Báo cáo tốt nghiệp đại học Ngoại thương khao tài chính ngân hàng năm 2011: 68 trang.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Nhiệm vụ chủ yếu là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ ngân hàng.
Cơ sở của việc đầu tư cho nền kinh tế là tính khả thi và nguồn lực để thực thi, trong đó NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp về vấn đề nguồn vốn, đối với một NHTM thì vốn tự có chỉ chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn, còn lại chủ yếu là vốn huy động, vốn đi vay và vốn khác. Trong đó vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất. Do vậy, huy động vốn là điều kiện đầu tiên, là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi Ngân hàng. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều tổ chức huy động vốn đó là các NHTM, Bưu điện, kho bạc Nhà nước, công ty bảo hiểm .Một điều dễ thấy rằng, tốc độ vốn tăng lên trong nền kinh tế không thể bằng tốc độ tăng lên của các tổ chức huy động vốn. Do vậy, thu hút vốn là vấn đề cạnh tranh giữa các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Trong thực tiễn hoạt động của Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan, công tác huy động vốn đã được coi trọng đúng mức và đã đạt kết quả nhất định. Song bên cạnh đó, còn bộc lộ một số tồn tại cần phải tiếp tục nghiên cứu cả về phương diện lý luận và thực tiễn để nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng nhằm phục vụ công tác công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước.
Để tạo đà cho sự phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hóa thì cần có sự đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật. Đưa kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất . vì vậy vai trò của vốn và hệ thống ngân hàng nói chung có tầm quan trọng rất lớn trong việc góp phần thực hiện hành công sự nghiệp này. Chính vì vậy huy động vốn đáp ứng nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế hiện nay là đòi hỏi rất lớn quyết định tới tốc độ thực hiện cải cách kinh tế, chuyển hướng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Do đó trong thời gian thực tập tại Ngân hàng No&PTNT Huyện Văn Quan em đã chọn đề tài: "Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn".
Do thời gian nghiên cứu cũng như trình độ của bản thân còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự chỉ bảo giúp đỡ của các thầy cô để đề tài được hoàn thiện.
Kết cấu của đề tài này gồm 3 chương lớn sau:
Chương I: Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Văn Quan, Tỉnh Lạng Sơn.
Chương III: Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Văn Quan.
68 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2451 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tác tín dụng là một mảng lớn của Ngân hàng. Muốn thực thi công tác tín dụng thì Ngân hàng phải huy động được vốn và chiến lược huy động vốn được coi là hàng đầu.
Cũng như các ngân hàng thương mại khác, nhiệm vụ của Ngân hàng No & PTNT huyện Văn Quan là trực tiếp kinh doanh trong nhiều lĩnh vực.
- Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và của dân cư, phát hành các loại tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu bằng VNĐ.
- Thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền điện tử, thanh toán liên hàng.
- Ngân hàng No& PTNT huyện Văn Quan là ngân hàng thương mại có nghiệp vụ huy động vốn trên địa bàn, cho vay đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. Ngoài chức năng nhiệm vụ của mình còn làm dịch vụ cho ngân hàng chính sách xã hội cũng như các ngân hàng trong cùng hệ thống Ngân hàng No&PTNT Việt Nam.
Trong những năm qua cùng hệ thống Ngân hàng nói chung, Ngân hàng No&PTNT Huyện Văn Quan luôn đưa ra những biện pháp nhằm mở rộng khả năng huy động vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cho nên công tác huy động nguồn vốn đã đạt được nhiều kết quả tốt, nguồn vốn luôn tăng trưởng, trong đó Chi nhánh đặc biệt chú trọng đối với nguồn vốn có kỳ hạn dài, lãi suất tương đối ổn định và phù hợp. Cụ thể:
Biểu số 3:
Cơ cấu các loại nguồn vốn huy động tại Ngân hàng nông nghiệp và PTNT huyện Văn Quan
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Số dư
năm 2008
Tỷ lệ
(%)
Số dư
năm 2009
Tỷ lệ
(%)
Năm 2009 so với năm 2008
Số dư
năm 2010
Tỷ lệ
(%)
Năm 2010 so
với năm 2009
1. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
426.210
57,5
502.341
54,5
+ 76.131
700.375
61
+ 198.034
Trong đó:
- Không kỳ hạn
12.050
13.183
+ 1.133
195.500
+ 182.317
- Có kỳ hạn
414.160
489.158
+ 74.998
504.875
+ 15.717
2. Tiền gửi đơn vị tổ chức kinh tế
275.500
Trong đó:
- Không kỳ hạn
225.750
37,8
363.010
39,4
+ 87.510
413.375
36
+ 50.365
- Có kỳ hạn
19.750
342.919
+ 117.169
375.500
+ 32.581
20.091
+ 341
37.875
+ 17.784
3. Nguồn khác
28.500
3,5
22.965
2,5
- 5.535
10.450
1
- 12.515
4. Kỳ phiếu
0
0
22.261
2,4
+ 22.261
0
0
- 22.261
5. Ngoại tệ quy đổi
9.350
1,2
11.423
1,2
+ 2.073
22.500
2
+ 11.077
Tổng cộng
739.560
(Nguồn số liệu trên đây được lấy từ cân đối tài khoản năm 2008, 2009, 2010)
Nhìn vào bảng trên ta thấy tiền gửi tiết kiệm của dân cư giữ một vị trí quan trọng nhất trong cơ quan huy động vốn của Ngân hàng No& PTNT huyện Văn Quan chiếm tỷ trọng trên 61,3% Tổng nguồn vốn huy động. Bên cạnh nguồn lớn trên là các nguồn tiền gửi đơn vị, tổ chức kinh tế, tiền gửi đảm bảo thanh toán, ngoại tệ đã giúp cho Ngân hàng No&PTNT Huyện Văn Quan có một khả năng vốn lớn đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế của địa phương, đất nước.
2.1. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư:
Nguồn tiền gửi tiết kiệm của dân cư qua các năm cho thấy nguồn này luôn giữ vị trí quan trọng nhát trong cơ cấu huy động vốn của Ngân hàng No&PTNT huyện Văn Quan. Từ thực tế cho thấy tiềm năng của mình, nhằm thu hút nguồn tiền nhàn rỗi này phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế địa phương, đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn 2000 – 2010 nếu nguồn vốn tập trung cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, chủ yếu dựa vào nguồn vốn trong nước được khai thác trong dân cư nhiều nhất thì sẽ thúc đẩy đầu tư phát triển kinh tế của nước ta với những bước tiến vững chắc và tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt từ 9% - 10%.
Hoạt động của Ngân hàng No&PTNT huyện Văn Quan cho thấy công tác huy động vốn của Ngân hàng có đầy đủ lợi thế để thu hút khách hàng, điều này giải thích vì sao trong cơ cấu nguồn vốn huy động thì tiền gửi tiết kiệm của dân cư luôn chiếm tỷ lệ lớn và điều đó cho thấy sự phù hợp với chính sách huy động vốn của toàn bộ hệ thống Ngân hàng nước ta.
Nhìn vào tình hình huy động vốn bằng tiền gửi tiết kiệm ở bảng trên cho thấy nguồn vốn huy động từ dân cư trong các năm đều tăng trưởng. Năm 2010 tăng số tuyệt đối so với năm 2009: 94.541 triệu đồng chiếm 54% Tổng nguồn vốn huy động. Năm 2010 tăng: 201,3 tỷ đồng tỷ lệ tăng 40%; chiếm 61% tổng nguồn vốn.
Nguồn vốn tiền gửi các đơn vị tổ chức kinh tế tăng lên trong năm 2009 là: 26.510 triệu đồng, chiếm 39% trong tổng nguồn huy động. Năm 2010 tăng 43.590 triệu đồng, tỷ lệ tăng 16%; chiếm 36% tổng nguồn vốn.
Năm 2009 – 2011 lãi suất tiền gửi tiết kiệm thay đổi liên tục và có chiều hướng tăng lên điều đó cũng có nghĩa là sẽ thu hút được nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư. Nhìn vào bảng lãi suất sau ta thấy: (Bảng trang sau)
Bảng số 4:
Các loại lãi suất qua các thời kỳ
Năm
Ngày bắt đầu áp dụng
Không kỳ hạn
Kỳ hạn 3 tháng
Kỳ hạn 6 tháng
Kỳ hạn 9 tháng
Kỳ hạn 12 tháng
Kỳ hạn trên 24 tháng
Kỳ hạn >=60 tháng
Năm 2008
11/3/08
0,2
0,53
0,58
0,57
0,65
0,65
01/9/08
0,2
0,5
0,55
0,60
0,65
Năm 2009
08/11/09
0,2
0,53
0,57
0,57
0,63
0,71
0,72
Năm 2010
01/4/10
0,25
0,60
0,63
0,65
0,69
0,74
0,76
Từ ngày 10/10/2009 đơn vị bắt đầu huy động tiền gửi tiết kiệm trả lãi bậc thang và tiết kiệm gửi góp với kỳ hạn và lãi suất như sau:
Huy động Tiết kiệm hưởng lãi Bậc thang
Bậc
Kỳ hạn
Lãi suất (%)/tháng
Bậc 1
Từ khi gửi đến dưới 3 tháng
0.25
Bậc 2
Từ 3 tháng gửi đến dưới 6 tháng
0.60
Bậc 3
Từ 6 tháng gửi đến dưới 9 tháng
0.63
Bậc 4
Từ 9 tháng gửi đến dưới 12 tháng
0.65
Bậc 5
Từ 12 tháng gửi đến dưới 24 tháng
0.69
Bậc 6
Từ 24 tháng trở lên
0.74
Tiết kiệm Gửi góp:
TT
Kỳ hạn
Lãi suất (%) tháng
1
Tiền gửi có kỳ hạn 3 tháng
0.58
2
Tiền gửi có kỳ hạn63 tháng
0.60
3
Tiền gửi có kỳ hạn 9 tháng
0.63
4
Tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng
0.67
Hiện nay Ngân hàng No&PTNT Văn Quan đang huy động tiền gửi tiết kiệm dưới các hình thức sau: Loại không kỳ hạn, có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng, 60 tháng, tiền gửi tiết kiệm trả lãi bậc thang và tiết kiệm gửi góp. Trong đó nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn, tạo ra tính ổn định cao trong tổng nguồn vốn huy động. Năm 2008 là 395.240 triệu đồng chiếm 96%, năm 2009 là 489.158 triệu đồng chiếm 97%; năm 2010 là 618.900 triệu đồng chiếm 88% trong nguồn tiền gửi tiết kiệm. Chính nhờ tính ổn định cao trong nguồn tiền có kỳ hạn nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư vốn trung và dài hạn đối với những dự án trọng điểm tại địa phương, góp phần ổn định và phát triển kinh tế.
Bảng số 5:
Tình hình huy động vốn các quý trong năm 2007
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Quý I/2010
Quý II/2010
Quý III/2010
Quý IV/2010
Số dư cuối quý
Tỷ trọng %
Số dư cuối quý
Tỷ trọng %
Số dư cuối quý
Tỷ trọng %
Số dư cuối quý
Tỷ trọng %
1.Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
502.341
56
585.000
59.5
664.200
63
703.600
61
2. Tiền gửi đơn vị tổ chức kinh tế
363.010
36
379.500
38
357.600
34
417.600
36
3. Kỳ phiếu
22.261
6
4. Ngoại tệ quy ra tiền VNĐ
11.423
0
16.500
1.5
20.000
2
24.000
2
5. Nguồn vốn khác
22.965
2
4.000
1
1.500
1
1.500
1
Tổng nguồn vốn huy động
922.000
100
985.000
100
1.043.300
100
1.146.700
100
(Nguồn số liệu trên được lấy từ cân đối tài khoản năm 2010)
Qua tình hình huy động vốn từ tiền tửi tiết kiệm của dân cư ở Ngân hàng No&PTNT huyện Văn Quan cho thấy nguồn này hầu như có xu hướng tăng lên, đồng thời nó chiếm tỷ trọng lớn, càng khẳng định vai trò của nguồn vốn này trong cơ cấu huy động vốn của Ngân hàng No&PTNT huyện Văn Quan mà tiềm năng còn rất lớn, chưa khai thác hết được trong dân. Mặc dù phải trả một lãi suất cao nhưng bù lại là tính ổn định, vững chắc ở nguồn tiền gửi có kỳ hạn trong nguồn vốn huy động đã giúp cho Ngân hàng No & PTNT huyện Văn Quan thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh của mình. Do vậy việc duy trì và đẩy mạnh huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư là một vấn đề đang được Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan quan tâm và tìm mọi biện pháp để nâng cao nguồn vốn huy động này.
2.2. Tiền gửi của các đơn vị tổ chức kinh tế:
Văn Quan là một huyện hầu như không có các đơn vị quốc doanh Trung ương phát triển, những đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn vốn tự có rất thấp và đang trong giai đoạn tìm kiếm thị trường để định hướng cho sự phát triển của mình. Do đó Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan cũng phải khai thác hơn nữa nguồn vốn này để đáp ứng nhu cầu vay vốn của nền kinh tế. Qua các thời kỳ nguồn vốn này có tăng nhưng không ổn định, chủ yếu là của kho bạc Nhà nước huyện. Năm 2007 với những biện pháp hữu hiệu trong việc khơi tăng các nguồn vốn, đáp ứng vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế. Bằng hình thức thanh toán chuyển nhanh, chính xác, kịp thời, cùng với việc duy trì mức lãi suất tương đối ổn định nên nguồn vốn tăng được nguồn vốn.
Theo sự phân tích nguồn vốn từ nhiều năm cho thấy nguồn vốn này thường tăng mạnh vào thời điểm cuối năm, nó phụ thuộc vào các nhân tố như: Tình hình sản xuất, đặc điểm chu chuyển vốn của các đơn vị, khả năng tín dụng của Ngân hàng, sự biến động của tình hình kinh tế xã hội và lãi suất tín dụng.
Nguồn tiền gửi của các đơn vị tổ chức kinh tế được chia làm 2 loại có kỳ hạn và không kỳ hạn, trong đó nguồn tiền gửi có kỳ hạn chỉ chiếm trên 10% trong tổng nguồn vốn này. Hiện nay tại Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan khách hàng là đơn vị tổ chức kinh tế chỉ gửi tiền vào loại có kỳ hạn 3 tháng, vì đây là nguồn tiền tạm thời chưa sử dụng đến trong thanh toán với thời gian ngắn nên các đơn vị không quan tâm đến việc gửi lấy lãi, một số doanh nghiệp dùng tiền nhàn rỗi của mình cho các đơn vị khác vay. Nên Ngân hàng thực hiện huy động vốn theo nhu cầu sản xuất kinh doanh thì đây là nguồn vốn đầu tiên mà Ngân hàng quan tâm. Bộ phận này có tính chất như một bảo đảm cho khả năng cung ứng vốn cho Ngân hàng. Vì vậy nguồn tiền gửi của các đơn vị, tổ chức kinh tế là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Ngân hàng trong công tác huy động vốn hiện nay. Hy vọng trong năm 2011 nguồn tiền gửi của các đơn vị sẽ tăng lên một cách đáng kể, mang lại tiềm lực trong kinh doanh cho Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan.
2.3. Nguồn vốn khác:
Nguồn vốn này bao gồm: nguồn vốn uỷ thác đầu tư, tiền gửi của tổ chức tín dụng, tiền gửi ký quỹ... là loại tiền gửi không kỳ hạn chủ yếu của các đơn vị tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng, gửi vào Ngân hàng để thực hiện các khoản thanh toán chi trả về mua hàng hoá, dịch vụ và thực hiện các khoản chi trả khác phát sinh trong quá trình hoạt động của khách hàng.
2.4. Nguồn vốn huy động bằng kỳ phiếu.
Khi nền kinh tế đi vào thế ổn định, tốc độ tăng trưởng cao, nhu cầu vốn trung dài hạn cho đầu tư sản xuất, đổi mới công nghệ, hiện đại hóa sản xuất ngày càng tăng nhất là trong giai đoạn sắp tới. Với nguồn vốn huy động nhận được qua tiền gửi tiết kiệm không đủ cung cấp cho nhu cầu phát triển kinh tế trên địa bàn vì vậy Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan đã thực hiện phát hành kỳ phiếu để tăng nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế. Nguồn vốn huy động từ ký phiếu có tác dụng thu hút một lượng tiền mặt lớn trong lưu thông, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ.
Trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan thì nguồn vốn bằng kỳ phiếu chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Năm 2008 nguồn vốn huy động từ kỳ phiếu là 10.500 triệu đồng tăng + 6.584 triệu đồng so với năm 2007, năm 2009 nguồn này tăng 11.761 triệu đồng so với năm 2005, năm 2010 đã thanh toán hết kỳ phiếu đến hạn và không huy động kỳ phiếu.
Như vậy việc phát hành kỳ phiếu của Ngân hàng trong thời gian qua đã căn cứ vào yêu cầu của thị trường, gắn công tác huy động vốn với mục đích kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng. Để huy động kỳ phiếu có hiệu quả hơn đòi hỏi Ngân hàng phải tuân thủ các yêu cầu chung của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng No & PTNT Việt Nam. Bên cạnh đó việc ra đời và hoàn thiện thị trường tài chính, thị trường vốn với các công cụ chuyển dịch linh hoạt như cổ phiếu, trái phiếu do các doanh nghiệp, các Ngân hàng Thương mại, kho bạc Nhà nước... phát hành sẽ khắc phục nhược điểm của việc phát hành kỳ phiếu. Mặt khác việc đưa ra các hình thức đó, tạo được tâm lý tốt cho khách hàng. Có như vậy công tác huy động vốn trung và dài hạn mới có hiệu quả.
Từ sự phân tích ngắn gọn tình hình biến động, cơ cấu nguồn vốn huy động trung và dài hạn tại Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan ta thấy rằng hoạt động huy động vốn này của Ngân hàng đã đạt được một số kết quả khả quan và một số vấn đề còn tồn tại cần cải tiến khắc phục trong thời gian tới để có thể mở rộng khả năng huy động vốn của Ngân hàng.
Trên đây là một số phân tích về tình hình huy động vốn của Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan, cho biết những hoạt động cơ bản về kinh doanh của Ngân hàng trong thời gian qua.
III. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TRONG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT HUYỆN VĂN QUAN.
1. Những kết quả đạt được.
Những năm đổi mới vừa qua đất nước đang bước vào một thời kỳ tăng trưởng kinh tế mới, thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước với những điều kiện thực tế mới, nền kinh tế đối mặt với những nhiệm vụ và thách thức mới. Nhận thức rõ vai trò to lớn của nguồn vốn đối với nền kinh tế nói chung và địa bàn huyện Văn Quan nói riêng. Ngân hàng No & PTNT Văn Quan đã khai thác mọi nguồn vốn cả ngắn hạn và trung dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn đổi mới công nghệ, hiện đại hóa sản xuất của các đơn vị kinh tế trên địa bàn nên thời gian qua công tác huy động vốn của Ngân hàng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan đã sử dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ, đưa ra nhiều hình thức mới hấp dẫn khách hàng, chính vì vậy nguồn vốn không ngừng tăng trưởng đảm bảo cho nhu cầu sử dụng vốn trên địa bàn. Ngân hàng tự cân đối nguồn vốn trung dài hạn để đảm bảo kế hoạch cho vay trên địa bàn theo chỉ tiêu do Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh giao.
Ngoài các hình thức huy động vốn truyền thống Ngân hàng còn mở rộng các hình thức mới như: tiết kiệm hưởng lãi bậc thang, tiết kiệm gửi góp, kỳ phiếu, trái phiếu... bước đầu đã có kết quả khả quan và chứa đựng một tiềm năng lớn. Tuy vậy, hình thức huy động vốn này vẫn còn thấp so với các hình thức truyền thống khác. Ngân hàng đã huy động được một khối lượng vốn lớn, năm 2009 tổng nguồn vốn là 922 tỷ đồng, bình quân vốn huy động trên số cán bộ công nhân viên chức là 2.554 triệu/người; năm 2010 tổng nguồn vốn là 1.146 tỷ đồng, bình quân 3 tỷ/người, đảm bảo nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế tại địa phương. Ngoài ra còn đảm bảo chỉ tiêu thừa vốn do Ngân hàng tỉnh giao để hỗ trợ cho công tác tín dụng của các Ngân hàng khác trong hệ thống.
Lãi suất huy động vốn được Ngân hàng sử dụng một cách linh hoạt, nhạy bén, điều chỉnh kịp thời theo hướng hợp lý, đảm bảo cho vay có lãi, nhưng vẫn khuyến khích tăng trưởng nguồn vốn. Ngân hàng đã sử dụng tốt lãi suất đầu ra của các khoản cho vay nên đã tạo ra mặt bằng lãi suất có thể chấp nhận được đối với đầu tư, lãi suất cho vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân, khuyến khích cầu về vốn trung và dài hạn.
Những kết quả đạt được nêu trên là do Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan đã trải qua hơn 15 năm tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường (thực sự từ năm 1995 tới nay), hoạt động kinh doanh có hiệu quả và không ngừng lớn mạnh về trình độ, tổ chức lãnh đạo, hoạt động và tiềm lực tài chính Ngân hàng đã vươn lên chiếm lĩnh vị trí mới về kinh doanh và dịch vụ Ngân hàng ở trình độ cao. Hệ thống Ngân hàng đã được hiện đại hóa với những chương trình phát triển công nghệ thông tin, mạng thanh toán riêng, nâng cao vai trò quản lý, thanh tra, kiểm soát, Ngân hàng vừa đảm bảo tính độc lập tự chủ trong kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh giữa các Ngân hàng khác trên địa bàn, từng bước thích nghi với cơ chế thị trường, vừa giữ an toàn về tài sản vật chất, bảo vệ lợi ích của khách hàng và lợi ích của Ngân hàng.
Công nghệ Ngân hàng không ngừng thay đổi và hoàn thiện theo sự phát triển của khoa học công nghệ, đủ sức phòng ngừa rủi ro và ứng phó kịp thời trong mọi tình huống bất ngờ của hoạt động kinh doanh.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan năng động, sáng tạo và không ngừng được củng cố và hoàn thiện cho phù hợp với cơ chế thị trường. Đội ngũ trẻ, khoẻ, sáng tạo, nhiệt tình, có phẩm chất đạo đức, chính trị vững vàng, tinh thông về nghề nghiệp, có khả năng quyết đoán cao trong công việc, với trình độ tương đối đồng đều.
Cùng với việc đa dạng các hình thức huy động vốn và thực hiện có hiệu quả trong sử dụng vốn mà Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan từng bước khẳng định uy tín và vị trí của mình trên thị trường.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đang càng nhận rõ hơn tầm quan trọng của nguồn vốn trong nước, là một trong nhiều chính sách để phát triển kinh tế, đó là chính sách tạo tiền đề quan trọng nhất, cho nên nhiều chính sách đã được điều chỉnh, sửa đổi nhằm tạo điều kiện thu hút đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau. Trên cơ sở đó mà Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan đưa ra nhiều biện pháp để ngày càng có thể mở rộng khả năng huy động vốn trên thị trường. Mặt khác hệ thống thị trường phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có những chuyển biến tích cực, thị trường nội tệ thanh toán điện tử liên Ngân hàng đã đi vào hoạt động có hiệu quả từ năm 2000 tạo môi trường hoạt động cho toàn hệ thống Ngân hàng nông nghiệp nói chung và Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
2. Những hạn chế trong công tác huy động vốn.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác huy động vốn ngắn hạn đáp ứng nhu cầu vốn nhưng lại chưa tổ chức khai thác tốt nguồn vốn trung dài hạn để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển giao công nghệ. Hiện nay Ngân hàng No&PTNT Huyện Văn Quan đang gặp phải một số trở ngại, khó khăn, đó là:
Nguồn vốn huy động ngắn hạn của Ngân hàng còn lớn, tính ổn định của nguồn vốn không cao, hạn chế trong quá trình sử dụng vốn.
Ngân hàng còn thiếu những hình thức huy động vốn trung, dài hạn hấp dẫn đến thu hút đông đảo khách hàng tham gia.
Trên lĩnh vực thông tin tiếp thị về Ngân hàng, dân chúng chưa có được lòng tin vững vàng, cũng như sự hiểu biết chưa đầy đủ về Ngân hàng, trong khi đó hoạt động Ngân hàng có sự hạn chế về thời gian (dân chúng có nhu cầu gửi và lĩnh tiền cả ngày, ngân hàng chỉ phục vụ được 8 giờ trong ngày). Tức là chưa đáp ứng 24/24 giờ, 7 ngày trong tuần.
Đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ chuyên môn từ cao đẳng, đại học còn tương đối thấp 50% (toàn hệ thống 69%). Do đó Ngân hàng vẫn cần phải tiếp tục đào tạo thêm về tin học, ngoại ngữ và đào tạo sâu về chuyên môn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển Ngân hàng trong giai đoạn mới.
Trở ngại lớn nhất trong lĩnh vực huy động vốn trung và dài hạn là vấn đề lãi suất. Hiện nay, Tổng giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và PTNT Việt Nam đã có văn bản quy định lãi suất cho vay trung hạn: 1,2%, dài hạn là 1,3%, lãi suất cho vay ngắn hạn là 1,05%. Do vậy việc huy động nguồn vốn trung dài hạn sẽ không ít khó khăn cần phải giải quyết không chỉ trước mắt mà cả về lâu dài.
Thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động, nhưng chưa có các điểm chuyển đổi các kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi dài hạn. Các Ngân hàng vẫn chưa tìm ra lối thoát tối ưu chi hình thức này, đó là tính năng của các kỳ phiếu, trái phiếu, các công cụ nợ có thời hạn dài có thể chuyển đổi ra tiền mặt một cách nhanh chóng.
Việc mở tài khoản tiền gửi cá nhân và tài khoản séc cá nhân ít, chưa giúp cho dân chúng làm quen và tiếp cận với hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, tạo điều kiện tiếp xúc với những công cụ thanh toán hiện đại của các nước phát triển.
Những hạn chế trong công tác huy động vốn đa làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan, những hạn chế đó là do những nguyên nhân sau:
- Hình thức huy động vốn với công cụ chủ yếu vẫn là những hình thức truyền thống, giao dịch thủ công và thời hạn ngắn hạn...
- Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, lãi suất trung dài hạn, lãi suất huy động và lãi suất cho vay không phải lúc nào cũng hoàn toàn phù hợp.
- Do hạn hẹp về kinh tế ứng dụng công nghệ tin học hiện đại mới chỉ đáp ứng cho việc trang bị từng bước. Do đó chưa tạo được bước tiến nhảy vọt. Việc đào tao lại và nâng cao trình độ cho cán bộ nhân viên còn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
- Môi trường kinh tế vĩ mô với 2 yếu tố cấu thành chủ yếu là môi trường kinh tế và cơ cấu pháp lý chưa phải đã hoàn toàn thuận lợi như yêu cầu đòi hỏi của công tác huy động vốn trung và dài hạn. Môi trường kinh tế tuy mức ổn định đã được cải thiện khá nhanh chóng, nhưng chưa thực sự vững chắc.
- Do thu nhập của phần lớn dân cư còn thấp, trình độ dân trí ở một số vùng chưa cao, do đó chưa phát sinh nhu cầu thanh toán qua Ngân hàng nhiều bằng tài khoản tiền gửi cá nhân và tài khoản séc. Mặt khác việc sử dụng séc còn nhiều hạn chế gây mất an toàn cho người gửi tiền, nên không có điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc mở tài khoản tiền gửi và tài khoản séc cá nhân.
Trong thời gian tới nhiệm vụ của Ngân hàng là rất lớn, Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan phải phối kết hợp với các ngành có liên quan tạo lập mối quan hệ khăng khít trong cả công tác huy động vốn và sử dụng vốn, vượt qua những khó khăn để hoàn thành mục tiêu mà Ngân hàng đã xác định. Muốn trở thành một ngân hàng thương mại chủ chốt giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đòi hỏi Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan phải có những giải pháp khắc phục những tồn tại trên. Bên cạnh đó, để góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, cần có một môi trường hoạt động thuận lợi, đòi hỏi những thay đổi từ phía Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động của ngành Ngân hàng ngày càng có hiệu quả hơn.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP & PTNT HUYỆN VĂN QUAN TỈNH LẠNG SƠN
Mỗi một nền kinh tế vận hành và phát triển đều phải dựa trên cơ sở các yếu tố sản xuất, bao gồm: Lao động - Vốn - Đất đai, ngoài ra là công nghệ và quản lý. Trong đó, việc tìm giải pháp để huy động được nhiều vốn nhàn rỗi trong dân chúng của các Ngân hàng Thương mại vẫn luôn là vấn đề bức xúc và nan giải. Đã có nhiều giải pháp được đưa ra và thực hiện có kết quả, song chưa phải đã là tất cả. Nhưng điều chúng ta có thể làm được là có được chính sách rõ ràng, hợp lòng dân, tạo điều kiện cho mọi người hiểu rõ và tham gia xây dựng, thực hiện chính sách huy động nguồn vốn cho phát triển kinh tế.
Qua việc phân tích, đánh giá về tình hình huy động vốn của Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan cho thấy rằng: Cùng với chuyển sang nền kinh tế thị trường, Ngân hàng đã thu được những kết quả đáng khích lệ trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là công tác huy động nguồn vốn trên địa bàn. Đó là kết quả chỉ đạo sát sao của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Huyện Văn Quan cùng ban lãnh đạo, các phòng ban chuyên môn nghiệp vụ đã hết sức cố gắng, nâng cao năng lực hoạt động, căn cứ vào tình hình thực tế của Ngân hàng và địa bàn ngân hàng phục vụ. Từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp với yêu cầu của khách hàng mà vẫn đảm bảo lợi ích và mục tiêu của Ngân hàng.
I. ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP & PTNT HUYỆN VĂN QUAN TRONG THỜI GIAN TỚI.
Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan là một doanh nghiệp Nhà nước có chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và làm các dịch vụ Ngân hàng kết hợp với việc thực thi chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển trên địa bàn Ngân hàng hoạt động. Mục tiêu của Ngân hàng là phấn đấu trở thành một trong những tổ chức tài chính tiền tệ quan trọng, có vị trí then chốt trong việc thúc đẩy kinh tế Lạng Sơn phát triển. Vì vậy Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan phải phát triển mạnh mẽ để trở thành một Ngân hàng hiện đại có đủ đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, kể cả vốn trung, dài hạn cho sản xuất kinh doanh, đầu tư vào những dự án lớn, chuyển giao công nghệ và các nhu cầu khác trên địa bàn. Chỉ khi nguồn tiết kiệm và nguồn tích luỹ trong nước dồi dào thì việc tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài mới có hiệu quả, đồng thời mới tăng được tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Nhằm thực hiện mục tiêu của huyện đã đề ra trong năm 2008: GDP trên địa bàn tăng 15 - 17%. Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Huyện Văn Quan phải phấn đấu huy động nguồn vốn tăng 1.500 tỷ đồng, để thực hiện chuyển dịch cơ cấu tín dụng, đầu tư theo hướng phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Căn cứ vào khả năng thực tế của Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan trong thời gian tới cần phải thực hiện:
- Tiếp tục thực hiện các hình thức huy động vốn hiện có, triển khai thêm một số hình thức huy động mới; áp dụng lãi suất huy động linh hoạt, phù hợp với địa phương.
- Tiếp tục mở rộng tín dụng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế địa phương đi đôi với việc nâng cao chất lượng tín dụng, quản lý thu nợ thu lãi chặt chẽ, ngăn chặn nợ quá hạn phát sinh.
- Phát triển mạnh các dịch vụ hiện có: Chuyển tiền điện tử, chi trả kiều hối... triển khai thêm một số dịch vụ mới như. Thanh toán quốc tế (SWIfT), máy ATM...
- Tiếp tục đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, tay nghề cho CBCNV.
- Tiếp nhận triển khai thực hiện các chương trình ứng dụng công nghệ tin học mới của Ngân hàng No & PTNT Việt Nam từ tỉnh đến Ngân hàng cơ sở.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước từ nay đến năm 2010 đòi hỏi sự nỗ lực vươn lên của toàn bộ nền kinh tế, trong đó vai trò của Ngân hàng có tầm quan trọng đặc biệt. Mặt khác để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn, vì vậy công tác huy động vốn luôn được nhấn mạnh là mục tiêu hàng đầu của ngành Ngân hàng. Với nguồn vốn huy động được Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan đã mở rộng cho vay và đóng góp rất lớn vào sự nghiệp xây dựng kinh tế đất nước. Bên cạnh những thành công đã đạt được trong huy động vốn, Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan vẫn còn một số tồn tại cần giải quyết những biện pháp thiết thực cụ thể.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT HUYỆN VĂN QUAN.
Huy động vốn để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước từ nay đến năm 2010. Hiện nay nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng. Huy động vốn trong nước qua nhiều kênh: Ngân sách Nhà nước, doanh nghiệp, Ngân hàng, dân cư... Trong đó nguồn vốn trong dân cư và doanh nghiệp là quan trọng nhất, vốn đầu tư trong nước cơ bản phải dựa vào tiết kiệm và tích luỹ, phải coi tiết kiệm như một quốc sách.
Trong công tác huy động vốn Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan là một chi nhánh đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế và mở rộng sản xuất của tỉnh nhà. Để giải quyết vốn cho nền kinh tế nói chung, Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan cần phải thực hiện một số việc sau đây:
2.1. Huy động vốn phải gắn chặt với yêu cầu sử dụng có hiệu quả nguồn vốn.
Ngân hàng phải đánh giá được nguồn vốn huy động có thể khai thác và hiệu quả sử dụng vốn của các đơn vị vay. Vì nếu không sẽ gây áp lực lạm phát và cũng không thể huy động tiếp được.
Quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả chính là một cách tạo vốn và phát triển vốn chắc chắn nhất. Do vậy cùng với chiến lược huy động vốn cần có chiến lược sử dụng vốn đúng đắn cho thời gian trước mắt và lâu dài một cách có hiệu quả và tiết kiệm. Ngân hàng phải xác định được số vốn còn nằm trong dân cư, số vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế... đóng trên địa bàn. Đồng thời xem xét nó tồn tại dưới hình thức nào: Vàng bạc, ngoại tệ hoặc các hình thức khác... Nguồn nào Ngân hàng có thể khai thác với các hình thức phù hợp: Ngắn hạn, trung dài hạn.
Bên cạnh đó Ngân hàng cũng phải đánh giá tâm lý người gửi tiền, họ yêu cầu gì phía ngân hàng, để từ đó Ngân hàng đưa ra các hình thức huy động phù hợp với yêu cầu của người gửi tiền, tranh thủ được sự ủng hộ của khách hàng. Mặt khác Ngân hàng nên chú trọng đánh giá lại công tác khai thác nguồn vốn từ nước ngoài hay viện trợ của các tổ chức tài chính quốc tế và sử dụng nguồn này có hiệu quả nhất. Cần tiếp tục triển khai nguồn vốn này vì đây là nguồn vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi. Ngân hàng cũng phải đánh giá lại hiệu quả các loại vốn vay, cần chấn chỉnh hoạt động bằng những giải pháp hữu hiệu, trong đó có các biện pháp của Nhà nước với số nợ khoanh, nợ đọng, để lấy lại uy tín với xã hội cung như gửi tiền.
Trong hoạt động tín dụng cần bố trí vốn đầu tư vào những công trình trọng điểm, thi công nhanh sớm đưa vào sử dụng, những dự án sản xuất kinh doanh có tính khả thi, thiết thực và hiệu quả để thu hồi vốn đúng hạn, hạn chế nợ quá hạn, rủi ro làm thất thoát vốn. Chênh lệch nguồn vốn huy động và cho vay phải đảm bảo có lãi thì mới tạo thành động lực để Ngân hàng vươn lên trong cạnh tranh mở rộng khả năng huy động vốn.
2.2. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn:
Bên cạnh các hình thức huy động vốn truyền thống như tiền gửi tiết kiệm các loại: 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, các hình thức kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng... thì Ngân hàng cần triển khai và phát triển các hình thức huy động mới như:
- Tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm "Làm quà" cho con cháu trong tương lai.
- Tiết kiệm bằng ngoại tệ, tiết kiệm nhân thọ, tiết kiệm học đường.
- Tiền gửi tiết kiệm định kỳ có thưởng, tiết kiệm việc làm.
- Tiền gửi tiết kiệm để dành cho tuổi già về hưu.
Mỗi loại hình có hình thức khuyến khích hấp dẫn riêng: Lãi suất có thể cao hơn bình thường một chút, ưu tiên xử lý rút vốn trước hạn do nhu cầu thực tế, cho vay thêm vốn với thủ tục lãi suất ưu đãi. Đặc biệt chú trọng mở rộng các hình thức phát hành kỳ phiếu, trái phiếu dài hạn, thực hiện chuyển nhượng các giấy tờ có giá, đồng thời đẩy mạnh hoạt động sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn này theo các dự án đầu tư.
2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Muốn công tác huy động vốn được tăng cường thì phải kết hợp với sử dụng vốn có hiệu quả. Đối với vốn trung và dài hạn phải được đầu tư theo dự án, trên cơ sở các dự án sản xuất kinh doanh đã được thẩm định kỹ lưỡng, đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao. Căn cứ vào số lượng vốn cần huy động, thời hạn cụ thể là bao lâu mà Ngân hàng cần lựa chọn các hình thức huy động thích hợp: Không kỳ hạn, có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hoặc trên 1 năm, kỳ phiếu, trái phiếu... với mức lãi suất hợp lý. Như vậy sử dụng có hiệu quả vốn có thể nói là một biện pháp có tính quyết định rất lớn đối với công tác huy động vốn của Ngân hàng, hay nói cách khác là "Có cầu mới có cung".
2.4. Kết hợp lợi ích của khách hàng với Ngân hàng:
Thực hiện kết hợp giữa lợi ích của khách hàng với lợi ích của Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay đi đôi với việc đề cao tinh thần yêu nước của nhân dân trong việc đóng góp vốn để xây dựng đất nước thì Ngân hàng cần chú ý đến quyền lợi của người gửi tiền. Nếu lãi suất huy động thấp sẽ không kích thích được khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng. Ngược lại nếu lãi huy động cao bắt buộc Ngân hàng phải đẩy đầu ra lên cao, do đó Ngân hàng không cho vay được. Vì vậy khi có một chính sách lãi suất hợp lý, phù hợp sẽ hấp dẫn được nhiều khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng với những khoản tiền lớn, thời hạn dài. Đồng thời Ngân hàng phải đảm bảo đầu ra vừa phải thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của người vay vốn thế mới đảm bảo được lợi ích của Ngân hàng.
Các chính sách cơ bản của Ngân hàng, đặc biệt chính sách khách hàng cần phải hấp dẫn, khuýên khích vật chất, tạo sự thân mật, tin tưởng cho khách hàng. Riêng đối với tiền gửi đảm bảo thanh toán, tiền gửi thanh toán séc, Ngân hàng có thể thu hút khách hàng bằng hình thức thanh toán nhanh không thu phí dịch vụ chuyển tiền, lệ phí mở séc bảo chi, mở thư tín dụng kèm theo đó là một loạt các hình thức khuyến mại khác, tác động trực tiếp vào tâm lý người gửi tiền, sẽ có tác dụng tích cực trong việc thu hút họ gắn bó thường xuyên với Ngân hàng mình. Hiện nay việc mở tài khoản cá nhân còn chưa hấp dẫn đối với khách hàng cho nên doanh số tương đối thấp. Do vậy, bằng các phương tiện thông tin đại chúng, ở từng thời điểm nhất định: Thứ 7, chủ nhật, ngày lễ, ngày quốc tế... Để người dân hiểu được nội dung, thủ tục mở và sử dụng tài khoản cá nhân, đồng thời chỉ ra cho họ thấy được những lợi ích, công dụng của chúng. Mặt khác phải có biện pháp khắc phục sự chênh lệch lãi suất tiền gửi của tài khoản cá nhân và tiền gửi không kỳ hạn. Có như vậy mới khuyến khích họ gửi tiền vào nhiều hơn.
2.5. Có địa điểm giao dịch thuận lợi, cung ứng tốt nhiều dịch vụ:
Một trong những yếu tố cơ bản để thu hút được nhiều khách hàng trong hoạt động kinh doanh là Ngân hàng phải có địa điểm giao dịch ở những nơi thuận lợi, đông dân cư có thu nhập cao để người gửi tiền đỡ tốn kém cả bằng tiền và thời gian đi lại giao dịch. Các ngân hàng phải đưa ra các dịch vụ tốt như: dịch vụ uỷ thác, tư vấn và bảo quản an toàn vật có giá, các dịch vụ thông tin, chuyển tiền theo yêu cầu nhanh chóng, chính khả năng thu hút nguồn vốn vào ngân hàng.
2.6. Đa dạng hoá thời hạn huy động vốn:
Do chu trình kinh doanh các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các hộ kinh doanh cá thể... trên địa bàn diễn ra khác nhau trong sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Cho nên thời gian nhàn rỗi về vốn của các đơn vị đó cũng khác nhau. Nhiều Ngân hàng thương mại đã nắm bắt được sự thay đổi trên và đang áp dụng các hình thức huy động vốn thời hạn rất đa dạng để huy động tối đa các nguồn tiền nhàn rỗi. Nhưng hiện nay Ngân hàng Nông nghiệp Lạng Sơn đang mới đang huy động loại tiền gửi không kỳ hạn, kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng. Vì thế lượng vốn trung và dài hạn còn thiếu nhiều. Để giải quyết tình trạng này, đồng thời đảm bảo khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác, Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan cần phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn với nhiều thời gian dài hơn và đưa ra một mức lãi suất phù hợp với từng hình thức khác nhau.
2.7. Thực hiện chính sách Marketing Ngân hàng năng động.
Hiện nay hoạt động của các Ngân hàng ngày càng tăng về số lượng cũng như chất lượng, cạnh tranh giữa các Ngân hàng diễn ra gay gắt. Do đó để tồn tại và phát triển kinh doanh có hiệu quả, các Ngân hàng phải có các biện pháp cụ thể nhằm thu hút khách hàng và thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của họ. Một trong những biện pháp đó là phải xây dựng cho được một chính sách Marketing Ngân hàng năng động, với chính sách giá cả, chính sách sản phẩm, chính sách khách hàng phù hợp.
Để thu hút được các loại khách hàng, đòi hỏi Ngân hàng No &PTNT Huyện Văn Quan phải có chính sách khuyến khích các chi nhánh khai thác hết các mối quan hệ, đặc biệt là quan hệ xã hội, các hình thức tiếp cận và thuyết phục vụ khách hàng đến đặt kế hoạch với mình như: Lên kế hoạch cụ thể, chi tiết để tiếp xúc với khách hàng mới, củng cố khách hàng truyền thống, thực hiện tốt các đợt huy động và chi trả tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu... nhằm cung cấp những dịch vụ tốt nhất cho khách hàng, Ngân hàng nên áp dụng một chính sách ưu đãi linh hoạt, mềm dẻo luôn có lợi hơn so với các Ngân hàng thương mại khác. Đó là sự hấp dẫn về lợi ích vật chất đối với khách hàng và độ tin cậy đầy sức thuyết phục. Đặc biệt Ngân hàng cần đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo về chức năng nhiệm vụ, quy mô hoạt động của Ngân hàng, các hình thức huy động tiền gửi và cho vay cùng mức lãi suất thích ứng trong từng thời kỳ để khách hàng biết và thấy được sự chuyển biến của Ngân hàng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ mọi khách hàng, nhằm đem lại cho họ những tiện lợi trong giao dịch gửi tiền, rút tiền mặt, thanh toán... từ đó khách hàng sẽ tìm hiểu Ngân hàng và có quan hệ gửi tiền và vay vốn ngân hàng. Trong trường hợp cần thiết có thể đến từng gia đình để vận động họ gửi tiền tiết kiệm, mua kỳ phiếu...
2.8. Tạo lập uy tín cho khách hàng.
Trong công tác huy động vốn việc đầu tiên là tạo lập được uy tín, lòng tin với dân chúng. Phải nói rằng lòng tin là một trong những vấn đề sống còn của Ngân hàng, Ngân hàng có hoạt động được hay không là nhờ vào lòng tin của dân chúng. Người gửi tiền có quyền lựa chọn nơi gửi tiền mà họ cho là an toàn nhất, cán bộ Ngân hàng có thái độ phục vụ văn minh lịch sự, sẵn sàng hướng dẫn cho họ hình thức tiết kiệm có lợi nhất. Một ngân hàng mà không giữ được chữ "tín" thì không thể đạt kết quả mong muốn.
Trong lúc thị trường vốn dài hạn chưa phát triển, việc cung cấp vốn dài hạn cho nền kinh tế đều được thực hiện qua kệnh Ngân hàng. Vì vậy thông qua các hoạt động tạo vốn, mở rộng đầu tư, cho vay, khai thác và sử dụng vốn có hiệu quả nhất để nâng cao uy tín của Ngân hàng. Đồng thời Ngân hàng cần thường xuyên tăng cường kiểm tra, thanh tra kịp thời, nhân rộng những gương người tốt, việc tốt và xử lý các hành vi gây hại làm tổn thương đến uy tín của Ngân hàng.
2.9. Quan tâm đến đội ngũ cán bộ nhân viên:
Đội ngũ nhân viên của Ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Đối với trình độ nhân viên thì phải thường xuyên nâng cao, phải có một sự hiểu biết nhất định để giải thích cho khách hàng một cách tường tận, rõ ràng, từ đó tạo được một niềm tin cho khách hàng, khách hàng cẩm thấy nhân viên giỏi họ cũng yên tâm khi giao dịch với Ngân hàng.
Năm 2007 đội ngũ cán bộ Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan đã được nâng lên trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học... từng bước thích nghi với kinh tế thị trường. Với đội ngũ cán bộ công nhân viên như vậy đã khẳng định Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan là Ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhân viên tương đối đồng đều, tính kỷ luật và trách nhiệm cao đã góp phần to lớn vào những thành công của Ngân hàng trong những năm qua. Tuy nhiên so với nhiệm vụ và yêu cầu phát triển của Ngân hàng hiện đại, thì phải nâng cao trình độ hơn nữa. Vì vậy để sử dụng tốt nguồn nhân lực, Ngân hàng cần phải tổ chức đào tạo, bồi dưỡng một cách hợp lý, đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh tiền tệ trong thời gian trước mắt và lâu dài.
2.10. Cải cách hành chính.
Tiếp tục triển khai chương trình cải cách hành chính trong hoạt động Ngân hàng, từng bước đơn giản hoá, công khai hoá các thủ tục hành chính các quy trình nghiệp vụ, xoá bỏ mọi phiền hà, tạo mọi điều kiện cho dân chúng, khách hàng tiếp cận với nguồn vốn và các dịch vụ của Ngân hàng. Gắn việc cải cách thủ tục hành chính với việc đẩy mạnh đổi mới công nghệ Ngân hàng, áp dụng các thành tựu khoa học tiên tiến để từng bước hiện đại hóa hoạt động Ngân hàng.
Mặt khác, bám sát các chủ trương của Chính phủ, các định hướng của ngành Ngân hàng và nắm bát kịp thời các diễn biến của nền kinh tế, của hoạt động Ngân hàng, nâng cao chất lượng công tác dự báo phân tích thông tin kinh tế để đủ sức hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ theo chiến lược dài hạn. Sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ linh hoạt và hiệu quả, khắc phục tình trạng bị động, chạy theo xử lý thực tế.
III. KIẾN NGHỊ, XỬ LÝ.
3.1. Đối với Ngân hàng No & PTNT Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngân hàng No& PTNT Huyện Văn Quan là một chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT tỉnh Lạng Sơn hoạt động trên lĩnh vực tài chính tiền tệ, tín dụng chịu sự quản lý của Nhà nước và sự chỉ đạo sát sao của Ngân hàng nông nghiệp & PTNT Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước. Do đó hoạt động của Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan phải tuân thủ theo sự chỉ đạo điều hành của Ngân hàng cấp trên. Để tạo điều kiện cho Ngân hàng huy động nguồn vốn đáp ứng nhu cầu trên địa bàn, thiết nghĩ Ngân hàng No & PTNT Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước cần phải thực hiện một số giải pháp sau:
3.1.1. Điều chỉnh lãi suất một cách linh hoạt, nhạy bén:
Lãi suất được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời là công cụ đắc lực của chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Một chính sách lãi suất hợp lý được đưa ra thúc đẩy mở rộng tín dụng và thu hút các nguồn vốn vào Ngân hàng. Vì vậy trong công tác huy động vốn nhất nhất là trung và dài hạn thì chính sách lãi suất phải mềm dẻo, linh hoạt và được hình thành trên cơ sở cung cầu thị trường vốn ở từng giai đoạn, từng quá trình tăng trưởng của nền kinh tế từ đó xác định mức lãi suất thoả đáng phù hợp với chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Trong những năm gần đây chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước đã được sử dụng như một công cụ quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Bằng các biện pháp điều chỉnh linh hoạt theo sự chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã chuyển từ chính sách lãi suất âm sang lãi suất dương, lãi suất trần đã bám vào chỉ số trượt giá, bảo toàn giá trị hợp đồng tiền cho người gửi và được vay chấp nhận. Từ đó càng thu hút thêm vốn vào hệ thống Ngân hàng, đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng cho sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển. Trong nền kinh tế có lạm phát, lãi suất tiền gửi phải cao hơn tỷ lệ lạm phát. Mức cao hơn đó phải đảm bảo một tỷ lệ hợp lý so với tỷ suất lợi nhuận bình quân của các ngành kinh tế trong nước. Đây là cả một nghệ thuật kinh doanh của Ngân hàng thương mại mà Ngân hàng Trung ương đã giành quyền chủ động cho tất cả các ngân hàng thương mại.
Khi Ngân hàng đã đi vào hoạt động tốt hơn, Ngân hàng Trung ương nên bỏ mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay trần tối đa và chênh lệch giữa lãi suất cho vay tối đa và chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân. Về lâu dài khi thị trường phát triển mạnh mẽ tự do hoá lãi suất huy động và cho vay.
Trong các năm tới khi dịch vụ Ngân hàng phát triển, công tác thanh toán qua Ngân hàng được hiện đại hóa, Ngân hàng sẽ không trả lãi đối với tài khoản tiền gửi không kỳ hạn nhưng đồng thời Ngân hàng làm dịch vụ không thu tiền trên các tài khoản này.
Đối với lãi suất tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và tiền gửi có kỳ hạn dân cư hiện nay còn chênh lệch, không những thể hiện sự không bình đẳng giữa các tổ chức kinh tế và dân cư, không phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường, mà còn chưa động viên khuýên khích các tổ chức kinh tế gửi tiền vào Ngân hàng.
Do đó đối với Ngân hàng thương mại trong công tác huy động tiền gửi, chỉ cần quan tâm đến thời hạn của tiền gửi, ứng với mỗi kỳ hạn có một mức lãi suất, thời hạn càng dài lãi suất càng cao, không phân biệt các thành phần kinh tế và dân cư trong xã hội.
Về lãi suất tiền gửi tiết kiệm giữa nội tệ và ngoại tệ còn chênh lệch nhau. Do đó, cần kéo dài lãi suất đồng Việt Nam và lãi suất ngoại tệ trong điều kiện có tính đến chỉ số lạm phát của 2 loại đồng tiền ngoại tệ và nội tệ.
3.1.2. Cần nghiên cứu và sớm đưa ra nhiều hình thức huy động mới đa dạng.
Đối với các hình thức huy động truyền thống như tiền gửi tiết kiệm các loại 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, các hình thức kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, các công cụ thanh toán và các giấy tờ có giá do Ngân hàng phát hành (séc, tín phiếu, trái phiếu...) cần phải đưa thêm các yếu tố chuyển nhượng thuận tiện, triển khai ngay hoạt động chiết khấu kỳ phiếu Ngân hàng trên toàn quốc, tuyên truyền sâu rộng trong dân chúng những hình thức chuyển tiền hiệu quả qua Ngân hàng (rẻ hơn, nhanh hơn).
Đưa ra nhiều hình thức mới trong huy động vốn như: tiết kiệm có thưởng, kỳ phiếu dài hạn trên một năm.
Ngoài ra Ngân hàng thương mại cần mở hội nghị khách hàng, hàng năm đối với những khách hàng có quan hệ thường xuyên với Ngân hàng, có số dư lớn, để có biện pháp khích lệ họ.
Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp, trong đó xây dựng đề án cổ phần hoá một phần trong số ngân hàng thương mại quốc doanh, nhằm tạo ra nhiều khả năng có thể huy động được tối đa vốn vào Ngân hàng, phát huy sức mạnh các công ty cổ phần, phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
3.1.3. Ngân hàng cần có những biện pháp khuyến khích hơn nữa các loại hình doanh nghiệp, các cá nhân, gia đình mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng và cung cấp nhiều sản phẩm hoàn chỉnh với nhiều tiền ích cho người gửi tiền:
Qui định chế độ thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ của mọi tlhành phần kinh tế, mọi gia đình qua hệ thống tài khoản mở tại Ngân hàng (thanh toán tiền thuê nhà, tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại...) xây dựng qui chế thuận lợi để những món chi trả lớn đều phải thanh toán qua hệ thống Ngân hàng, kho bạc... khuyến khích mở các tài khoản về thu nhập thường xuyên (lương thưởng) của các cá nhân tại Ngân hàng.
3.1.4. Ngân hàng muốn khơi tăng nguồn vốn phải gắn với an toàn vốn, xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý:
Muốn huy động tốt nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, ngân hàng nhà nước Việt Nam và Ngân hàng thương mại trung ương giải quyết tốt các vấn đề an toàn tiền gửi. Để có thể triển khai một cách có hiệu quả, Ngân hàng Trung ương cần phải giải quyết một số vấn đề như:
- Tiếp tục tăng cường đối chiếu công nợ đối với khách hàng.
3.1.5. Tăng cường giáo dục, đào tạo nhân viên Ngân hàng, phổ biến nâng cao dân trí về Ngân hàng.
Công tác đào tạo nhân viên ngân hàng phải được thực hiện thường xuyên giữa người gửi tiền và cán bộ Ngân hàng cần có cảm giác gần gũi tin tưởng không chỉ làm cho khách hàng muốn đặt tài sản của mình mà thường lui tới Ngân hàng.
Việc sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại cũng cần được quan tâm đến để tác dụng trở lại cho công tác huy động vốn. Lợi nhuận của người gửi tiền là do hiệu quả sinh lợi của các hoạt động kinh doanh trong xã hội nên sử dụng vốn có hiệu quả mới có thể thuyết phục được người gửi tiền.
3.1.6. Xây dựng và hoàn thiện thị trường tiền tệ (vốn ngắn hạn):
Tiếp tục xây dựng thị trường tiền tệ nhằm thay đổi mối quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng thương mại với khách hàng thông qua đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và hình thức cho vay, mở rộng tín dụng trung và dài hạn cho vay tới mọi thành phần kinh tế, đa dạng hoá các hình thức dịch vụ Ngân hàng. Đồng thời thông qua việc cung ứng vốn giữa Ngân hàng Nhà nước với ngân hàng thương mại được thực hiện trên cơ sở tái chiết khấu và tái cấp vốn để gắn chặt mối quan hệ giữa Ngân hàng nhà nước với Ngân hàng thương mại.
Đối với thị trường nội tệ thanh toán điện tử liên Ngân hàng, sự hoàn thiện có tác dụng giải quyết kịp thời nhu cầu thiếu vốn, đồng thời giải toả nguồn vốn ứ đọng. Lãi suất trên thị trường này là cơ sở để Ngân hàng nhà nước hạn chế hay mở rộng việc cung ứng cho nền kinh tế.
Ngoài ra thị trường ngoại tệ liên ngân hàng còn tạo thêm tiềm lực về vốn bằng đồng Việt Nam cho các ngân hàng thương mại thông qua mua bán ngoại tệ qua đó Ngân hàng nhà nước có thể điều hành tỷ giá một cách năng động.
3.2. Ổn định môi trường vĩ mô.
Môi trường kinh tế vĩ mô được ổn định là một trong những yếu tố quan trọng cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại được phát triển vững mạnh. Do đó các chính sách vĩ mô phù hợp của Nhà nước không những bảo đảm cho sự tồn tại của các Ngân hàng mà còn thúc đẩy cho các Ngân hàng nói chung và Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan nói riêng ngày càng phát triển. Trong tình hình kinh tế xã hội phát triển nhanh, nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh trong kinh tế thị trường đòi hỏi phải được nhà nước điều chỉnh bằng pháp luật, tạo ra môi trường pháp lý ổn định cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Ổn định môi trường vĩ mô là cốt lõi của đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Nó đóng vai trò là yếu tố then chốt để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao. Từ góc độ huy động vốn để nhận thấy rằng: Hiệu quả tăng trưởng kinh tế chính là cơ sở nền tảng cho việc huy động và sử dụng vốn trung và dài hạn có hiệu quả cao nhất. Môi trường vĩ mô ổn định luôn là yếu tố quan trọng giảm tối thiểu mức độ rủi ro khi đầu tư. Là cơ sở thuyết phục các nhà đầu tư dài hạn về triển vọng lâu dài của nền kinh tế.
Môi trường vĩ mô bao hàm cả môi trường kinh tế và cơ cấu chính trị xã hội. Đây là hai yếu tố tác động trực tiếp tới việc huy động vốn trung và dài hạn qua kênh Ngân hàng. Kinh nghiệm cho thấy trong những năm qua nhà nước đã ổn định được môi trường vĩ mô trong môi trường phát triển đầy biến động. Trong những năm tới nhà nước cần phải tiếp tục duy trì sự ổn định tạo thuận lợi cho việc huy động vốn trung và dài hạn. Điều chỉnh sao cho các chính sách luôn có độ phù hợp cao nhất với các điều kiện phát triển thường xuyên biến đổi. Tiếp tục ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát thấp hơn tốc độ phát triển kinh tế. Điều chỉnh giá linh hoạt, đảm bảo giá trị đồng tiền Việt Nam giữ ổn định so với đồng USD và vàng tạo nên tâm lý tốt cho nhân dân không phải mua USD và vàng tích trữ mà đưa tiền vào đầu tư phát triển kinh tế trực tiếp hoặc qua Ngân hàng. Sự ổn định môi trường vĩ mô đã giúp Ngân hàng áp dụng những hình thức khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Mặt khác Nhà nước phải có các chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước, vì vậy phải xây dựng hệ thống văn bản pháp lý và mạng lưới tổ chức thị trường phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Điều quan trọng và cần thiết là phải thực hiện quản lý kinh tế vĩ mô một cách lành mạnh, nghiêm ngặt và hạn chế tối đa thâm hụt tài khoản vãng lai, để đảm bảo cho sự phát triển song song giữa đầu tư trong nước với đầu tư nước ngoài.
IV. KẾT LUẬN
Nền kinh tế nước ta đang phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa, đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn để chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do đó vai trò của hệ thống Ngân hàng trong việc tạo vốn là cực kỳ quan trọng. Là một Ngân hàng thương mại quốc doanh đang trong quá trình đổi mới, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Văn Quan đã thực hiện tốt công tác huy động vốn, đáp ứng nhu cầu cho tín dụng, cho sản xuất trên các lĩnh vực công - nông nghiệp - dịch vụ theo hướng hiện đại hóa ở địa bàn. Những thành quả đạt được của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Văn Quan trong công tác huy động vốn đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam và sự chỉ đạo sát sao của Ban giám đốc Ngân hàng No & PTNT tỉnh Lạng Sơn, đã góp phần tích cực cùng các Ngân hàng khác trên địa bàn vào sự phát triển kinh tế đất nước, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Do thời gian và kiến thức thực tế tích luỹ còn chưa nhiều nên đề tài này khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được các thầy cô giáo, các cán bộ Ngân hàng đóng góp ý kiến giúp cho đề tài này có giá trị thực tiễn hơn trong sự phát triển vững mạnh của Ngân hàng No & PTNT Huyện Văn Quan.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, cô giáo, Ban giám đốc cùng các cán bộ công nhân viên Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Văn Quan đã tạo điều kiện, quan tâm giúp đỡ để em hoàn thành chuyên đề.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo- Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.doc