Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này

Xuất phát từ những tành tích đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại, để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này, chúng ta cần phải xuất phát từ những quy định của BLTTHS và những biện pháp khác từ các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khi áp dụng BPNC tạm giam.

docx18 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3312 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị cách ly với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền của công dân. Việc áp dụng biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự là vô cùng cần thiết nhằm ngăn chặn không cho bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án cũng như để thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng, tuy nhiên trong thực tiễn việc áp dụng những biện pháp này còn bộc lộ không ít những bất cập trong quy định của pháp luật cũng như những vi phạm pháp luật trên thực tế. Để làm rõ vấn đề trên, trong bài viết em xin trình bày: Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này. B. NỘI DUNG I. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn. Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong những trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự Trường Đại học Luật Hà nội, Giaó trình luật TTHS Việt nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006. . 2. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam. Theo Khoản 1 Điều 88 BLTTHS và khoa học pháp lí TTHS chúng ta có khái niệm về biện pháp ngăn chặn tạm giam như sau: tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can bị cáo Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. 3. Mục đích. Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của TTHS. Vì vậy, ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hay có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp này còn có mục đích riêng là nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng. 4. Đối tượng áp dụng. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những người không phải là bị can bị cáo thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam. Cụ thể, tại Khoản 1 Điều 88 BLTTHS đã quy định những trường hợp được áp dụng biện pháp tạm giam, đó là: Trường hợp thứ nhất: Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng (điểm a). Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định của Bộ luật hình sự, mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) hoặc phạm tội mà mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng). Việc áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp này cần hai điều kiện: + Người thực hiện tội phạm là người đã bị khởi tố bị can hoặc người đã bị Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử với tư cách là bị cáo. +Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng. Trường hợp thứ hai: Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để tạm giam trong trường hợp này cần ba điều kiện: + Người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo; +Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm. Trong một điều luật có thể có nhiều khoản thì phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt trên hai năm tù có thể tạm giam, phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt tù từ hai năm trở xuống thì không được tạm giam. + Có căn cứ cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định điều kiện này cần căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc. Tuy vậy, theo Điều 88 thì đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây: - Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; - Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; - Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. 5. Căn cứ áp dụng. Về mặt khái niệm, có thể hiểu rằng căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là những căn cứ luật định theo đó chủ thể có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. BLTTHS năm 2003 không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, tuy nhiên, căn cứ vào Điều 79 BLTTHS quy định về Các biện pháp và căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn đồng thời dựa vào tính chất của biện pháp ngăn chặn tạm giam, chúng ta có thể thấy rằng căn cứ đề áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nhưkhi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội và bảo đảm cho việc thi hành án. 6. Thẩm quyền áp dụng. Có thể hiểu rằng thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam là khả năng của chủ thể được nhà nước trao quyền được quyết định việc tạm giam đối với đối tượng nhất định. Tại Khoản3 Điều 88 BLTTHS quy định Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 thì những người sau đây có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam: a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKSQS các cấp. b) Chánh án, phó chánh án TAND và TAQS các cấp. c) Thẩm phán giữ các chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC, Hội đồng xét xử. d) Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau thì chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam cũng khác nhau, cụ thể: Trong giai đoạn điều tra: Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC tạm giam sẽ do những chủ thể quy định tại điểm d khoản 1 Điểu 80 BLTTHS quyết định. Lệnh tạm giam của những người này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong giai đoạn truy tố: Thẩm quyết quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC tạm giam sẽ do các chủ thể quy định tại điểm a khoản 1 Điều 80 BLTTHS quyết định. Trong giai đoạn xét xử: Thẩm quyết quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC tạm giam sẽ do các chủ thể quy định tại điểm b, điểm khoản 1 Điều 80 BLTTHS quyết định. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 228 BLTTHS thì Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm giam đối với bị cáo theo thủ tục luật định. 7. Thủ tục áp dụng. Thủ tục tạm giam là trình tự luật định mà chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam phải tuân thủ một cách triệt để. Có thể nói rằng thủ tục của BPNC tạm giam được quy định khá chặt chẽ, cụ thể là: Theo quy định của BLTTHS, việc tạm giam bị can, bị cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh này phải do những người có thẩm quyền kí. Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lí do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản. Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm giam, tránh trường hợp nhầm lẫn. Đồng thời cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thong báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết để gia đình họ cũng như cơ quan tổ chức biết được sự việc và không phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm cần thiết, gây tốn kém Trường Đại học Luật Hà nội, Giaó trình luật TTHS Việt nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006. . 8. Thời hạn áp dụng. Thời hạn tạm giam để điều tra: Theoquy định tại điều 120 của BLTTHS, cụ thể: Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau: a) Đối với tội ít nghiêm trọng có thể ra hạn tạm giam một lần không quá một tháng; b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể ra hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng; c) Đối với tội rất nghiêm trọng có thể ra hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng; d) Đối với tội đặc biệt nghiêm trọng có thể ra hạn tạm giam không quá ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng. Như vậy, nếu tính cả thời gian ra hạn, thì thời hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng là không quá 3 tháng; đối với tội nghiêm trọng là không quá 6 tháng; đối với tội rất nghiêm trọng là không quá 9 tháng; và đối với tội đặc biệt nghiêm trọng là không quá 16 tháng. Thời hạn tạm giam để truy tố: Theo khoản 2 Điều 166 BLTTHS 2003, Thời hạn tạm giam để truy tố đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng tối đa là 30 ngày; đối với tội rất nghiêm trọng tối đa là 45 ngày; đối với tội đặc biệt nghiêm trọng tối đa là 60 ngày ( đã tính cả thời hạn ra hạn). Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm: Điều 177 BLTTHS quy định: “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 của bộ luật này”. Cụ thể, thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm (tính cả thời hạn ra hạn) tối đa là 75 ngày đối với tội ít nghiêm trọng; 90 ngày đối với tội nghiêm trọng; 120 ngày đối với tội rất nghiêm trọng; và 150 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm: Theo Điều 243 BLTTHS quy định: Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm không được quá thời hạn xét xử phúc thẩm. Cụ thể, thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm ở TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu là 60 ngày; thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm ở TANDTC, TAQS cấp Trung Ương là 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án: Sau khi xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử có thể quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm, theo quy định tại Điều 228 BLTTHS, với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên Tòa thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành hình phạt khi bản án có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử có thể ra quyết định tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho rằng họ có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Thời hạn tạm giam trong trường hợp này là 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Tại phiên tòa phúc thẩm, theo quy định tại Điều 243 BLTTHS, nếu bị cáo đang bị tạm giam, bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 Bộ luật này. Thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án. 9. Một số quy định khác về tạm giam 9.1. Chế độ tạm giam. Như chúng ta đã biết tạm giam không phải là hình phạt mà là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Việc áp dụng biện pháp tạm giam không phải nhằm trừng trị người phạm tội mà là để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội. Xuất phát từ quan điểm ấy nên chế độ tạm giam có nội dung được quy định tại Điều 89 BLTTHS, cụ thể là: Chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. Và nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Ngoài ra pháp luật còn quy định người bị tạm giam không phải chấp hành chế độ của người thi hành phạt tù mà chỉ chấp hành các quy định của Chính Phủ về chế độ đi lại, sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình trong thời gian tạm giam Nghị định của Chính phủ số 89 ngày 07/11/1998 về quy chế tạm giữ, tạm giam. . 9.2. Quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giam. Theo quy định của BLTTHS năm 2003, đối tượng có thể bị áp dụng BPNC tạm giam là bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù hoặc tử hình bỏ trốn bị bắt để tạm giam. Khi bị tạm giam, bị can, bị cáo có đầy đủ các quyền được quy định tại Điều 49, 50 của BLTTHS và khi họ bị kết án đang chờ thi hành hình phạt tù thì họ có đầy đủ các quyền được quy định tại Điều 260 BLTTHS… Bên cạnh các quyền cơ bản của mình, trong quá trình tạm giam, người bị tạm giam cũng có nghĩa vụ nhất định như đoàn kết với những người cùng bị tạm giam, không gây gổ, đánh nhau làm mất trật tự an ninh, chấp hành nội quy của trại tạm giam theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, tại Nghị định của chính phủ số 89/1998/NĐ – CP ngày 07 tháng 11 năm 1998 ban hành quy chế về tạm giữ, tạm giam cũng đã quy định cụ thể về chế độ đối với người bị tạm giam tại chương IV của Nghị định. 9.3. Chế độ thăm nom người thân và bảo quản tài sản của người bị tạm giam. Thứ nhất, về chế độ thăm nom người thân, tại khoarn1 quy định: khi người bị tạm giữ, tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc, thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom (Điều 90) Thứ hai, về việc bảo quản tài sản của người bị tạm giam. Tại khoản 2 quy định:Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết tạm giữ, lệnh tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng ( Điều 90). 9.4. Quy định về việc khấu trừ thời hạn tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. Theo quy định của BLTTHS, thời hạn tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ mỗi ngày tạm giam bằng một ngày tù. Quy định này không chỉ áp dụng đối với người bị áp dụng tạm giam liên tục cho đến khi xét xử mà còn áp dụng đối với người bị áp dụng BPNC khác nhau sau một thời gian bị tạm giam. Những hình phạt khác không phải là hình phạt tù có thời hạn như cảnh cáo, phạt tiền hay tử hình thì không áp dụng quy định này mặc dù trước đó họ bị tạm giam. Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ hay hình phạt tù chung thân thì thời hạn tạm giam được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NÀY. 1. Thực tế việc áp dụng BPNC tạm giam. 1.1. Tích cực. Trong những năm gần đây, việc áp dụng BPNC tạm giam của các cơ quan tiến hành tố tụng đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trên nhiều mặt. Nhìn chung việc tạm giam đa số có căn cứ, đúng pháp luật, tình trạng tạm giam không có lệnh, tạm giam quá hạn được từng bước khắc phục. Hơn nữa, công tác tạm giam cũng được giám sát đúng pháp luật, có sự phối hợp giữa trại tạm giam với các cơ quan khác như Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Ban pháp chế của Hội đồng nhân dân...Những trường hợp không cần thiết áp dụng tạm giam đã chuyển sang các BPNC khác. Theo báo cáo của VKSNDTC năm 2005 toàn quốc có 92.368 người bị tạm giam. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã giải quyết được 60.904 người, VKS không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam của Cơ quan điều tra 394 trường hợp và không phê chuẩn lệnh tạm giam 329 trường hợp. Năm 2006, toàn quốc có 105.094 người bị tạm giam, tăng so với cùng kì năm 2005 là 1,14%. Đối với các địa phương cũng mang màu sắc tương tự. Ví dụ như tại Trại tam giam huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng) Tính từ năm 2006 đến nay, Nhà tạm giữ lưu giam Công an huyện không để xảy ra tình trạng đánh nhau gây thương tích trong buồng giam, không để xảy ra các đối tượng bỏ trốn, tình trạng cất giấu vật cấm trong buồng giam, thông cung, mớm cung đã từng bước được khắc phục, phục vụ tốt công tác điều tra phá án của Cơ quan điều tra. Chế độ ăn uống, sinh hoạt và các chế độ khác của người bị tạm giữ, tạm giam được đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Theo . 1.2. Hạn chế . Dựa vào các quy định của BLTTHS năm 2003 và thực tế thi hành chúng ta thấy được hiện nay việc thực hiện pháp luật về BPNC tạm giam còn một số hạn chế. Những hạn chế này xảy ra theo nhiều nội dung như cơ quan có thẩm quyền không có đủ căn cứ để tạm giam, tạm giam không đúng đối tượng, tạm giam quá thời hạn hay công tác kiểm tra giám sát việc tạm giam còn nhiều hạn chế thiếu xót chủ quan. Có thể thấy một trong các hạn chế trên tại “vụ án vườn mít” ở Bình Phước. Trong vụ án này, bị cáo Lê Bá Mai đã bị tạm giam tới sáu năm (từ năm 2005 đến tháng 5 năm 2011), hơn nữa, việc tạm giam ấy còn không đúng đối tượng vì Mai không phạm tội vì TAND tỉnh Bình Phước đã tuyên bố bị cáo Lê Bá Mai không phạm các tội hiếp dâm trẻ em và giết người . Không chỉ vậy tại các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh cũng không tránh khỏi tình trạng tương tự: theo số liệu của HĐND TP.HCM, hiện nay (2011) Trại tạm giam Chí Hòa (Công an TP.HCM) đang tạm giam 161 phạm nhân quá hạn ông Nguyễn Thanh Chín - Trưởng ban Pháp chế HĐND TP.HCM . Có thể nói, tình trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, hay có thể nói nó xuất phát từ sự quy định còn chưa hoàn thiện của pháp luật cũng như sự thi hành pháp luật TTHS về BPNC tạm giam của cơ quan hay cá nhân có thẩm quyền còn nhiều hạn chế. 2. Nguyên nhân. Sở dĩ còn những bất cập, vi phạm về tạm giam như tình trạng tạm giam tràn lan, quá thời hạn, tạm giam không có lệnh, không đúng thẩm quyền, không đảm bảo các quy định về chế độ tạm giam nêu trên chủ yếu là do những nguyên nhân sau: Nguyên nhân khách quan: Thứ nhất, về công tác xây dựng pháp luật, các quy định của pháp luật về BPNC tạm giam vẫn còn những điểm bất cập. Cụ thể như khái niệm BPNC tạm giam hiện nay vẫn chưa được đề cập trong BLTTHS 2003 dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, luật vẫn chưa dự liệu hết đối tượng bị áp dụng BPNC tạm giam,… Thứ hai,những điều kiện cần thiết đảm bảo cho công tác tạm giam cũng chưa được chú trọng đúng mức, cơ sở vật chất của nhiều trại giam còn rất thiếu thốn, xuống cấp trầm trọng nên không đảm bảo phục vụ được cho công tác tạm giam. Nguyên nhân chủ quan: Thứ nhất, do các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc quy định cũng như việc áp dụng BPNC tạm giam dẫn đến việc áp dụng biện pháp này còn thiếu căn cứ, trái luật. Năng lực của người tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ chưa cao. Thứ hai, công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật về việc tạm giam ở nhiều địa phương còn chưa được kiểm tra thường xuyên, đều khắp nên chưa phát hiện kịp thời và có biện pháp khắc phục những vi phạm. 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này. Xuất phát từ những tành tích đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại, để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này, chúng ta cần phải xuất phát từ những quy định của BLTTHS và những biện pháp khác từ các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khi áp dụng BPNC tạm giam. 3.1. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của bộ luật TTHS hiện hành. 3.1.1. Bổ sung Điều 88 về tạm giam. Điều 88 BLTTHS có nhiều thiếu xot trong việc quy định về tạm giam, chúng ta cần bổ sung những nội dung sau: Thứ nhất, trong quy định tại Điều 88 BLTTHS chưa quy định khái niệm về BPNC tạm giam, cụ thể tại Điều luật này chỉ nêu ra được đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam, do đó, để hoàn thiện hơn, pháp luật cần bổ sung khái niệm về biện pháp này. Về nội dung của khái niệm, chúng ta có thể quy định như khái niệm đã nêu ở phần trên. Thứ hai, như khoản 2 của Điều 88 quy định Đối với bị can, bị cáo là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây…Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta lại không tìm thấy ở BLTTHS hay các văn bản có liên quan quy định rõ ràng như thế nào là người già yếu, thế nào là người bệnh nặng hay thế nào là người không có nơi cư trú rõ rang hoặc cơ quan nào có thẩm quyền xác định những vấn đề này. Do đó, để thống nhất, pháp luật TTHS cần cụ thể hóa vấn đề này trong những văn bản pháp luật khác nhằm hướng dẫn thi hành. Thứ ba, tại khoản 3 Điều 88 quy định Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Quy định như vậy là chưa hợp lí, bởi lẽ, có vụ án thì đơn giản nhưng cũng không ít vụ phức tạp, sự phức tạp hay đơn giản của vụ án sẽ quyết định đếncác thời hạn nói chung và thời hạn được quy định tại khoản 3 điều này nói riêng. Do đó, pháp luật cần phân loại thời hạn ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn theo tính chất của vụ việc. 3.1.2. Bổ sung Điều 80. Ta thấy rằng, tại khoản 1 Điều 80 quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam như thẩm quyền ra lệnh, nội dung lệnh bắt, trình tự, thủ tục bắt và thời điểm bắt. Tuy nhiên, đối với các vấn đề còn lại như căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì luật lại chưa quy định. Điều này dẫn tới thực tế là khi áp dụng biện pháp ngăn chặn này, cơ quan điều tra lại phải căn cứ vào quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 88 BLTTHS về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong khi Điều 80 không viện dẫn về Điều 88. Như vậy, sẽ mất đi tính liên hệ, sự logic giữa các điều luật, gây ra sự tự nghiên cứu, tìm tòi của cơ quan áp dụng. Em đồng tình với quan điểm cho rằng bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam. Do đó căn cứ thực hiện biện pháp này là lệnh (hay quyết định) của người có thẩm quyền và lệnh (hay quyết định) tạm giam đó dựa trên cơ sở áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của BLTTHS. Do đó, Điều 80 BLTTHS cần được cơ cấu lại theo hướng là khoản 1 trong quy định về căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam, cụ thể: “Điều…Bắt bị can, bị cáo để tạm giam: 1…. 2, Những người có thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam. 3, Trong trường hợp bị can, bị cáo đang tại ngoại, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam phải ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam đồng thời với lênh (hay quyết định) tạm giam. 4,………. 3.1.3. Về việc bắt bị can, bị cáo ngay tại phiên tòa. Pháp luật cần có quy định theo hướng cần có lệnh tạm giam vì nếu chỉ tuyên trong phần quyết định của bản án thì không thể tiếp tục tạm giam bị cáo vì bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, chưa được đem ra thi hành, trừ trường hợp bản được đem ra thi hành ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 255 BLTTHS. Đồng thời theo quy định tại khoản 3, Điều 243 BLTTHS thì Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Quy định này áp dụng cho Tòa án cấp phúc thẩm còn nội dung và phạm vi áp dụng khác với cấp sơ thẩm. Cụ thể nếu ở cấp sơ thẩm việc bắt bị cáo tại phiên tòa chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội thì ở cấp phúc thẩm chỉ cần bị cáo bị tuyên phạt tù thì hội đồng xét xử phải bắt ngay trừ trường hợp quy định tại Điều 261 BLTTHS. Trên thực tế không phải lúc nào việc bắt tạm giam bị cáo tại phiên tòa cũng thuận lợi như luật định. Ví dụ như trường hợp bị cáo tại ngoại thì hầu hết khi họ đến phiên tòa đều có thân nhân đi cùng, nếu bắt ngay bị cáo tại phiên tòa thì không tránh khỏi việc thân nhân của họ gây mất trận tự tòa án, ảnh hưởng đến quá trình làm việc của Hội đồng xét xử. Như vậy, cần có những quy định hướng dân cụ thể trường hợp này để tránh những tình huống đáng tiếc xảy ra cũng như đảm bảo cho hoạt động xét xử được hiệu quả Nguyễn thị Minh Hương, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, Khóa Luận tốt nghiệp, Hà nội – 2011. . 3.1.4. Vấn đề trách nhiệm của người đề xuất, người ra lệnh và người phê chuẩn lệnh tạm giam. Qua thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam có nhiều ý kiến cho rằng nên mở rộng thêm thẩm quyền cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán trực tiếp thụ lí vụ án được quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Bởi vì, hiện nay có tình trạng một người đề xuất, một người quyết định, vậy ai sẽ là người chịu trách nhiệm về việc tạm giam nếu có oan sai? Hơn nữa, việc giao cho người trực tiếp tiến hành tố tụng quyết định tạm giam thì hơn ai hết họ là người hiểu rõ vụ án, hiểu rõ được sự cần thiết của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn này và có như vậy mới nâng cao được trách nhiệm cá nhân của người áp dụng pháp luật. Như vậy, có thể thấy rằng việc mở rộng thẩm quyền cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán trực tiếp thụ lí vụ án trong việc áp dụng Biện pháp ngăn chặn tạm giam là việc không nên bởi rất nhiều lí do như trình độ nghiệp vụ của một số Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phát chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, tính khách quan của người trực tiếp điều tra, truy tố, xét xử có thể sẽ không được bảo đảm. Bên cạnh đó cần phân định rõ rang về trách nhiệm của người ra lệnh tạm giam, người phê chuẩn lệnh tạm giam và người đề xuất áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Cụ thể nếu tạm giam trái pháp luật thì Điều tra viên chịu trách nhiệm của người đề xuất, Thủ trưởng cơ quan điều tra phải chịu trách nhiệm của người ra lệnh, còn khi việc tạm giam được Viện kiểm sát phê chuẩn thì người đã phê chuẩn chịu trách nhiệm của người phê chuẩn. 3.2. Kiến nghị về việc nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật. Ngoài các ý kiến về các quy định của Bộ Luật TTHS năm 2003 về BPNC tạm giam, để nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này chúng ta cần đẩy mạnh một số hoạt động sau: 2.2.1. Đối với các cơ quan liên quan - Đối với cơ quan điều tra. Cần nâng cao chất lượng đội ngũ điều tra viên, thường xuyên mở các lớp huấn luyện nhằm nâng cao ý thức pháp luật, trình tự nghiệp vụ cho điều tra viên. Bởi lẽ, thực tế điều tra viên là người tiến hành tố tụng trực tiếp điều tra, lập hồ sơ vụ án, đề xuất thủ trưởng cơ quan điều tra ra lệnh tạm giam. Đặc biệt là trong tình hình tội phạm ngày càng tinh vi với nhiều thủ đoạn phạm tội càng đòi hỏi trình độ nghiệp vụ của Điều tra viên phải được nâng cao. Trước khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm tạm giam, cơ quan điều tra cần cân nhắc đến sự cần thiết của việc áp dụng biện pháp này. Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng là xác định rõ căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng tạm giam đối với một số tội phạm. - Đối với Viện Kiểm Sát. Viện Kiểm sát có chức năng là kiểm sát hoạt động tố tụng nói chung trong đó việc áp dụng các biện pháp tạm giam nên vai trò của Viện kiểm sát có ý nghĩa quan trọng trong quá trình áp dụng tạm giam. Yêu cầu cần đặt ra là VKS cần thận trọng trong việc phê chuẩn lệnh tạm giam, phê chuẩn một cách khách quan để không ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị áp dụng, tránh làm lạc hướng tố tụng vụ án hình sự nhất định. - Đối với Tòa án. Cần thường xuyên tiến hành việc tập huấn nghiệp vụ cho các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân về vấn đề áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Cần phải có văn bản hướng dẫn chi tiết về các trường hợp áp dụng thẩm quyền ra lênh bắt bị can, bị cáo để tạm giam của Chánh án, phó Chánh án và của Hội đồng xét xử cũng như về thời hạn tạm giam trong từng giai đoạn của quá trình xét xử. 2.2.2. Tăng cường xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng sống cho người bị tạm giam. Nghị định số 89/CP ngày 07/11/1998 về quy chế giam giữ đã phát huy tối đa tác dụng, chế độ tạm giam đã được thực hiện khá tốt ở nhiều địa phương. Tuy nhiên, trên thực tế tình hình vi phạm trong thực hiện chế độ tạm giam còn xảy ra khá nhiều. Do số lương người bị tạm giam quá lớn, tình trạng các trại giam quá tải thường xuyên xảy ra, nhiều khi số người bị tạm giam trong các trại giam gấp 2, 3 lần so với thiết kế, như trại giam Công an Thành phố Hải Phòng có lúc quá tải bình quân mỗi người chỉ có 0,5 m2. Tình trạng trại giam quá tải, xuống cấp trầm trọng trên chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng gây gổ, đánh nhau dẫn đến chết người trong các trại giam. Mặt khác, chế độ tạm giam không phải là chế độ chấp hành hình phạt tù bởi người bị tạm giam là những người chưa có tội, chưa bị tước đi các quyền công dân cơ bản được pháp luật bảo hộ. Vì vậy, trong quá trình bị tạm giam thì phải đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho họ về ăn, ở, sinh hoạt như người bình thường. Để hoàn thành nhiệm vụ này, cần có các biện pháp nhất định như phải nâng cao ý thức trách nhiệm cho các cán bộ, nhân viên trong các trại tạm giam khi chắm sóc người bị tạm giam, xây mới hay sửa chữa các trại tạm giam, tổ chức các sự kiện nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho người bị tạm giam. C. KẾT LUẬN Trên đây những phân tích về tạm giam trong tố tụng hình sự, thực trạng áp dụng pháp luật về tạm giam trong tố tụng hình sự, và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự. Qua sự phân tích trên, ta có thể thấy tạm giam là một biện pháp ngăn chặn rất quan trọng trong tố tụng hình sự, vấn đề áp dụng các quy định của pháp luật về tạm giam cũng còn không ít những bất cập. Vì vậy, việc tiếp tục sửa đổi pháp luật, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là vấn đề rất cần thiết và cần được trú trọng nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn này nói riêng cũng như nâng cao hiểu quả của pháp luật tố tụng hình sự nói chung. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007, 2008. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003. Viện khoa học pháp lí, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005 Nghị định của Chính phủ số 89 ngày 07/11/1998 về quy chế tạm giữ, tạm giam. Nguyễn thị Minh Hương, Tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, Khóa Luận tốt nghiệp, Trường Đại Học Luật Hà Nội, Hà nội – 2011.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này Tố Tụng hs học kì.docx
Luận văn liên quan