LỜI NÓI ĐẦU
Trong hơn 20 năm cải cách và đổi mới, bộ máy nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu tích cực. Song cùng với những thành tựu đạt được, bộ máy nước ta nói chung và bộ máy hành chính nhà nước nói riêng còn mang nặng dấu ấn của cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, chưa đáp ứng được những yêu cầu của cơ chế quản lý mới, cũng như yêu cầu phục vụ nhân dân trong điều kiện mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao.
Xin được đưa ra một ví dụ: “người nhân viên bán hàng chuyên nghiệp trong siêu thị thực phẩm Đức phải tuân thủ trình tự các thao tác sau: Tươi cười chào khách, nhìn vào xe đẩy xem còn sót lại món nào chưa đưa lên băng chuyền không, tuần tự đưa hàng qua máy quét mã vạch, hết mặt hàng cuối cùng hỏi: Ông/bà còn hàng gì nữa không? Đọc số tiền khách phải trả hiển thị trên màn hình, đánh vào máy số tiền khách trả, trả lại khách số tiền lẻ phải thối lại hiển thị trên màn hình kèm hóa đơn bán hàng, vui vẻ chào tạm biệt. Khởi đầu tươi cười và kết thúc vui vẻ, lặp lại suốt ngày, không thành nghề không thể làm được.” Quy trình trên tạo cho phía khách hàng yên tâm, tin tưởng mua bán nhanh chóng thuận lợi không bị nhầm lẫn; phía siêu thị đủ khả năng phục vụ trôi chảy người mua đông, xếp hàng lũ lượt, mỗi người một xe đẩy, kéo dài liên tục từ sáng đến tối.
Con người chuyên nghiệp và công nghệ hiện đại là hai yếu tố quyết định lòng tin vào sản phẩm, không chỉ trong kinh tế, thương mại mà cả trong bộ máy công quyền. Một nhà nước được người dân tin tưởng của dân do dân vì dân hay không, không phải bởi câu đó có trong mọi sách vở, giáo trình đào tạo, trong chủ trương đường lối, nghị quyết chỉ thị, văn bản pháp lý, mà ở chỗ hàng ngày họ được bộ máy công quyền, những nhân viên nhà nước trực tiếp giải quyết, những quan chức hành xử, xử sự với họ như thế nào.
Không thể kỳ vọng mãi vào khẩu hiệu, phong trào, kêu gọi lòng tự giác, trau dồi đạo đức, tổng kết, hội họp rút kinh nghiệm, áp dụng từ xưa, mà thực tế đến nay đã cho thấy, may lắm đó chỉ là điều kiện cần về tư tưởng, không thể là điều kiện đủ để tạo ra một bộ máy nhân viên và quan chức chuyên nghiệp cần thiết đáp ứng được đòi hỏi thời đại của đất nước: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Yêu cầu cấp bách đặt ra là cần phải cải cách bộ máy nhà nước. Song câu hỏi đặt ra là “cải cách bộ máy nhà nước thế nào là hiệu quả?”, “trong hơn 20 năm cải cách thì điều gì còn thiếu?” . Để giải quyết vấn đề này, điều quan trọng và trên hết là phải cải cách bộ máy hành chính nhà nước. Nhưng tại sao phải là cải cách bộ máy hánh chính nhà nước mà không là cơ quan khác?
Trong bài tiểu luận này, chúng tôi xin đưa ra một số tìm hiểu khái quát về mục tiêu và quá trình cải cách hành chính của nước ta hiện nay với những nội dung chính:
I. Tình hình chung (thực trạng hiện nay)
1. Về bộ máy nhà nước
2. Về bộ máy hành chính nhà nước
3. Những tác động bất cập của quản lý hành chính đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay
II. Trọng tâm của cải cách bộ máy nhà nước là cải cách hành chính
1. Sơ lược về cải cách hành chính
2. Trọng tâm của cải cách bộ máy nhà nước là cải cách bộ máy hành chính nhà nước.
III. Phương hướng cải cách bộ máy hành chính trong tương lai
19 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 22463 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tại sao trọng tâm cải cách bộ máy nhà nước là cải cách hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong hơn 20 năm cải cách và đổi mới, bộ máy nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu tích cực. Song cùng với những thành tựu đạt được, bộ máy nước ta nói chung và bộ máy hành chính nhà nước nói riêng còn mang nặng dấu ấn của cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, chưa đáp ứng được những yêu cầu của cơ chế quản lý mới, cũng như yêu cầu phục vụ nhân dân trong điều kiện mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao.
Xin được đưa ra một ví dụ: “người nhân viên bán hàng chuyên nghiệp trong siêu thị thực phẩm Đức phải tuân thủ trình tự các thao tác sau: Tươi cười chào khách, nhìn vào xe đẩy xem còn sót lại món nào chưa đưa lên băng chuyền không, tuần tự đưa hàng qua máy quét mã vạch, hết mặt hàng cuối cùng hỏi: Ông/bà còn hàng gì nữa không? Đọc số tiền khách phải trả hiển thị trên màn hình, đánh vào máy số tiền khách trả, trả lại khách số tiền lẻ phải thối lại hiển thị trên màn hình kèm hóa đơn bán hàng, vui vẻ chào tạm biệt. Khởi đầu tươi cười và kết thúc vui vẻ, lặp lại suốt ngày, không thành nghề không thể làm được.” Quy trình trên tạo cho phía khách hàng yên tâm, tin tưởng mua bán nhanh chóng thuận lợi không bị nhầm lẫn; phía siêu thị đủ khả năng phục vụ trôi chảy người mua đông, xếp hàng lũ lượt, mỗi người một xe đẩy, kéo dài liên tục từ sáng đến tối.
Con người chuyên nghiệp và công nghệ hiện đại là hai yếu tố quyết định lòng tin vào sản phẩm, không chỉ trong kinh tế, thương mại mà cả trong bộ máy công quyền. Một nhà nước được người dân tin tưởng của dân do dân vì dân hay không, không phải bởi câu đó có trong mọi sách vở, giáo trình đào tạo, trong chủ trương đường lối, nghị quyết chỉ thị, văn bản pháp lý, mà ở chỗ hàng ngày họ được bộ máy công quyền, những nhân viên nhà nước trực tiếp giải quyết, những quan chức hành xử, xử sự với họ như thế nào.
Không thể kỳ vọng mãi vào khẩu hiệu, phong trào, kêu gọi lòng tự giác, trau dồi đạo đức, tổng kết, hội họp rút kinh nghiệm, áp dụng từ xưa, mà thực tế đến nay đã cho thấy, may lắm đó chỉ là điều kiện cần về tư tưởng, không thể là điều kiện đủ để tạo ra một bộ máy nhân viên và quan chức chuyên nghiệp cần thiết đáp ứng được đòi hỏi thời đại của đất nước: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Yêu cầu cấp bách đặt ra là cần phải cải cách bộ máy nhà nước. Song câu hỏi đặt ra là “cải cách bộ máy nhà nước thế nào là hiệu quả?”, “trong hơn 20 năm cải cách thì điều gì còn thiếu?”... Để giải quyết vấn đề này, điều quan trọng và trên hết là phải cải cách bộ máy hành chính nhà nước. Nhưng tại sao phải là cải cách bộ máy hánh chính nhà nước mà không là cơ quan khác?
Trong bài tiểu luận này, chúng tôi xin đưa ra một số tìm hiểu khái quát về mục tiêu và quá trình cải cách hành chính của nước ta hiện nay với những nội dung chính:
Tình hình chung (thực trạng hiện nay)
Về bộ máy nhà nước
Về bộ máy hành chính nhà nước
3. Những tác động bất cập của quản lý hành chính đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay
Trọng tâm của cải cách bộ máy nhà nước là cải cách hành chính
Sơ lược về cải cách hành chính
2. Trọng tâm của cải cách bộ máy nhà nước là cải cách bộ máy hành chính nhà nước.
III. Phương hướng cải cách bộ máy hành chính trong tương lai
Tình hình chung (thực trạng hiện nay):
Về bộ máy nhà nước:
Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là hệ thống cơ quan từ Trung ương đến địa phương và cơ sở, tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Sau đây là sơ đồ bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay:
Trong những năm đổi mới vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và qua rèn luyện trong thực tiễn quản lý sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà nước ta đã trưởng thành về nhiều mặt, đã thể hiện rõ bản chất của một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nổi bật nhất là những thành tựu về xây dựng hệ thống pháp luật để quản lý đất nước, về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhất là dân chủ ở cơ sở. Hoạt động của Nhà nước thể hiện được tư tưởng lấy dân làm gốc, biết dựa vào dân, thực hiện việc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Nhà nước cũng đã tích cực đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng.
Những thành tựu, những tiến bộ trên đây đã tạo nền tảng cho công tác quản lý đất nước. Nhờ vậy, đất nước được ổn định và về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có bước phát triển tốt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững
Song, so với những thành tựu nổi bật trên, bộ máy nhà nước vẫn tồn tại những hạn chế. Đó là bộ máy nhà nước đổi mới chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế-xã hội. “Nhìn chung, việc xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức chưa đạt yêu cầu tinh gọn, hiệu quả; bộ máy còn cồng kềnh, chồng chéo, quan liêu, trách nhiệm không rõ, hiệu lực, hiệu quả thấp. Mối quan hệ về trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu chưa được quy định cụ thể; chưa phát huy đúng mức vai trò của cá nhân và tập thể, khó đánh giá được kết quả công tác và quy rõ trách nhiệm cá nhân khi có sai phạm”. Đánh giá những hạn chế qua 20 năm đổi mới trên lĩnh vực hệ thống chính trị, Đảng ta chỉ rõ: “chưa làm sáng tỏ “tính độc lập tương đối” của mỗi quyền, về sự chế ước lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực; vấn đề kiểm tra, giám sát quyền lực, bảo đảm quyền lực không bị thoái hoá và bị lạm dụng. Chưa có nhận thức đầy đủ về vấn đề làm sao để tránh chồng chéo cũng như tránh lạm quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước; về cơ chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Nhà nước. Bộ máy hành chính còn nhiều tầng nấc làm cho quản lý các quá trình kinh tế-xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả cao”.
Về bộ máy hành chính nhà nước:
Công cuộc phát triển đất nước theo cơ chế thị trường định hướng XHCN gắn liền với sự thay đổi căn bản vai trò của Nhà nước và phương thức hoạt động của nền hành chính quốc gia. Có thể nói rằng, cải cách hành chính (CCHC) là tiền đề và động lực thúc đẩy cải cách phát triển kinh tế - xã hội. Sau gần 20 năm thực hiện, CCHC tại Việt Nam đã thu được những kết quả đáng khích lệ: Hệ thống thể chế trong đó chủ yếu là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và thể chế về tổ chức, hoạt động của nền hành chính Nhà nước đã từng bước hình thành và hoàn thiện theo hướng đồng bộ hơn, phù hợp với nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Hệ thống thủ tục hành chính từng bước được cải cách theo hướng đơn giản hoá, công khai hoá, nâng cao hiệu quả giải quyết công việc của các cơ quan công quyền nhà nước trong quan hệ với nhân dân và doanh nghiệp. Vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước đã được thay đổi căn bản từ chỗ chủ yếu sử dụng mệnh lệnh hành chính với hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới trong quản lý kinh tế sang xây dựng hệ thống thị trường có tính cạnh tranh. Tổ chức bộ máy của Nhà nước đã được cải cách theo hướng tinh giản hơn; việc phân cấp giữa các yếu tố, phân hệ trong bộ máy quản lý Nhà nước cũng từng bước được cải thiện, tạo điều kiện cho mỗi cấp, mỗi tổ chức trong hệ thống đề cao quyền hạn, trách nhiệm đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo trong công việc. Đội ngũ công chức Nhà nước đã được quan tâm xây dựng, bồi dưỡng về năng lực công tác, tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân... Những cải cách trên đây đã góp phần tạo ra tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong thời gian qua, đồng thời làm cho bộ máy Nhà nước trở nên gần dân hơn, khắc phục nhiều bất cập vốn có trong thời cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
Công cuộc CCHC nhà nước mặc dù đã đạt được những kết quả tiến bộ, quan trọng, đáng ghi nhận nhưng vẫn đang còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng đòi hỏi của nhịp điệu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới, những hạn chế lớn tập trung chủ yếu ở những điểm sau:
- Cho đến nay vẫn chưa tạo lập được một hệ thống thể chế đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và dân chủ hóa đời sống xã hội trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế và tiến bộ khoa học công nghệ của thế giới hiện đại. Hiện vẫn chưa xác định được một cách đầy đủ, rõ ràng về khung khổ thể chế cần phải có cho quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước trong điều kiện mới. Những bổ sung, sửa đổi về mặt thể chế mặc dù rất tích cực nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế; mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ và vẫn còn bị ảnh hưởng bởi thể chế cũ - thể chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp.
- Thủ tục hành chính tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều phức tạp, rườm rà, gây không ít phiền toái cho doanh nghiệp và người dân; chủ yếu vẫn theo cơ chế “xin - cho”. Cơ chế “một cửa” tuy được tuyển khai rất rộng rãi nhưng còn mang tính hình thức, chưa có chuyển biến thực sự về chất trong quan hệ giữa Nhà nước với công dân.
- Việc điều chỉnh, đổi mới chức năng, nhiệm vụ của cả bộ máy hành chính Nhà nước cũng như của từng cấp, từng cơ quan hành chính còn rất chậm, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chưa phù hợp với thông lệ chung của thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa. Hiện nay bộ máy hành chính Nhà nước, từ Chính phủ đến chính quyền địa phương còn ôm đồm quá nhiều việc thuộc lĩnh vực quản lý sản xuất, kinh doanh và hoạt động sự nghiệp dịch vụ, chưa tập trung vào thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Hiện vẫn chưa có sự phân biệt rõ vai trò, chức năng của ba khu vực: Nhà nước - Thị trường - Xã hội dân sự, kể cả trong lĩnh vực thể chế cũng như trong thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước vẫn đang còn rất cồng kềnh, đồ sộ, nhiều tầng cấp trung gian. Việc phân cấp Trung ương - địa phương vẫn rất chậm chạp. Cho đến nay, các Bộ ngành vẫn đang nắm giữ nhiều việc cụ thể của chính quyền địa phương làm hạn chế tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Các Bộ vẫn được tổ chức theo mô hình Bộ đơn ngành, đơn lĩnh vực, cơ cấu tổ chức bên trong của các Bộ, số lượng cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cấp huyện lại đang có xu hướng tăng thêm đầu mối. Bộ máy cồng kềnh, nhiều đầu mối như hiện nay tất yếu dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp về chức năng, thẩm quyền và sức ỳ, sự trì trệ, quan liêu của bộ máy là không thể tránh khỏi.
- Phương thức quản lý điều hành của bộ máy hành chính các cấp vẫn theo chế độ làm việc tập thể, quyết định theo đa số có nhiều hạn chế nhưng chậm được thay đổi. Hoạt động quản lý điều hành hành chính, cũng như các dạng quản lý điều hành khác, đòi hỏi phải theo chế độ thủ trưởng, phải đề cao vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu thì mới đảm bảo nhanh nhạy, hiệu lực, hiệu quả.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước. Công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp luật tiến hành chưa nghiêm minh, chưa thường xuyên, thiếu khách quan, công bằng dẫn đến kém hiệu quả, ít tính giáo dục, răn đe, làm gương…Do vậy đạo đức công vụ, trách nhiệm của công chức chậm được nâng cao. Một bộ phận cán bộ, công chức sa xút về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước yêu cầu của dân, của xã hội.
- Về thực hiện yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính còn chậm, chưa có sự thay đổi cơ bản trong phương thức lề lối làm việc của cơ quan hành chính và phong cách thực thi công vụ của cán bộ, công chức mà vẫn mang nặng dấu ấn của cơ chế cũ. Khả năng sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính còn nhiều hạn chế làm cho năng suất lao động, hiệu quả công tác của công chức thấp, trình độ ngoại ngữ và tin học của đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu kém, nhất là trước yêu cầu hội nhập quốc tế.
Tóm lại, kết quả thực hiện chương trình CCHC trong thời gian qua tuy đạt được những tiến bộ đáng kể nhưng nhìn chung còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình hội nhập.
3. Những tác động bất cập của quản lý hành chính đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Những hạn chế về CCHC như đã phân tích ở trên đã tạo ra những tác động bất cập, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những điểm nổi bật có thể chỉ ra như sau:
- Sự can thiệp hành chính của các cơ quan nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế nhiều khi thái quá và vô lý. Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau: Hệ thống pháp luật kinh tế trong cơ chế thị trường đã có bước phát triển, tuy nhiên vẫn chưa đồng bộ; Vai trò của Nhà nước với tư cách là người điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhiều khi bị nhầm lẫn với vai trò Nhà nước là chủ đầu tư, điều này làm cho các kế hoạch của Nhà nước thiếu tính hướng dẫn nền kinh tế gắn với vận dụng nguyên tắc thị trường mà nặng về phân bổ đầu tư Nhà nước; hệ thống chính sách tài chính, tiền tệ và các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại vẫn còn lạc hậu chứa nhiều nội dung mang tính bao cấp, bảo hộ hoặc thiên vị quá mức.
Trong điều kiện thực thi pháp luật của bộ máy Nhà nước chưa cao, những điều trên đây đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp hành chính thái quá, trái thẩm quyền, trái pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mưu cầu lợi ích cục bộ.
- Sự thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm giải trình và khả năng tiên liệu thấp của hệ thống thể chế và nền hành chính. Tính công khai, minh bạch của hệ thống thể chế và nền hành chính là yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với mỗi quốc gia trong quá trình gia nhập WTO. Tính minh bạch của hệ thống pháp luật bao gồm những yếu tố như sự công khai, sự chính xác, sự ổn định và khả năng tiên liệu được của những thay đổi trong chính sách và pháp luật và mục đích rõ ràng của chúng. Về khía cạnh công khai thì hệ thống pháp luật nước ta đã có những tiến bộ rõ nét, nhưng xét ở tính chính xác và ổn định thì hệ thống pháp luật và chính sách cần được tiếp tục hoàn thiện hơn nữa, bởi vì sự thay đổi các văn bản pháp luật diễn ra khá thường xuyên và khả năng tiên liệu được của các văn bản pháp luật ở mức độ rất thấp.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu minh bạch, một trong những nguyên nhân chính là sự thiếu trách nhiệm giải trình của các cơ quan và công chức nhà nước. Sự thiếu thông tin đã cản trở đáng kể việc tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động hoạch định, thực thi pháp luật và các chính sách, chương trình phát triển kinh tế- xã hội. Mặc dù ở nước ta đã thực hiện một số sáng kiến nhằm tăng cường sự tham gia và giám sát của người dân, như thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và hoạt động của các ban thanh tra nhân dân, tuy nhiên như vậy là chưa đủ và kết quả đạt được nói chung vẫn còn hạn chế.
- Tình trạng cơ quan nhà nước sách nhiễu và gây khó khăn cho nhân dân và doanh nghiệp vẫn còn nặng nề. Việc giảm thiểu và từng bước xoá bỏ tình trạng các cơ quan nhà nước sách nhiễu và gây khó khăn cho nhân dân và doanh nghiệp vừa là phương tiện vừa là mục đích của công cuộc cải cách hành chính ở nước ta. Trong những năm qua, với những nỗ lực đáng kể từ cải cách thể chế, thủ tục, bộ máy cho đến hoàn thiện đội ngũ công chức, nước ta đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận về phương diện này, điển hình là việc thực hiện Luật Doanh nghiệp và việc áp dụng thí điểm cơ chế “một cửa” tại nhiều địa phương. Tuy nhiên, tình trạng người dân và doanh nghiệp bị gây khó dễ, sách nhiễu bởi các quy định, quy trình, thủ tục phiền hà cùng với nạn quan liêu, hách dịch, thiếu trách nhiệm, tiêu cực của một bộ phận cán bộ, công chức vẫn còn khá phổ biến, có chiều hướng gia tăng hoặc thành thông lệ, ảnh hưởng xấu, thậm chí nghiêm trọng, đến tình hình kinh tế và xã hội. Cho đến nay chi phí và thời gian gia nhập thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn ở mức cao nhất so với các nước trong khu vực; trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp cũng gặp phải rất nhiều rào cản từ những can thiệp gây khó dễ của các cơ quan nhà nước, nhất là tình trạng trùng lặp, chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm soát đối với doanh nghiệp.
II. Trọng tâm của cải cách bộ máy nhà nước là cải cách bộ máy hành chính nhà nước:
Sơ lược về CCHC: a. Từ thời phong kiến: * Triều Lê Thánh Tông (1460 - 1497): Luật Hồng Đức chia lại hợp lí hơn về địa giới hành chính cả nước (gồm 13 đạo, sắp xếp bộ máy thành 6 bộ: Lại, Lễ, Hộ, Hình, Binh, Công). * Triều Minh Mạng (1820 - 1840): Chia nước thành 30 tỉnh và 1 kinh đô, xếp lại ngoài 6 bộ còn thêm 4 viện, bộ máy cai trị từ Triều đình đến Phủ đến Huyện đến xã. b. Việt Nam dân chủ cộng hoà (giành được độc lập dân tộc từ Cách mạng tháng Tám năm 1945) + Cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc Hội, Hội đồng nhân dân. + Cơ quan HC nhà nước (Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc CP, UBND tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, UBND cấp quận, huyện và xã, thị trấn). + Cơ quan Tư pháp: Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. c. Thời kỳ đổi mới Cải cách hành chính ở Việt Nam là công việc mới mẻ, diễn ra trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính nhà nước trong thời kỳ mới, có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa tìm tòi rút kinh nghiệm. Vì vậy, việc hình thành quan niệm và những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách hành chính cũng như việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi sáng tạo không ngừng, là một quá trình nhận thức liên tục, thống nhất trong tiến trình đổi mới được khởi đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. Từ xác định những nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng, Đại hội VI đã chỉ rõ nguyên nhân của mọi nguyên nhân là do công tác tổ chức, cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng do vậy Đảng đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước tuy đã được sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối, song nhìn chung còn cồng kềnh và chồng chéo. Khắc phục những hạn chế trên, đến Đại hội VII, Đảng xác định tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước và đề ra những nhiệm vụ về sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền địa phương. Trên cơ sở những nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra, trong nhiệm kỳ này đã tiến hành đợt sắp xếp lần thứ hai kể từ Đại hội VI hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII thông qua đã khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về nền hành chính nhà nước. Cương lĩnh đã nêu: về Nhà nước “phải có đủ quyền lực và có đủ khả năng định ra luật pháp về tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước”. Chiến lược cũng nêu trọng tâm cải cách “nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà nước thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tháng 4/1992, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980. Hiến pháp 1992 thể hiện sự nhận thức đầy đủ hơn về phân công, phối hợp giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong tổng thể quyền lực thống nhất của Nhà nước. Sau Đại hội VII, từ 1992 đến 1995 là giai đoạn phát triển mạnh tư duy, quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và về cải cách hành chính. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1/1995) xác định Cải cách một bước nền hành chính nhà nước là nhiệm vụ trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, với mục tiêu là xây dựng một nền hành chính trong sạch có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Lần đầu tiên 3 nội dung chủ yếu của cải cách hành chính nhà nước được trình bày một cách hệ thống trong Nghị quyết Trung ương 8, đó là: cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy tiến trình CCHC, đã mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển biến thật sự trong cải cách hành chính ở nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) nhấn mạnh yêu cầu tiến hành cải cách hành chính phải đồng bộ, dựa trên cơ sở pháp luật, coi đó là một giải pháp cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch KT-XH 5 năm 1996- 2000. Đại hội VIII nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế mới; cải tiến quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, và sắp xếp lại bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý chuyên ngành về kinh tế trên cơ sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành. Theo đó, Nghị quyết của Đảng bổ sung 4 điểm quan trọng về cải cách hành chính là: - Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp hành chính; - Tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hoá sự phân cấp quản lý nhà nước giữa các cơ quan của Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Đổi mới chế độ công chức và công vụ (bao gồm sửa đổi quy chế thi tuyển, bồi dưỡng, đào tạo mới và trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức, kiên quyết xử lý và sa thải những người thoái hoá, biến chất; tăng cường biện pháp và phối hợp lực lượng đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, cửa quyền trong bộ máy cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước); - Thành lập Toà án hành chính và thực hiện xã hội hoá đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực dịch vụ công. Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) họp tháng 6 năm 1997 ra Nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những chủ trương và giải pháp lớn về cải cách hành chính được nhấn mạnh trong Nghị quyết quan trọng này là bảo đảm thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ nhà nước, trong giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và hoạt động của cán bộ, công chức. Từ đó, Chính phủ ban hành các quy chế thực hiện đan chủ ở cơ sở. Trong việc xây dựng chiến lược về cán bộ cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020, Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực, coi đó là yếu tố quyết định đến chất lượng bộ máy nhà nước. Cán bộ lãnh đạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, được bố trí, điều động theo nhu cầu và lợi ích của đất nước. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII), đã khẳng định tiếp tục tiến hành cải cách hành chính và đặt cải cách hành chính trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị. Từ việc kiểm điểm tình hình và rút kinh nghiệm từ thực tiễn, Đảng đã đi đến khẳng định, trong điều kiện một đảng cầm quyền, sự đổi mới chưa đồng bộ các tổ chức trong hệ thống chính trị là trở ngại lớn của công cuộc cải cách hành chính trong thời gian qua. Không thể tiến hành cải cách riêng nền hành chính tách rời sự đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Cũng không thể cải cách hành chính một cách biệt lập mà không đồng thời đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan lập pháp và tư pháp. Từ nhận thức đó, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) đề ra chủ trương tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị gắn liền với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ chức trong hệ thống chính trị, thực hiện tinh giảm biên chế, cải cách chính sách tiền lương. Đại hội IX của Đảng (năm 2001) khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá, đẩy mạnh cải cách hành chính coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị, đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trên các mặt của hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ; tổ chức cán bộ, phương thức hoạt động. Định rõ những việc Nhà nước phải làm và bảo đảm đủ các điều kiện để làm tốt; khắc phục tình trạng buông lỏng hoặc làm thay, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan Đảng và cơ quan Nhà nước; hiện đại hoá nền hành chính; đề ra chủ trương và giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính thời gian tới là: điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, phân định rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng… Đại hội X của Đảng (năm 2005) đã khẳng định tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính công, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội; thực hiện đồng bộ, kiên quyết các giải pháp để phßng, chống tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước. Kết luận: CCHC là một quá trình liên tục đổi mới từ xưa tới nay.
2. Trọng tâm của cải cách bộ máy nhà nước là cải cách bộ máy hành chính nhà nước.
CCHC ở phương Tây còn gọi là cải cách chính phủ, ở Trung Quốc gọi là cải cách thể chế quản lý hành chính, nội dung không khác nhau bao nhiêu, đều nhắc đến các yêu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cơ cấu hành chính và các cơ cấu xã hội khác, hoặc quan hệ nội bộ của cơ cấu hành chính, điều chỉnh chức năng, tổ chức và nhân sự hành chính. Mục đích của CCHC là nâng cao hiệu suất hoạt động hành chính, thích ứng với những thay đổi, đòi hỏi của môi trường trong nước và quốc tế.
Đối với nước ta, đang chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công nghệ mới, nhiệm vụ CCHC nặng nề gấp đôi và đã trở thành bức xúc đối với tiến trình phát triển và đổi mới.
Hiện nay, mặc dầu đã có không ít thành tích cải cách, nhưng quản lý hành chính vẫn là khâu chậm trễ và nhiều khi cản trở những cố gắng phát triển, dù là về kinh doanh, đầu tư, sự nghiệp, hay dịch vụ đời sống. Không chỉ khâu thủ tục phiền hà, không dứt điểm làm tốn thời gian giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp, mà còn nhiều chỗ chồng chéo về quyền hạn, không phân định rõ về trách nhiệm, không hợp lý về tổ chức, trình tự, thiếu nâng cao về trình độ nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm..., làm cho các hoạt động kinh tế và đời sống bị trì trệ, sửa đi và sửa lại nhiều lần, không kịp thời, kém hiệu quả. Các khâu hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội đều phải qua khung cửa bộ máy hành chính nhà nước thì mới thành hiện thực. Vì vậy, nếu không kịp thời đổi mới hoạt động hành chính thì nhịp độ và chất lượng của sự nghiệp phát triển đều bị ảnh hưởng, phát triển càng nhanh, càng rộng thì ảnh hưởng đó lại càng nghiêm trọng. Mặt khác, CCHC cũng là "đầu ra" của các cuộc cải cách khác, như cải cách kinh tế, cải cách tư pháp, kể cả cải cách chính trị, trong cuộc đổi mới toàn diện đang tiến triển. Thực khó có thể hình dung nổi trong điều kiện thủ tục phiền hà, bộ máy trì trệ, nhân sự bất cập như một số nơi hiện nay lại có thể thực hiện được thông suốt những thay đổi rất căn bản từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, từ doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp cổ phần, từ những cơ quan sự nghiệp nhà nước sang các tổ chức sự nghiệp xã hội. Trong thời gian qua, CCHC đã đi sau cải cách kinh tế, đến thời gian tới phải "bứt" lên trước các cuộc cải cách khác thì mới có thể bảo đảm tiến trình đổi mới thực hiện thuận lợi.
Bộ máy nhà nước và bộ máy hành chính nhà nước hiện nay còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Yêu cầu cấp bách được đặt ra là phải cải cách bộ máy nhà nước, trong đó, trọng tâm là cải cách bộ máy hành chính nhà nước bởi bộ máy hành chính là:
Là bộ máy chính, chủ yếu thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Tóm gọn, đây là "cơ quan thực hiện".
Là đội ngũ thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Cột lại, đây là "người thực hiện".
Là nguyên tắc cơ bản đảm bảo tính thống nhất, xuyên suốt, thứ bậc trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Bó lại, đây là "nguyên tắc thực hiện".
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp (kinh tế thời chiến) sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (kinh tế thị trường định hướng XHCN). Trước đây, trong thời kì chiến tranh, bao cấp chưa tiến hành CCHC được vì những lí do lịch sử: tất cả vì tiền tuyến, vì thời đó những nhu cầu mang tính xã hội còn ít ỏi (kinh doanh, sổ đỏ, xây dựng nhà ở, thu hút đầu tư...còn chưa có), đời sống nhân dân khó khăn cho đến khi bước vào thời kì đổi mới xuất hiện và phát triển nhiều nhu cầu…Nền kinh tế từ quốc doanh và tập thể là chính chuyển sang nền kinh tế 6 thành phần (Nghị quyết Đại hội Đảng IX), đó là: Kinh tế nhà nước, Kinh tế tập thể, Kinh tư bản tư nhân, Kinh tế tư bản nhà nước, Kinh tế cá thể, tiểu chủ, Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa và hội nhập với khu vực và trên thế giới. - Việt Nam là thành viên của khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) từ tháng 7/1995, đang tiến tới thực hiện các cam kết nhằm tự do hoá thương mại của các nước ASEAN: cắt giảm thuế quan, loại bỏ rào cản thương mại cho trao đổi hàng hoá giữa các nước thành viên. - VN đang đề nghị trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và hội nhập kinh tế quốc tế. - Đây là nhiệm vụ mới, khó khăn nếu bản thân Nhà nước không đổi mới tổ chức và hoạt động nâng cao hiệu quả quản lý thì không thể hoàn thành nhiệm vụ trên. Do đó, yêu cầu tất yếu phải đổi mới để phù hợp với đổi mới kinh tế. Đổi mới về kinh tế kết hợp đổi mới về quản lý hành chính. Thực tiễn tổ chức, hoạt động quản lý HC nhà nước: Bên cạnh những thành tựu trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN còn tồn tại những yếu kém, hạn chế như: bệnh quan liêu, xa dân, quản lý thiếu tập trung thống nhất, trật tự kỷ cương buông lỏng, bộ máy cồng kềnh và giảm sút hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước. Ví dụ: trước tháng 11/1986 TW có 76 bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ; đến trước 9/2002 TW có 46 bộ ngành và cơ quan thuộc CP; đến nay giảm chỉ còn; Ví dụ: Bộ NN&PTNT gồm: Nông nghiệp, lương thực thực phẩm, lâm nghiệp, thuỷ lợi và tổng cục cao su VN. Nhập bộ điện than, cơ khí luyện kim, công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và tổng cục hoá chất thành bộ Công nghiệp, hiện nay các bộ này hoạt động bình thường, có hiệu quả.
Tình hình phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ: Trên thế giới hiện nay diễn ra những biến đối rất nhanh chóng, to lớn đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước dẫn đến thích ứng kịp thời với diễn biến tình hình và nhịp điệu phát triển của thời đại. - Trong vòng 50 năm qua, thành quả của biến đổi về KHCN bằng sự biến đổi của tất cả thời gian trước cộng lại. - Hàn Quốc: Chính phủ điện tử năm 2004 công khai hoá việc xử lí các vấn đề của dân, của doanh nghiệp trên mạng internet (theo dõi được tiến độ và kết quả cơ quan HC giải quyết công việc của mình). - Singapo: năm 1999 áp dụng ISO 9000 trong toàn bộ bộ máy hành chính. Kết luận: CCHC là một đòi hỏi tất yếu mang tính khách quan (không đổi mới sẽ bị tụt hậu).
Phương hướng cải cách BMHCNN trong tương lai:
Cải cách bộ máy hành chính nhà nước phải được thực hiện với những định hướng, quan điểm phù hợp với thực tiễn của đất nước, phù hợp với những mục tiêu và nội dung của chương trình cải cách hành chính nhà nước của Chính phủ trong từng giai đoạn. Một số định hướng, quan điểm cụ thể như sau:
-Cải cách bộ máy hành chính nhà nước trên cơ sở bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phân nhiệm một cách hợp lý giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó đặc biệt chú ý đến quyền hành pháp.
-Cải cách bộ máy hành chính nhà nước đặt trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
-Cải cách bộ máy hành chính nhà nước phải được tiến hành đồng bộ với các nội dung: cải cỏch thể chế; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; đổi mới chế độ tài chính công.
-Cải cách bộ máy hành chính nhà nước trong xu thế hội nhập quốc tế; góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Để phù hợp với bối cảnh và tình hình mới, quán triệt những thách thức và khắc phục những hạn chế như đã phân tích ở trên, CCHC tại Việt Nam cần thực hiện tốt những vấn đề sau đây:
- Về cải cách hệ thống thể chế: Cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, trong đó chủ yếu là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế về tổ chức, hoạt động của nền hành chính Nhà nước. Những công việc chủ yếu phải làm là loại bỏ, sửa đổi hoặc bổ sung những thể chế lạc hậu, bất cập, đồng thời thiết lập các thể chế còn thiếu để điều chỉnh các quan hệ kinh tế- xã hội mới phát sinh theo tiến trình phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để đáp ứng tốt các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, phải tiến tới xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất, minh bạch, dễ đoán trước và phù hợp với luật lệ quốc tế. Trước mắt cần xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật mới như Pháp lệnh về Đối xử quốc gia, Đối xử Tối huệ quốc và quyền tự vệ; sửa đổi các Luật Thương mại, Luật Phá sản doanh nghiệp, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Ngân sách Nhà nước, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động… Bên cạnh việc hoàn thiện về số lượng và nội dung của hệ thống thể chế, cần tăng cường dân chủ, công khai, minh bạch trong việc soạn thảo, ban hành và thực thi nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực của thể chế. Quá trình xây dựng và thực thi thể chế cần có sự tham gia sâu rộng và giám sát thoả đáng của các chủ thể hữu quan, đặc biệt là của người dân và doanh nghiệp.
Một mặt rất quan trọng của cải cách thể chế là cải cách thủ tục hành chính, hợp lý hóa trình tự giải quyết công việc trong quan hệ giữa các cơ quan công quyền với xã hội dân sự, với công dân, với doanh nghiệp. Khắc phục những hạn chế trước đây, cải cách thủ tục hành chính trong giai đoạn tới phải được được thực hiện song hành với những mặt khác của cải cách hành chính như đẩy mạnh phân cấp, xã hội hoá các dịch vụ công, cải cách tiền lương, ứng dụng công nghệ điện tử và viễn thông… Mục tiêu cơ bản của cải cách là đơn giản hoá các thủ tục, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp cũng như cho cơ quan nhà nước trong giải quyết công việc.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: Hiện nay, hệ thống tổ chức lãnh đạo của Đảng và tổ chức quản lý của Nhà nước được hình thành song song, kể cả cấp ra quyết định Trung ương và các cấp địa phương. Gần như bên Nhà nước có bộ phận nào thì bên Đảng cũng có bộ phận tương ứng. Việc phân công, phân cấp giữa lãnh đạo và quản lý chưa được thể chế hóa bằng các văn bản có giá trị pháp lý cao, việc xác định trách nhiệm cuối cùng đối với một chủ trương, quyết định thường phức tạp. Cơ chế phối hợp không rõ ràng đã làm cho thời gian chuẩn bị ra các quyết định kéo dài, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cần xuất phát từ quan điểm cơ bản về hệ thống thể chế chính trị tổng quát của nước ta: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, quan điểm này tạo ra khuôn khổ chung lâu dài về chế độ dân chủ của một Nhà nước có một Đảng lãnh đạo. Cần có nhiều nghiên cứu để làm rõ và thể chế hóa vấn đề này, đứng riêng về góc độ CCHC cần sớm làm rõ các chức năng lãnh đạo và chức năng quản lý để tạo ra một khung khổ phân công, phân cấp hợp lý, giảm bớt và đi đến xóa bỏ những trùng lắp và không rõ trách nhiệm còn tồn tại hiện nay, bảo đảm cả hiệu quả và hiệu suất lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước.
Để tổ chức tốt việc phối hợp giữa quá trình lãnh đạo của Đảng và quá trình quản lý của Nhà nước cần quán triệt hai nguyên tắc cơ bản sau: Thứ nhất, mỗi phần việc cụ thể chỉ do một cơ quan hay cá nhân quyết định bằng một văn bản pháp quy cụ thể; Thứ hai, cơ quan hay cá nhân có quyền ra quyết định phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về quyết định đó trước Đảng, Nhà nước và pháp luật. Theo đó cần rà soát lại cơ cấu tổ chức, cho phép giải thể một số tổ chức ban, phòng có nội dung công tác dễ dẫn đến trùng lặp về chức năng đã có từ nhiều năm trước. Cơ quan Đảng và Chính phủ cần sớm nghiên cứu việc thể chế hóa quan hệ phối hợp giữa các tổ chức lãnh đạo và quản lý nhà nước.
- Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính: Cần chuyển đổi mạnh mẽ, cơ bản vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cả bộ máy hành chính nhà nước cũng như của mỗi cơ quan hành chính để phù hợp hơn với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường và dân chủ hóa đời sống xã hội. Trước hết cần điều chỉnh vai trò và chức năng của Chính phủ để đảm bảo “Chính phủ nhỏ cho xã hội lớn”. Đây là vấn đề then chốt trong việc đổi mới thể chế quản lý hành chính nhà nước, vì với sự thay đổi của chức năng Chính phủ, các vấn đề khác như cơ cấu bộ máy hành chính, phương thức quản lý hành chính, cán bộ viên chức hành chính... đều phải có sự thay đổi tương ứng, kể cả thực chất mối quan hệ công việc giữa nhà nước và doanh nghiệp, nhà nước và thị trường, nhà nước và xã hội, nhà nước và nhân dân. Với những yêu cầu của giai đoạn mới, chức năng của Chính phủ cần được xác định chính xác, làm cơ sở cho việc hoàn chỉnh khung CCHC. Về cơ bản chức năng chung và chủ yếu của Chính phủ là quản lý nhà nước, bao gồm các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế, khi chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò của Chính phủ phải chuyển dần từ chỗ là tác nhân kinh tế chính sang vai trò người thúc đẩy phát triển, người trọng tài kinh tế. Trong lĩnh vực quản lý chính trị, vai trò của Chính phủ cần chuyển dần từ người cho phép, người gia ân sang người bảo đảm, người tạo điều kiện cho mọi công dân thực hiện được các quyền cơ bản theo luật pháp, đặc biệt là các quyền tự do, dân chủ. Trong lĩnh vực xã hội, vai trò của Chính phủ cần chuyển dần từ người phân phát phúc lợi đồng đều và hạn chế sang người đảm bảo an sinh xã hội cho mọi người, cung cấp dịch vụ sự nghiệp tổi thiểu, đồng thời bảo đảm nguồn dịch vụ khác theo yêu cầu cho toàn xã hội.
- Thực hiện mạnh mẽ việc phân cấp giữa Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương: Phân cấp giữa Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương là một tất yếu khách quan nhằm thúc đẩy quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, là một xu thế của thời đại chống lại một nhà nước tập quyền lỗi thời bằng việc phát huy quyền dân chủ trực tiếp của công dân. Phân cấp nhằm bảo đảm yêu cầu tiện lợi trong mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân; nâng cao tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương; phát huy mọi lợi thế riêng có về vật chất, tinh thần và trí tuệ của nhân dân địa phương; bảo đảm cho nhân dân được tham gia trực tiếp với chính quyền trong phát triển kinh tế - xã hội, trong xây dựng cuộc sống cộng đồng; tạo động lực thi đua và hợp tác lành mạnh, thúc đẩy các địa phương cùng phát triển. Để công tác phân cấp có hiệu quả, cần quán triệt một số nguyên tắc và định hướng chủ yếu sau đây:
Nâng cao nhận thức của các cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương về một nền hành chính thống nhất có sự phân cấp hợp lý quyền hạn và trách nhiệm nhằm thực hiện mục đích phát huy tính tập trung điều hành của Chính phủ với việc phát huy sáng tạo, chủ động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các địa phương. Cấp Trung ương cần tập trung vào việc xây dựng thể chế và các lĩnh vực thuộc lợi ích của quốc gia như ngoại giao, quốc phòng, an ninh; các lĩnh vực khác thì phân cấp cụ thể. Việc xử lý vụ, việc trong quan hệ với dân và doanh nghiệp nên phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương. Cần bảo đảm tính thống nhất về tất cả các chủ trương, chính sách của Nhà nước, không để cùng một chủ trương mà các nơi thực hiện khác nhau. Khi phân cấp, cần bảo đảm các điều kiện cần thiết để thực hiện, bao gồm các điều kiện về pháp chế như quy định rõ các quyền hạn và nhiệm vụ có liên quan, các điều kiện về tài chính, các điều kiện về cán bộ để đảm đương được nhiệm vụ, các điều kiện về quy hoạch chi tiết, về lộ trình cụ thể ... để cơ quan được phân cấp không thể làm khác chủ trương chung, đồng thời cũng không bị vướng mắc về chuyên môn trong khi thực hiện.
- Về đổi mới đội ngũ công chức, đặc biệt là nâng cao phẩm chất, phát triển năng lực công chức: Đây là một nhiệm vụ và thách thức lớn, bởi vì công chức được coi là một yếu tố quan trọng để thực hiện được các mục tiêu quốc gia đã đề ra. Xây dựng và phát triển năng lực của đội ngũ công chức cần quan tâm đến những vấn đề cơ bản sau đây: Xây dựng và phát huy năng lực của đội ngũ công chức hành chính Nhà nước thực chất là thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực của quốc gia một cách cụ thể nhằm tạo ra đội ngũ công chức vừa phải làm việc trên các lĩnh vực theo các nguyên tắc của thị trường, vừa phải biết quyết định các vấn đề trên cơ sở hệ thống quyền lực mà nhân dân giao cho. Xây dựng đội ngũ công chức theo nguyên tắc chức nghiệp hay chế độ việc làm đều nhằm đi đến kết quả cuối cùng là tạo ra được đội ngũ công chức thực sự có năng lực, biết giải quyết các vấn đề được giao trên nguyên tắc kết quả, hiệu quả và chất lượng. Do đó, phải quan tâm đến cả quá trình làm việc của công chức từ khi họ được tuyển dụng làm công chức đến khi họ nghỉ hưu. Để duy trì được đội ngũ công chức có năng lực và trình độ chuyên môn ngày càng được nâng cao, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng công chức có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, cần phải đổi mới cơ bản công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức nhà nước. Xây dựng một cơ chế tiền lương công chức hợp lý, sự tương đồng ở mức thoả đáng với các vị trí tương tự trong khu vực tư nhân; căn cứ vào chất lượng công việc, thể hiện sự cống hiến của công chức trong tiến trình phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm công bằng trong nền công vụ.
- Hợp lý hóa và hiện đại hóa mạnh mẽ công tác hành chính: Mục đích ưu tiên của đổi mới công tác hành chính nhà nước phải là nâng cao hiệu quả và hiệu suất của công tác hành chính, thực hiện công bằng xã hội, nâng cao ý thức dân chủ và pháp trị trong quan hệ với các tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân. Để đạt hiệu quả cao trong quản lý hành chính cần quán triệt các nguyên tắc sau: Quy trình ra quyết định cần thực hiện theo con đường ngắn nhất, gạt bỏ những trùng lặp, làm thay không cần thiết; Mỗi việc chỉ do một tổ chức hay cá nhân phụ trách, có quyền quyết định đồng thời chịu trách nhiệm cuối cùng về quyết định của mình. Không để bất cứ việc gì có hai cơ quan cùng có ý kiến quyết định, kể cả cơ quan Đảng. Cần sớm triển khai dự án Chính phủ điện tử, trước hết ở các thành phố lớn, trong một số ngành và công việc có nhiều giao dịch hành chính với doanh nghiệp hoặc nhân dân. Áp dụng Chính phủ điện tử không những có thể bảo đảm công việc hành chính chạy thông suốt một cách tự động mà còn là phương pháp chống tiêu cực rất có hiệu quả. Cần nghiên cứu triển khai việc mở rộng mạng lưới các tổ chức ngoài doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, các tổ chức trung gian, hỗ trợ, dịch vụ không chủ yếu vì lợi nhuận và các tổ chức phi chính phủ khác, tạo điều kiện cho các hoạt động xã hội triển khai thuận lợi.
KẾT LUẬN
Trọng tâm các mối quan hệ trong hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước giai đoạn này là thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển. Chính phủ sẽ không bao biện, làm thay các công việc của khu vực thị trường, ví dụ: như trực tiếp kinh doanh, trực tiếp can thiệp vào các hoạt động kinh doanh. Chính phủ tập trung vào cầm lái, tức là định hướng phát triển và hoạch định các cơ chế chính sách cho phát triển toàn diện các lĩnh vực của đất nước.
Chính phủ nên giao quyền nhiều hơn cho các cơ quan của chính phủ và bộ máy quản lý nhà nước cấp dưới. Giao quyền nhiều hơn cho nhân dân và các cộng đồng nhân dân để dân biết, dân làm, dân hưởng, dân kiểm tra. Giao quyền tự chủ gắn liền với khuyến khích tăng cường hợp tác giữa các thành viên trong hệ thống. Sự phân công trong hệ thống bộ máy Nhà nước do vậy đòi hỏi phải hết sức cụ thể rõ ràng, minh bạch và phải được quy định theo thể chế .
Bộ máy quản lý nên hoạt động theo hướng phục vụ lợi ích của khách hàng, mà khách hàng cơ bản, quan trọng mang tính quyết định nhất đó chính là nhân dân. Mọi hoạt động của bộ máy Nhà nước là phục vụ lợi ích nhân dân.
Bộ máy Nhà nước nên được tổ chức theo hướng khuyến khích cạnh tranh, tức là những nhiệm vụ cung ứng dịch vụ xã hội trước đây Nhà nước đảm nhận, giờ đây Nhà nước nên khuyến khích khu vực nhân dân và khu vực thị trường đảm nhận theo yêu cầu của nhân dân. Toàn bộ các hoạt động của bộ máy Nhà nước sẽ từ bỏ thói hư làm việc quan liêu, lãng phí, tham nhũng từ bỏ thói quen chi tiêu theo kiểu phân bổ mà thay vào đó là cấp tiền cho kết quả hoạt động...
Hành trình hoàn thiện một mô hình quản lý Nhà nước hiệu quả đích thực không phải là ở chỗ chúng ta tìm ra những mô hình mới mà là ở chỗ chúng ta nhìn bằng con mắt mới, tư duy mới về Nhà nước của thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thời kỳ mở rộng dân chủ xã hội và kinh tế hội nhập. Bởi vậy, những đổi mới ban đầu rất đáng khích lệ, chúng ta cần hết sức trân trọng, đón nhận. Thực tế những chuyển động tích cực về kinh tế - xã hội, an ninh và đối ngoại gần đây báo hiệu rằng bộ máy quản lý Nhà nước ta đang đổi mới đúng hướng.
Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước nhất định sẽ được hoàn thiện, đáp ứng với tiến trình phát triển bền vững của đất nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tại sao trọng tâm cải cách bộ máy nhà nước là cải cách hành chính.doc