Lời mở đầu
Tính chất đặc thù của các quan hệ hôn nhân và gia đình là các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản gắn liền với các chủ thể nhất định, không thể tách rời, không có tính đền bù ngang giá. Chính sự giàng buộc này làm nảy sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ với nhau mà trong đó quan hệ tài sản của vợ chồng là một chế định pháp lý không thể thiếu trong pháp luật Hôn nhân và Gia đình.
Mặt khác mỗi một cá nhân trong xã hội không chỉ gắn bó với gia đình của mình bởi tính chất cộng đồng dựa trên tình cảm gắn bó hai vợ chồng trong hôn nhân, mà còn bằng tính độc lập của mỗi người với tư cách là thành viên của xã hội. Do đó, trong đời sống gia đình, ngoài các các quan hệ tình cảm giữa vợ và chồng, còn có những quan hệ xã hội gắn bó với người vợ, người chồng với thân thuộc, bạn bè và đồng nghiệp của mình. Những quan hệ này về mặt nào đó phải dựa trên những điều kiện vật chất nhất định. Do đó luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam bên cạnh việc quy định quyền sở hữu chung hợp nhất còn thừa nhận quyền có tài sản riêng của vợ, chồng.Việc ghi nhận này dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây.
I)Cơ sở lý luận của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng.
1.1.Một số khái niệm chung về tài sản, chế độ tài sản của vợ chồng, tài sản riêng của vợ chồng.
.Tài sản: theo nghĩa từ điển học là “của cải, vật chất dùng vào mục đích sản xuất và tiêu dùng”còn theo Điều 163 BLDS-2005 thì tài sản “ bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
13 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6121 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng trong luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Tính chất đặc thù của các quan hệ hôn nhân và gia đình là các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản gắn liền với các chủ thể nhất định, không thể tách rời, không có tính đền bù ngang giá. Chính sự giàng buộc này làm nảy sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ với nhau mà trong đó quan hệ tài sản của vợ chồng là một chế định pháp lý không thể thiếu trong pháp luật Hôn nhân và Gia đình.
Mặt khác mỗi một cá nhân trong xã hội không chỉ gắn bó với gia đình của mình bởi tính chất cộng đồng dựa trên tình cảm gắn bó hai vợ chồng trong hôn nhân, mà còn bằng tính độc lập của mỗi người với tư cách là thành viên của xã hội. Do đó, trong đời sống gia đình, ngoài các các quan hệ tình cảm giữa vợ và chồng, còn có những quan hệ xã hội gắn bó với người vợ, người chồng với thân thuộc, bạn bè và đồng nghiệp của mình. Những quan hệ này về mặt nào đó phải dựa trên những điều kiện vật chất nhất định. Do đó luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam bên cạnh việc quy định quyền sở hữu chung hợp nhất còn thừa nhận quyền có tài sản riêng của vợ, chồng.Việc ghi nhận này dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây.
I)Cơ sở lý luận của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng.
1.1.Một số khái niệm chung về tài sản, chế độ tài sản của vợ chồng, tài sản riêng của vợ chồng.
.Tài sản: theo nghĩa từ điển học là “của cải, vật chất dùng vào mục đích sản xuất và tiêu dùng”còn theo Điều 163 BLDS-2005 thì tài sản “ bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
.Chế độ tài sản của vợ chồng :Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về (sở hữu) tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng theo luật định.
.Tài sản riêng của vợ chồng :được hiểu là tài sản của mỗi bên vợ hoặc chồng có trước thời kỳ hôn nhân hoặc có trong thời kỳ hôn nhân do được tặng cho riêng, thừa kế riêng hay những đồ trang sức cá nhân được cho riêng vợ hoặc chồng trong ngày cưới…nó thuộc phạm trù tài sản riêng của công dân đã được ghi nhận trong Điều 58 của Hiến pháp năm 1992 và BLDS năm 1995. Theo đó mỗi bên vợ hoặc chồng có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt có quyền quyết định sát nhập hay không sát nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng .
1.2.Sơ lược quá trình lịch sử ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ ,chồng trong lịch sử pháp luật nước ta.
1.2.1.Trong xã hội phong kiến: Do ảnh hưởng nặng nề của hệ tư tưởng nho giáo là “trọng nam khinh nữ” nên người vợ khi lấy chồng là thuộc hẳn về nhà chồng, là “hiền thê”của người chồng, người chồng là chủ cột của gia đình, là chủ gia đình đồng thời là chủ sở hữu các tài sản trong gia đình, có mọi quyền quyết định vì quyền lợi của gia đình nên pháp luật không cần thiết dự liệu những quy định về tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng.
1.2.2.Trong xã hội thời kỳ Pháp thuộc : Dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp nước ta bị chia cắt làm ba miền với ba chế độ chính trị và pháp luật khác nhau trong đó có các quy định về chế độ hôn sản. Ở Nam :pluật quy định “tất cả tài sản trong gia đình đều thuộc quyền sở hữu và quyền quản lý của người chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng như sau khi người vợ chết. Trong trường hợp người vợ chết thì chồng là chủ sở hữu đối với toàn bộ tài sản của gia đình do hiệu lực của hôn nhân chứ không phải là hưởng gia tài từ người vợ, nhưng nếu người chồng chết trước thì người vợ có quyền hưởng dụng thu lợi trên toàn bộ tài sản của gia đình khi còn ở hóa”.Tuy nhiên án lệ lại công nhận trong một số trường hợp người vợ có thể có quyền có tài sản riêng, bao gồm:các đồ tư trang, tài sản được gia đình tặng cho hoặc được thừa kế, bất động sản đã ghi rõ tên vợ là chủ sở hữu trong sổ địa chính nhưng sau đó những án lệ này lại chuyển sang không công nhận quyền này của người vợ. Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ : do ảnh hưởng của bộ luật dân sự Pháp(1804)nên trong hai bộ luật là Bộ luật Bắc kỳ và Bộ Luật Dân sự Trung Kỳ thì quy định “Vợ chồng có thể có tài sản riêng từ chước khi kết hôn, nhưng kể từ khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân thì các tài sản riêng đó(bao gồm cả động sản và bất động sản được hợp nhất thành khối tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên đó chỉ là sự hợp nhất tạm thời trong thời kỳ hôn nhân chỉ có những tài sản do hai vợ chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân mới là tài sản chung chính thức. Khi hôn nhân chấm dứt thì các tài sản riêng của vợ , chồng đã được hợp nhất tạm thời vào khối tài sản chung của vợ chồng lại được tách ra chia theo nguyên tắc tài sản riêng của bên nào thì bên đó có quyền lấy lại còn đối với tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi.
1.2.3.Trong thời kỳ pháp luật ở Miền Nam nước ta trước ngày thống nhất đất nước 1954-1975: Đây là thời kỳ dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn bên cạnh sự ghi nhận tài sản chung của vợ chồng còn có những quy định về tài sản riêng trong sắc luật số 15/64(Điều 55) và BLDS năm 1972 (Điều 152) đã dự liệu cho mỗi bên vợ chồng có một khối tài sản riêng bao gồm: “ những bất động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ ,chồng khi kết hôn (tức là các bất động sản mà vợ hay chồng đã có từ trước khi kết hôn); Những bất động sản mà mỗi bên vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân do được tặng cho riêng hoặc thừa kế riêng”.
1.2.4.Trong pháp luật Hôn nhân và Gia đình của nước ta từ 1945 cho đến nay:
Năm 1959 bộ luật Hôn nhân và Gia đình đầu tiên của nước ta đời tại điều 15 quy định “Vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới” . Như vậy quy định này thể hiện chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản: toàn bộ các tài sản của vợ chồng dù có trước khi kết hôn hoặc tạo ra trong thời kỳ hôn nhân ,dù vợ, chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng hoặc cả hai vợ chồng được tặng cho chung hay được thừa kế chung không phân biệt nguồn gốc tài sản và công sức đóng góp đều thuộc khối tài sản chung của hai vợ chồng, luật không ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng. Nhưng đến luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 tuy không ghi nhận chế độ tài sản ước định mà chỉ quy định chế độ cộng đồng tài sản pháp định áp dụng cho các cặp vợ chồng nhưng lần đầu tiên quyền có tài sản riêng của vợ, chồng chính thức được ghi nhận trong luật HN&GĐ .Tại Điều 16 “Vợ chồng có quyền có tài sản riêng, bao gồm các tài sản mà vợ, chồng có được từ trước khi kết hôn, các tài sản mà vợ hoặc chồng được tặng cho riêng hay được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân, người vợ hoặc chồng có tài sản riêng có quyền nhập hay không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”.Đến luật HN&GĐ năm 2000 chế độ tài sản mà pháp luật ghi nhận là chế độ cộng đồng tạo sản cùng với việc quy định ngày càng cụ thể , chi tiết và rộng hơn quyền có tài sản riêng của vợ, chồng. Tại khoản 1 Điều 32 “Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của luật này; đồ dung, tư trang cá nhân”.
1.3.Những lý do tất yếu yêu cầu pháp luật phải ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng.
+ Trước hết do sự phát triển của nền kinh tế , khối lượng tài sản của công dân tăng lên nhu cầu riêng cũng nhiều hơn ý thức tâm lý tài sản riêng để phục vụ nhu cầu cuộc sống, nghề nghiệp ,sinh hoạt cá nhân được chủ động hình thành và phù hợp với tâm lý dân tộc mong muốn tạo lập cho mình một khối tài sản độc lập không bị phụ thuộc, đòi hỏi phải xem xét đến khả năng tài sản, riêng của mỗi người trong quan hệ vợ chồng, do đó việc coi tất cả tài sản bất biết nên không hợp lý.
+ Trước khi kết hôn mà mỗi bên vợ hoặc chồng tạo lập được một khố tài sản lớn do công sức lao động của mình có được khi kết hôn tài sản đó theo luật định đương nhiên trở thành tài sản chung của hai vợ chồng ,nghĩa là người kia đương nhiên trở thành đồng chủ sở hữu và có đầy đủ các quyền năng pháp lý như chiếm hữu, sử dụng , định đoạt tài sản đó. Đây là một điều mâu thuẫn lớn đối với nguyên tắc của bộ luật Dân Sự về xác lập quyền sở hữu tài sản.
+ Việc xác định tài sản có trước khi cưới là tài sản chung dẫn đến khuynh hướng xấu trong hôn nhân. Không ít trường hợp kết hôn vì tiền tài , tìm người giàu có để kết hôn chứ không phải là xuất phát từ tình yêu chân chính, do đó tác động xấu đến mục đích hôn nhân và gia đình tốt đẹp trong chế độ ta.
+ Khi ly hôn- về nguyên tắc tài sản chung được chia đôi sau đó mới tính tới các yếu tố khác là không đảm bảo được lợi ích người có tài sản trước khi kết hôn , được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân, đó là trường hợp chưa kể đến tình trạng ngay cả khi hôn nhân tồn tại ,do mâu thuẫn gia đình, một bên lạm dụng quyền sở hữu chung về tài sản tự định đoạt tài sản chung mà nguồn gốc chính là của người kia có trước khi kết hôn hoặc được tặng cho, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc phá tán tài sản không vì mục đích lợi ích chung của gia đình. Thực tiễn xét xử cho thấy rằng những trường hợp mà một bên vợ hoặc chồng phạm tội bị tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại cho người khác khi thi hành án mà không tách tài sản này thành chế độ tài sản riêng thì sẽ làm thiệt hại đến lợi ích chính đáng của bên kia.
+ Tâm lý dân tộc, họ hàng, chú bác, anh chị em ruột hoặc bạn bè, người thân của một trong hai người(vợ chồng) chỉ cho riêng, thừa kế riêng nhưng xử lý theo luật 1959 thành của chung hết là trái với nguyện vọng, tâm tư chính đáng của người lại tặng cho hoặc để lại tài sản thừa kế ,xâm phạm đến lợi ích chính đáng của người nhận tài sản trái với nguyên tắc tự định đoạt của công dân.
+ Trong đời sống vợ chồng không chỉ có mối quan hệ qua lại với nhau, với các thành viên trong gia đình mà còn nhiều mối quan hệ khác nữa. Trong mối quan hệ này ngoài nhu cầu giao lưu tình cảm họ còn mong muốn có một số tài sản độc lập để giúp đỡ, làm quà lưu liệm hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác..nhu cầu đó là hoàn toàn chính đáng. Do đó chế độ tài sản chung của vợ chồng đã làm cản trở đến nhu cầu chính đáng của họ, dẫn đến tình trạng thực tế người vợ hoặc chồng cần chu cấp, đùm bọc, giúp đỡ bà con thân thuộc , bạn bè nhiều khi phải dấu diếm, thậm chí dối trá vì không muôn mang tiếng động chạm đến tài sản chung.
+ Cuộc sống gia đình liên quan đến kinh tế và tài chính nếu không ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng sẽ không bảo đảm tính độc lập của mỗi bên trong việc thực hiện quyền của mình đối với tài sản và nhu cầu tình cảm riêng thực tiễn cuộc sống cho thấy việc thực hiện nghĩa vụ của vợ hoặc chồng đối với bố mẹ đẻ già yếu, anh chị em ruột không có khả năng lao động sẽ là một cản trở lớn khi khối tài sản của vợ chồng do cả hai vợ chồng cùng định đoạt.
+ Cuối cùng nước ta đang bước vào nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN gia đình đã trở thành một đơn vị kinh tế trong xã hội do đó vấn đề đặt ra trong gia đình là phải phân biệt các hình thức sở hữu tạo điều kiện thuận lợi trong các hoạt động kinh tế. Quyền tự do kinh doanh đã trở thành nguyên tắc hiến định việc làm rõ trách nhiệm pháp lý về tài sản trong quan hệ thương trường từ trong gia đình đến ngoài xã hội là một yêu cầu tất yếu vì thế yêu cầu đặt ra là phải ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng là đòi hỏi khách quan trong luật HN&GĐ.
1.4.Ý nghĩa của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng
Việc ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng tạo ra cơ sở pháp lý để vợ, chồng chủ động tham gia vào các giao dịch dân sự và kinh tế, bảo đảm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình cũng như cá nhân vợ, chồng. Đồng thời, phân định rõ trách nhiệm của các bên vợ, chồng trong quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản. Qua đó giúp “minh bạch hóa” các giao dịch dân sự mà mỗi bên chủ thể là vợ, chồng, tạo căn cứ pháp lý trong giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ, chồng, giúp cho người có quyền (người thứ 3) xác định được nghĩa vụ mà vợ chồng phải thực hiện được bảo đảm bằng tài sản chung hay bằng tài sản riêng, tức là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền khi vợ chồng là người có nghĩa vụ, lợi ích của cộng đồng và của xã hội vì thế cũng được bảo đảm
Việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ, chồng còn góp phần hạn chế các quan hệ hôn nhân được thiết lập không dựa trên yếu tố tình cảm chân thành mà được dựa trên yếu tố vật chất-hôn nhân thực dụng.
II) Cơ sở thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng
2.1.Bản chất pháp lý của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng.
Luật HN&GĐ năm 1986 bên cạnh việc ghi nhận tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng còn khẳng định vợ chồng còn có quyền có tài sản riêng tại Điều 16 “Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”.Tương tự tại khoản 1 Điều 32 luật HN&GĐ năm 2000 cũng quy định “Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân;tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 điều 29 và Điều 30 của luật này;đồ dùng, tư trang cá nhân”.Việc ghi nhận vợ chồng có quyền có tài sản riêng là một bảo đảm pháp lý quan trọng trong cuộc sống, lao động, sinh hoạt của từng cá nhân công dân không bị chi phối bởi một yếu tố tác động tình cảm nào. Quyền này còn được ghi nhận tại Điều 58 của Hiến pháp 1992 “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18.Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu và quyền thừa kế của công dân”và Điều 221 bộ luật Dân sự năm 1995 tài sản thuộc sở hữu tư nhân bao gồm: “thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn, hoa lợi , lợi tức và các tài sản hợp pháp khác của cá nhân là tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân”. Đối với tài sản thuộc sở hữu tư nhân, cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng , định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh và các mục đích khác phù hợp với quy định của pháp luật và không làm ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Như vậy trong hôn nhân, vợ chồng có quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu riêng phục vụ cho nhu cầu của mình với bất kỳ mục đích gì miễn là không trái pháp luật và đạo đức xã hội, sự kiện kết hôn không hề làm mất đi quyền sở hữu tài sản riêng của họ.
2.2.Căn cứ ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy định về tài sản riêng của vợ, chồng được quy định tại điều 16 luật HN&GĐ 1986,khoản 1 Điều 32 Luật HN&GĐ 2000quy định “Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân”. Như vậy Luật HN&GĐ đã xác định tài sản riêng của vợ, chồng dựa vào thời điểm phát sinh trước khi kết hôn;dựa vào sự định đoạt của người để lại di sản hoặc của người tặng cho tài sản;dựa vào sự kiện chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
2.2.1.Tài sản của vợ, chồng có trước khi kết hôn.
Trước khi kết hôn mỗi bên vợ chồng với tư cách là các cá nhân tham gia các hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội họ học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh…để tạo lập cuộc sống cho mình và chuẩn bị hành trang bước cuộc sống hôn nhân. Trước khi kết hôn giữa họ chưa có một sự giàng buộc pháp lý.Tài sản của mỗi bên có trước khi kết hôn có thể là những thu nhập từ lao động, từ hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp; có thể do người khác chuyển dịch quyền sở hữu thông qua các giao dịch hợp pháp. Những thu nhập này được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Xét về bản chất kinh tế cũng như bản chất pháp lý thì những tài sản đó phải thuộc tài sản riêng của vợ, chồng từ chính sức lao động của họ tạo nên. Những tài sản này không chịu sự tác động bởi tính chất cộng đồng của “đời sống hôn nhân”và lợi ích chung của gia đình.Tài sản mà vợ chồng có trước khi kết hôn thuộc tài sản riêng mỗi người là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ cộng đồng tạo sản không chỉ trong luật HN&GĐ Việt Nam mà còn trong pháp luật HN&GĐ của các nước thừa nhận chế độ tài sản này như Điều 762 BLDS Nhật Bản, Điều 1405 BLDS Pháp đều quy định tài sản có trước khi kết hôn là tài sản riêng của vợ, chồng.
2.2.2.Tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế riêng hoặc tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân.
Xét về nguồn gốc tài sản, những tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thuộc quyề sở hữu riêng của vợ chồng.Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và 2000 quy định những tài sản này thuộc khối tài sản riêng của vợ, chồng nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt của các chủ sở hữu tài sản, theo quy định của pháp luật dân sự, chuyển dịch tài sản của mình cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng. Bởi lẽ ý chí của chủ sở hữu chỉ tặng cho riêng,hoặc để lại rdi chúc trước khi chết chỉ cho vợ, chồng được hưởng di sản của họ, chứ không phải cho chung cả hai vợ chồng. Những tài sản này không phải do vợ, chồng “tạo ra”trong thời kỳ hôn nhân, theo công sức và thu nhập của vợ, chồng, nên không thể tính thuộc vào khối tài sản chung của vợ chồng. Thực tế những tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thường do những người thân thích ,bạn bè của vợ, chồng cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng giá trị tài sản đó.Có thể do cha mẹ tặng cho riêng con trong ngày cưới ;cha mẹ chồng (vợ) khi chết đã để lại di chúc chỉ cho con mình là người chồng, vợ được hưởng khối di sản đó…Cần lưu ý trong trường hợp chủ sở hữu tuyên bố cho chung hai vợ khối tài sản nào đó,tuy nhiên họ xác định kỷ phần giá trị tài sản từ trước cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng thì về nguyên tắc phần tài sản đó thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi bên vợ, chồng; chỉ tài sản chung khi vợ, chồng tự nguyện nhập vào tài sản chung hoặc có thỏa thuận tài sản đó là tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng. Đối với trường hợp vợ, chồng cùng hang thừa kế theo pháp luật, phần di sản mà mỗi bên vợ, chồng được hưởng theo “suất” thừa kế là bằng nhau, về nguyên tắc sẽ thuộc khối tài sản riêng của vợ, chồng, chỉ là tài sản chung khi vợ chồng tự nguyện nhập vào khối tài sản chung hoặc vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
2.2.3.Tài sản riêng của vợ, chồng gồm những tài sản mà vợ, chồng được chia khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một trường hợp đặc biệt mới được ghi nhận từ luật HN&GĐ năm1986 (điều18) nhưng luật lại chưa dự liệu về hậu quả pháp lý và quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với những tài sản sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.Phải đến luật HN&GD năm 2000 vấn đề này mới được quy định cụ thể tại điều 29 và Điều 30 “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người;phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”.Trên cơ sở đó, Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 đã ghi nhận: “sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, những tài sản mà vợ, chồng đã được chia;hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản đó;thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng sau khi đã chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản riêng của vợ chồng”.Vì vậy trong khối tài sản riêng của vợ, chồng, ngoài những tài sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn;những tài sản được tặng cho riêng, được thừa kế riêng còn có cả tài sản chia từ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
2.2.4.Tài sản riêng của vợ, chồng gồm đồ dùng tư trang cá nhân.
Đây là quy định mới của luật HN&GĐ năm 2000 khi xác định những đồ dùng tư trang cá nhân là tài riêng của vợ chồng.Quy định này là cần thiết và phù hợp với thực tế cuộc sống bởi vì mọi cá nhân cũng như vợ, chồng trong đời sống hàng ngày và công việc theo tính chất nghề nghiệp,chuyên môn của mình đều rất cần đến những đồ dung phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hang ngày của cá nhân hoặc cho công việc nghề nghiệp của mình .Do đó thừa nhận quyền sở hữu riêng của vợ, chồng đối với đồ dùng, tư trang cá nhân là cần thiết để đảm bảo quyền tự do cá nhân và cuộc sống riêng tư của mỗi người.Tuy nhiên cho đến nay chưa có một văn bản cụ thể hướng dẫn và giải thích cho quy định này. Theo từ điển tiếng Việt đã định nghĩa thì “đồ dùng”được hiểu là “vật do con người tạo ra để dùng trong sinh hoạt, trong hoạt động hàng ngày”còn tư trang được hiểu là “các thứ quý giá đi theo người của một cá nhân”. Nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về đồ dùng tư trang cá nhân là tài sản riêng của vợ chồng.Từ khái niệm trên đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về loại tài sản này. Có quan điểm cho rằng tất cả đồ dùng tư trang cá nhân đều là tài sản riêng của vợ, chồng không kể tài sản đó có được bằng tài sản chung hay bằng tài sản riêng .Ngược lại có quan điểm cho rằng chỉ đồ dùng, tư trang cá nhân có được bằng tài sản riêng mới thuộc tài sản riêng của vợ, chồng.Mặt khác với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế-xã hội đời sống vật chất và tinh thần trong gia đình và của cá nhân vợ, chồng không ngừng được nâng cao, đồ dùng tư, tư trang cá nhân trở nên rất đa dạng và phong phú về hình thức và giá trị.Ngoài ra người Việt Nam thường có thói quen chuyển những thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc các thu nhập hợp pháp khác thành các tư trang cá nhân là các đồ trang sức vừa để dùng vừa coi là tài sản tích lũy cho cá nhân và cho gia đình do đó nhiều đồ dùng tư trang cá nhân trong giai đoạn hiện nay có giá trị rất lớn, nếu xác định tất cả đồ dùng tư trang đó là tài sản riêng trong nhiều trường hợp sẽ ảnh hưởng đến lợi ích chung của gia đình, cũng như lợi ích của vợ, chồng của người có đồ dùng tư trang cá nhân đó.
2.2.5.Tài sản riêng của vợ,chồng còn có thể bao gồm những tài sản mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản riêng của mỗi bên.
Lẽ thường khi vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc, họ không phân biệt rạch ròi các loại tài sản chung và riêng đó.Sau nhiều năm chung sống và sử dụng các tài sản trong gia đình, khi vợ chồng có mâu thuẫn và ly hôn cần phân chia khối tài sản chung của họ sẽ có một số tài sản khó xác định được là tài sản chung hay tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng. Mặt khác theo luật định,vợ ,chồng có tài sản riêng có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng. Vì vậy nhằm tạo thuận lợi khi chia tài sản giữa vợ chồng cũng như bảo đảm quyền tự định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng, pháp luật quy định trên nguyên tắc việc chia tài sản khi ly hôn sẽ do vợ chồng thỏa thuận với nhau nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết (khoản 1 Điều 95, khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ 2000). Cho nên vợ, chồng có thể thỏa thuận với nhau về một tài sản cụ thể nào đó là tài riêng của một bên tạo điều kiện cho việc thi hành án sau này;bên có tài sản riêng theo thỏa thuận có quyền lấy lại tài sản riêng vì vợ chồng đã thỏa thuận về tài sản thuộc quyền sở hữu của mỗi bên.
2.2.6.Xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân,Điều 30 của luật HN&GĐ và Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định:khi tài sản chung của vợ chồng được chia trong thời kỳ hôn nhân thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia trong thời kỳ hôn nhân thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người.
Như vậy những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thuộc sở hữu riêng của người có tài sản.Tuy nhiên có vận dụng các quy định trên vào xác định quyền sở hữu đối với hoa lợi,lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng khi chưa có sự kiện chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được không hiện nay vẫn còn tồn tại hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất cho rằng,hoa lợi ,lợi tức không phải là thu nhập mà nó chỉ là lợi ích vật chất gắn liền với tài sản gốc đã phát sinh ra hoa lợi, lợi tức đó. Do vậy hoa lợi lợi tức phát sinh từ tài sản riêng dù trước hay sau khia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vẫn thuộc sở hữu riêng của người có tài sản.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng, hoa lợi,lợi tức là một trong các loại thu nhập của vợ, chồng nên cần xác định hoa lợi ,lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân thuộc tài sản chung của vợ, chồng.
2.3.Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng
2.3.1.Quyền của vợ, chồng đối với tài sản riêng
Khoản 1 Điều 33 luật HN&GD 2000 quy định: “Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, và định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều này”.Với tư cách là chủ sở hữu tài sản của mình, vợ, chồng có toàn quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt)đối với tài sản riêng, không phụ thuộc bởi ý chí của bên người chồng, vợ kia.Đối với tài sản riêng của vợ,chồng mỗi bên sẽ tự quản lý tài sản riêng của mình.Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên vợ, chồng kia có quyền quản lý tài sản riêng đó(khoản 2 Điều 33).Trong việc quản lý tài sản riêng của vợ, chồng mình, người chồng, vợ có nghĩa vụ bảo quản giữ gìn các tài sản đó như tài sản của mình, nếu làm hư hại, thất thoát mà không có lý do chính đáng thì có nghĩa vụ bồi thường(khi có yêu cầu).Trường hợp một bên đã tự ý định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng mình khi tham gia các giao dịch dân sự, thì bên kia có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu.Với tư cách là chủ sở hữu tài sản riêng của mình, khi thực hiện quyền sở hữu(đối với các tài sản theo khoản 5 Điều 33), vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ chồng; việc ủy quyền đó phải được lập thành văn bản(khoản 1 Điều 24 luật HN&GĐ năm 2000).
Đối với tài sản riêng, vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng(khoản 2 Điều 33 luật HN&GĐ năm 2000)quy định này có tính chất tùy nghi cho phép vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng, nó làm “mềm hóa” quyền sở hữu của vợ, chồng trong quan hệ gia đình dựa trên yếu tố tình cảm vốn rất “tế nhị”và phức tạp.Tuy nhiên vấn đề vợ, chồng đã nhập hay chưa nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng khi có tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng rất phức tạp.Trước đây, tại nghị quyết số 01/NQ-HĐTP đã hướng dẫn: Đối với tài sản riêng của vợ chồng mà đã đưa vào sử dụng chung, không còn nữa thì không phải thanh toán, không được đền bù…hướng dẫn này dựa trên nguyên tắc suy đoán :Người vợ, chồng có tài sản riêng mà đã sử dụng cho nhu cầu chung của gia đình thì phải coi vợ, chồng đã “mặc nhiên”nhập tài sản của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng. Khi có tranh chấp họ không riêng có quyền đòi lại tài sản đó.Hiện nay vấn đề nhập hay không nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào khối tài sản chung của vợ chồng nhất là những tài sản có giá trị lớn, theo khoản1Điều 13 nghị định số 70/2001/NĐ-CP đã quy định: Việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật HN&GĐ phải được lập thành văn bản có chữ ký của cả vợ và chồng.Văn bản đó có công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật.Quy định này là căn cứ khi xác định vợ, chồng có tài sản riêng đã nhập hay chưa nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng. Mặt khác để ngăn chặn những mục đích không lành mạnh của vợ, chồng khi nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng; cũng như là bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của những người khác liên quan; khoản 2 Điều 13 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP còn quy định: “Việc nhập tài sản riêng của một bên vào khối tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ riêng của bên đó về tài sản thì vô hiệu”theo quy định tại Điều 11 của nghị định này. Ngoài việc quy định về quyền quản lý, quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng, khoản 5 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định một số hạn chế quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản riêng vì lợi ích chung của gia đình.Trong trường hợp tài sản chung của vợ chồng không đủ đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình thì bên vợ, chồng có tài sản riêng phải đóng góp, sử dụng tài sản riêng vì các nhu cầu thiết yếu đó. Mặt khác, trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự đồng ý , thỏa thuận của vợ chồng. Quy định này đã dựa trên truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, luôn có sự đoàn kết, yêu thương, chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình.
2.3.2.Nghĩa vụ tài sản riêng của vợ, chồng:
Theo khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Nghĩa vụ tài sản riêng của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó”.Nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng(còn gọi là nợ riêng của vợ, chồng)phát sinh từ các khoản nợ mà vợ, chồng vay của người khác ,sử dụng vào mục đích cá nhân mà không vì mục đích của gia đình hoặc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của vợ, chồng hay các loại nghĩa vụ khác theo luật định (nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình như cha, mẹ, vợ, chồng, con mà vợ chồng phải thực hiện).Như vậy theo quy định của pháp luật, vợ, chồng phải bằng tài sản riêng của mình để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ sau đây:
Một là, nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trước khi kết hôn mà không vì nhu cầu đời sống chung của gia đình.
Hai là, nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trong thời kỳ hôn nhân sử dụng vào mục đích riêng, không đáp ứng các nhu cầu thiết yếu và lợi ích chung của gia đình Ba là, nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nợ phát sinh khi vợ, chồng đã tiến hành khai thác các hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân mà vợ chồng không thỏa thuận những hoa lợi, lợi tức đó vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi người. Bốn là, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi vợ, chồng là người quản lý di sản thừa kế mà đã có hành vi thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán, phá tán hoặc làm hư hỏng, mất mát di sản(khoản 3 Điều 12 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP).Trong trường hợp này những người thừa kế khác có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và có quyền yêu cầu chia di sản; Người vợ, chồng mà còn sống mà quản lý di sản đó có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại cho những người thừa kế khác theo quy định của pháp luật. Năm là, Các khoản nợ phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân vợ, chồng như các khoản chi phí cho con riêng của mình (trừ trường hợp theo quy định tại Điều 34,36,37,38, luật HN&GĐ năm 2000) hoặc các chi phí cho người mà vợ, chồng là người giám hộ của người đó theo quy định của Luật Dân sự và luật HN&GĐ. Sáu là, nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiện liên đới với các thành viên trong gia đình theo quy định tại chương V(quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại, giữa anh chị em và các thành viên trong gia đình) và chương VI(cấp dưỡng) của luật HN&GĐ năm 2005 Bảy là, nghĩa vụ bồi thường khoản tiền cấp dưỡng mà vợ, chồng là người được quản lý nhưng đã làm tiêu tán hoặc sử dụng không đúng mục đích (khoản 4 Điều 18 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP. Tám là, nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh dựa trên cơ sở vợ, chồng đã có hành vi tự mình tiến hành các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình (vi phạm khoản 3 Điều 28 Luật HN&GĐ. Chín là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật của vợ, chồng.Về nguyên tắc đối với các khoản nợ và nghĩa vụ phát sinh trên đây, vợ, chồng có nghĩa vụ phải thanh toán, bồi thường bằng tài sản riêng của mình; nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ thì trích chia phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung của vợ chồng (sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân) để thực hiện nghĩa vụ. Những quy định này là cơ sở pháp lý cho việc xác định nghĩa vụ của vợ, chồng được thực hiện bằng tài sản riêng hoặc theo thỏa thuận trong thực tiễn.
III. Phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng
3.1.Về căn cứ nguồn gốc xác lập tài sản riêng của vợ, chồng
Luật HN&GĐ năm 2000 dự liệu vấn đề về tài sản riêng của vợ, chồng tại các điều 32,33(quyền của vợ, chồng có tài sản riêng; căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng),nguyên tắc chung khi chia tài sản giữa vợ và chồng( như khi ly hôn…) thì tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó. Mặc dù luật đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn so với luật HN&GĐ năm 1986 tuy nhiên quá trình thực hiện luật trên thực tế còn nhiều vướng mắc và chưa thống nhất.Vì vậy cần phải bổ sung những vấn đề sau đây.
- Đối với căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ, chồng còn bao gồm những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản riêng của một bên; trừ trường hợp sự thỏa thuận đó là căn cứ rõ ràng là nhằm tẩu tán tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng đối với người khác. - Đối với những tài sản mà vợ, chồng được hưởng do cùng hàng thừa kế theo pháp luật về nguyên tắc thuộc tài sản riêng của vợ, chồng chỉ được coi là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
- Luật cần quy định cụ thể nguồn gốc tài sản là đồ dùng ,tư trang cá nhân bao gồm những gì thuộc tài sản riêng của vơ, chồng.Nên hiểu đồ dùng, tư trang cá nhân là tài sản riêng với nguồn gốc phát sinh từ tài sản chung hay từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân phục vụ trực tiếp cho công việc, nghề nghiệp và nhu cầu sinh hoạt hang ngày của cá nhân vợ, chồng. Mặt khác khi có tranh chấp về loại tài sản này, theo những trường hợp cụ thể mà xem xét đồ dùng, tư trang cá nhân có nguồn gốc và giá trị như thế nào so với khối tài sản chung của vợ chồng và mức thu nhập thực tế của vợ, chồng để xác định chính xác và hợp lý tài sản riêng của vợ, chồng. Đặc biệt trong cuộc sống ngày nay đồ dùng, tư trang cá nhân có giá trị rất lớn, và lại vô cùng phong phú đa dạng nếu xác định tất cả đồ dùng, tư trang cá nhân là tài sản riêng trong nhiều trường hợp sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của gia đình cũng như lợi ích của vợ, chồng người có đồ dùng, tư trang cá nhân đó. Về vấn đề này pháp luật HN&GĐ của nhiều nước quy định rất cụ thể như Điều 1404 Bộ luật dân sự Pháp, Điều 1471 bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan…đều công nhận đồ dùng, tư trang cá nhân là tài sản riêng của vợ, chồng, nhưng giới hạn ở những tài sản thông thường mà không phải là những đồ vật quý, xa xỉn hoặc có giá trị lớn so với thu nhập và khối tài sản chung của vợ, chồng nên chăng chúng ta cũng cần có những quy định giải thích theo hướng giới hạn đồ dùng, tư trang cá nhân phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt thông thường, nhu cầu hoạt động hàng ngày như đồ dùng học tập, đồ dùng phục vụ nghề nghiệp mới là tài sản riêng của vợ chồng.
ản nợ và nghĩa vụ phát sinh trên đây, vợ, chồng có nghĩa vụ phải thanh toán, bồi thường bằng tài sản riêng của mình; nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ thì trích chia phần tài - Đối với những đồ nữ trang trong ngày cưới mà cha mẹ cho con trong ngày cưới (vàng, kim khí quý…)thì cần xác định theo nguyên tắc: nếu cha mẹ tuyên bố cho riêng thì cũng được coi là tài sản riêng của vợ, chồng ; nếu cha mẹ tuyên bố cho chung cả hai vợ chồng thì đó là tài sản chung. Nếu giữa vợ chồng có tranh chấp, thì chia cho người đang sử dụng những đồ nữ trang đó. Quy định này là rất cần thiết và bảo đảm tính nhất quán khi tòa án giải quyết các tranh chấp về tài sản là những đồ nữ trang mà cha mẹ tuyên bố cho con trong ngày cưới.
- Đối với trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Điều 30 Luật HN&GĐ năm 2000 và Điều 8 Nghị quyết số 70/2001/NĐ-CP thì sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được chia từ tài sản chung, kể cả hoa lợi , lợi tức phát sinh từ tài sản được chia đó, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên là tài sản riêng của vợ, chồng. Trừ trường hợp vợ, chồng có thỏa thuận khác.Cần phải khẳng định những quy định này không phải là gián tiếp chấp nhận chế độ ly thân và chế độ biệt sản. Luật và các văn bản hướng dẫn cần quy định cụ thể về hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, đồng thời cũng phải khẳng định việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật.
3.2.Về nghĩa vụ của vợ chồng được thực hiện từ tài sản riêng.
Theo khoản 3 Điều 33, nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên vợ, chồng được thanh toán từ tài sản riêng của người có nghĩa vụ.Tuy nhiên, quy định này còn quá chung chung, chưa có căn cứ cụ thể để xác định loại nghĩa vụ tài sản này vì vậy cần phải có những quy định cụ thể về từng loại nghĩa vụ một như sau :
- Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trước khi kết hôn mà không vì nhu cầu đời sống chung của gia đình.
- Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trong thời kỳ hôn nhân sử dụng vào mục đích riêng, không đáp ứng các nhu cầu thiết yếu và lợi ích . - Nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nợ phát sinh khi vợ, chồng đã tiến hành khai thác các hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân mà vợ chồng không thỏa thuận những hoa lợi, lợi tức đó vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi người. - Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi vợ, chồng là người quản lý di sản thừa kế mà đã có hành vi thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán, phá tán hoặc làm hư hỏng, mất mát di sản(khoản 3 Điều 12 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP).Trong trường hợp này những người thừa kế khác có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và có quyền yêu cầu chia di sản; Người vợ, chồng mà còn sống mà quản lý di sản đó có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại cho những người thừa kế khác theo quy định của pháp luật. - Các khoản nợ phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân vợ, chồng như các khoản chi phí cho con riêng của mình (trừ trường hợp theo quy định tại Điều 34,36,37,38, luật HN&GĐ năm 2000) hoặc các chi phí cho người mà vợ, chồng là người giám hộ của người đó theo quy định của Luật Dân sự và luật HN&GĐ. - Nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiện liên đới với các thành viên trong gia đình theo quy định tại chương V(quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại, giữa anh chị em và các thành viên trong gia đình) và chương VI(cấp dưỡng) của luật HN&GĐ năm 2005 - Nghĩa vụ bồi thường khoản tiền cấp dưỡng mà vợ, chồng là người được quản lý nhưng đã làm tiêu tán hoặc sử dụng không đúng mục đích (khoản 4 Điều 18 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP. - Nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh dựa trên cơ sở vợ, chồng đã có hành vi tự mình tiến hành các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình (vi phạm khoản 3 Điều 28 Luật HN&GĐ. - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật của vợ, chồng.Về nguyên tắc đối với các kho sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung của vợ chồng (sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân) để thực hiện nghĩa vụ.
IV) Kết luận
Những quy định về việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng trong luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là sự tôn trọng quyền sở hữu cá nhân của công dân nói chung và vợ, chồng nói riêng đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992; tôn trọng sự độc lập của vợ, chồng trong việc tham gia vào các quan hệ xã hội khác ngoài quan hệ hôn nhân gia đình, đặc biệt trong việc tham gia các giao dịch dân sự hoặc kinh tế nhất là trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay; tôn trọng quyền tự định đoạt về tài sản của chủ sở hữu trong pháp luật dân sự, trong trường hợp người để lại di sản hoặc người tặng cho chỉ cho một bên vợ chồng được hưởng. Mặt khác việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ, chồng cũng góp phần hạn chế các quan hệ hôn nhân được thiết lập không dựa trên yếu tố tình cảm mà dựa trên yếu tố vật chất-hôn nhân thực dụng.Đồng thời việc ghi nhận quyền này của luật hôn nhân và gia đình còn thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng , nhà nước ta và toàn xã hội về vai trò, vị trí của người phụ nữ trong xã hội, khẳng định một cách nhất quán trong việc tiếp cận về bình đẳng giới xét cả về mặt lý luận và cả thực tiễn của việc ghi nhận của pháp luật trong cuộc sống.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng trong luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.docx