Tuy nhiên, s au đó vào năm 2008 TT CK Việt Nam có sự sụt giảm mạnh do tác
động từ tác động của kinh tế vĩ mô từ cuộc khủng hoản g tài chính t oàn cầu , những
điểm nổi bật củ a thị trường: Index giảm đ iểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh
(nhiều mã CP rơi xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối
ngoại, sự ca n thiệp của các cơ qu an điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các nhà đầu
tư.
G iai đoạn từ năm 2009 đến nay TTCk đã hồi phục. Cùng với sự đ i lên của các
TTCK thế giới, ngày 15/10/2009 VN –Index chạm đỉnh 626,11 điểm. T ính thanh
khoản được cải thi ện đáng kể. G iá trị giao dịch trên thị trường có lúc đạt trên 8.000 tỷ
đồng. Với gói kích cầu thứ 2 của chính phủ sắp được triển khai, cùng như những công
bố kết quả kinh doanh hiệu quả t ác động làm thị trường chuyển biến t ích cực.
45 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2793 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhuận nếu thông t in phát hành mới cổ phiếu làm
giá chứng khoán tăng lên. M ặc dù vậy, điều mà EMH yêu cầu là v iệc vượt mặt thị
trường không thể dự đoán trước được.
Sự tồn tại một số ít nhà đầu tư thành công như Soros, Buffett, Lynch là kết quả
mong đợi trong phân phối hoàn toàn ngẫu nhiên của các nhà đầu tư.
HÌNH T HÁI YẾU
Thông tin quá khứ
HÌNH T HÁI TRUNG BÌNH
Thông tin đại chúng
HÌNH T HÁI MẠNH
Tất cả thông tin (kể cả
thông tin nội bộ)
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 23
Thứ hai, EMH giả định rằng t ất cả các nhà đầu tư đều nhận thức tất cả các
thông tin sẵn có trên thị trường theo cách thức y hệt nhau. Tuy nhiên, hằng hà sa số
các phương pháp phân tích và đánh giá cổ phiếu khác nhau đã đặt ra một loạt dấu
chấm hỏi cho tính đúng đắn trong giả định của EMH. Nếu một nhà đầu tư tìm kiếm
các cơ hội đầu tư đang bị định giá thấp hơn thực chất trong khi một nhà đầu tư khác
đánh giá một cổ phiếu dựa trên tiềm năng tăng trưởng của nó, thì chắc chắn rằng hai
nhà đầu tư này sẽ đi đến hai kết luận hoàn toàn khác nhau về giá trị thị trường công
bằng của một cổ phiếu. Vì thế nên, một lập luận phản đối EMH chỉ ra rằng, vì các nhà
đầu tư đánh giá cổ phiếu rất khác nhau nên việc chắc chắn xem một cổ phiếu sẽ đáng
giá như thế nào trong một thị trường hiệu quả là điều không thể.
Thứ ba, giả thuyết thị trường hiệu quả tỏ ra đúng với một vài loại chứng khoán
riêng lẽ chứ không hoàn toàn đúng với toàn bộ thị trường. Đôi khi có những biến động
tự đảo ngược trên thị trường chứng khoán mà nhiều nhà kinh tế học cho rằng đó là kết
quả của tâm lí chung của các nhà đầu tư chứ không phải do ảnh hưởng của các thông
tin có sẵn và được công bố rộng rãi.
II.6 Các bất hoàn hảo của thị trường hiệu quả
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu tìm ra các chứng cứ thực nghiệm ủng hộ
giả thiết thị trường hiệu quả; nhưng có một điều cần phải thừa nhận: không một lý
thuyết kinh t ế nào là đúng hoàn toàn t uyệt đố i . Luôn luôn t ồn t ại trên thực t ế những
ngoại lệ mà lý thuyết không giải thích được. Phần tiếp sau đây sẽ điểm qua ngắn gọn
hai vấn đề cơ bản đang tạo ra nhiều vấn đề cho những người ủng hộ lý thuyết thị
trường hiệu quả.
II.6.1 Bài toán công bố tỷ suất sinh lợi:
Gọi Um là phần dư (được tính bằng chênh lệch tỷ suất sinh lợi t hực tế và tỷ suất
sinh lợi được ước tính dựa trên mô hình CAMP) của chứng khoán tại một thời điểm.
Trong một thị trường hiệu quả, giá cả chứng khoán phải điều chỉnh nhanh
chóng tại t hời điểm tỷ suất s inh lợi được công bố. Tức là sau thời điểm công bố tỷ
suất s inh lợi, đường biểu diễn các Um phải gần như nằm ngang. Tuy vậy ha i Gi áo
Sư Bernard và Thomas đã tìm thấy các chứng cứ cho thấy: dường như giá cả
chứng khoán trên thị trường vào cuối ngày công bố vẫn chưa phản ánh hết lượng
thông tin được công bố.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 24
Um
M ỗi đường biểu diễn trên hình cho thấy mức Um được tính trong khoảng
thời gian trước và sa u thời điểm công bố 50 ngày của 10 danh mục đầu tư (được
đánh số từ 1 đến 10). Danh mục đầu tư 1 bao gồm các chứng khoán có mức tỷ suất
sinh lợi được công bố xấu nhất, danh mục đầu tư 10 bao gồm các chứng khoán có
mức tỳ suất sinh lợi được công bố là tốt nhất. Dữ liệu được thu thập từ năm 1974
đến năm 1981. Có thể nhận thấy rằng: sau thời điểm công bố tỷ suất sinh lợi, các
đường biểu diễn Um không hề nằm ngang mà vẫn thể hiện xu hướng.
Tức là nếu chuẩn hóa các Um sau thời điểm công bố về 0 t ại thời điểm công
bố, nếu giá cả đã phản ánh hoàn toàn mọi thông tin ngay tại cuối ngày công bố,
sẽ không có sự chênh lệch nào trong Um giữa các danh mục đầu tư. Trong khi đó,
nếu quan sát biểu đồ dưới đây lấy từ nghiên cứu của Bernard và Thomas:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 25
Rõ ràng là mức Um giữa danh mục đầu tư 1 và danh mục đầu tư 10 vẫn có
sự chênh lệch nhau và sự chênh lệch này là vào khoảng 4%. Như vậy, phải chăng
mức giá chưa phản ánh mọi thông tin trên thị trường do bản thân trong tâm lý các
nhà đầu tư khi tiếp nhận thông t in được công bố, sẽ đánh giá thấp so với bản chất của
thông tin này; và chỉ đưa ra những đánh giá khác khi có những thông tin khác chắc
chắn hơn.
II.6.2 Bài toán phát hành mới:
Khi một doanh nghiệp phát hành cổ phiếu ra công chúng, các nhà đầu tư
thường có tâm lý đổ xô đ i mu a loại cổ phiếu mới được phát hành này. Xét trên trung
bình, các nhà đầu tư may mắn mua được cổ ph i ếu n ày từ những ngày đầu sẽ ngay
lập tức được hưởng một khoản lãi vốn. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu đã cho th ấy
rằng, các khoản lãi vốn này sẽ nhanh chóng bị loại bỏ sau đó và biến thành một khoản
lỗ.
Đ ể làm rõ vấn đề trên, xét ví dụ sau: giả sử rằng một nhà đầu tư mua được
cổ phiếu của doanh nghiệp X ngay từ những ngày đầu khi nó được phát hành lần
đầu và giữ cổ phiếu này trong 5 năm. Trong giai đoạn từ năm 1970 đến 1998, tỷ suất
sinh lợi bình quân của nhà đầu tư này sẽ thấp hơn 33% so với tỷ suất sinh lợi của
một danh mục đầu tư các loại cổ phiếu của doanh nghiệp có cùng quy mô.
LỢI NHUẬN TRUNG BÌNH (%)
0
5
10
15
20
Lần I Lần II Lần III Lần IV Lần V
Phát hành ra công chúng lần đầu
Cổ phiếu tương ứng
Khi doanh nghiệp phát hành
chứng khoán mới, doanh nghiệp có thể xác định được một mức giá hợp lý. Có thể giải
thích điều này như sau :
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 26
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
5/
1/
19
87
5/
15
/1
98
7
5/
29
/1
98
7
6/
12
/1
98
7
6/
26
/1
98
7
7/
10
/1
98
7
7/
24
/1
98
7
8/
7/
19
87
8/
21
/1
98
7
9/
4/
19
87
9/
18
/1
98
7
10
/2
/1
98
7
10
/1
6/
19
87
10
/3
0/
19
87
11
/1
3/
19
87
11
/2
7/
19
87
12
/1
1/
19
87
12
/2
5/
19
87
DJI
- Thứ nhất, hình thức mạnh của lý thuy ết thị trường hiệu quả có thể không đúng
100%, vì vậy giám đốc tài chính có thể có thông tin mà các nhà đầu tư khác không
có.
- Hoặc các nhà đầu tư có thể có cùng thông tin như ban giám đốc doanh nghiệp
nhưng lại phản ứng chậm.
Cho đến thời điểm này, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể xác định được, liệu
các bất hoàn hảo của thị trường thực là là các ngoại lệ của lý thuyết thị trường hiệu
quả hay là kết quả từ việc tìm ra các mẫu hình nào đó trong dữ liệu của các nhà
nghiên cứu. Bên cạnh đó còn những phương hướng giải thích khác. Ví dụ như đối
với vấn đề phát hành mới: đa số các cổ phiếu được p hát hành mới trong 30 năm
vừa qua là cổ phi ếu của các công ty tăng trưởng với giá trị thị trường rất cao so với
giá trị sổ sách. Có thể, các cổ ph iếu n ày mang lại một khoản lỗ không phải bởi vì nó
được phát hành mới mà chẳng qua là do sự trùng hợp – tất cả các cổ phiếu của công
ty tăng trường (cả phát hành mới hay không) đều lỗ trong giai đoạn này. Tất nhiên,
nếu cách giải thích này đúng sẽ xuất hiện một vấn đề khác cần giải quyết: tại sao các
công ty tăng trưởng lại có cổ phiếu đem lại khoản lỗ trong một khoảng t hời gian dài
như vậy?
Cho đến nay, đã xuất hiện nhiều vấn đề mà bản thân lý thuyết thị trường hiệu
quả không thể giải thích. Đây là động lực và cũng là tiền đề ra đời của một hướng
phát triển mới trong ngành tài chính, đó là tài chính hành vi. Tài chính hành vi hiện
đang là đề tài hấp dẫn giới nghiên cứu và hứa hẹn sẽ cung cấp những câu trả lời phù
hợp hơn cho những vấn đề còn tồn đọng.
II.6.3 Cuộc khủng hoảng năm 1987
19/10/1987
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 27
Vào ngày thứ hai, 19 /10/1987, chỉ số công ngh iệp trung bình Dow Jones sụt giảm 22,6% -
đây là mức giảm nhiều nhất chưa từng có chỉ trong một ngày giao dịch. Mức giảm này không
phải chỉ x ảy ra ở riêng thị trường Mỹ mà trên toàn thế giới. Thị trường chứng khoán Mỹ mất
tới 560 tỷ USD. Mọi người đều giật mình và đưa ra 2 câu hỏi:
Ai là người có tội?
Giá cả có phản ánh các giá trị cơ bản không?
Nhóm bị nghi ngờ đầu tiên bao gồm các nhà mua bán song hành chỉ số (là những người
mua bán các hợp đồng giao sau chỉ số v à các cổ phần bao gồm các ch ỉ số thị t rường, để hưởng
chênh lệch giá).
Nhóm nghi can thứ hai là các nhà đầu tư định chế lớn đang cố gắng thực hiện các kế
hoạch bảo hiểm danh mục. Nguyên nhân trực tiếp của việc cổ phần sụt giá ngày thứ hai đen
tối có thể là cả một đàn voi đang cố thoát ra cùng một lối hẹp.
Có lẽ một vài nhà bảo hiểm danh mục có thể bị kết tội vi phạm trật tự công cộng. Nhưng
tại sao cổ phần lại sụt giá khắp thế giới khi bảo hiểm danh mục chỉ đáng kể ở Mỹ? Hơn nữa,
nếu việc bán chủ yếu do chiến thuật bảo hiểm danh m ục h ay chiến thuật giao dịch châm ngòi,
hẳn chúng chuyển tải ít thông tin cơ bản và đáng lẽ đã phải tăng lên t rở lại sau kh i các hỗn
loạn của ngày thứ hai đen tối đã tiêu tan.
Thế thì tại sao giá cả lại sụt giảm n ghiêm t rọng như vậy? Nguyên nhân gây r a sự sụt giảm
là do:
Một vài nhân tố kinh tế vĩ mô. Lợi nhuận của trái phiếu dài hạn bắt đầu từ năm 1987
tăng từ 7,6% lên xấp xỉ 10%. Điều này tạo ra một cơ hội khác để giúp những nhà đầu
tư kiếm được lợi nhuận.
Thâm hụt giao dịch hàng hóa tăng, giá trị đồn g đô la Mỹ bắt đầu đi xuống. Sau bài
phát biểu của Bộ trưởng Tài chính lúc đó là Jim Baker, những nhà đầu tư bắt đầu lo sợ
việc đồng đô la yếu sẽ làm t ình hình lạm phát trở nên tồi tệ hơn.
Và vào hôm thứ Hai - 19/10 đó, chỉ số Dow Jones giảm 9%, tương đương với 200
điểm chỉ trong một t iếng rưỡi giao dịch. Trong cả ngày hôm đó, hầu h ết các nhà đầu tư
đều thực hiện hàng hoạt các chương trình để bảo vệ danh m ục đầu tư đặt trong các
máy tính của mình.
Việc bảo vệ danh m ục đầu tư như thế này đã làm cho thị trường mất ổn định vì người
ta buộc phải bán cổ phiếu khi giá giảm đi. Cổ phiếu càng giảm giá nhiều thì người ta
lại càng bán ra nh iều hơn.
Khi thị trường không có đủ t ính thanh khoản để hỗ trợ lượng bán ra này thì thị trường
chứng khoán lại càng giảm mạnh hơn. Kết quả là, kết thúc ngày hôm đó, chỉ số Dow
Jones giảm 508 điểm.
Qua vụ sụp đổ của thị trường chứng khoán Mỹ năm 1987, chúng ta đã rút ra được một bài
học quan trọng. Đó là:
Những nhà đầu tư nào bán đi cổ phiếu của mình sẽ trở nên khánh kiệt. Còn những ai
giữ và tiếp tục theo đuổi một phương án giải quyết có kỷ luật và có hệ thống thì sẽ đạt
được thành công.
Tâm lý bầy đàn được đánh giá là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp
đổ của thị trường như trên. Như vậy trong đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư nên trang bị
cho mình một bản lĩnh thật vững vàng.
Biến cố tháng 10/1987 nhắc nh ở chúng ta việc định giá cổ phần thường từ đầu đặc biệt
khó đến thế nào. Vì vậy chúng ta sẽ xem xét lại sơ lược về định giá cổ phần thường thông qua
ví dụ sau :
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 28
Ví dụ : Giả sử trong tháng 01/2003, cổ tức mong đợi hàng năm của chỉ số công nghiệp
Standard and Poor’s vào khoảng 16,7 và được mong đợi tăng với một tốc độ đều đặn
10%/năm. Các nhà đầu tư đòi hỏi một tỷ suất sinh lợi hàng năm là 11,4%. Công thức tăng
trưởng không thay đổi cho ta một giá trị của chỉ số bằng:
PV (chỉ số) =
DIV
=
16,7
= 1.192,86
r – g 0,114 – 0,10
Nhưng bạn có thể tin tưởng vào các con số này đến mức nào? Nếu tăng trưởng cổ tức
chỉ bằng 9,6%/năm, điều này sẽ đưa đến một điều chỉnh giảm 22% trong ước tính của bạn:
PV ( chỉ số) =
DIV
=
16,7
= 927,78
r – g 0,114 – 0,096
Nói cách khác, một sụt giá giống như vậy hoàn toàn có thể đã xảy ra vào tháng
01/2004 nếu các nhà đầu tư đột nhiên trở nên kém lạc quan khoảng 0,4% về tăng trưởng cổ
tức tương lai.
Khó khăn của việc định giá cổ phần thường có hai hậu quả quan trọng:
- Thứ nhất: các nhà đầu tư hầu như luôn luôn định giá một cổ phần thường tương ứng với
giá của ngày hôm qua, điều chỉnh tăng h ay giảm trên cơ sở của thông tin ngày hôm nay.
- Thứ hai: giả thuyết giá cổ phần luôn luôn bằng giá trị nội tại hầu như không thể kiểm
chứng chính là vì khó tính toán giá trị nội tại mà không tham khảo giá cả.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng đã không phá hủy chứng cứ của thị trường hiệu quả
về giá tương đối .
II.7 Các bài học của thị trường hiệu quả
Việc lựa chọn các bài toán đố sẽ mất nhiều thì giờ, nhưng chúng ta tin rằng hiện có
một số nhất trí rộng rãi là các thị trường vốn hoạt động đủ tốt đến nỗi hiếm có các cơ hộ i kiếm
tỷ suất sinh lời một các dễ dàng. Vì vậy, các nh à kinh tế t ình cờ gặp các trường hợp mà giá thị
trường bất thường, họ không ném giả thuyết thị trường hiệu quả vào đống rác kinh tế. Thay
vào đó, họ suy nghĩ một cách cẩn thận xem liệu có thiếu mất một thành tố nào đó mà các lý
thuyết của họ đã bỏ qua không.
Vì vậy, chúng ta đề nghị các giám đốc tài chính nên chấp nhận ở điểm khởi đầu, giá
chứng khoán là phải chăng và r ất khó để ph án đoán vượt qua được thị trường. Điều này có các
ý nghĩa quan trọng đối với một giám đốc tài chính.
Bài học 1: Thị trường không có trí nhớ
Theo hình thức yếu của giả thuyết thị trường hiệu quả, ch uỗi các thay đổi trong giá cả
trong quá khứ không chứa đựng thông tin về thay đổi giá trong tương lai. Các nhà kinh tế đã
diễn tả cùng ý kiến này một cách ch ính xác hơn khi nói rằng thị trường không có trí nhớ. Đôi
khi có vẻ như các giám đốc tài ch ính hành động như là điều này không đúng. Thí dụ, các
nghiên cứu của Taggart và các nhà kinh tế khác ở Mỹ và của Marsh ở Anh cho thấy các giám
đốc thường thiên về tài trợ vốn cổ phần hơn là tài trợ nợ sau khi có các tăng giá bất thường.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 29
Ý kiến của họ là phải chụp lấy thị trường khi giá đang cao. Tương tự, họ thường do dự không
muốn phát hành cổ phần kh i giá sụt, họ thường muốn chờ cho đến khi giá tăng trở lại. Nhưng
chúng ta biết rằng thị trường không có trí nhớ và các chu kỳ mà các giám đốc thường trông
mong thì không hiện hữu.
Đôi khi một giám đốc tài chính sẽ có thông tin nội bộ cho thấy là cổ phần của doanh
nghiệp được định giá cao hay giá thấp. Thí dụ, giả dụ có một vài tin tức tốt mà bạn biết trong
khi thị trường không biết. Giá cổ phần sẽ tăng nhanh khi tin tức được tiết lộ. Vì vậy, nếu công
ty bán cổ phần với giá hiện tại, côn g ty đang cung ứng một giá hời cho các cổ đông mới với
phần thiệt do các cổ đông hiện hữu gánh chịu.
Tự nhiên là các giám đốc sẽ do dự không muốn bán cổ ph ần mới khi họ có các thông
tin nội bộ thuận lợi. Nhưng thông tin này không liên quan đến lịch sử của giá cổ phần. Cổ
phần của côn g ty bạn có thể đang bán với giá bằng phân nửa giá cách đây một năm, tuy nhiên
bạn có thể có thông tin đặc biệt nào đó cho thấy là cổ phần của công ty mình vẫn đang được
định giá rất cao. Hay có thể nó được định dưới giá ở mức gấp hai lần giá năm vừa rồi.
Bài học 2: Hãy tin vào giá thị trường
Trong một thị t rường hiệu quả, bạn có thể tin vào giá cả, v ì giá cả chứa đựng tất cả
thông tin có sẵn về giá trị của mỗi chứng khoán. Điều này có nghĩa là trong một thị trường
hiệu quả, không có cách nào để hầu hết các nhà đầu tư đạt được một tỷ suất sinh lợi cao hơn
liên tục. Để làm được như vậy, bạn không chỉ cần biết nhiều hơn bất kỳ người nào khác, mà
còn cần biết nhiều hơn tất cả mọi người khác. Thông điệp này rất quan trọng cho một giám
đốc tài ch ính chịu trách nhiệm về chính sách tỷ giá hối đoái hay về mua và bán nợ của một
doanh nghiệp. Nếu bạn làm việc trên cơ sở là bạn thông minh hơn những người khác trong
việc dự báo các thay đổi t rong tỷ giá hối đoái hay c ác biến chuyển lãi suất, bạn sẽ đánh đổi
một chính sách tài chính thích hợp để nhận lấy các ảo ảnh không thể năm bắt được.
Các tài sản của công ty cũng có thể chịu tác động trực tiếp của n iềm tin của ban giám
đốc vào các kỹ năng đầu tư của mình. Thí dụ, một công ty có thể mua một công ty khác đơn
giản chỉ v ì ban giám đốc ngh ĩ rằng cổ phần của côn g ty kia được định dưới giá. Tuy nhiên, chỉ
khoảng phân nửa các trường hợp cổ phần của công ty được mua lại, qua nhận thức sau đó cho
thấy là bị định dưới giá; còn phân nửa các trường hợp kia là được định giá cao. Tính trung
bình thì giá trị sẽ đúng, vì vậy mua lại một công ty khác là một trò chơi công bình, n goại trừ
các ch i phí mua lại.
Tháng 12 năm 1994, quận Cam, một t rong những quận giàu nhất ở Mỹ, công bố bị lỗ
1,7 tỷ đô la trong danh mục đầu tư. Phần lỗ phát sinh vì giám đốc ngân khố quận là Robert
Citron đã huy động các khoản vay ngắn hạn lớn để đặt cược vào một tăng giá các trái phiếu
dài hạn. Các trái phiếu mà quận đã mua được hỗ trợ bởi các khoản vay thế chấp do chính phủ
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 30
bảo đảm. Tuy nhiên, một số trái phiếu này thuộc loại bất thường được gọi là trái phiếu có lãi
suất biến đổi ngược chiều, có nghĩa là khi lãi suất tăng, ch i trả lãi cho mỗi trái phiếu giảm, và
ngược lại.
Trái phiếu có lãi biến đổi ngược chiều rủi ro nhiều hơn trái phiếu thông thường. Khi
lãi suất tăng, giá của tất cả trái phiếu đều sụt, nhưng giá của trái phiếu lãi suất biến đổi ngược
chiều sụt gấp đôi vì chi trả lãi sụt trong khi suất chiết khấu tăng. Như vậy, chắc chắn rằng với
chính sách của Robert Citron vay tiền để đầu tư vào trái phiếu lãi suất biến đổi ngược chiều,
khi lãi suất sau đó tăng, ngược lại với dự báo của ông, quỹ đã phải gánh chịu những kho ản
thua lỗ khổng lồ.
Giống như Robert Citron, các giám đốc tài chính đôi khi “đặt cược lớn” vì tin rằng họ
có thể tính được hướng biến động của lãi suất, giá cổ phần hay hối suất, và đô i khi các ông
chủ của họ khuyến khích họ đầu cơ. Chúng ta không định ám chỉ rằng đầu cơ như vậy luôn
luôn đưa đến thua lỗ như trong trường hợp quận Cam, vì trong một thị t rường hiệu quả, các
nhà đầu cơ thắng thường mà thua cũng thường. Nhưng những giám đốc tài chính của doanh
nghiệp cũng như giám đốc ngân khố thành phố nên tin tưởng vào giá cả thị trường hơn là
gánh chịu các rủi ro lớn khi cố gắng tìm kiếm tỷ suất sinh lợi giao dịch mua bán.
Bài học 3: Hãy đọc sâu
Nếu thị trường hiệu quả, giá cả chứa đựng tất cả thông tin có sẵn. Vì vậy, chỉ cần
chúng ta biết cách đọc sâu, giá cổ phần có thể cho chúng ta biết nhiều về tương lai. Những
đánh giá của thị trường về chứng khoán của công ty cũng có thể cung cấp những thông tin
quan trọng về các triển vọng của công ty. Như vậy, nếu các trái phiếu của công ty đang cung
ứng với một tỷ suất sinh lợi đáo hạn cao hơn trung bình, bạn có thể suy diễn rằng công ty có
thể đang gặp vấn đề.
Thí dụ: Giả dụ các nhà đầu tư t in rằng lãi suất sẽ tăng tron g năm tới. Trong trường hợp
này, họ sẽ thích chờ trước khi cung cấp các khoản vay dài hạn, và một doanh ngh iệp nào đó
muốn vay dài hạn hôm nay sẽ phải đưa ra một mức lãi suất cao hơn. Nói cách khác, lãi suất
dài hạn sẽ phải cao hơn lãi suất một năm. Chênh lệch giữa lãi suất dài hạn và ngắn hạn cho
bạn biết đôi chút về điều mà các nhà đầu tư kỳ vọng sẽ xảy ra cho lãi suất ngắn hạn trong
tương lai.
Các thông tin khác mà nhà đầu tư cần quan tâm để dự đoán giá cả tương lai :
Thông tin t rong các báo cáo tài chính của một công ty có thể giúp các giám đốc tài
chính ước tính xác suất phá sản như thế nào.
Đánh giá của thị trường về chứng khoán của công ty cũng có thể cung cấp thông tin
quan trọn g về các triển vọng của công ty.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 31
Nếu trái phiếu của công ty đang cung ứng một tỷ suất sinh lợi đáo hạn cao hơn trung
bình, bạn có thể suy diễn rằng công ty đang gặp vấn đề.
Bài học 4: Không có các ảo tưởng tài chính
Trong một thị trường hiệu quả, không có các ảo tưởng tài chính. Các nhà đầu tư chỉ
quan tâm một cách thực tế đến các dòn g tiền của doanh nghiệp và ph ần của các dòn g tiền n ày
mà họ có quyền hưởng.
Chúng ta có thể minh họa bài học thứ tư nà bằng cách xem xét tác động của cổ tức cổ
phần và chia nhỏ cổ phần. Mỗi n ăm, hàng trăm công ty gia tăng số cổ phần đang lưu h ành
hoặc chia nhỏ số cổ phần đang hiện hữu hoặc bằng cách phân phối thêm cổ phần dưới h ình
thức cổ tức. Việc này không tác động đến dòng tiền tương lai của công ty hay tỷ lệ của các
dòng tiền này dành cho mỗi cổ đông. Thí dụ, giả sử giá cổ phần của công ty A đang được bán
với giá 210$/cổ phần. Một chia nhỏ cổ phần ba cho một sẽ thay thế mỗi cổ phần đang lưu
hành bằng ba cổ phần mới. Công ty A có thể sắp xếp việc này bằng cách in thêm hai cổ phần
mới cho mỗi cổ phần nguyên thủy và phân phối các cổ phần mới này cho các cổ đông như
một “món quà tặng, không mất tiền”. Sau khi chia nhỏ, chúng ta sẽ mong đợi giá bán mỗi cổ
phần là 210$/3=70$. Cổ tức mỗi cổ phần, thu nhập mỗi cổ ph ần và tất cả các biến số từng cổ
phần khác sẽ bằng 1 /3 mức trước đây.
Các kết quả một cuộc nghiên cứu cổ điển về chia nhỏ cổ phần trong suốt thời gian từ
1926 đến 1960 được tóm lược qua sơ đồ dưới đây: Nó cho thấy thành quả không bình thường
tích lũy của các cổ phần quanh thời điểm ch ia nhỏ sau khi điều chình theo gia tăng số cổ
phần. Lưu ý phần gia tăng trước khi chia nhỏ. Công bố chia nhỏ hẳn đã xảy ra trong tháng
hoặc hai tháng sau cùng của thời kỳ này. Điều này có nghĩa là quyết định chia nhỏ vừa là h ậu
quả một gia tăng giá cả vừa là nguyên nhân của một gia tăng giá cả tiếp theo. Các cổ đông
quan tâm đến cả hình thức lẫn chất lượng. Tuy nhiên, trong suốt năm kế t iếp, hai phần ba của
các công ty chia nhỏ cổ phần đã côn g bố gia tăng trên trung bình trong cổ tức tiền mặt. Thông
thường một công bố như vậy sẽ tạo nên một gia tăng bất thường trong giá cổ phần, nhưng
trong trường hợp các côn g ty chia nhỏ cổ phần, điều này không xảy ra ở bất kỳ thời điểm nào
sau kh i chia nhỏ cổ phần. Giải thích rõ ràng của điều này là v iệc chia nhỏ cổ ph ần được kèm
theo một hứa hẹn rõ rệt hay hàm ý về việc gia tăng cổ tức, và việc tăng giá vào thời điểm chia
nhỏ cổ phần không liên qua gì đến sự ưa chuộng chia nhỏ như vậy, mà chỉ liên quan đến
thông tin mà người ta cho rằng việc ch ia nhỏ này chuyển tải.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 32
Tỉ suất sinh lợi không bình thường tích lũy vào thời điểm chia nhỏ cổ phiếu. Từ tháng
0 trở đi, không có các thay đổi bất thường, hầu như không biến động
(Nguồn: “Điều chỉnh giá cổ phần trước thông tin mới” của E.Fama, L.Fisher, M.Jensen và
R.Roll, Tạp chí kinh tế quốc tế 10 (1/1969), hình 2b, tr.18.)
Hành vi này không hàm ý là các nhà đầu tư thích cổ tức gia tăng cho lợi ích của riêng
mình, vì các công ty chia nhỏ cổ phần có v ẻ thành côn g một cách kh ác thường theo các cách
khác. Thí dụ, Asquith, Healy và Palepu đã tìm thấy rằng chia nhỏ cổ phần thường đi sau các
gia tăng cao trong tỷ suất sinh lợi. Các gia tăng tỷ suất sinh lợi cao như vậy thường chỉ có t ính
tạm thời, và các nhà đầu tư đã đúng kh i xem xét chúng với một sự nghi ngờ. Tuy nhiên, chia
nhỏ cổ phần có vẻ như đã cung cấp cho các nhà đầu tư một đảm bảo rằng trong trường hợp
này, gia tăng trong tỷ suất sinh lợi là thường xuyên thực sự.
Có các trường hợp khác các giám đốc có v ẻ như cho rằng các nhà đầu tư thường có ảo
tưởng tài chính. Thí dụ, một vài doanh nghiệp đã thực hiện các thay đổi kế toán, tác độn g đến
tỷ suất sinh lợi báo cáo cho các cổ đông (báo cáo tỷ suất sinh lợi ma), qua một hệ thống “kế
toán sáng tạo”, tức là bằng cách chọn các phương pháp kế toán ổn đinh hóa và gia tăng tỷ suất
sinh lợi báo cáo. Có thể các doanh nghiệp làm như vậy v ì Ban giám đốc tin rằng các cổ đồng
chấp nhận các con số qua giá trị danh nghĩa của chúng.
Một cách nữa mà các công ty có thể tác động đến tỷ suất sinh lợi báo cáo của mình là
tính chi phí các hành hóa đã lấy ra khỏi kho hàng. Các công ty có thể chọn giữa hai phương
pháp: phương pháp FIFO (nhập trước xuất trước), doanh nghiệp trừ chi phí của hàng hóa đã
đưa vào kho hàng trước; và phương pháp LIFO (nhập sau xuất trước) các công ty trừ chi phí
của hàng hóa mới nhất vừa nhập vào kho. Khi lạm phát cao, chi phí của hàng hóa đã mua
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 33
trước tiên thường thấp hơn hàng hóa m ua sau cùng; vì vậy, tỷ suất sinh lợi t ính theo FIFO có
vẻ cao hơn tỷ suất sinh lợi t ính theo LIFO.
Nếu đây chỉ là vấn đề trình bày, sẽ không có hại gì khi chuyển từ LIFO sang FIFO.
Tuy nhiên, cơ quan thuế quy định phương pháp được dùng để báo cáo cho cổ đông phải được
dùng để tính thuế cho doanh nghiệp; vì vậy, chi trả thuế ngay thấp hơn do việc dùng phương
pháp LIFO cũng đưa đến tỷ suất sinh lợi thấp hơn.
Nếu các thị trường h iệu quả, các nhà đầu tư sẽ hoan nghênh một chuyển đổi sang kế
toán LIFO, ngày cả khi nó làm giảm tỷ suất sinh lợi. Việc chuyển đổi sang phương pháp
LIFO thường đi kèm theo với một gia tăng bất thường trong giá cổ phần. Có vẻ như các cổ
đông nhìn đằng sau các con số và chú trọng đến số tiền tiết kiệm được.
Bài học 5: Phương án tự làm lấy
Trong một thị trường hiệu quả, các nhà đầu tư sẽ không trả tiền cho người kh ác để nhờ
làm việc mà tự họ cũng làm được tốt như vậy. Như chúng ta sẽ thấy, nhiều cuộc tranh luận
trong tài trợ doanh nghiệp tập trung vào việc các cá nhân có thể sao chép hay tái tạo các quyết
định tài chính doanh nghiệp tốt như thế náo. Thí dụ, các côn g ty thường biện minh các sáp
nhập trên cơ sở là chúng mang đến một doanh nghiệp đa dạng hóa hơn và do đó ổn định hơn.
Nhưng nếu các nhà đầu tư có thể n ắm giữ cổ phần của cả hai côn g ty, tại sao họ lại phải cảm
ơn các công ty về việc đa dạng hóa này? Thường thì việc đa dạng hóa dễ hơn và rẻ hơn cho
họ hơn là cho các công ty.
Giám đốc t ài chính cần hỏi cùng câu hỏi khi xem xét liệu phát hành nợ tốt hơn hay
phát hành cổ phần thường tốt hơn. Nếu doanh nghiệp phát hành nợ, doanh nghiệp sẽ tạo ra
đòn bẩy tài chính. Kết quả là cổ phần sẽ rủi ro hơn và sẽ phải cung ứng một tỷ suất sinh lợi
mong đợi cao hơn. Nhưng các cổ đông có thể đạt được đòn bẩy tài ch ính mà không cần doanh
nghiệp phát hành nợ: họ có thể vay tiền cho riêng họ. Vì vậy, vấn đề của giám đốc tài chính là
quyết định xem liệu công ty có thể phát hành nợ rẻ hơn là cá nhân cổ đông không.
Bài học 6: Đã xem một cổ phần, hãy xem tất cả
Tính co giãn của cầu đố i với bất cứ một vật phẩm nào đo lường phần trăm thay đổi
trong số lượng cầu cho mỗi phần trăm tăng thêm của giá cả. Nếu vật phẩm có các sản phẩm
thay thế tương lai, tính co giãn sẽ âm; nếu không nó sẽ gần zero. Thí dụ, cà phê là một hàng
hóa ổn định, có tính co giãn của cầu khoản -0,2. Nghĩa là một thay đổi 5% trong giá cà phê
làm thay đổi doanh số khoản -0,2 x 0,05 = - 0,01; nó i cách khác, nó chỉ làm giảm mức cầu
khoảng 1%. Người tiêu dùng thường xem các nhãn hiệu cà phê khác nhau như là các sản
phẩm thay thế gần nhau hơn.
Các nhà đầu tư không mua một cổ phần vì tính chất độc đáo của nó; mà vì nó cung
ứng một triển vọng tỷ suất sinh lợi phải chăng so với rủi ro của nó. Điều này có nghĩa là các
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 34
cổ phần, hầu như là các thế phẩm tuyệt đối. Vì vậy, mức cầu đối với cổ phần một công ty sẽ
có tính co giãn c ao. Nếu tỷ suất sinh lợi triển vọng của nó quá thấp so với rủi ro, sẽ không ai
muốn nắm giữ cổ phần này. Nếu ngược lại, mọi người sẽ tranh nhau mua.
Giả dụ bạn muốn bán một lượng lớn cổ phần. Vì cầu có tính co giãn, thông thường
bạn kết luận rằng bạn chỉ cần cắt giảm nhẹ giá để bán cổ phần của mình. Không may là
mọi việc sẽ không nhất thiết diễn ra như vậy. Khi bạn bán cổ phần, các nhà đầu tư khác có
thể nghi ngờ là bạn muốn vất bỏ nó vì một lý do nào đó mà họ không biết. Vì vậy, họ sẽ
điều chỉnh lại đánh giá của họ về giá trị của cổ phần của bạn theo chiều hướng đi xuống
nghĩa là cổ phần sẽ giảm nhiều hơn. Cầu thì vẫn co giản, nhưng toàn bộ đường con g cầu
sẽ đi xuống. Cầu co giản không ngụ ý là bạn có thể bán một lượng lớn cổ phần sát với
gián thị trường cho đến khi nào bạn có thể thuyết phục các nhà đầu tư khác rằng bạn
không có thông tin riêng.
III. HỌC THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI
TTCK VIỆT NAM
III.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam:
Thị trường chứng khoán (TTCK) nước t a mới chính thức hoạt động từ năm
2000, kể từ khi ra đời Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí M inh ngày
28-7-2000. Khi đó mới có một vài cổ phiếu được giao dịch với tổng số vốn 27 tỉ đồng
và 6 công ty chứng khoán thành viên. Ta có thể khái quát sơ lược về các giai đoạn phát
triển của thị trường chứng khoán Việt Nam qua các giai đoạn như sau:
Trong 5 năm đầu phát triển (2000 – 2005) dường như thị trường không thực sự
thu hút được sự quan t âm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị
trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng t ới sự vận hành của
nền kinh tế.
Trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2007 thực sự là sự phát triển vượt bậc của
TTCK Việt Nam. Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang t ính chất phát
triển “đột phá” TTCK Việt N am có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index t ại sàn giao
dịch TP. Hồ Chí M inh (HOSE) tăng 144% năm 2006, tại sàn giao dịch Hà Nội (Hastc)
tăng 152,4%. Giai đoạn 2007: Giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ.
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường
phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường t ài chính quốc t ế. T ính công
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 35
khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường. VN-Index đạt đỉnh
1.170,67 điểm , HASTC-Index chạm mốc 459,36 điểm.
Tuy nhiên, sau đó vào năm 2008 TTCK Việt Nam có sự sụt giảm mạnh do tác
động từ tác động của kinh tế vĩ mô từ cuộc khủng hoảng tài chính t oàn cầu , những
điểm nổi bật của thị trường: Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh
(nhiều mã CP rơi xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối
ngoại, sự can thiệp của các cơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các nhà đầu
tư.
Giai đoạn từ năm 2009 đến nay TTCk đã hồi phục. Cùng với sự đ i lên của các
TTCK thế giới, ngày 15/10/2009 VN –Index chạm đỉnh 626,11 điểm. T ính thanh
khoản được cải thiện đáng kể. Giá trị giao dịch trên thị trường có lúc đạt trên 8.000 tỷ
đồng. Với gói kích cầu thứ 2 của chính phủ sắp được triển khai, cùng như những công
bố kết quả kinh doanh hiệu quả t ác động làm thị trường chuyển biến t ích cực.
* Một số đặc điểm đáng chú ý của TTCK nước ta trong thời gian qua:
- Cùng với sự phát triển của các nhà đầu tư là doanh nghiệp (bảo đảm về năng
lực tài chính, có tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư chứng khoán...) thì sự phát
triển của các nhà đầu tư cá nhân rất đông (chiếm hơn 60% số nhà đầu tư) và nhà đầu tư
nước ngoài cũng quan tâm đầu tư vào TTCK nước ta ngày càng nhiều (bao gồm cả
những nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư cá nhân).
- Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở
nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những người
mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện tượng “bong
bóng” là có thật. Tình hình sôi động của TTCK thời gian qua phản ánh hiện tượng
kinh t ế tốt lành là: (1) nền kinh tế Việt Nam đã và đang t ăng trưởng và có xu hướng
tiếp tục t ăng trưởng; (2) vốn cho đầu tư phát triển được huy động qua kênh TTCK và
vẫn còn điều kiện phát triển qua kênh này trong thời gian tới, do nhiều doanh nghiệp
lớn (trong đó có các ngân hàng thương mại nhà nước) tiến hành cổ phần hoá, phát
hành trái phiếu, thực hiện niêm yết tại các công ty chứng khoán. Tuy nhiên, việc phát
triển “nóng” của TTCK cũng sẽ phát sinh 2 vấn đề cần phải quan tâm: (1) việc các nhà
đầu tư nước ngoài có điều kiện thao túng, dễ gây rủi ro cho TTCK trong nước; (2)
cũng đã tác động khá mạnh đến thị trường bất động sản, đẩy giá nhà, đất lên cao.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 36
- Các ngân hàng thương mại cổ phần sau quá trình tái cơ cấu đã làm ăn tốt, đang
ổn định và phát triển, tiếp tục tái cơ cấu để t ăng cường năng lực cạnh tranh và hội nhập
theo các cam kết của WTO, trong đó có việc phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn.
Theo quy định tại Nghị định số 141 ngày 22 - 11 - 2006 của Chính phủ “Về ban hành
danh mục vốn pháp định của tổ chức t ín dụng” thì đến hết năm 2007 vốn điều lệ của
các ngân hàng thương mại nước ta phải đạt 1000 tỉ đồng và đến năm 2010 phải đạt
3000 tỉ đồng. Để thực h iện được việc này, các ngân hàng thương mại phải tìm mọi
cách để tăng vốn, trong đó bao gồm cả việc phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng
(phát hành mới, phát hành thêm, thưởng cuối năm bằng cổ phiếu) và đây cũng là một
trong những nguyên nhân làm cho cổ phiếu ngân hàng luôn “nóng”.
- Có sự chuyển dịch đáng kể vốn từ ngân hàng thương mại sang đầu tư chứng
khoán theo 2 hướng: (1) các nhà đầu tư cá nhân rút tiền gửi tiết kiệm để đầu tư chứng
khoán (2) những người khác (bao gồm cả công ty chứng khoán của ngân hàng lại vay
tiền của ngân hàng thương mại để kinh doanh chứng khoán (theo báo cáo của Ngân
hàng Nhà nước, tỷ lệ các ngân hàng thương mại cho các công ty chứng khoán ngân
hàng vay để kinh doanh chứng khoán tại thời điểm cuối năm 2006 là 2,6%). Qua đây
cũng phần nào tác động đến hoạt động của ngân hàng thương mại và cả Ngân hàng
Nhà nước với vai trò quản lý và điều hành chính sách tiền t ệ.
Qua các đặc điểm cơ bản nêu trên thì thị trường chứng khoán Việt Nam có thực
sự là thị trường hiệu quả không? Và ở dạng hiệu quả nào?
III.2. Tính hiệu quả của Thị trường chứng khoán Việt Nam
III.2.1 Xét về giả thuyết của thị trường hiệu quả trong trường hợp của thị
trường chứng khoán Việt Nam
Trước hết một thị trường chứng khoán được cho là hiệu quả khi nó đảm bảo các
tiêu chí cơ bản sau:
Về mặt thông tin: Theo giả thuyết thị trường hiệu quả thì các thông tin luôn
được cung cấp chính xác và kịp thời đến tất cả các nhà đầu tư bao gồm các thông tin
tham chiếu trong quá khứ đến các thông tin hiện tại và các dự đoán nhận định cho
tương lai của giới phân tích. Nói cách khác tiêu chí này yêu cầu sự đa dạng, phong phú
và minh bạch của các kênh cung cấp thông t in cho thị trường.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 37
Hoạt động công bố thông tin trên TTCK được quy định cụ thể tại N ghị định
144/NĐ-CP và Thông tư 57/2004/TT-BTC. Việc công bố thông tin của doanh nghiệp
(DN) đến nhà đầu tư và các cổ đông là một khâu quan trọng. Tuy nhiên, trong thời
gian qua việc công bố thông tin của các DN không đồng đều, có DN công bố rất tốt
nhưng cũng có DN chưa coi trọng việc công bố thông tin đến các nhà đầu tư. Nhiều
DN đã niêm yết trên TTCK nhưng chưa có bộ phận chuyên trách về công bố thông tin.
Do đó sự biến động bất thường đến giá cổ phiếu do những “tin đồn” chưa được sự
kiểm soát và xác minh của cơ quan quản lý nhà nước. Trong khi đó các DN chưa niêm
yết trên TTCK việc công bố thông t in chưa được đề cập trong nghị định và thông tư
trên cũng như trong dự thảo Luật chứng khoán. Sự phát triển của TTCK tập trung hay
TTCK phi t ập trung liên quan mật thiết với nhau. Do đó những “tin đồn” trên thị
trường phi t ập trung tác động mạnh đến giá chứng khoán. Diễn biến giá chứng khoán
trong thời gian qua là một minh chứng cho lập luận trên.
Thời gian qua, trên Bản tin chứng khoán của trung t âm giao dịch chứng khoán
TP.HCM đã công bố kết quả hoạt động của SAM nhầm với kết quả hoạt động của
VTC, điều này đã khiến cho không ít nhà đầu tư đã đổ vốn vào đầu tư VTC, thế nhưng
ngày hôm sau, Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM đã cải biên thông t in trên.
Có nhiều nhà đầu tư đã mua ở mức giá trần nhưng ngay sau đó giá của VTC đã giảm
xuống mức sàn và giảm liên tục. Điều này càng đặt ra trách nhiệm phải kiểm soát quá
trình công bố thị trường này cần nghiêm túc và tuân t hủ trật tự thị trường.
Như vậy, ta có thể kết luận là đối với tiêu chí này thị trường chứng khoán Việt
Nam hiện nay đang khá yếu khi các nhà đầu tư chưa được t iếp cận với các thông tin
cập nhật kịp thời về doanh nghiệp niêm yết do các doanh nghiệp không chú trọng đến
công bố thông tin. Hiện tượng các t hông tin đưa ra muộn, sai lệch thường xuyên diễn
ra. N goài ra các thông tin quá khứ nhằm tham khảo về thị trường và doanh nghiệp
niêm yết hiện không đầy đủ và khó t iếp cận.
Về giá chứng khoán: theo thuyết thị trường hiệu quả thì cho rằng khả năng
thanh khoản cao của các chứng khoán được giao dịch trên thị trường biểu thị qua khối
lượng giao dịch lớn và đều đặn. Điều này khiến cho giá chứng khoán phản ánh
chính xác quan hệ cung cầu của thị trường và loại bỏ hiện tượng làm giá. Tuy
nhiên giao dịch trên thị trường Việt Nam hiện nay ngoại trừ một số mã cổ phiếu lớn
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 38
còn phần đông có khối lượng giao dịch khá thấp điều này khiến cho hiện tượng các mã
không có giao dịch trong một phiên thường xuyên xảy ra.
Về chi phí giao dịch: Theo giải t huyết thị trường hiệu quả thì không tồn tại
trong các mua bán chứng khoán vốn vì nếu chi phí giao dịch quá cao sẽ hạn chế bớt
các giao dịch tiềm năng do mức giá mua và bán chứng khoán phải gánh thêm chi phí
này khiến nó không phản ánh được giá trị thật của chứng khoán. Chi phí giao dịch hiện
nay trên thị trường chứng khoán Việt Nam đang khá rẻ do sự cạnh tranh của các công
ty chứng khoán với nhau do đó tiêu chí này là t iêu chí mà thị trường Việt Nam đảm
bảo được.
Theo lí thuyết thị trường hiệu quả phải có một số lượng lớn các thành viên tham
gia biết tối đa hoá lợi nhuận bằng việc phân tích và đánh giá các chứng khoán, các
thành viên này độc lập với nhau. Tuy nhiên, ở thị trường chứng khoán VN, số công ty
niêm yết còn ít ỏi, số lượng các nhà đầu tư tham gia thị trường cũng chưa được nhiều.
Ngoài ra, kiến thức đầu tư của các nhà đầu tư cũng không đồng đều, có quá nhiều nhà
đầu tư vẫn dựa vào cảm t ính để đầu tư chứ không thực sự dựa trên những phân tích
đánh giá tình hình công ty, hiện tượng đầu cơ dễ xảy ra. Như vậy ở đặc điểm thứ nhất
thì thị trường chứng khoán VN chưa thoả mãn.
Để có thể khẳng định được thị trường chứng khoán VN có hiệu quả hay không
và hiệu quả đến mức nào ta phải xem xét trên nhiều phương diện, định tính và cả định
lượng.
III.2.2. Các bằng chứng ủng hộ cho thị trường hiệu quả ở Việt Nam:
Thứ nhất: Trên TTCK VN, giá cả chứng khoán có thay đổi theo các thông tin
được công bố. Như vậy thực tế TTCK VN đã phản ánh được đúng giải thuyết của thị
trường hiệu quả: “Khi thị trường hiệu quả, giá cả chứng khoán trên thị trường luôn
phản ánh đúng, chính xác các thông tin trên thị trường có liên quan đến loại chứng
khoán đó”.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 39
Thứ hai: Giả thuy ết thị trường hiệu quả hàm ý rằng, khi tham gia vào một thị
trường hiệu quả, nhà đầu tư sẽ ít có cơ hội vượt trội hơn so với những người khác vì
hiệu quả của TTCK sẽ khiến cho giá của các cổ phiếu hiện có trên thị trường luôn gắn
kết và cung cấp các thông tin tương thích, tức là mọi người đều có khả năng tiếp cận
thông tin như nhau. Người chơi luôn được tin tưởng rằng, thị trường đối xử công bằng
với tất cả mọi người. Để minh chứng điều này ta xét tính hiệu quả của TTCK VN khi
phân tích nhà đầu tư là các quỹ. Ta thấy rằng hiệu quả của các chuyên gia phân t ích và
các quỹ hỗ tương không vượt trội hơn thị trường.
Để xem xét tính hiệu quả trong đầu tư của các quỹ tức là đánh giá Giá trị doanh
nghiệp, một trong những phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp là xem xét giá trị
tài sản thuần của doanh nghiệp đó.
Sau đây là bảng so sánh tăng trưởng tài sản thuần (NAV) của các quỹ đầu tư so
với t ăng trưởng VN-Index.
3 1 7
Augus t
14 21 2 8 5 11 18
Septe mber
25 2 9
October
1 6 23 30 6 13
November
2 0 27 4 1 1
December
18 25 1 8
2007
15 22 29 5 12
Febru ary
26 5
March
1 2 19 26 2
April
9 16 23 7
May
35 0
40 0
45 0
50 0
55 0
60 0
65 0
70 0
75 0
80 0
85 0
90 0
95 0
10 00
10 50
11 00
11 50
12 00
VNINDE X (97 2.350 , 987 .960, 9 72.35 0, 98 7.960 , +15.6100)
7/11: Việt Nam gia
nhập WTO
Có tin không
chính thức
về việc thắt
chặt quản lý
ngoại hối,
tuy nhiên tin
này đã được
đính chính
kịp thời
19/3: Hội thảo
Đầu tư
Euromoney
Tại Hà Nội:
thống nhất
quan điểm về
thị Trường
Việt Nam: Quá
nóng
Giai đoạn chuẩn bị gia nhập W TO:
qúa trình gia nhập WTO được TTCK
theo dõi sát sao, đồng thời g iai đoạn
này TTCK VN nhận đýợc sự quan tâm
của nhà ĐTNN
Giai đoạn thị trường
phát triển mạnh: Thêm
nhiều hàng hóa,KQKD tốt,
tâm trạng nhà đầu tư lạc
quan
G.đoạn thị
trường điều
chỉnh:Sau thời
gian tăng nóng
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 40
Thứ ba: T ính ngẫu nhiên của giá cả: Diễn biến của giá cả thị trường Việt Nam
mang tính ngẫu nhiên. Theo bài viết “Kiểm định mức độ hiệu quả thông tin trên thị
trường chứng khoán Việt Nam” của Th.s Lê Đạt Chí trên tạp chí phát triển kinh tế.
Với 2 phương pháp kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu cho thấy rằng đa số
các kiểm định trên từng chứng khoán riêng rẽ ủng hộ cho giả thiết thị trường hiệu quả
dạng yếu ở VN. Câu hỏi đặt ra bây giờ là thực sự thị trường chứng khoán VN có hiệu
quả chưa và có thể có thị trường hiệu quả dạng vừa hay dạng mạnh ở VN hay không?
Qua kiểm định thị trường chứng khoán VN với độ tin cậy a = 5% thì đã có
những trường hợp ủng hộ cho giả thuyết Thị trường hiệu quả dạng yếu ở VN, nếu
chúng ta tăng độ tin cậy lên thì số trường hợp ủng hộ cho giả t huyết Thị trường hiệu
quả dạng yếu ở VN chắc chắn sẽ thấp xuống. Điều này cho thấy chưa có thị trường
hiệu quả dạng vừa phải ở VN và tất nhiên sẽ không có dạng mạnh vào thời điểm này.
Đây cũng là một điều tất yếu đối với một thị trường chứng khoán còn rất trẻ như thị
trường VN. Cùng với những bước chuyển mình mạnh mẽ của thị trường chứng khoán
VN, không ít điều phải đặt ra đối với việc quản lý, giám sát quá trình công bố thông
Công ty
Tăng trưởng NAV
trong năm 2006
(%)
Tăng trưởng NAV trong 6
tháng đầu năm 2007 (%)
PXP Vietnam Fund 149.4 33.2
Vietnam Enterprise Investments
Ltd
156.2 21
Vietnam Opportunity Fund (VOF) 64.9 21.7
Trung bình t ăng trưởng 3 quỹ 124 25
Trung bình tăng trưởng 3 quỹ 124 25
Tăng trưởng VNIndex (%) 137 46
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 41
tin, giao dịch và k iến t hức của nhà đầu tư. Tuy nhiên, chúng ta có t hể tin tưởng vào
một sự phát triển của thị trường chứng khoán VN như những biểu hiện của nó hiện tại
III.2.3. Bằng chứng khẳng định cho thị trường hiệu quả dạng yếu ở Việ t Nam
a.Về mặt định tính:
Thị trường hiệu quả dạng yếu có nghĩa là nếu thị trường hiệu quả về thông tin
trong quá khứ, hay nói cách khác, nếu t ất cả các thông tin quá khứ đã được phản ánh
vào trong giá.
Theo nghiên cứu của các chuyên gia phân tích kinh tế, TTCK Việt Nam chỉ ở
mức thị trường hiệu quả dạng yếu. Xuất phát từ định nghĩa thị trường hiệu quả và liên
hệ với thực tế, ta có thể thấy ngay lí do:
Thứ nhất: Theo giả thuyết thị trường hiệu quả dạng yếu thì thị giá đã thể hiện
những thông t in cơ bản của quá khứ và hiện tại nhưng không t hể hiện được những
thông tin dự đoán trong tương lai. Có thể thấy rõ điều này qua hiệu ứng thời điểm
trong năm trong TTCK Việt Nam. Chỉ số VN-Index có phản ứng giống nhau trong 2
năm 2006 và 2007, được minh họa trong biểu đồ sau đây:
Nhìn vào biểu đồ t a thấy : thị trường có sự tăng mạnh vào thời điểm đầu năm,
đến tháng 4 bắt đầu có xu hướng đi xuống và kéo dài đến tháng 8,9; sau đó thị trường
Diễn biến VN-Index qua hai năm 2006 và 2007
Diễn biến VNIndex năm 2006
Diễn biến VNIndex năm 2007
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 42
bắt đầu khởi sắc vào tháng 10, 11. nhà đầu tư có thể dựa vào những diễn biến giá
trong quá khứ để đầu tư cho tương lai.
M ặt khác, cũng có thể chứng minh tính yếu của TTCK Việt Nam thông qua
việc xuất hiện những hiện tượng mang tính quy luật như hiện tượng đầu tuần (giá cả
đầu tuần luôn đi ngược lại giá cuối tuần trước, cuối tuần giá tăng thì đầu tuần sẽ giảm
hoặc ngược lại); hiện tượng mỗi lần phát hành thêm hoặc thưởng cổ phiếu thì thị giá sẽ
tăng trước ngày chốt danh sách; giá cổ phiếu trên thị trường OTC (over the counter)
thường rẻ hơn trước khi được niêm yết, nên có thời gian khi thông tin DN sắp sửa
được niêm yết thì NĐT sẽ mua gom loại cổ phiếu này đợi ngày lên sàn… Những dạng
thị trường như thế được xem là thị trường kém hiệu quả.
Ví dụ như cổ phiếu Vinamilk sẽ được niêm yết vào t háng 1/2006, trước đó vào
ngày 17/022005 là lần đầu tiên cuộc đấu giá cổ phần của Vinamilk, 1.827 ngàn cổ
phần của cổ đông nhà nước trong Công ty sữa Việt Nam (Vinamilk) đã bán hết ngay
trong buổi sáng mở màn hôm 17/2/2005 với mức giá cao nhất cao gấp 10 lần giá khởi
điểm và hơn 20 lần mệnh giá gốc. Vinamilk là công ty đầu t iên chưa niêm yết cổ phiếu
trên sàn chứng khoán thực hiện bán cổ phần thông qua kênh mua bán chứng khoán tập
trung. Như vậy trước khi được niêm yết thì nhà đầu tư đã mua cổ phiếu này với kỳ
vọng là khi niêm yết cổ phiếu này giá cổ phiếu sẽ tăng
Thứ hai: Phản ứng quá mức của thị trường. 3 tháng đầu năm 2006, thị trường
chứng khoán đã làm ngạc nhiên kể cả các nhà phân tích lạc quan nhất. Chỉ số VN
Chỉ tiêu FPT MSFT GOOG YHOO
Giá trị thị
trường (M$)
2,199 305,630 152,790 39,360
Doanh thu
(M$)
729 45,350 9,320 6,220
P/E 75 25 63 37
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 43
Index tăng 200 điểm và đóng cửa vào phiên giao dịch cuối cùng của tháng ba với 502
điểm (t ăng 64%). Một ví dụ điển hình là phản ứng của thị trường với cổ phiếu FPT.
Từ khi chính thức niêm y ết, giá cổ phiếu FPT đã tăng liên tục. So với sự tăng trưởng
của cổ phiếu FPT thì các cổ phiếu hàng đầu trong ngành của thế giới như: Microsoft
hay Yahoo và cả Google cũng không địch lại – P/E của FPT đạt 75 lần, lớn hơn cả
Google chỉ có khoảng 63,37 lần, trong khi bình quân ngành của thế giới là 33,42 lần.
Thứ ba: thị trường phản ứng quá chậm với những thông tin tốt. Ví dụ như ngày
16/03/2010 SSI công bố thông t in phương án phát hành 175,5 triệu cổ phiếu thưởng
cho cổ đông hiện hữu theo tỷ lệ 1:1. SSI dự kiến thực hiện trong tháng 3/2010. Đây là
những thông tin tốt nhưng đã không được phản ánh vào giá cổ phiếu SSI ngay khi
công bố. Phản ứng của thị trường là giá cổ phiếu SSI giảm liên tục trong tháng
03/2010.
Thứ tư: Ảnh hưởng bởi quản lí hành chính. Vẫn còn nhiều qui định của Nhà
Nước trực tiếp can thiệp vào thị trường, như: đối với sàn TPHCM , quy định biên độ
dao động là 1%. Đối với sàn Hà Nội, biên độ dao động là 2%. Điều này làm hạn chế
những thay đổi lớn đối với giá CK.
b. Về mặt định lượng:
Theo bài viết: “Kiểm định mức độ hiệu quả thông tin trên thị trường chứng
khoán Việt Nam” của Ths. Lê Đạt Chí, đã đưa ra kết luận: đa số các k iểm định trên
từng chứng khoán riêng rẽ ủng hộ cho giả thiết thị trường hiệu quả dạng yếu ở Việt
Nam, chưa có thị trường hiệu quả dạng vừa phải ở VN và t ất nhiên sẽ không có dạng
mạnh vào thời điểm này. Đây cũng là một điều t ất yếu đối với một thị trường chứng
khoán còn rất trẻ như thị trường Việt Nam .
Kết luận: Qua các bước phân tích trên cho thấy thị trường chứng khoán Việt
Nam hiện nay mức hiệu quả còn khá thấp do đó khả năng áp dụng phân tích kĩ thuật
trong đầu tư chứng khoán còn hạn chế. Điều này cũng giải thích cho hiện tượng khi thị
trường hưng phấn đã liên tục tăng ngoài sự dự liệu của các nhà phân tích và khi thị
trường xuống thì không mức hỗ trợ nào đủ sức giữ thị trường.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 44
Kết luận
Lý thuyết thị trường hiệu quả ra đời và có ý nghĩa quan trọng đối với nhà đầu
tư. Lý thuyết này nêu lên rằng giá cả phản ánh toàn bộ thông tin trên thị trường. vì vậy
nên nhà đầu tư không thể vượt mặt được thị trường và lợi nhuận mà nhà đầu tư có
được luôn thấp hơn lợi nhuận trung bình của thị trường. Nhà đầu tư sẽ nhận được phần
lợi nhuận bù đắp xứng đáng cho rủi ro và tiền bạc mà họ đã bỏ ra.
M ặc dù không có lý thuyết nào hoàn hảo. Tuy nhiên đa số các bằng chứng thực
nghiệm đều ủng hộ lý thuyết thị trường hiệu quả. Các quan điểm đối nghịch với lý
thuyết thị trường hiệu quả vẫn còn đang gây tranh cãi và không tồn tại với thời gian.
Cuối cùng, giả t huyết thị trường hiệu quả vẫn là giả thuyết tốt nhất để mô t ả sự biến
động giá cả của thị trường.
Trên thực t ế, có những phương pháp dùng để phân tích đầu tư chứng khoán như
phân tích cơ bản, phân tích kỹ thuật hay học thuy ết thị trường hiệu quả đều có những
ưu điểm và nhược điểm. Nhà đầu tư thông minh phải lựa chọn, sử dụng phương pháp
nào phù hợp với bản thân và ở từng thời điểm của thị trường. Có thời điểm sử dụng
phương pháp này là phù hợp, còn phương pháp kia không phù hợp nữa. Tuy nhiên, để
đầu tư thành công, ngoài việc có phương pháp phân tích tốt, nhà đầu tư còn phải biết
sử dụng chúng sao mang lại kết quả. Biết phối hợp tất cả các phương pháp phân tích
đầu tư lại với nhau sẽ chính là phương pháp mang lại hiệu quả cao nhất.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên Nhóm 5 – NH Đêm 02 - Cao học K19
Trang 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PSG. TS Trần Ngọc Thơ, (2006), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, NXB
Thống kê.
2. TS. Lưu Thị Hương, (2002), Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo dục.
3. Burton G. Malk iel, (2003), The Efficient Market Hypothesis and Its Critics, Princeton
University, CEPS Working Paper No. 91.
4. Mehmet Aga, (2008), Efficient Market Hypothesis and merging capital m arkets,
EuroJournals Publishing. Inc.
5.
6.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong_18_thi_truong_hieu_qua_revised_8708.pdf