- Công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công tác PCCC và hoạt
động tuyên truyền, giáo dục thực hiện dịch vụ PCCC tại doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam cần được đẩy mạnh.
Phải đổi mới nghiệp vụ PCCC, kỹ thuật chữa cháy, đảm bảo chữa
cháy có hiệu quả kinh tế.
Cần trang bị trang bị đầy đủ thêm cơ sở vật chất trang thiết bị kỹ thuật
để các cơ sở đào tạo của ngành có thể đáp ứng được nhu cầu đào tạo
nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cập nhật những nội dung
kiến thức về PCCC của các quốc gia tiên tiến trong lĩnh vực PCCC.
Mở rộng quy mô đào tạo của các cơ sở đào tạo trong ngành.
Tăng kinh phí cho hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
PCCC.
23 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2857 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ phòng cháy chữa cháy trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ HƯƠNG GIANG
TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI DỊCH VỤ PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY
TRONG DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: GS, TS. PHẠM QUANG PHAN
HÀ NỘI - 2010
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện đường lối đổi mới và phát triển
kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước ta, các dự án đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam ngày càng tăng, cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ các khu
công nghiệp, khu chế xuất công nghệ cao, các trung tâm thương mại, khu
chung cư cao tầng…bên cạnh đó quản lý Nhà nước về PCCC còn nhiều
bất cập, chưa theo kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế, dẫn đến là sự gia
tăng các vụ hoả hoạn về số lượng và mức độ thiệt hại. Đặc biệt đối với
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đầu tư lớn, ngành
nghề sản xuất đa dạng, sử dụng nhiều nguyên nhiên vật liệu có tính chất
nguy hiểm cháy, nổ cao tăng, thì nguy cơ cháy và thiệt hại do cháy gây
ra ngày càng lớn. Thực tế cho thấy, so với tình hình cháy chung trên cả
nước số vụ cháy tại các cơ sở có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra
rất ít nhưng thiệt hại do cháy gây ra lại rất lớn, thống kê cho thấy năm
2008 chỉ có 24 (trong tổng số 1734 vụ) chiếm 1,4% vụ cháy xảy ra ở các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, thiệt hại là 365 tỉ
đồng (trong tổng số 609,1) chiếm 59,9%, trong đó có 8 vụ cháy xảy ra ở
các cơ sở 100% vốn đầu tư của Đài Loan xảy ra cháy gây thiệt hại 345 tỉ
đồng.
Cháy lớn gây thiệt hại rất nghiêm trọng về tài sản, làm ảnh hưởng
đến môi trường đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam cũng như sự phát
triển của kinh tế - xã hội nói chung. Thực trạng đó có nhiều nguyên nhân
song nguyên nhân cơ bản nhất là vai trò quản lý nhà nước về dịch vụ
PCCC còn nhiều bất cập.
Từ thực tiễn trên cho thấy việc nghiên cứu đề tài “Tăng cường vai
trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC trong doanh nghiêp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam ” là một yêu cầu có tính cấp
thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến dịch vụ PCCC đã được đề cập trong một số nghiên
cứu khoa học, điển hình như:
3
- Luận án tiến sĩ Kinh tế của tác giả Nguyễn Quang Thứ, Hà Nội,
2004 với đề tài "Dịch vụ phòng cháy chữa cháy - Một loại hàng hoá
công cộng trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta".
- Đề tài khoa học cấp bộ Công an của các tác giả: Đào Quốc Hợp,
Bùi Xuân Hoà, Đặng Trung Khánh: "Những cơ sở lý luận và thực tiễn để
xác định nhu cầu nhân lực và tổ chức đào tạo cán bộ PCCC cho các
ngành, đoàn thể và các tổ chức kinh tế - xã hội". Hà Nội, 2006.
- Đề tài khoa học cấp Bộ Công an của các tác giả: Nguyễn Ngọc
Sơn, Nguyễn Thế Từ, Kiều Hồng Mai: "Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động phòng cháy, chữa cháy trong các cơ sở sản xuất công
nghiệp ở nước ta hiện nay ". Hà Nội, 2004.
- Đề tài khoa học cơ sở của tác giả Đào Hữu Dân - Trường ĐH
PCCC: "Nghiên cứu chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực PCCC
của lực lượng Cảnh sát PCCC trước yêu cầu đòi hỏi của sự ngiệp đổi
mới đất nước hiện nay" - Hà Nội, 2001.
Các nghiên cứu đều có những tiếp cận khác nhau với dịch vụ PCCC
song chưa có đề tài nào đi sâu phân tích vấn đề quản lý nhà nước về
PCCC như một đối tượng nghiên cứu hoàn chỉnh dưới giác độ kinh tế
chính trị học.
Vì vậy, với cách tiếp cận dưới giác độ kinh tế chính trị học, đề tài
"Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC trong
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam" là công
trình nghiên cứu đầu tiên với cách tiếp cận mới: đi sâu phân tích thực
trạng quản lý Nhà nước đối với cung- cầu dịch vụ PCCC trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu.
* Mục tiêu nghiên cứu
Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về dịch vụ PCCC
trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã
giải quyết một số nhiệm vụ cụ thể sau:
4
- Làm rõ dịch vụ PCCC là một hàng hoá công cộng và cơ sở lý luận
của hoạt động quản lý nhà nước đối với hàng hoá dịch vụ PCCC.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động PCCC và cầu về dịch vụ
PCCC trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam;
- Thực trạng quản lý Nhà nước đối với cung dịch vụ PCCC trong DN
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò quản lý
nhà nước đối với dịch vụ PCCC trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Quan điểm tiếp cận:
Với quan điểm: “Cân bằng cung- cầu dịch vụ PCCC là thước đo hiệu
quả vai trò quản lý Nhà nước về dịch vụ PCCC”, đề tài tiếp cận vai trò
quản lý Nhà nước về dịch vụ PCCC với hai nội dung chủ yếu là cầu về
dịch vụ PCCC và cung về dịch vụ PCCC. Trên quan điểm đó toàn bộ
nghiên cứu được triển khai theo khung logic (hình 1).
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực
tiễn của công tác quản lý nhà nước về cung dịch vụ PCCC, cầu về dịch
vụ PCCC trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ
đó đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò quản lý nhà
nước đối với dịch vụ PCCC trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở nước ta.
- Phạm vi nghiên cứu: Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn chỉ đi
sâu nghiên cứu khía cạnh kinh tế, còn khía cạnh kỹ thuật, nghiệp vụ chỉ
đề cập trong chừng mực cần thiết.
5
Hình 1. Khung logic về phương pháp tiếp cận
nội dung nghiên cứu của đề tài
Hiện trạng dịch vụ PCCC
trong các DN
Hệ thống cung ứng DV
PCCC
Cầu về DV PCCC trong
các DN
Cung về DV PCCC với các
DN V
A
I T
R
Ò
Q
U
Ả
N
L
Ý
N
H
À
N
Ư
Ớ
C
Đ
Ố
I V
Ớ
I
D
N
C
Ó
V
Ố
N
Đ
T
T
T
N
Ư
Ớ
C
N
G
O
À
I
7
5. Những đóng góp của đề tài
- Nghiên cứu chỉ rõ dịch vụ PCCC là một hàng hoá công cộng cũng
như vai trò quản lý Nhà nước đối với hàng hoá dịch vụ này.
- Nghiên cứu xây dựng trên quan điểm tiếp cận mới (Cung- Cầu về
dịch vụ PCCC), đây là hướng tiếp cận mới mà chưa có nghiên cứu tương
tự tiếp cận.
- Từ nguồn số liệu sơ cấp của Cục Cảnh sát PCCC (C23) nghiên cứu
đã phân tích, đưa ra những nhận định về các mặt còn tồn tại trong công tác
quản lý Nhà nước đối với dịch vụ PCCC, trên các mặt:
+ Đánh giá thực trạng cầu dịch vụ PCCC của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài theo các tiêu chí ngành nghề đầu tư, quốc gia đầu tư,
địa bàn đầu tư, hạng mục đầu tư…
+ Đánh giá thực trạng cầu dịch vụ PCCC của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài thông qua các hoạt động hỗ trợ của Nhà nước- phổ biến
thông tin khoa học công nghệ, về tư vấn, thiết kế về an toàn PCCC, về đào
tạo nguồn nhân lực phục vụ công tác PCCC
+ Đánh giá thực trạng cung dịch vụ PCCC của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài thông qua các hoạt động hỗ trợ của Nhà nước-
Hoạt động ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Hoạt động hỗ trợ
thanh tra, kiểm tra phát hiện và khắc phục nguy cơ mất an toàn PCCC,
Hoạt động đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công tác PCCC và Hoạt động
tuyên truyền, giáo dục, Hoạt động phổ biến thông tin khoa học công nghệ
về PCCC, chuyển giao công nghệ về PCCC, Hoạt động tư vấn, thiết kế về
an toàn PCCC.
- Đề xuất một số giải pháp khả thi tăng cường vai trò quản lý Nhà
nước đối với Cung- Cầu dịch vụ PCCC nhằm hạn chế tới mức tối thiểu số
lượng và mức độ thiệt hại do cháy, nổ gây ra tạo môi trường tốt thu hút
đầu tư nước ngoài thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Dựa vào lý luận Kinh tế chính trị Mác-Lênin, quan điểm của Đảng,
Nhà nước và tiếp thu có chọn lọc lý luận của kinh tế học hiện đại cùng
một số đề tài khoa học về lĩnh vực PCCC.
- Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng
8
- Phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh…để rút ra
những kết luận và giải pháp thực tiễn của hoạt động quản lý nhà nước về
PCCC ở nước ta.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn tăng cường vai trò quản lý nhà
nước đối với dịch vụ PCCC trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với dịch vụ
PCCC trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
Chương 3. Phướng hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai
trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC trong doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ PCCC TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm dịch vụ PCCC – một loại hàng hóa công cộng
Dịch vụ là những hoạt động mang tính xã hội cao, tạo ra các sản phẩm
hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể nhằm thỏa mãn nhu cầu sản
xuất và đời sống của con người một cách kịp thời, thuận lợi và hiệu quả.
Theo luật PCCC: Cháy là: “trường hợp xảy ra cháy không kiểm soát
được có thể gây thiệt hại về người, tài sản và ảnh hưởng môi trường”.
Phòng cháy là tổng hợp các biện pháp, giải pháp về tổ chức kỹ thuật
nhằm loại trừ hoặc hạn chế các điều kiện và nguyên nhân gây cháy, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc cứu người, cứu tài sản, chống cháy lan khi
xảy ra cháy và cho việc dập tắt đám cháy.
Từ việc nghiên cứu hai khái niệm trên chúng ta có thể rút ra khái niệm
về dịch vụ PCCC như sau:
Là những hoạt động lao động mang tính xã hội cao, tạo ra các sản
phẩm hàng hoá không tồn tại dưới hình thái vật thể bao gồm các biện
pháp, giải pháp về tổ chức, chiến thuật và kỹ thuật nhằm loại trừ hoặc hạn
chế nguyên nhân, điều kiện gây cháy; tạo điều kiện thuận lợi cho việc chủ
động cứu người, cứu tài sản, chống cháy lan và chữa cháy kịp thời, có
hiệu quả nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất và đời sống của con người một
cách kịp thời, thuận lợi và hiệu quả.
Dịch vụ PCCC là hàng hóa dịch vụ nhưng đồng thời là hàng hóa công
cộng. Dịch vụ PCCC là hàng hóa công cộng thể hiện ở hai thuộc tính cơ
bản là tính tiêu dùng không đối đầu (non - rivalry) và tính tiêu dùng không
loại trừ (non-excludability). Ngoài ra dịch vụ PCCC còn thể hiện ở các
đặc trưng mang đặc tính đặc thù riêng.
10
1.1.2. Khái niệm quản lý Nhà nước về phòng cháy chữa cháy
Luật PCCC đã được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 9 thông qua xác
định quản lý nhà nước về PCCC là: sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực pháp luật của nhà nước đối với các hoạt động trong lĩnh
vực phòng cháy và chữa cháy của các chủ thể có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các vụ cháy xảy ra
và thiệt hại do cháy gây ra góp phần bảo vệ tính mạng, bảo vệ tài sản của
nhà nước, của tổ chức, cá nhân, bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh và
trật tư an toàn xã hội.
1.1.3. Khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Trên cơ sở phân tích tài liệu có thể đưa ra khái niệm doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài như sau: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
là một phạm trù chỉ tất cả các loại hình doanh nghiệp có sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài với tỷ lệ vốn góp không thấp hơn 49% vốn điều lệ của
doanh nghiệp, được thành lập và hoạt động theo luật đầu tư, luật doanh
nghiệp và các văn bản pháp luật có liên quan nhằm múc đích thực hiện
các hoạt động kinh doanh.
1.2. Vai trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
* Nhà nước quản lý dịch vụ PCCC trước hết là sự quản lý trên tầm vĩ
mô, thể hiện ở việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch về hoạt động PCCC; Ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện
các văn bản quy phạm pháp luật về PCCC, đảm bảo cho hoạt động Phòng
cháy và chữa cháy thống nhất từ trung ương đến cơ sở.
* Nhà nước quản lý các hoạt động đảm bảo việc thực hiện các quy
định về phòng cháy và chữa cháy như: tuyên truyền, giáo dục pháp luật và
kiến thức về phòng cháy và chữa cháy; tổ chức và chỉ đạo hoạt động
PCCC trong từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở, cụm dân cư…
* Nhà nước quản lý công tác đào tạo, xây dựng lực lượng, trang bị và
quản lý phương tiện PCCC; đảm bảo ngân sách cho hoạt động phòng cháy
11
và chữa cháy; tổ chức hoạt động bảo hiểm cháy, nổ gắn với hoạt động
PCCC.
* Nhà nước đảm bảo và trao quyền cho các cơ quan có trách nhiệm
trong việc đảm bảm bảo các yếu cầu PCCC như thẩm định, phê duyệt các
dự án, thiết kế và nghiệm thu công trình xây dựng về PCCC; kiểm định và
chứng nhận an toàn phương tiện; tiến hành thanh tra và kiểm tra, xử lý vi
phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về PCCC; điều tra vụ cháy.
* Nhà nước khuyến khích và có chính sách hợp lý nhằm thúc đẩy việc
nghiên cứu, ứng dụng, phổ biến tiến bộ khoa học công nghệ về PCCC;
thực hiện hợp tác quốc tế về PCCC
1.2.2. Tầm quan trọng của quản lý nhà nước đối với dịch vụ phòng
cháy chữa cháy trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở nước ta
Thứ nhất, Quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC tốt sẽ hạn chế
được các rủi ro do cháy, nổ gây ra.
Thứ hai, làm tốt công tác quản lý nhà nước về dịch vụ PCCC sẽ góp
phần đảm bảo an ninh chính trị và an toàn xã hội.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý nhà nước đối với dịch vụ
phòng cháy chữa cháy trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quý báu của các nước có nền kinh
tế thị trường phát triển như Nhật, Nga, Trung Quốc…về công tác tuyên
truyền, giáo dục ý thức người dân về PCCC; Kết hợp lực lượng PCCC
chính quy của nhà nước với lực lượng PCCC chuyên nghiệp ở các xí
nghiệp, doanh nghiệp và các lực lượng PCCC tự nguyện; Coi trọng công
tác nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ PCCC… Đây là những bài học
quý báu cho việc tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ
PCCC nhằm phát triển hàng hoá dịch vụ này ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay
12
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI DỊCH VỤ PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng cầu về dịch vụ PCCC trong các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
2.1.1. Nhu cầu về dịch vụ PCCC thông qua thực trạng cháy- nổ tại
các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 10 năm qua
(1998 - 2008)
Tình hình cháy- nổ tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong 10 năm qua là thực tế sinh động nhất phản ánh cầu về dịch vụ
PCCC của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tính
đến năm 2008 cả nước đã có 8.735 dự án của 81 quốc gia và vùng lãnh
thổ đầu tư vào Việt Nam.
Tình hình cháy và thiệt hại do cháy ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Tại các cơ sở có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong cả nước bình
quân mỗi năm xảy ra 11 vụ cháy, gây thiệt hại tài sản tính thành tiền là
55,11 tỷ đồng. Nếu so sánh với số vụ cháy chung trong cả nước (1998 -
2008) thì số vụ cháy tại các cơ sở này hàng năm tuy chỉ chiếm 0,48%
(11/2304 vụ), nhưng thiệt hại chiếm tới 19,33 % (55,11/285 tỷ đồng). Sở
dĩ như vậy, vì số vụ cháy lớn tại các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài
chiếm tỷ lệ rất cao, chiếm tới gần 50% tổng số vụ cháy lớn trong cả nước.
Nếu xét theo ngành nghề đầu tư (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ)
thì có đến 101 vụ cháy ở các cơ sở sản xuất thuộc lĩnh vực công nghiệp
chiếm 91% số vụ cháy và 10 vụ cháy ở các cơ sở thuộc lĩnh vực thương
mại, dịch vụ chiếm khoảng 9% tổng số vụ cháy. Điều này cho thấy công
tác giáo dục đào tạo về an toàn PCCC, tư vấn, thẩm định, kiểm tra an toàn
PCCC trong các cơ sở sản xuất thuộc lĩnh vực công nghiệp có nhu cầu rất
cao.
13
Bảng 1. Bảng tỷ lệ các vụ cháy và thiệt hại tài sản trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam phân theo
các tỉnh, thành phố 1998 -2008
STT Địa phương
Tình hình cháy Thiệt hại
Số vụ Tỷ lệ (%)
Tài sản
(tỷ đồng)
Tỷ lệ
(%)
1 Đồng Nai 28 25.23 194,644 35.32
2 Bình Dương 27 24.32 64,955 11.79
3 TP Hồ Chí Minh 24 21.62 159,058 28.86
4 Hà Nội- Hà Tây 5 4.50 7,607 1.38
5 Khánh Hòa 5 4.50 5,578 1.01
6 Tây Ninh 5 4.50 5,071 0.92
7 Long An 2 1.80 102,000 18.51
8 Hưng Yên 2 1.80 2,028 0.37
9 Vũng Tàu 2 1.80 3,042 0.55
10 Các địa phương khác 11 9.91 7,100 1.29
Tổng 111 100 551,083 100
Nguồn:Báo cáo của Cục cảnh sát PCCC - Bộ Công an
Tình hình cháy và thiệt hại do cháy ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài phân theo tiêu chí quốc gia đầu tư
Chỉ tính 4 nước và vùng lãnh thổ Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia,
Singapore thì số vụ cháy đã chiếm 73,88% tổng số vụ cháy, còn thiệt hại
do cháy gây ra thì chiếm tới 97,61% tổng thiệt hại do cháy gây ra tại các
cơ sở của 16 nước trong tổng số 81 nước và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư
vào Việt Nam.
Trên 88% số vụ cháy và trên 95% thiệt hại ở các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài thuộc các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư Châu Á. chỉ
tính 4 nước và vùng lãnh thổ Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore
14
thì số vụ cháy đã chiếm 73,88% tổng số vụ cháy, còn thiệt hại do cháy gây
ra thì chiếm tới 97,61% tổng thiệt hại do cháy gây ra tại các cơ sở của 16
nước trong tổng số 81 nước và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam.
Chỉ tính riêng số vụ cháy tại các cơ sở có vốn đầu tư của Đài Loan vào
Việt Nam thì đã bằng tổng số vụ cháy của 80 nước còn lại, còn tổng thiệt
hại do cháy gây ra thì gấp 2,5 lần so với thiệt hại ở các cơ sở của 80 nước
cộng lại (Xem phụ lục 3b). Trên 88% số vụ cháy và trên 95% thiệt hại ở
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc các quốc gia và vùng
lãnh thổ đầu tư Châu Á.
Điều này cho thấy công tác giáo dục đào tạo về an toàn PCCC, tư vấn,
thẩm định, kiểm tra an toàn PCCC trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh
thuộc các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư Châu Á có nhu cầu rất cao.
Xét theo ngành nghề đầu tư ngành công nghiệp (Công nghiệp nhẹ,
Công nghiệp nặng, Công nghiệp thực phẩm, Xây dựng, Công nghiệp D
khí…) là ngành có nhu cầu dịch vụ PCCC cao nhất (có đến 91% số vụ
cháy trong 10 năm qua là ở các cơ sở thuộc lĩnh vực công nghiệp).
Xét theo tiêu chí phân bố các doanh nghiệp ở các địa phương và vùng
miền có thể thấy các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, TP Hồ Chí Minh là các
tỉnh, thành phố có nhu cầu dịch vụ PCCC cao nhất, chỉ tính riêng 3 địa
phương này thì số vụ cháy xảy ra tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã chiếm 71,17% tổng số vụ cháy, còn thiệt hại do cháy
gây ra tại đây chiếm 93,81% tổng thiệt hại do cháy gây ra tại các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Các vụ cháy xảy ra tại các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu
xảy ra tại các tỉnh phía Nam, 99 vụ, chiếm 89,19% tổng số vụ cháy, phía
Bắc, 12 vụ, chiếm 10,81% tổng số vụ cháy.
Phân theo tiêu chí quốc gia đầu tư có thể thấy các doanh nghiệp ở các
quốc gia Châu Á (Đài Loan, Hàn Quốc, Malai, Trung Quốc chiếm tới
76,6% số vụ cháy và 95,1% tổng số thiệt hại) có nhu cầu sử dụng dịch vụ
PCCC cao nhất.
Theo kết cấu xây dựng hạng mục công trình của cơ sở bị cháy
Các cơ sở kinh doanh có nhà xưởng, nhà kho có kết cấu xây dựng
khung nhà bằng thép, mái lợp tôn có nhu cầu cao trong việc sử dụng dịch
15
vụ PCCC (96 vụ cháy, chiếm 86% tổng số vụ cháy tại các cơ sở có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài).
2.1.2. Cầu về dịch vụ PCCC thông qua đánh giá công tác PCCC tại
các cơ sở có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Kết quả khảo sát thực trạng công tác PCCC ở các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho thấy công tác PCCC tại các cơ sở
này còn nhiều tồn tại và bất cập thể hiện ở một số vấn đề chính sau đây:
Nhu cầu được phổ biến thông tin khoa học công nghệ về PCCC,
chuyển giao công nghệ về PCCC.
- Khoảng 30% số doanh nghiệp có bộ phận khai thác, tiếp nhận thông
tin khoa học công nghệ về dịch vụ PCCC, trong đó chỉ có khoảng 4% số
doanh nghiệp thường xuyên tiếp cận thông tin, 100% số doanh nghiệp đều
có nhu cầu được phổ biến thông tin khoa học công nghệ về PCCC nhưng
trong khi đó có đến 76% không biết tiếp cận các nguồn thông tin ở đâu.
- Trên 76% số doanh nghiệp trang bị không đầy đủ, đúng chủng loại
phương tiện PCCC do thiếu thông tin và không được tư vấn đầy đủ.
- 64% số doanh nghiệp chưa có văn bản chỉ đạo về hoạt động PCCC,
chưa có lực lượng PCCC cơ sở, chưa có quy định, nội quy về an toàn
PCCC, chưa có phương án chữa cháy tại chỗ khi rủi ro xảy ra.
Điều này cho thấy trong thời gian tới cần tổ chức tốt hơn công tác phổ
biến thông tin khoa học công nghệ PCCC đến các doanh nghiệp.
Nhu cầu về tư vấn, thiết kế về an toàn PCCC
- 70% số doanh nghiệp thiếu nguồn nước chữa cháy.
- 62% nhà xưởng, kho tàng, cơ sở kinh doanh không đảm bảo yêu cầu
an toàn PCCC.
- Hơn 80% nhà sản xuất, kho bảo quản hàng hoá, vật tư ở các cơ sở
sản xuất có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được làm bằng khung thép
mái tôn
- Việc đầu tư kinh phí cho hạng mục PCCC ở một số cơ sở còn ít,
không đảm bảo đủ điều kiện về PCCC
- Từ thực trạng trên, trong thời gian tới cần có các giải pháp để đáp
ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp về tư vấn, thiết kế về an toàn
PCCC.
16
Nhu cầu về đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công tác PCCC tại cơ sở
- Bình Dương có tới 255/670 cơ sở đang hoạt động trong các KCN
chưa thành lập đội PCCC tại chỗ, chiếm 38,06%
- 60% số vụ cháy lớn xảy ra ngoài giờ làm việc và nhất là vào ban
đêm.
- Lực lượng cán bộ kiểm tra, thanh tra về cháy, nổ gần như chưa được
đào tạo chuyên môn về nghiệp vụ PCCC, thiếu kiến thức về PCCC, chất
lượng và số lượng chưa tương xứng với yêu cầu thực tế.
Vì vậy, cần phải tìm hiểu thực trạng của công tác quản lý nhà nước
đối với dịch vụ PCCC trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở nước ta để có chương trình đào tạo phù hợp.
2.2. Cung về dịch vụ PCCC trong doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
2.2.1. Quản lý Nhà nước đối với cung dịch vụ PCCC về mặt vĩ mô
2.2.1.1. Hoạt động ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
- Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định các tiêu
chuẩn kỹ thuật an toàn PCCC đã được thực hiện nhưng cũng chỉ đề cập
đến các cơ sở kinh tế có quy mô lớn
- Góc độ quản lý nhà nước đối với hoạt động PCCC thì phạm vi điều
chỉnh và quản lý của các văn bản trên còn hẹp, cần có sự bổ sung phù hợp
với tình hình mới.
2.2.1.2. Hoạt động hỗ trợ thanh tra, kiểm tra phát hiện và khắc phục
nguy cơ mất an toàn PCCC
- Nhiều loại hình kinh doanh mới hình thành, quy mô, công nghệ sản
xuất ngày càng đa dạng, nhưng hệ thống tiêu chuẩn về PCCC của Việt
Nam còn thiếu, lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu, còn nhiều vấn đề phải
vận dụng tiêu chuẩn của nước ngoài.
- Nhiều cơ sở, doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh chưa
đi đôi với bảo đảm an toàn PCCC, luôn tìm mọi cách giảm tối đa việc việc
đầu tư kinh phí cho PCCC.
- Việc hỗ trợ của cơ quan Cảnh sát PCCC mới chỉ tập trung vào giờ
sản xuất, còn lơ là trong việc kiểm tra trước và sau giờ làm việc. Nội dung
kiểm tra còn chung chung, chưa đi sâu vào từng nội dung cụ thể như hệ
17
thống điện, sử dụng nguồn nhiệt…nên vẫn bỏ sót nhiều sơ hở, thiếu sót, vi
phạm an toàn PCCC có thể dẫn đến cháy nổ
- Chưa hướng dẫn được biện pháp, giải pháp PCCC cụ thể mà chỉ mới
kiến nghị chung chung.
2.2.2. Quản lý Nhà nước đối với cung dịch vụ PCCC về công tác hỗ trợ
2.2.2.1. Hoạt động đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công tác PCCC
và Hoạt động tuyên truyền, giáo dục thực hiện dịch vụ PCCC tại doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
- Cả nước hiện nay chỉ có một cơ sở đào tạo duy nhất là trường Đại
học PCCC (mới được nâng cấp từ trường Cao đẳng PCCC từ năm 2002).
Mỗi năm trường đào tạo cho cả nước với quy mô rất khiêm tốn khoảng
300 sinh viên hệ chính quy và khoảng 500 sinh viên hệ không chính quy.
Số sinh viên ra trường (chưa kể một số chuyển ngành khoảng 10%) thì
chưa đủ đáp ứng cho các đơn vị PCCC ở các địa phương vì thế nguồn
cung nhân lực hoàn toàn là không có cho các doanh nghiệp.
- Khả năng đáp ứng nhu cầu đào tạo của các đơn vị đào tạo cấp Trung
ương còn hạn chế, bản thân các địa phương còn thiếu nhân lực, đội ngũ
làm công tác PCCC, thiếu phương pháp, giáo trình- tài liệu, kỹ năng sư
phạm thế nên việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nòng cốt cho các doanh
nghiệp còn rất nhiều hạn chế.
- Chất lượng cán bộ làm công tác PCCC tại các doanh nghiệp còn rất
thấp có trên 65% số doanh nghiệp các cán bộ làm công tác PCCC chưa
được đào tạo, không có chuyên môn kỹ thuật PCCC.
- Việc đào tạo cũng chưa gắn với thực tiễn của các cơ sở sản xuất,
kinh doanh.
- Hoạt động tuyên truyền chưa đều, thiếu tư liệu thông tin, thiếu
phương tiện và điều kiện cho hoạt động tuyên truyền về PCCC tại cơ sở.
- Nội dung tuyên truyền chưa tập trung cảnh báo thực trạng, nguy cơ
cháy trong các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều nguy hiểm về
cháy, nổ, chưa nêu bật được vai trò, trách nhiệm của cán bộ, công nhân,
viên chức trong việc PCCC mà còn chung chung, sơ sài.
- Hoạt động tuyên truyền không được thực hiện thường xuyên liên
tục, hình thức và biện pháp thiếu phong phú nên hiệu quả chưa cao.
18
- Việc đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí và điều kiện cho hoạt động
tuyên truyền ở nhiều doanh nghiệp còn được ít quan tâm.
2.2.2.2. Hoạt động phổ biến thông tin khoa học công nghệ về PCCC,
chuyển giao công nghệ về PCCC
- Thống kê cho thấy chỉ có khoảng 30% số doanh nghiệp có bộ phận
khai thác, tiếp nhận thông tin khoa học công nghệ về dịch vụ PCCC, trong
đó chỉ có khoảng 4% số doanh nghiệp thường xuyên tiếp cận thông tin.
100% số doanh nghiệp đều có nhu cầu được phổ biến thông tin khoa học
công nghệ về PCCC nhưng trong khi đó có đến 76% không biết tiếp cận
các nguồn thông tin ở đâu.
- Chưa xây dựng được kho dữ liệu thông tin phục vụ công tác PCCC;
- Chưa tổ chức hoạt động khai thác thông tin về các nhà cung ứng
dịch vụ PCCC trong và ngoài nước;
- Thiếu thông tin về các sản phẩm PCCC chuyên dụng;
- Thiếu tạp chí, báo và các ấn phẩm chuyên ngành PCCC trên cả
nước.
2.2.2.3. Hoạt động tư vấn, thiết kế về an toàn PCCC
- Tư vấn và thiết kế an toàn PCCC hiện tại cũng chưa đáp ứng được
nhu cầu của của các doanh nghiệp. Còn thiếu rất nhiều đơn vị cung ứng
dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp. Trong cả nước hiện nay chỉ có 01
trung tâm kỹ thuật PCCC cung ứng về dịch vụ trên.
- Việc tư vấn ở tại địa phương do các phòng chữa cháy địa phương
đảm nhiệm nhưng các đơn vị này rất thiếu chuyên gia tư vấn, thiết kế.
Trong khi các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn, thiết kế nước ngoài chưa tham
gia vào thị trường Việt Nam. Thống kê cho thấy, 70% số doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài thiếu nguồn nước chữa cháy. 62% trụ sở, nhà
xưởng, kho tàng, cơ sở kinh doanh không đảm bảo yêu cầu an toàn PCCC.
Hơn 80% nơi sản xuất, kho bảo quản hàng hoá, vật tư ở các cơ sở sản xuất
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được làm bằng khung thép mái tôn, có
nơi diện tích rộng đến hàng nghìn m2.
- Lực lượng PCCC cả Trung ương và địa phương còn quá mỏng
không đáp ứng được nhu cầu tư vấn của các doanh nghiệp. Hiện nay, một
19
cán bộ làm công tác PCCC trung bình quản lý trên 500 doanh nghiệp chưa
kể những hộ kinh doanh cá thể và các cơ sở sản xuất nhỏ
2.3. Đánh giá chung về hoạt động quản lý nhà đối với dịch vụ
PCCC trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam
Thứ nhất, Cơ sở pháp lý quản lý nhà nước là hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm kỹ thuật về PCCC còn chậm
được ban hành trước yêu cầu đòi hỏi thực tế của hoạt động dịch vụ PCCC.
Thứ hai, Công tác đào tạo, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về PCCC
chưa tích cực, thường xuyên, đồng bộ, sâu rộng ngang tầm với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ ba, Công tác hỗ trợ thanh tra, kiểm tra, khắc phục vi phạm quy
định an toàn PCCC còn xem nhẹ, viêc khởi tố điều tra, xử lý hình sự đối
với các vụ cháy, nổ nghiêm trọng còn ít, trách nhiệm, trình độ của cán bộ
làm công tác kiểm tra chưa cao …
Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết để nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
Một là, Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý và làm tốt tuyên truyền,
giáo dục pháp luật về PCCC.
Hai là, Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần tăng
cường đầu tư kinh phí và trang bị phương tiện PCCC để đáp ứng yêu cầu
PCCC tại chỗ.
Ba là, Trong các cơ sở có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần có chế
độ thưởng, phạt thật nghiêm đối với các trường hợp vi phạm an toàn
PCCC.
20
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH
VỤ PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng tăng cường công tác quản lý của nhà nước đối
với dịch vụ PCCC ở nước ta hiện nay
Dự báo tình hình cháy nổ ảnh hưởng tới công tác quản lý nhà nước
đối với dịch vụ PCCC
- Căn cứ thống kê tình hình cháy những năm qua ở nước ta cho thấy
có diễn biến phức tạp, với chiều hướng gia tăng, đặc biệt xuất hiện nhiều
vụ cháy lớn gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ của con
người, tài sản của Nhà nước, của các tổ chức xã hội và của công dân, ảnh
hưởng đến trật tự an toàn xã hội, môi trường sinh thái.
- Khả năng cháy chiếm tỷ trọng lớn tại các khu công nghiệp, khu chế
xuất, các doanh nghiệp, các trung tâm thương mại, cơ sở khai thác và sử
dụng dầu khí, khu dân cư tập trung.
- Tình hình cháy tại các cơ sở liên doanh, liên kết với nước ngoài sẽ
gia tăng, nhiều dự án đã đi vào hoạt động, một số dự án khác đang xây
dựng sắp đưa vào hoạt động.
- Địa bàn cháy nổ sẽ diễn ra ở các đô thị lớn, chiếm tỷ lệ cao và thiệt
hại do cháy gây ra lớn. Tại các đô thị nhỏ có các khu công nghiệp lớn, khu
dân cư tập trung thì cháy vẫn xẩy ra với thiệt hại lớn.
- Nguyên nhân cháy: có thể dự báo là do sơ xuất vẫn chiếm tỷ lệ cao
(sơ xuất do dùng lửa, điện vẫn là chủ yếu). Ngoài ra, có thể có nguyên
nhân cháy do phá hoại, mâu thuẫn… gây ra nhưng không đáng kể.
21
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò quản lý nhà
nước đối với dịch vụ PCCC trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam
3.2.1. Nhóm giải pháp ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu về dịch vụ PCCC
đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam, trong thời gian trước mắt các đơn vị cung ứng dịch vụ PCCC cần
tập trung vào các việc tìm nguồn lực tài chính, xây dựng, triển khai các
chương trình với các nội dung:
- Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công tác PCCC và tuyên truyền,
giáo dục thực hiện dịch vụ PCCC tại doanh nghiệp.
- Phổ biến thông tin khoa học công nghệ về PCCC, chuyển giao công
nghệ về PCCC;
- Tư vấn, thiết kế về an toàn PCCC;
- Hỗ trợ thanh tra, kiểm tra phát hiện và khắc phục nguy cơ mất an
toàn PCCC;
Ưu tiên tập trung cho các doanh nghiệp:
- Các cơ sở sản xuất thuộc lĩnh vực công nghiệp
- Các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài tại các tỉnh phía Nam, 99 vụ
(chiếm 89,19% tổng số vụ cháy tổng số vụ cháy).
- Các cơ sở kinh doanh có nhà xưởng, nhà kho có kết cấu xây dựng
khung nhà bằng thép, mái lợp tôn
- Đặc biệt phải có cơ chế thanh tra, kiểm tra riêng với các cơ sở thuộc
các quốc gia đầu tư Châu Á (Đài Loan, Hàn Quốc, Malai, Trung Quốc
chiếm tới 76,6% số vụ cháy và 95,1% tổng số thiệt hại).
3.2.2. Giải pháp dài hạn nhằm hoàn thiện hệ thống cung ứng dịch
vụ PCCC
3.2.2.1. Tập trung xây dựng mới và hoàn thiện môi trường pháp lý để
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC
* Trước mắt tập trung vào việc tham mưu cho lãnh đạo Bộ Công an,
trình chính phủ ban hành nghị định về công tác PCCC tại các khu công
nghiệp;
* Tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật về quản lý dịch vụ PCCC.
22
* Ban hành những quy định về dịch vụ PCCC theo các ngành dựa trên
các đặc điểm cụ thể của từng ngành.
* Trên cơ sở những văn bản đã có, tuỳ theo tình hình phát triển kinh tế
- xã hội, sự biến đổi của nền kinh tế và tính chất nguy hiểm về cháy nổ ở
các khu vực, các thành phần kinh tế, các cơ sở sản xuất kinh doanh cần tổ
chức biên soạn các nội quy quy định PCCC cho phù hợp và thiết thực
3.2.2.2. Tổ chức tốt hoạt động của hệ thống cung ứng dịch vụ PCCC
- Công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công tác PCCC và hoạt
động tuyên truyền, giáo dục thực hiện dịch vụ PCCC tại doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam cần được đẩy mạnh.
Phải đổi mới nghiệp vụ PCCC, kỹ thuật chữa cháy, đảm bảo chữa
cháy có hiệu quả kinh tế.
Cần trang bị trang bị đầy đủ thêm cơ sở vật chất trang thiết bị kỹ thuật
để các cơ sở đào tạo của ngành có thể đáp ứng được nhu cầu đào tạo
nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cập nhật những nội dung
kiến thức về PCCC của các quốc gia tiên tiến trong lĩnh vực PCCC.
Mở rộng quy mô đào tạo của các cơ sở đào tạo trong ngành.
Tăng kinh phí cho hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
PCCC.
- Về việc phổ biến thông tin khoa học công nghệ về PCCC, chuyển
giao công nghệ về PCCC
Cần thành lập đơn vị chuyên trách nhằm phổ biến thông tin khoa học
công nghệ về PCCC, chuyển giao công nghệ về PCCC cho các doanh
nghiệp trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam.
Tiến hành điều tra, khảo sát tổng thể nhằm xây dựng kho thông tin dữ
liệu về PCCC phục vụ cho các doanh nghiệp.
Xã hội hóa việc cung cấp, phổ biến thông tin khoa học công nghệ về
PCCC, chuyển giao công nghệ về PCCC.
Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quản lý dịch vụ PCCC.
- Về tư vấn, thiết kế về an toàn PCCC
23
Chấn chỉnh và hoàn thiện hệ thống cung ứng tư vấn, thiết kế an toàn
PCCC theo quy định của cơ quan PCCC về các mặt quy hoạch, xây dựng
biện pháp, giải pháp và an toàn cho công trình.
Hỗ trợ trường Đại học PCCC thành lập các trung tâm tư vấn, thiết kế
về an toàn PCCC tại các tỉnh thành trong cả nước. Đẩy mạnh xã hội hóa
việc thành lập các trung tâm tư vấn, thiết kế về an toàn PCCC.
- Hỗ trợ thanh tra, kiểm tra phát hiện và khắc phục nguy cơ mất an
toàn PCCC
Cần thay đổi nhận thức coi hoạt động thanh tra, kiểm tra phát hiện và
khắc phục nguy cơ mất an toàn PCCC là hoạt động hỗ trợ để giúp các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát hiện ra điểm yếu của họ để
khắc phục chứ không phải thanh tra, kiểm tra để xử lý vi phạm.
Nghiên cứu hoàn thiện quy định về chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an
toàn PCCC.
Thực hiện nghiêm túc quy trình công tác của người cảnh sát bám sát
cơ sở, kiểm tra lập biên bản và xử lý các vi phạm về PCCC theo điều lệnh
công tác ban hành
Đảm bảo các phương tiện chữa cháy thiết yếu cho lực lượng PCCC
hoàn thành tốt nhiệm vụ, trên cơ sở đó từng bước hiện đại hoá các phương
tiện PCCC.
Phải thành lập thêm đội chữa cháy khu vực, đảm bảo 100% các đô thị
có tới 20.000 dân trở lên đều có đội chữa cháy; đảm bảo mỗi đội chữa
cháy ít nhất có 3 xe và máy bơm thường trực chiến đấu, đội trung tâm ít
nhất phải có một xe chữa cháy dự trữ; các cảng lớn trang bị một tàu hoặc
một xuồng chữa cháy.
3.3. Một số kiến nghị
- Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .
- Tăng cường hoạt động tuyên truyền giáo dục về PCCC.
- Trang bị đầy đủ, đồng bộ và sử dụng có hiệu quả phương tiện, dụng
cụ PCCC tại chỗ.
- Tăng cường hoạt động tự kiểm tra an toàn PCCC trong cơ sở có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tang_cuong_vai_tro_quan_ly_nahf_nuoc_doi_voi_dich_vu_phong_chay_chua__.pdf