào hàng loạt tác động thời gian của hai hướng lý thuyết. Nếu biến chính sách sau một loạt mô hình thời gian cụ thể, thì tăng trưởng kinh tế nên thể hiện hành vi tương tự theo lý thuyết tăng trưởng nội sinh. Ngược lại, các thuộc tính chuỗi thời gian của biến chính sách lại không nhất thiết phải trùng với tăng trưởng sản lượng theo mô hình tăng trưởng ngoại sinh. Biến tài chính là môi trường thử nghiệm tốt cho những giả thuyết này, kể từ khi thuế bóp méo và chi tiêu sản xuất được cho là có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển kinh tế theo lý thuyết tăng trưởng nội sinh, trong khi đó họ cần phải có mức độ ảnh hưởng từ một quan điểm tân cổ điển. Chúng tôi sẽ sử dụng những dự đoán như một cơ sở để giải thích các mô hình quan sát được của sự tăng trưởng kinh tế và phát triển tài chính công đã không được thực hiện một cách có hệ thống ở châu Âu. Đây là thiếu sót trong các nghiên cứu thực nghiệm mà nghiên cứu của chúng tôi muốn làm rõ. Ban đầu, chúng tôi sẽ phân tích các tính chất chuỗi thời gian của tăng trưởng sản lượng và các biến về chính sách tài khóa để xác định mức độ ổn định. Trong phần thứ hai, chúng tôi sẽ ước tính tác động của chính sách tài chính đối với xu hướng tăng trưởng bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận phân phối trễ. Bài viết này có kếu cấu như sau. - Phần 1: Giới thiệu - Phần 2: Mô tả ngắn gọn các nền tảng lý thuyết và những thiếu sót của các bằng chứng thực nghiệm hiện có trong lĩnh vực này. - Phần 3: M ô tả các dữ liệu được sử dụng trong các tính toán thực nghiệm. Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 6 - Phần 4: Chúng tôi phân tích các tính chất chuỗi thời gian tăng trưởng sản lượng bình quân đầu người thực tế và các các biến tài chính công. Phân tích này cho thấy có sự phát triển bền vững trong tăng trưởng GDP bình quân đầu người và các biến tài chính, điều này phù hợp với một số dự đoán lý thuyết về tăng trưởng dài hạn. - Phần 5: Chúng tôi tiến hành ước tính độ phân phối trễ như một kiểm tra hệ thống hơn về tác động lâu dài của tài chính công. - Phần 6: Kết thúc. 2 Lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm hiện có Các bài viết về phát triển lý thuyết dựa trên tất cả những thực nghiệm yếu tố nội sinh của tốc độ tăng trưởng sản lượng trong dài hạn. Mô hình tăng trưởng của Solow (1956) và Cass (1965) cùng những nhà nghiên cứu khác đã hình thành xu hướng tăng trưởng chịu ảnh hưởng chủ yếu của các yếu tố ngoại sinh. Lý thuyết tăng trưởng nội sinh của Romer (1986, 1990), Lucas (1988), Barro (1990) và Rebelo (1991) và những người khác chỉ ra các biến số chính sách có thể không chỉ ảnh hưởng đến mức sản lượng mà còn ảnh hưởng đến tỷ lệ tăng trưởng ổn định trong tương lai. Barro (1990) chỉ ra rằng có mối quan hệ giữa tăng trưởng và chính sách tài khóa. Ông phân biệt bốn loại tài chính công: chi tiêu sản xuất so với chi tiêu phi sản xuất và thuế bóp méo với thuế không bóp méo. Chúng tôi trình bày một phác thảo đơn giản của mô hình Barro để cho thấy rằng cả chi tiêu công và thuế bóp méo có thể ảnh hưởng lâu dài sự tăng trưởng sản lượng. Chúng tôi cho rằng tất cả những người tiêu dùng được chuẩn hóa thành một. Cả người tiêu dùng tiêu thụ và sản xuất sản phẩm cuối cùng theo chức năng sản xuất sau đây: (1) k là viết tắt của vốn vật chất tư nhân tích lũy và g là chi tiêu chính phủ trực tiếp vào quá trình sản xuất. Người ta cho rằng sự hạn chế ngân sách nhà nước được cân đối trong từng thời kỳ và được cho bởi (2) trong đó G đại diện cho chi tiêu chính phủ mà không trực tiếp tham gia vào chức năng sản xuất như một đầu vào, T đại diện cho tổng thuế và τ là tỷ lệ thuế tương ứng trên sản lượng làm sai lệch các quyết định đầu tư. Người tiêu dùng tối đa hóa hữu dụng liên thời gian của họ được tính bởi phụ thuộc vào giới hạn ngân sách. ρ đại diện tỷ lệ theo thời gian và σ Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 7 là độ co giãn thay thế liên thời gian của mức tiêu thụ. Tốc độ tăng trưởng tiêu thụ và sản lượng trong trạng thái ổn định có dạng: (3) Công thức (3) cho thấy chi tiêu sản xuất của chính phủ như một phần của sản lượng ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng dài hạn trong khi thuế bóp méo có tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Chi tiêu không hiệu quả cũng như tổng số thuế không ảnh hưởng đến tăng trưởng sản lượng trong trạng thái ổn định. Từ mô hình này, chúng ta xem xét các biến tài chính từ cả hai mặt của vấn đề giới hạn ngân sách cho sự phát triển và sự thất bại của cả chi tiêu chính phủ và thuế bóp méo trong hồi quy tăng trưởng sẽ dẫn đến mô hình sai quy định. Jones (1995) là người đầu tiên khai thác thuộc tính chuỗi thời gian để kiểm tra lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh so với nội sinh. Ông bắt đầu với lập luận đơn giản là theo lý thuyết tăng trưởng nội sinh, sự thay đổi thường xuyên trong một số biến chính sách có tác dụng lâu dài đến tốc độ tăng trưởng của sản lượng. Do đó, nếu tốc độ tăng trưởng tại Mỹ và các nước OECD khác hiện không có thay đổi liên tục, các biến chính sách cơ bản cũng sẽ không có sự thay đổi lớn hoặc sự thay đổi liên tục của các biến phải được bù đắp. Tuy nhiên, sử dụng phương pháp ước lượng theo mô hình phân phối trễ của Dickey và Fuller (1979, ADF), kết quả cho thấy sự thay đổi trong đầu tư và chi phí R&D không gây bất kỳ ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển, do đó bác bỏ những dự đoán của lý thuyết tăng trưởng nội sinh . Karras (1999) cũng tiếp cận chủ yếu theo phương pháp của Jones (1995), tập trung vào tác động của thuế đối với tăng trưởng GDP bình quân đầu người. Ông phân tích trên 11 quốc gia OECD, thấy rằng tốc độ tăng trưởng GDP thực tế nói chung là cố định, trong khi chuỗi dữ liệu thuế và thuế suất trực tiếp có dấu hiệu là những chuỗi không dừng ở hầu hết các nước. Ông kết luận rằng việc điều chỉnh mức thuế suất không liên quan đến những thay đổi thường xuyên của tăng trưởng GDP thực tế, trừ khi những thay đổi lâu dài trong các loại thuế bị hủy bỏ do những thay đổi thường xuyên trong chính sách biến khác. Tuy nhiên, ông không nghiên cứu khả năng cuối cùng bằng cách đưa quy mô chi tiêu ngân sách vào trong phân tích của mình. Evans (1997) đạt được kết quả tương tự bằng cách phân tích tác động của tiêu dùng của chính phủ về phát triển trên mẫu gồm 92 quốc gia. Kocherlakota và Yi (1997) kiểm tra xem thuế hay đầu tư công có bất kì ảnh hưởng lâu dài đến tăng trưởng sản lượng hay không dựa trên chuỗi thời gian lên đến 100 năm đối với M ỹ và 160 năm cho Vương quốc Anh. Bởi vậy, họ kết hợp cả hai mặt của ngân sách vào phân tích của họ và thấy rằng những dự đoán của lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh thường bị từ chối khi thuế và đầu tư công được đưa vào các mô hình kinh tế. Tuy nhiên, họ không chính thức kiểm tra sự đồng biến của các biến chính sách. Điều này cũng Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 8 đúng với Kneller và đồng nghiệp (1999) và Bleaney cùng đồng nghiệp (2001), họ đã ước lượng ảnh hưởng dài hạn của tài chính công đến tăng trưởng các nước OECD, việc tìm kiếm một tác động tăng trưởng đáng kể chi tiêu sản xuất và sự bóp méo thuế. Bài nghiên cứu đi vào nghiên cứu khả năng hai lực lượng đối kháng có thể truyền đạt một tác dụng ngược lại (và có thể bù đắp) đối với tăng trưởng theo logic phân tích của Jones. Điều này được thực hiện bằng cách kết hợp hai giả thuyết chính. Một mặt khác, chúng tôi đi theo mô hình tăng trưởng nội sinh của Barro (1990) trong đó dự đoán rằng chi tiêu sản xuất của chính phủ và thuế bóp méo gây một tác dụng tăng trưởng của các dấu hiệu ngược lại. Bên cạnh đó, chúng tôi xem xét các lý thuyết về phát triển bền vững liên thời gian của chính sách tài khóa, trong đó dự đoán rằng chi tiêu chính phủ và các khoản thu được cùng kết hợp để đảm bảo rằng ràng buộc ngân sách ổn định ở mức giá trị hiện tại được duy trì. Vì vậy, ngay cả khi chúng ta thấy rằng các biến tài chính riêng lẻ không ổn định trong khi tăng trưởng sản lượng xuất hiện ổn định, mô hình phân tách này có thể vẫn được hòa hợp với dự đoán tăng trưởng nội sinh nếu tồn tại một biến số chính sách có ảnh hưởng bù đắp vào sự phát triển. Do đó, không giống như các nghiên cứu của Evans (1997) và Karras (1999), dựa trên lý thuyết về ổn định tài khóa, chúng ta nhìn vào nguồn gốc của giới hạn ngân sách của chính phủ bởi vì bất kỳ khoản chi bổ sung cần phải được tài trợ, dẫn đến một tác động lớn hơn của thuế bóp méo. 3 Dữ liệu Một số nghiên cứu trước bài nghiên cứu này chỉ tập trung vào dữ liệu của chính phủ trung ương, tuy nhiên, cách tiếp cận này rõ ràng còn những hạn chế, do đó bài nghiên cứu này sử dụng dữ liệu trên cơ sở toàn bộ hoạt động của chính phủ. Đầu tiên, toàn bộ hoạt động của chính phủ và không chỉ hoạt động của chính phủ trung ương nên tính từ một quan điểm kinh tế. Thứ hai, toàn bộ chính phủ cung cấp một dữ liệu đồng nhất hơn so với chỉ thiết lập ở chính quyền trung ương, vì ở đó có thể có những thay đổi mạnh mẽ tùy thuộc các tổ chức của chính quyền quốc gia và địa phương. Vì vậy, chúng tôi sử dụng dữ liệu cho chi tiêu chung của Chính phủ và các khoản thu trong tất cả các nước thành viên EU 1960-2001 (Ủy ban Ameco tập hợp dữ liệu, mùa thu năm 2002). Tất cả các chuỗi thời gian được tính trong các bản ghi và các biến tài chính được xác định bằng tỉ lệ so với GDP. Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 9 Dữ liệu để tính toán mức độ và tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người cũng như tỷ lệ đầu tư tư nhân trong GDP được lấy từ OECD Economic Outlook. 4 Các thuộc tính chuỗi thời gian của tăng trưởng và tài chính công Đánh giá tác động tiềm năng của các chính sách tài chính đối với tăng trưởng chúng ta hãy nhìn vào các thuộc tính chuỗi thời gian của dữ liệu. Giả thuyết rằng sự thay đổi lâu dài trong các biến chính sách có ảnh hưởng đến một sự thay đổi lâu dài trong mô hình tăng trưởng, nếu lý thuyết tăng trưởng nội sinh đúng, giả thuyết này là tương thích với các mô hình chuỗi thời gian khác nhau. Vì vậy, trước tiên chúng ta tìm kiếm các xu hướng thay đổi dài hạn xác định và sau đó đến các quá trình ngẫu nhiên liên tục. 4.1 Những xu hướng có tính xác định Hình 1 trình bày tốc độ tăng trưởng của GDP thực bình quân đầu người ở các nước thành viên Liên minh châu Âu 1961-2001. Từ những biểu đồ có thể thấy không có một mô hình chuỗi thời gian rõ ràng và thống nhất cho tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người ở tất cả các nước. Có 3 xu hướng chung diễn ra ở các nước. Hàng đầu tiên cho thấy một xu hướng ước tính trung bình chung và hệ số xu hướng cho tất cả các nước. Hàng thứ hai cho thấy trong ước tính hệ số xu hướng (tức là cho phép đánh chặn để thay đổi) và hàng thứ ba là một ước tính trung bình-nhóm các hệ số xu hướng mà được tính bằng trung bình của ước lượng các cá thể. Các hệ số ước tính cho một xu hướng xác định trong tăng trưởng GDP bình quân đầu người mang một dấu hiệu tiêu cực và rất có ý nghĩa thống kê. Chuyển sang các biến tài chính công, hình. 2 cho thấy rằng đã có một sự gia tăng rõ ràng trong chi tiêu công ở đầu những năm 1980 ở tất cả các nước. Xu hướng này san phẳng về sau hoặc thậm chí đảo ngược. Tại Bỉ, Ireland, Luxembourg và Hà Lan, đảo ngược thiết lập trong những năm 1980, trong khi nó là tính chất gần đây ở hầu hết các quốc gia khác. Tổng thu nhập cho thấy một sự gia tăng tương tự nhưng thường ít rõ ràng hơn trong các năm 1960 và 1970. Xu hướng này sau đó cũng san phẳng trong hầu hết trường hợp, nhưng không được đảo ngược. Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 10 Bởi vì toàn bộ chi tiêu và tổng thu là thước đo không phản ảnh chính xác các khoản chi tiêu sản xuất và bóp méo thuế, Bảng 1 trình bày ước tính các ước lượng xu hướng khác nhau cho một số loại chi tiêu và thu nhập mà có thể có ảnh hưởng đến tăng trưởng theo mô hình của Barro. Cột thứ hai khẳng định xu hướng tăng trong dài hạn của chi tiêu chính phủ, xuất hiện chủ yếu là do chi chuyển giao và mở rộng chi tiêu dùng của chính phủ. Điều thú vị là đầu tư công cho thấy sự phát triển ngược lại. Song song, bóp méo thuế - được tính là tổng của toàn bộ số thuế trực thu và đóng góp an sinh xã hội - tăng đều trong thập kỷ qua. Sự suy giảm dài hạn của đầu tư công và gia tăng bóp méo về thuế đều tương thích với sự phát triển xu hướng thấp hơn rõ ràng trong ước tính của chúng tôi. 4.2 Xu hướng ngẫu nhiên Đưa ra các mô hình quan sát trong biểu đồ 2 và 3, biến chính sách của chúng tôi có thể không chỉ thể hiện xu hướng ngẫu nhiên xác định mà còn có những xu hướng ngẫu nhiên qua nhiều năm. Để kiểm tra giả thuyết này, chúng tôi thực hiện các bài kiểm tra đơn vị gốc vượt qua năng lượng thấp kết hợp với kiểm tra đơn vị cá nhân. Chúng tôi sử dụng các phương pháp kiểm định của Im et al. (2003) (henceforth, IPS) và Breitung (2000). Đặc điểm kỹ thuật bảng điều khiển của chúng tôi sẽ có dạng: Trong đó pi là mức độ một quốc gia cụ thể cần tăng thêm độ trễ Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 11 N và T là số lượng các đơn vị mặt cắt ngang và thời gian quan sát tương ứng αi và δit đại diện cho hiệu ứng cố định và xu hướng xác định tương ứng của một quốc gia cụ thể θt là viết tắt của biến giả thời gian sử dụng để đo lường cho tương quan mặt cắt ngang có thể là kết quả của những cú sốc chung tác động đến thành viên ban hội thẩm trong một thời gian nhất định Giả thuyết H0 của kiểm định IPS nghĩa là γi = 0, với mọi i, nghĩa là tất cả các dòng có một gốc đơn vị, được kiểm định với H1 thay thế γi < 0 với i = 1,2,…, N1 và γi = 0, với i = N1 + 1, N1 + 2,…, N Giả định rằng các đơn vị mặt cắt ngang N được phân phối độc lập, thống kê t có thể được tính như một trung bình của thống kê cá nhân ADF-t như sau: Trong đó tiT(pi,ρi) là t hống kê t để t hử nghiệm γi = 0 trong mỗi đặc điểm kỹ thuật cá nhân ADF. Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 12 Giả định rằng những thời điểm thứ 2 của tiT(pi,ρi) t ồn tại, t hống kê t¯NT ð p; qÞ được hiệu chỉnh cho cỡ mẫu nhỏ như sau: Trong đó E[tiT( pi,0) / γi = 0] và Var[tiT( pi,0) / γi = 0] là những yếu t ố điều chỉnh thu được t hông qua mô p hỏng ngẫu nhiên. Số liệu thống kê tiêu chuẩn hóa hội tụ yếu đến một tiêu chuẩn một mặt phân phối bình thường dưới sự vô giá trị và phân kỳ theo phương án thay thế. Do đó, chúng ta cần phải so sánh giá trị của Zt với các giá trị quan trọng từ một phân phối chuẩn tiêu chuẩn. Kiểm định IPS bị giảm đáng kể sức mạnh khi xu hướng không đồng nhất có bao gồm trong đặc điểm kỹ thuật là kết quả của sự điều chỉnh sai lệch mẫu nhỏ áp dụng cho các thống kê t (Baltagi and Kao, 2000a,b; Breitung, 2000). Để giải quyết vấn đề này, Breitung (2000) đề xuất một đơn vị kiểm tra gốc sử dụng bảng thống kê t . Bằng cách cho phép các xu hướng xác định không đồng nhất và động lực ngắn hạn giữa các quốc gia mà không cần điều chỉnh sai lệch. Kiểm định của Breitung có nhiều quyền lực hơn để từ chối một giả thuyết sai và không nhạy cảm với mức độ tăng thêm của các chi tiết kỹ thuật ADF. Bảng 2 trình bày kết quả cho sự phát triển bình quân đầu người thực tế, thu nhập hiện tại và tổng chi với các thành phần tương ứng (ví dụ thuế trực thu, các khoản đóng góp an sinh xã hội, thuế gián tiếp, tiêu thụ của chính phủ, chuyển giao và đầu tư công). Kết quả kiểm tra cho thấy GDP bình quân đầu người theo mô hình I(1), trong khi tốc độ tăng trưởng bình quân GDP thực là ổn định cho các mẫu của EU-15. Kết quả cho các biến tài khóa cũng rõ ràng. Liên quan đến mặt thu nhập của ngân sách, kiểm định IPS và Breitung Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 13 xác định một gốc đơn vị trong tất cả các chi tiết kỹ thuật cho tổng các khoản thu và thuế bóp méo. Kết quả này có vẻ chủ yếu là do các thành phần thuế trực tiếp mà rõ ràng có chứa một gốc đơn vị, bởi vì kết quả cho những đóng góp an sinh xã hội là hỗn hợp. Trong khi kiểm định IPS từ chối giả thuyết vô giá trị của một đơn vị gốc trong các khoản đóng góp an sinh xã hội ở mức 1% khi xu hướng được bao gồm và ở mức 10% trong các chi tiết kỹ thuật không có xu hướng, thì kiểm định Breitung không từ chối. Liên quan đến vấn đề chi tiêu ngân sách, tổng chi và các tiểu mục của nó được thúc đẩy bởi một xu hướng ngẫu nhiên. Số liệu thống kê gốc đơn vị cho các biến trong lần đầu tiên cho thấy sự khác biệt biến phi tài chính được thể hiện ở lệnh thứ 2. Một cách tổng quan, tăng trưởng sản lượng là ổn định trong khi các biến chính sách tài khóa là biến động. Nếu đầu tư công được coi là chi tiêu sản xuất và thuế trực thu như thuế bóp méo, kết quả này có thể được coi như một thách thức đối với lý thuyết tăng trưởng nội sinh. Vì những thay đổi liên tục trong các chính sách tài khóa không xuất hiện đồng thời với những thay đổi liên tục trong tốc độ tăng trưởng bình quân GDP, không có hỗ trợ cho các dự đoán tăng trưởng nội sinh theo hướng lập luận bởi Jones (1995) và Karras (1999). 4.3 Kết hợp các khoản chi tiêu và các khoản thu Mô hình chuỗi thời gian phân kỳ tăng trưởng GDP bình quân đầu người và các biến chính sách tài khóa vẫn có thể được xem là phù hợp nếu bổ sung thêm một biến số chính sách có ảnh hưởng bù đắp dài hạn đối với sự phát triển. Nói cách khác, hai điều kiện phải được đáp ứng: thứ nhất, các biến phải cùng di chuyển với các công cụ chính sách được xem xét, và thứ hai, nó phải được thể hiện một hiệu ứng tăng trưởng liên tục theo lý thuyết tăng trưởng nội sinh. Các ứng viên quan sát ở đây đang nhìn vào mặt trái của ngân sách, vì bất kỳ sự gia tăng chi tiêu có được tài trợ, điều này có thể dẫn đến một hậu quả lớn hơn của thuế bóp méo. Có thể được chỉ ra rằng giới hạn ngân sách ổn định không thực sự bao hàm một mối quan hệ kết hợp giữa doanh thu và chi phí. Tuy nhiên, liệu mối quan hệ này có tồn tại cho mẫu của chúng tôi và liệu điều đó có thể giải thích mô hình quan sát được của tăng trưởng kinh tế vẫn còn là một câu hỏi thực nghiệm. Đầu tiên, lý thuyết tăng trưởng tập trung vào chi tiêu sản xuất và thuế bóp méo. Do đó, chưa có bằng chứng thực nghiệm cho mối quan hệ kết hợp giữa chi tiêu với các khoản thu. Thứ hai, giới hạn ngân sách ổn định phải được duy trì trong một phạm vi và mối liên kết với giả định rằng giải định rằng nền kinh tế hoạt động hiệu quả. Những tác động dài trong thời gian hữu hạn không rõ ràng, đặc biệt là khi nền kinh tế hoạt động không hiệu quả và tốc độ tăng trưởng vượt quá lãi suất. Trong hoàn cảnh này, các nước có thể tham gia vào một "canh bạc thâm hụt" ngay cả trong một khoảng thời gian dài (Ball và cộng sự, 1998;. O'Connell và Zeldes, 1988). Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 14 Vì vậy, chúng tôi tiến hành kiểm tra cho các kết hợp khác nhau của chi tiêu và doanh thu tổng hợp hoặc tiểu mục. Các kiểm tra của Pedroni (1999) phương pháp ước tính phần dư từ giả thiết hồi quy dài hạn có dạng Trong đó M là số lượng các biến hồi quy. Điều này có thể được xem như là một mô hình hiệu ứng cố định, trong đó αi và δit là quốc gia cụ thể và xu hướng xác định tương ứng, và γt đại diện cho một tập hợp các biến giả thời gian chung cho tất cả thành viên Hội đồng. Các hệ số, βmi (m = 1,2, ... M), được phép khác nhau giữa các cá nhân. Bằng chứng ủng hộ kết hợp được cung cấp khi thuế TNDN trong phương trình. (7) được tìm thấy ổn định. Điều này được thực hiện bằng cách từ chối các giả thuyết rằng ρi = 1 trong thuế TNDN ¼ khí ei; t 1 þ uit. Để xác định các mối quan hệ lâu dài, chúng tôi trình bày các kết quả của kết hợp và có nghĩa là nhóm thống kế ADF-t được phát triển bởi Pedroni (1999) cho các chi tiết kỹ thuật có và xu hướng xác định không đồng nhất. Pedroni (1999) tính lại tỷ lệ trung bình nhóm thống kê ADF -t với N−1/2 để nó được phân phối như một phân phối chuẩn tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn hóa các số liệu thống kê cùng kết hợp có thể được thể hiện như: Trong đó κNT là hình thức tiêu chuẩn thống kê kiểm định đối với N và T. Các giá trị của giá trị trung bình (μ) và không đúng (ν) được trình bày trong Pedroni (1999). Các giá trị của số liệu thống kê bình thường được so sánh với các giá trị quan trọng ngụ ý của phân phối chuẩn tiêu chuẩn thấp hơn. Chúng ta lựa chọn để bình thường hóa về tình trạng biến cho mặt doanh thu của ràng buộc ngân sách nhà nước, không có ngụ ý rằng sự chỉ đạo của quan hệ nhân quả là từ chi tiêu đến doanh thu. Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 15 Kết quả trong Bảng 3 hỗ trợ sự tồn tại của một mối quan hệ dài hạn giữa doanh thu và chi phí. Đầu tiên, tổng chi tiêu được tính theo % theo GDP dường như có mối quan hệ rõ ràng với tổng thu nhập hiện thời khi mà các xu hướng xác định đã được bao gồm trong các vectơ kết hợp. Kết hợp mẫu tương tự được tìm thấy cho các mối quan hệ dài hạn giữa tổng chi tiêu và các khoản doanh thu trong các đặc điểm kỹ thuật với xu hướng xác định. Với kết quả này, chúng tôi mong chờ "các mục lớn” đồng di chuyển với phía bên kia của ngân sách. Thật vậy, chúng ta thấy dấu hiệu rõ ràng rằng tổng số chi chuyển giao có mối liên hệ với các khoản thu nhập, đặc biệt với thuế bóp méo. Tiêu dùng của chính phủ có quan hệ với thuế trực tiếp và bóp méo. Cuối cùng, có bằng chứng chắc chắn rằng đầu tư công có liên hệ với tổng doanh thu cũng như với thuế bóp méo và các thành phần của nó, đặc biệt là trong các đặc điểm kỹ thuật mà không có xu hướng. Bảng 4 trình bày các ước tính về hệ số dài hạn đối với các biến vào vectơ kết hợp. Dự toán dài hạn nên cung cấp bằng chứng cho sự hợp tác giữa các loại chuyển động tài chính từ cả hai mặt của ngân sách. Chúng tôi căn cứ kết luận của chúng tôi trên trung bình-nhóm hoàn toàn thay đổi ước lượng OLS (FMOLS) bởi Pedroni (2000), trong đó điều chỉnh các OLS tiêu chuẩn cho sự thiên vị gây ra bởi các nội sinh và sự tương quan nối tiếp của các biến hồi quy đã đề xuất. Nó cũng cho phép co giãn kết hợp không đồng nhất và linh hoạt hơn thử nghiệm giả thuyết FMOLS gộp ước lượng. Vectơ kết hợp một lần nữa được chuẩn hóa trên các loại doanh thu. Nhìn vào những mối quan hệ từ phía chi ngân sách, chúng ta thấy rằng các hệ số dài hạn của các mối quan hệ của doanh thu tổng hợp với tổng chi phí là khoảng 0,7. Điều này cho thấy sự gia tăng trong tổng chi tiêu của chính phủ được bù đắp bởi sự gia tăng trong tổng số doanh thu. Chúng tôi thử nghiệm cho một mối quan hệ một-một giữa tổng doanh thu và tổng chi phí, loại bỏ sự tồn tại của một mối quan hệ tỷ lệ thuận với mức ý nghĩa 1%. Phát hiện này có thể được giải thích một phần bởi sự thiên vị thâm hụt dẫn đến một món nợ liên tục xây dựng trong những năm 1970 và 1980 trong nhiều quốc gia châu Âu. Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 16 Hơn nữa, hệ số của các mối quan hệ của chính phủ và tiêu thụ với tổng doanh thu của họ - lại giảm đáng kể khi biến giả thời gian được bao gồm, mặc dù còn lại tích cực và có ý nghĩa. Trong ngắn hạn, hoạt động này đã thể hiện một mối quan hệ mạnh mẽ giữa thu kết hợp công cộng và chi phí. Điều này cũng đúng đối với tập hợp ngân sách, nhưng cũng áp dụng cho tiểu mục. Hơn nữa, các vectơ kết hợp thường có các dấu hiệu dự kiến, cho thấy rằng chi phí và các khoản thu cùng di chuyển một hướng. Trong phạm vi mà thành phần kéo dài của chúng có thể có tác động ngược lại đối với tăng trưởng, do đó chúng sẽ triệt tiêu lẫn nhau. Đó sẽ là đặc biệt đúng đối với các mối quan hệ kết hợp giữa thuế trực tiếp và đầu tư công. Một trường hợp thú vị là mối quan hệ kết hợp tìm thấy giữa tiêu dùng của chính phủ và thuế gián tiếp. Vì vậy, nếu tiêu thụ chính phủ gây ảnh hưởng thúc đẩy tăng trưởng bền vững, điều này sẽ không được bù đắp hoàn toàn bởi sự phát triển thuế bóp méo. 5 Tác động của tài chính công về tăng trưởng dài hạn - Một thử nghiệm độ trễ phân phối Phần trước tìm kiếm cho quá trình tiền định đã chỉ ra rằng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người và các biến chính sách tài khóa được thể hiện là liên tục, phát triển lâu dài. GDP bình quân đầu người thực tế cho thấy một xu hướng giảm trong tốc độ tăng trưởng và các biến tài chính công theo một số xu hướng lên hoặc xuống liên tục mà có thể tương thích với mô hình tăng trưởng này. Khi chúng ta nhìn vào quy trình ngẫu nhiên, các biến tài khóa có tính chuỗi biến đổi liên tục, trong khi tăng trưởng GDP (trong dài hạn) có xu hướng dao động quanh một mức trung bình ổn định. Mô hình này vẫn còn tương thích với giả định rằng các tác động liên tục của chi tiêu sản xuất và thuế bóp méo triệt tiêu lẫn nhau. Nhưng ngay cả trong điều kiện cả hai tác dụng bù trừ cho nhau, chính sách tài khóa có thể có tác động ngắn hạn hoặc trung hạn trên tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Trong phần này, do đó chúng tôi sẽ phân tích một cách hệ thống hơn cho dù biến tài khóa có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong chu kì kinh doanh hay không. 5.1 Quy trình ước lượng Tác động lâu dài của chính sách tài khóa đối với tăng trưởng có thể được ước tính bằng cách sử dụng phương pháp “phân phối trễ”, kiểm soát cho cả hai mặt của ngân sách nhà nước. Vì vậy, một mô hình đơn giản theo dạng sau đây sẽ được ước tính: (9) Trong đó y chỉ sản lượng bình quân đầu người, g và τ đại diện cho chi tiêu chính phủ và các khoản thu danh mục thể hiện theo % GDP, αi là một tập hợp các biến quốc gia giả và I đại diện một số hữu hạn của độ trễ. Phương trình này về mặt lý thuyết có thể được sử Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 17 dụng để kiểm tra lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh so với nội sinh. Như Evans (1997) và Kocherlakota và Yi (1997) cho thấy, lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh có ý nghĩa khi: Khi thứ tự trễ đi đến vô cùng, ngược lại, lý thuyết tăng trưởng nội sinh có nghĩa khi chi tiêu sản xuất Và thuế bóp méo Nói cách khác, tổng hợp các hệ số có thể khác nhau từ không cho đến thứ tự trễ đủ lớn nếu dự đoán tăng trưởng nội sinh là có giá trị. Vì vậy, chúng tôi có thể không có khả năng phân biệt một cách hợp lý giữa hai lý thuyết tăng trưởng, nhưng chỉ có thể xác định tài chính công có tác động phù hợp với tăng trưởng theo chu kỳ và có thể ảnh hưởng đến xu hướng tăng trưởng. Vì vậy, chúng tôi sử dụng độ trễ dài tương đương tám kể từ khi phân tích xu hướng để chỉ một chu kỳ kinh doanh của sáu đến tám năm cho các nước châu Âu (xem Bouthevillain et al., 2001). Hơn nữa, đặc điểm kỹ thuật này là phù hợp với các tài liệu trong lĩnh vực tài chính công (egBleaney et al., 2001). Eq. (9) có thể được viết lại như công thức của độ trễ như sau: (10) Trong đó A (L) và B (L) đại diện cho hai đa thức trễ với một đơn vị gốc bên ngoài vòng tròn đơn vị. Chúng tôi biểu hiện bằng tham số lại phương trình (10) phù hợp với Jones (1995) để tách ảnh hưởng dài hạn và ngắn hạn như sau: (11) Trong đó C(L) và D(L) là (p-1) lần thứ bậc trễ đa thức sao cho: Khi s= 1,…, p-1 Tóm lại, các hệ số A(1) và B(1) chỉ ảnh hưởng dài hạn của chi tiêu chính phủ và các thu nhập danh mục trong tăng trưởng, trong khi các hệ số khác biệt sẽ chỉ sự tương tác ngắn hạn giữa các chính sách tài khóa và tốc độ tăng trưởng. Phương pháp ước lượng cơ bản được mở rộng ở hai khía cạnh. Đầu tiên, một tập hợp các biến tiêu chuẩn khác được thêm vào để kiểm soát các yếu tố tăng trưởng khác. Thứ Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 18 hai, chúng tôi sử dụng các biến cho những cú sốc ngắn hạn trong nước và quốc tế ảnh hưởng đến hoạt động tăng trưởng dưới tần suất chu kỳ kinh doanh để đảm bảo rằng kết quả của chúng tôi không bị bóp méo bởi mối tương quan ngắn hạn. Do đó, hàm ước lượng có dạng như sau: (12) Trong đó K là một vector của các tham số và đại diện cho một tập hợp các biến kiểm soát mà là phổ biến trong các tài liệu phát triển thực nghiệm. Điều này bao gồm tỷ lệ đầu tư tư nhân, độ tuổi trung bình đang đi học trong tổng dân số độ tuổi lao động, những thay đổi trong tỷ số mở cửa thương mại như xuất khẩu và nhập khẩu so với GDP, tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng GDP của Mỹ. Hệ số ước lượng của chúng tôi cho các biến tài khóa sẽ đánh giá ảnh hưởng của các chính sách tài khóa riêng lẻ có tăng trưởng vượt quá tác động của nó lên các quyết định đầu tư vào vốn vật chất và con người. Lạm phát được sử dụng như một chỉ số liên kết trong nước giả định rằng biến động ngắn hạn đến trung hạn của sản lượng chủ yếu là theo nhu cầu, tức là lạm phát và sản lượng di chuyển theo cùng một hướng. Đầu tư tư nhân và lạm phát được xem là công cụ sử dụng hai độ trễ để đối phó với các vấn đề nội sinh ảnh hưởng đến hai biến. Tăng trưởng GDP của Mỹ được sử dụng như là một biến để kiểm soát đối với môi trường quốc tế. Ngoài ra, chúng tôi cho phép cho các ảnh hưởng quốc gia, mà nên nắm bắt tất cả các nguồn lực tăng trưởng bất biến thời gian, chẳng hạn như đặc điểm ổn định lâu dài của hệ thống chính trị và điều kiện ban đầu. Cuối cùng, biến giả thời gian cho các năm 1990-1992 được kết hợp để điều chỉnh cho tác động của việc thống nhất nước Đức. Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 19 5.2 Kết quả ước lượng 5.2.1 Tài chính công và tăng trưởng Bảng 5 báo cáo ước tính của các tác động tăng trưởng từ tổng hợp các khoản mục thu, chi cũng như từ các khoản mục nhỏ khác. Mô hình 1 kiểm soát một tập hợp thông tin điều kiện và tổng doanh thu mà đo lường hiệu quả tổng thể của quy mô chính phủ tác động đến tăng trưởng. Hệ số trên tổng doanh thu mang một dấu hiệu tiêu cực và có ý nghĩa thống kê ở mức 1 %. Tương tự như vậy, mô hình 2 làm cho hệ số so sánh trên tổng chi phí (như một biện pháp thay thế kích thước chính phủ) bằng - 0.05, mà nên hiểu được lợi ích của việc chi tiêu trừ đi chi phí thuế và việc giảm tăng trưởng do thâm hụt tài chính. Khi chúng tôi cố gắng để đưa thêm cả tổng doanh thu và tổng hợp chi trong cùng một đặc điểm (không báo cáo), chỉ sau này vẫn còn giá trị. Thực tế là một biến mất ý nghĩa thống kê không có gì ngạc nhiên cho mối tương quan cao giữa hai tập hợp với một hệ số tương quan lớn hơn 0,9. Để tháo gỡ, mặc dù cán cân lợi ích và chi phí sẽ khác nhau cho các khoản mục chi tiêu riêng lẻ, mô hình 3 phân tích các dấu hiệu và kích thước của hiệu ứng tăng trưởng do các loại chi tiêu chính phủ trong khi kiểm soát tổng doanh thu. Tiêu dùng của chính phủ và đầu tư công có ý nghĩa ở mức 1 % với một tham số ước lượng tiêu cực và tích cực. Khoản mục chuyển giao của chính phủ với một mức ý nghĩa là hệ số tiêu cực. Khi chúng tôi kiểm soát cho các loại doanh thu khác nhau trong mô hình 5, các kết quả cho đầu tư công và tiêu dùng của chính phủ vẫn còn mạnh mẽ, trong khi hệ số ước lượng phủ định cho khoản mục chuyển giao của chính phủ trở nên có ý nghĩa thống kê. Theo mô hình lý thuyết đơn giản trình bày ở trên, các mục chi tiêu sản xuất nên có tác dụng tích cực lên tăng trưởng, trong khi tác dụng của chi phí không hiệu quả trong Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 20 tình huống xấu nhất vẫn là tác động trung lập. Các kết quả thực nghiệm hỗ trợ quan điểm cho rằng đầu tư công có thể được xem xét chi tiêu hiệu quả góp phần tăng trưởng dài hạn. Ước lượng tiêu cực đối với hai hạng mục chi tiêu quan trọng khác không thể phản ánh chi phí tài chính thuế từ khi hạch toán đúng trong mô hình. Do đó nó nên liên quan đến chi phí thâm hụt tài chính, ảnh hưởng đến hiệu quả tăng trưởng hoặc là tác động giảm tăng trưởng là không rõ ràng trong mô hình của chúng tôi, nơi cung lao động không là co giãn. Trong một mô hình lý thuyết hoàn thiện hơn, lợi ích xã hội, tiền lương của khu vực công có thể làm giảm nguồn cung cấp lao động trong khu vực tư nhân và do đó làm suy yếu tăng trưởng . Như nhấn mạnh của Widmalm (2001), không phải tất cả các loại thuế được dự kiến sẽ có tác động tương tự lên tăng trưởng. Do đó, cần thiết để tìm ra các tác động tăng trưởng do sự pha trộn thuế. Liên quan đến thuế đánh vào vốn, bao gồm thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp, rõ ràng là nó làm giảm tốc độ tăng trưởng bằng cách giảm sự tích lũy vốn. Trong một mô hình tăng trưởng như phần tóm tắt trên, giả định của một nguồn cung cấp lao động không co dãn làm cho thuế tiêu thụ hoặc một mức thuế suất trên thu nhập lao động không ảnh hưởng đến tăng trưởng. Nó sẽ không ảnh hưởng đến các quyết định liên thời gian tiêu dùng và tích lũy vốn. Trên những cơ sở đó, người ta có thể kỳ vọng thuế trực tiếp thu và, đến một mức độ thấp hơn, đóng góp an sinh xã hội trở nên ức chế, trong khi thuế gián thu sẽ là trung lập. M ô hình 4 và 5 có thể giúp chúng tôi làm sáng tỏ về vấn đề này. Các kiểm soát cũ cho tổng chi tiêu chính phủ là tốt như đối với các loại thuế. Tổng chi phí tính vào là đáng kẻ với hệ số tiêu cực, trong khi tất cả các hệ số thuế là tiêu cực mặc dù không có ý nghĩa thống kê ở mức thông thường. Tuy nhiên , khi hiệu ứng tăng trưởng kết hợp với các loại chi tiêu khác nhau được thể hiện trong mô hình 5, hệ số thuế trực tiếp vẫn còn tiêu cực và trở nên ý nghĩa thống kê ở mức 5 %. Vì vậy, trong mô hình hoàn thiện nhất , chúng tôi tìm thấy trên các khoản chi phí và doanh thu hiệu ứng tăng trưởng mà phù hợp với dự đoán lý thuyết. Để có kết quả hồi quy báo cáo ở trên là hợp lệ người ta phải giả định rằng các biến tài chính ở phía bên tay phải là ngoại sinh. Tuy nhiên, điều này có thể được xem xét lại do sự tồn tại của sự ổn định tự động, tức là cơ chế được xây dựng trong các quy định tài chính dẫn đến biến động phản chu kỳ của khoản chuyển giao và thuế trong chu kỳ kinh doanh. Hạng mục chi tiêu như đầu tư công hoặc chi tiêu chính phủ thường không bị ảnh hưởng bởi ổn định tự động. Theo giả định rằng đây là nguồn gốc của nội sinh, ước lượng tham số để chuyển giao xã hội sẽ được giảm xu hướng vì chuyển giao xã hội trên GDP sẽ giảm trong giai đoạn tăng trưởng cao và ngược lại. Các tham số ước tính cho chuyển giao xã hội do đó có thể là kết quả của nguồn này của nội sinh. Dự toán cho các khoản thuế sẽ có xu hướng tăng vì thuế trên GDP sẽ tăng trong giai đoạn tăng trưởng cao. Trên tài khoản này, các tham số ước lượng tiêu cực đối với thuế trực thu sẽ là giới hạn trên của các ước tính hợp lý, trong khi thiếu các kết quả thống kê đáng kể chủ yếu là vì những đóng góp an sinh xã hội có thể được thúc đẩy bởi nguồn nội sinh này. Thuế gián tiếp Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 21 thường có xu hướng cho thấy độ đàn hồi khoảng cách sản lượng gần một, mà giữ thuế trên GDP không đổi theo chu kỳ và do đó không tạo ra một xu hướng đáng kể. Để kiểm soát cho vấn đề này , chúng tôi ước tính một tập hợp các chi tiết kỹ thuật được sử dụng hàng đầu, dữ liệu tài khóa điều chỉnh theo chu kỳ (của Ủy ban châu Âu (nhiều năm) hoặc xu hướng gốc của HP – đã được lọc) cũng như các biến công cụ GMM ước lượng. Chi tiết được báo cáo trong Phụ lục B. Không có những phương pháp cho thấy kết quả báo cáo trên được thúc đẩy bởi một vấn đề nội sinh gây ra bởi chức năng của ổn định tự động. 5.2.2 Thuế và đầu tư tư nhân Lý thuyết tăng trưởng nội sinh cho thấy thuế bóp méo ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, và cung cấp đầu tư tư nhân tạo nên một tác động tích cực đến sự phát triển, thuế bóp méo sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng. Để kiểm tra cho kênh truyền dẫn tích lũy vốn vật chất này, chúng tôi chạy được phân phối hồi quy trễ với đầu tư tư nhân như biến phụ thuộc vào loại thu nhập khác nhau, cũng kiểm soát tổng các chi tiêu của chính phủ. Các biến kiểm soát thường được sử dụng trong các tài liệu về tăng trưởng được giảm từ công thức(12) kể từ khi người ta không thể biết rằng có kì vọng có một tác động trực tiếp đến đầu tư tư nhân hay không. Các mô hình đầu tư bao gồm thời gian cố định và các hiệu ứng quốc gia thêm vào tập hợp các biến tài chính. Bảng 6 báo cáo kết quả khi sử dụng tỷ số doanh thu trên GDP như sự đại diện cho ảnh hưởng của thuế. Mô hình (6) đến (8) kết hợp tổng chi phí với các loại thu nhập khác nhau. Mô hình (9) sau đó kết hợp 3 loại chi tiêu chính và các loại thuế. Trong tất cả các chỉ số kỹ thuật thuế, thuế trực tiếp là hệ số tiêu cực mà chủ yếu là ý nghĩa thống kê ở mức tiêu chuẩn. Thuế gián tiếp mang lại một tham số ước lượng tích cực và có ý nghĩa thống Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 22 kê. Có thể giải thích cho kết quả này sẽ là sự thay thế hệ thống từ thuế trực tiếp đến gián tiếp thuế của một số nước châu Âu theo đuổi trong những năm 1980 và những năm 1990 như một phần của chiến lược cải cách của họ. Cuối cùng, hệ số ước lượng cho sự đóng góp an sinh xã hội theo phần trăm GDP là tiêu cực khi tổng chi phí được tính vào nhưng trở nên tích cực khi tất cả các loại chi tiêu được đưa vào mô hình. Ước tính là có ý nghĩa thống kê trong tất cả các chỉ số kỹ thuật, làm phức tạp việc giải thích vì đa cộng tuyến sẽ không chỉ được liên kết với tham số bất ổn, mà còn thiếu ý nghĩa thống kê. Có thể cho rằng, sự thay đổi trong các dấu hiệu của hệ số là như vậy, liên quan đến thực tế là các khoản đóng góp an sinh xã hội đưa ra một hiệu ứng thuộc một loại chi tiêu cụ thể trong mô hình (9). Kết quả mạnh mẽ nhất từ áp dụng này là thuế trực tiếp có tác động tiêu cực đến đầu tư tư nhân. Từ việc thuế trực tiếp là một loại doanh thu lớn, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu mối liên hệ giữa đầu tư và thuế bằng cách sử dụng một phiên bản cập nhật của một tập dữ liệu khác biệt hơn thiết lập các mức thuế suất hiệu quả về lao động, vốn và tiêu dùng hàng hóa từ Martínez - M ongay (2000). M ức thuế suất thuế hiệu quả nên nắm bắt được tác động tiêu cực trung bình mà thuế tác động lên tăng trưởng, do đó tạo thành một đại diện tốt hơn so với tỷ trọng doanh thu trong GDP. Mô hình (10) và (11) cho một thông điệp rõ ràng. Thuế lao động liên tục ảnh hưởng đến đầu tư. Hệ số mang một giá trị tiêu cực của xung quanh - 0.7, ngụ ý rằng một sự gia tăng 1 % về vốn thuế sẽ gây ra sự sụt giảm trong tỷ lệ đầu tư tư nhân 0,7%. Chúng ta có thể, tuy nhiên, không tìm thấy bất kỳ tác động đáng kể từ mức thuế suất hiệu quả trên vốn và đầu tư tư nhân. Trong khi kết quả này có thể đáng ngạc nhiên ngay từ quan điểm đầu tiên, người ta phải nhận thấy rằng phần lớn các thuế trực thu xuất phát từ thu nhập lao động. Hơn nữa, như Alesina cùng các đồng nghiệp và Ardagna (2006 ) cho thấy, tăng thuế trực tiếp gây áp lực lên yêu cầu tiền lương của công đoàn, dẫn đến mức lương cao hơn của khu vực tư nhân và lợi nhuận biên thấp hơn và đầu tư thấp hơn vào thị trường lao động có sư tham gia của công đoàn trong các nước công nghiệp. Hệ số đối với thuế tiêu dùng là luôn tích cực và phù hợp với các kết quả trước đó được báo cáo cho các loại thuế gián tiếp. Nhìn chung, kết quả của chúng tôi chỉ ra sự tồn tại của một tác động đáng kể từ tổng chi tiêu chính phủ và các khoản mục phụ của nó đối với tăng trưởng. Kích thước của khu vực công và tiêu thụ của chính phủ ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng dài hạn. Điều này có thể phản ánh một thực tế là kích thước trung bình của khu vực công trong Liên minh châu Âu là trên mức tối ưu của nó. Ngược lại, đầu tư công có tác động tích cực đến tăng trưởng có thể thấy rằng do những lợi ích trong hiệu quả kinh tế từ việc chuyển chi tiêu phúc lợi để đầu tư sản xuất. Hơn nữa, chúng tôi nhận thấy rằng tất cả các thuế trực thu đều ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng thông qua tác động của nó lên tích lũy vốn tư nhân. Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 23 6 Kết luận Lisbon Process ấn định một vai trò nổi bật để cải cách tài chính công nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do đó, mục đích chính của phân tích này là để làm sáng tỏ về mối quan hệ giữa tài chính công và tăng trưởng của EU-15. Những phát hiện chính là các vấn đề chi tiêu của ngân sách dường như luôn ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn trong chu kỳ kinh doanh.Cụ thể, kích thước của chính phủ và tiêu dùng của chính phủ được tìm thấy có một tác động rõ ràng là tiêu cực đối với tăng trưởng, trong khi chi tiêu đầu tư tác động một cách tích cực đến tăng trưởng. Về mặt doanh thu, tồn tại bằng chứng cho thấy ảnh hưởng tiêu cực của thuế trực tiếp lên tăng trưởng. Hơn nữa, tác động tiêu cực mạnh mẽ của thuế trực tiếp trên tích lũy vốn hữu hình được xác nhận từ dữ liệu của chúng tôi. Tác động này được thực hiện chủ yếu qua đánh thuế thu nhập lao động điều mà có thể dẫn đến áp lực tiền lương vì vậy dẫn đến lợi nhuận và đầu tư thấp vào các công đoàng thị trường lao động châu Âu. Xét về tổng thể, kết quả của chúng tôi trái ngược với các nghiên cứu trước đây về vấn đề này (ví dụ như Evans, 1997; Karras, 1999) không thích hợp đưa vào xem xét các mối quan hệ tài chính hàm ý của giới hạn ngân sách ổn định. Trước khi kết luận bài báo, điều quan trọng là chỉ ra một số hạn chế của phân tích hiện tại. Đầu tiên, các hiệu ứng tăng trưởng được ước tính đại diện cho hình thức giảm hệ số tương quan một phần, mà không nhất thiết có hàm ý nhân quả. Thứ hai, thực tế là các kiểm định đơn vị được sử dụng trong phân tích không cho phép phá vỡ cấu trúc có thể thiên vị các kết quả đối với việc không bác bỏ của H0,điều mà được yêu cầu cho việc thực hiện các phân tích đồng liên kết. Thứ ba, với chiều dài giới hạn của chuỗi dữ liệu có sẵn, nó có thể không thể biết chắc chắn có tác động tăng trưởng ước tính là kết quả của một chuỗi các thay đổi cấp độ dọc theo đường dẫn chuyển tiếp như nắm giữ bởi lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển hoặc đại diện cho một hiệu ứng tăng trưởng thực sự như ủng hộ tăng trưởng nội sinh. Cuối cùng, theo mô hình tăng trưởng nội sinh đang được thử nghiệm, nó sẽ là mong muốn sử dụng thuế suất biên thay vì mức thuế suất trung bình hoặc hiệu quả. Tuy nhiên, chúng tôi đã tự khống chế không sử dụng thuế suất cận biên do những khó khăn trong tính toán một cách nhất quán chúng cho 15 nước EU. Điều này là do hệ thống miễn giảm và quy mô sử dụng với các loại thuế thu nhập khác nhau rất khác nhau giữa các nước. Nghiên cứu trong tương lai nên được tiến hành theo hướng cung cấp các ước tính đáng tin cậy của mức thuế suất cận biên để kết quả mới có thể phải đương đầu với những kết quả thu được trong bài này. Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 24 PHỤ LỤC A. NGUỒN SỐ LIỆU VÀ THỐNG KÊ MÔ TẢ Bảng A1 : Ký hiệu của các biến Biến Định nghĩa Nguồn LYPC Tổng sản phẩm quốc nội trên bình quân đầu người được ấn định là hằng số Economic outlook N.74, OECD. LPRINV Tỷ trọng đầu tư vật chất tư nhân trong GDP Economic outlook N.74, OECD. LHK Độ tuổi trung bình của giáo dục của dân số trong độ tuổi lao động Bassanini and Scarpetta, 2002; De la Fuente and Doménech, 2006. LOPEN Tỷ lệ xuất khẩu và nhập khẩu so với GDP Penn World Table 6.1. INF Tỷ lệ lạm phát tính theo dữ liệu chỉ số giá tiêu dùng International Financial Statistics (IM F). DLYPC Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người Economic Outlook N.74, OECD. LTREV Tổng doanh thu hiện tại như một phần của GDP Ameco Statistics—Autumn 2003, European Commission. LTEXP Tổng chi phí theo GDP Ameco Statistics—Autumn 2003, European Commission. LPI Tổng đầu tư công theo GDP Ameco Statistics—Autumn 2003, European Commission. LTR Tổng chuyển giao theo GDP Ameco Statistics—Autumn 2003, European Commission. LG Chi tiêu tiêu dùng của chính phủ theo GDP Ameco Statistics—Autumn 2003, European Commission. LTDIR Tổng thuế trực thu theo GDP Ameco Statistics—Autumn 2003, European Commission. LSSC Đóng góp an sinh xã hội theo GDP Ameco Statistics—Autumn 2003, European Commission. LTDIST Tổng số thuế bóp méo theo GDP được tính toán như số tiền thuế trực thu và đóng góp an sinh xã hội Ameco Statistics—Autumn 2003, European Commission. Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 25 LTIND Tổng thuế gián thu như một phần của GDP Ameco Statistics—Autumn 2003, European Commission. LTL Thuế suất lao động hiệu quả Martínez-M ongay (2000). LTK Thuế suất vốn hiệu quả Martínez-M ongay (2000). LTC Thuế suất tiêu dùng hiệu quả Martínez-M ongay (2000). Bảng A2: Thống kê mô tả, các nước châu Âu 1961–2001 Bảng A3: Ma trận tương quan của các biến chính, các nước châu âu 1961–2001 Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 26 Bảng A4: Tài chính công và tăng trưởng: kiểm tra độ chắc chắn Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22 27 PHỤ LỤC B. TÀI CHÍNH CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG: KẾT QUẢ NỔI BẬT Phụ lục này báo cáo kết quả của kỹ thuật khác nhau kiểm soát cho các nội sinh có thể của các biến tài chính trong phương trình (12) do sự tồn tại của ổn định tự động. Ba phương pháp khác nhau được sử dụng cho mục đích này. Đầu tiên, công thức (12) được tăng cường bởi đường dẫn của các biến số tài chính. Tám độ trễ và năm đường dẫn được bao gồm trong đặc điểm kỹ thuật của chúng tôi. Thứ hai, hồi quy được chạy với cốt liệu ngân sách điều chỉnh theo chu kỳ theo quy định của Ủy ban châu Âu. Vì chi tiêu khác nhau và các loại doanh thu là không có sẵn ,chúng tôi cũng tính toán chi tiêu điều chỉnh theo chu kỳ và doanh thu như một phần của xu hướng GDP sử dụng HP-filter. Thứ ba, chúng tôi sử dụng một biến công cụ ước lượng GM M để kiểm tra các biến nội sinh. Xem xét rằng hồi quy của chúng tôi đã bao gồm giá trị trễ của các biến hồi quy tài chính lên đến 8 năm, chúng tôi sử dụng công cụ cho các biến chính sách tài chính, giá trị của chúng trễ 9 và 10 kỳ. Trong việc giải thích các kết quả cần lưu ý rằng hoạt động của ổn định tự động sẽ tạo ra một sai lệch giảm xuống cho chuyển giao xã hội và sai lệch tăng lên cho các loại thuế, đặc biệt là nếu các loại thuế có độ co giãn sản lượng lớn hơn. M ột cách ngắn gọn, Bảng A1 chỉ báo cáo các kết quả cho các ước tính hệ số cho các biến tài chính. Mô hình (13) được dựa trên tổng hợp ngân sách điều chỉnh theo chu kỳ như bắt nguồn từ Ủy ban châu Âu. Các hệ số ước lượng không cung cấp một bức tranh rõ ràng. Hệ số cho chi tiêu tổng hợp tăng nhẹ như mong đợi, nhưng hệ số tổng doanh thu, trái với những gì người ta kỳ vọng, tăng lên nhiều hơn. Đối với chuyển giao xã hội, các hệ số ước lượng thậm chí còn thấp hơn so với một trong các chi tiết (mô hình 5) trong bảng 5. Ước lượng là có ý nghĩa ở mức 10%. HP xem thuế gián thu như một phần của xu hướng GDP mang lại một hệ số có ý nghĩa thống kê tích cực. Tham số ước lượng khác nhau đáng kể và không có hệ số thống kê quan trọng được tìm thấy vì những đóng góp an sinh xã hội và thuế gián thu. Nhìn chung, dựa trên những kết quả này không có bằng chứng cho sai số hệ thống trong ước lượng tham số gây ra bởi cáchoạt động ổn định tự động. Báo cáo kết quả trong Bảng A4 có thể chỉ ra một số khía cạnh của vấn đề của các chi tiết, đặc biệt là giảm kích thước mẫu và mức độ tự do qua việc tận dụng đường dẫn, vấn đề đo lường đối với việc điều chỉnh chu kỳ của các dữ liệu tài chính và sự thiếu hiệu quả có thể có của ước tính IV.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftong_hop_tcc_02_10_3273.pdf
Luận văn liên quan