PHẦN MỞ ĐẦU
1) Lí do chọn đề tài:
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học luôn là vấn đề được ngành giáo dục quan tâm bàn luận một cách sôi nổi. Với bộ môn Ngữ văn, việc đổi mới phương pháp dạy học, tạo hứng thú cho học sinh (HS) học tập bộ môn cũng là một vấn đề quan tâm nhiều nhất đối với tất cả các giáo viên (GV) dạy văn. Thế nhưng phần lớn HS chưa thực sự say mê, yêu thích học bộ môn này, chưa thực sự thấy hứng thú trong những tiết học văn. Từ sự trăn trở “làm thế nào để HS hứng thú học môn Ngữ văn ?”, tôi nghiệm ra rằng tổ chức cho HS thảo luận, cho HS tham gia những trò chơi phù hợp ngay trong những giờ học hoặc giờ ngoại khoá môn văn sẽ tạo hứng thú, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên của các em. Do đó tôi chọn đề tài Tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn bằng cách tổ chức thảo luận nhóm và trò chơi
13 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 26501 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạo hứng thú trong giờ dạy học ngữ văn bằng cách tổ chức thảo luận nhóm và trò chơi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GD-ĐT TUY ĐỨC
TRƯỜNG THCS NGÔ QUYỀN
- - - - -@&' - - - - -
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TẠO HỨNG THÚ
TRONG GIỜ DẠY HỌC NGỮ VĂN
BẰNG CÁCH
TỔ CHỨC THẢO LUẬN NHÓM
VÀ TRÒ CHƠI
Người thực hiện: Phạm Văn Hiếu
TUY ĐỨC THÁNG 9 - 2011
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1) Lí do chọn đề tài:
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học luôn là vấn đề được ngành giáo dục quan tâm bàn luận một cách sôi nổi. Với bộ môn Ngữ văn, việc đổi mới phương pháp dạy học, tạo hứng thú cho học sinh (HS) học tập bộ môn cũng là một vấn đề quan tâm nhiều nhất đối với tất cả các giáo viên (GV) dạy văn. Thế nhưng phần lớn HS chưa thực sự say mê, yêu thích học bộ môn này, chưa thực sự thấy hứng thú trong những tiết học văn. Từ sự trăn trở “làm thế nào để HS hứng thú học môn Ngữ văn ?”, tôi nghiệm ra rằng tổ chức cho HS thảo luận, cho HS tham gia những trò chơi phù hợp ngay trong những giờ học hoặc giờ ngoại khoá môn văn sẽ tạo hứng thú, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên của các em. Do đó tôi chọn đề tài Tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn bằng cách tổ chức thảo luận nhóm và trò chơi
2) Mục đích nghiên cứu:
Góp phần nâng cao chất lượng học tập, tạo hứng thú học tập các bộ môn cho HS trong nhà trường nói chung. Giúp HS nắm được những kiến thức chuẩn môn học một cách nhẹ nhàng thông qua những giờ thảo luận và những trò chơi phù hợp.
Góp phần giải quyết tình trạng lười học, chán học và không biết cách học môn Ngữ văn của HS trong nhà trường hiện nay. Từ đó tạo điều kiện cho GV hứng khởi hơn trong những giờ dạy văn.
3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Học sinh bậc THCS-khối lớp 9 trường THCS Ngô Quyền.
Chương trình Ngữ văn lớp 9.
4) Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu về phương pháp giảng dạy của các GV bộ môn khác và GV dạy Ngữ văn trong nhà trường.
- Nghiên cứu về tình hình học tập của HS đối với các môn học nói chung và môn Ngữ văn nói riêng về khả năng nắm bắt kiến thức, hứng thú trong học tập bộ môn.
- Nghiên cứu về tâm tư, nguyện vọng và thái độ, sự ham thích của HS trong việc học môn Ngữ văn.
- Nghiên cứu về chương trình nội dung kiến thức SGK môn Ngữ văn về các phương pháp giảng dạy HS phù hợp với lứa tuổi.
5) Phương pháp nghiên cứu:
- Tham khảo tài liệu tham khảo và SGK để tìm ra những kiến thức cơ bản phục vụ cho việc viết đề tài và áp dụng đề tài vào trong quá trình giảng dạy.
- Điều tra khả năng và hứng thú học tập của HS, tìm hiểu kỹ về đối tượng HS.
- Dùng phương pháp quan sát thực nghiệm và phân tích nội dung; phương pháp trắc nghiệm khách quan; phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động.
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1) Cơ sở lý luận:
Nghị quyết hội nghị lần II BCH TW Đảng khoá VIII nêu rõ: Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học; phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên. Do đó tạo hứng thú cho HS trong học tập là góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ trọng tâm này trong giáo dục.
- Sử dụng những phương pháp mới, phương pháp đặc trưng trong hoạt động tự chủ của HS, tạo cho các em sự tự chủ, tích cực, tự giác trong học tập.
- Dựa trên cơ sở các tài liệu, SGK, các văn bản của BGD về việc truyền thụ chuẩn kiến thức kĩ năng cho HS .
- Chúng ta đều biết, môn văn là môn cơ bản góp phần hình thành nhân cách HS, đặc biệt đối tượng của môn văn là những tác phẩm văn thơ,, là những kiến thức về ngôn ngữ. Chính vì vậy, để thực hiện một giờ học có hiệu quả, người GV cần phải sử dụng nhiều phương pháp như: phân tích, diễn giảng, vấn đáp, nêu vấn đề, gợi ý,… và đặc biệt, để tạo một giờ học phong phú, sinh động, thì việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm sẽ giúp HS trao đổi ý kiến với nhau, bổ sung cho nhau các kiến thức còn thiếu sót, HS sẽ sôi nổi hơn trong học tập. Việc lồng ghép một số trò chơi trong quá trình giảng dạy sẽ giúp HS cảm thấy hứng thú, tích cực, sôi nổi hơn, không gây sự nhàm chán trong một tiết học môn Ngữ văn.
- Trong nhiều năm làm công tác giảng dạy, tôi nghiệm thấy rằng cái ước muốn dạy văn sao cho hay, học văn sao cho giỏi, viết văn sao cho tốt là ước muốn của rất nhiều GV và HS. Muốn vậy, người GV chúng ta phải biết làm mới bài giảng của mình để kích thích sự hứng thú của HS trong học tập. Với cách tổ chức cho HS thảo luận nhóm và tham gia các trò chơi trong dạy học văn sẽ góp phần tạo hứng thú cho HS trong học tập, nâng cao chất lượng học tập bộ môn Ngữ văn trong trường THCS.
2) Cơ sở thực tiễn:
- Thực tế những năm gần đây cho thấy HS nói chung và HS ở trường Ngô Quyền nói riêng rất yếu môn Ngữ văn, ít ham thích học văn.
- Hiện nay, HS từ bậc Tiểu học lên bậc THCS còn có rất nhiều em chưa đọc thông viết thạo. Đây là một trở ngại quá lớn khi các em lại phải tiếp tục tìm hiểu, khám phá những kiến thức cao hơn, rộng lớn hơn, trừu tượng hơn. Từ đó dẫn đến việc mất dần kiến thức và kỹ năng cơ bản, dẫn đến chán học, không hứng thú học văn.
- Hiện nay chương trình vẫn còn những bài dạy dung lượng kiến thức lớn so với thời lượng từ 45 – 90 phút nghiên cứu trên lớp nên HS lại càng khó tiếp thu kiến thức. Chính điều này mà HS bị hạn chế rất nhiều trong việc tiếp thu và cảm thụ kiến thức Ngữ văn.
- HS lười học, không chịu đầu tư suy nghĩ, phát biểu xây dựng bài trong giờ học, khâu chuẩn bị bài còn hời hợt, tiếp thu bài chậm.
- Theo điều tra ban đầu số lượng HS ham thích học môn Ngữ văn còn rất ít, khoảng 300/0.
- Một số GV còn lúng túng trong phương pháp giảng dạy, không biết làm thế nào để tạo sự hứng thú cho HS trong học tập và nắm bắt được những kiến thức trọng tâm của bài học một cách nhẹ nhàng và sinh động nhất.
- Trên cơ sở đó, việc giúp HS ham thích học môn Ngữ văn, nắm bắt được những kiến thức cơ bản của bài học, là một yêu cầu cấp thiết mà mỗi GV trong tổ Ngữ văn chúng tôi cần phải nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo trong giảng dạy để đạt được hiệu quả cao. Một trong những đề xuất của bản thân tôi để thực hiện tốt yêu cầu đó là tổ chức cho HS thảo luận nhóm và tham gia các trò chơi trong quá trình học văn.
Chương III: MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP, TỎ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI .
1) Mục tiêu:
- Giảm tỉ lệ HS yếu kém bộ môn Ngữ văn trong nhà trường.
- Nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn nói riêng và chất lượng văn hoá của nhà trường nói chung, góp phần nâng cao ý thức học tập của HS trong nhà trường.
- Giúp HS có hứng thú, ham thích học môn Ngữ văn.
- Tạo cho HS tâm lí thoải mái khi học, mạnh dạn trao đổi ý kiến với bạn bè, thầy cô, hoà đồng với bạn bè, thầy cô; tạo môi trường thân thiện trong nhà trường.
- Giúp HS khắc phục được lối học thụ động, không hứng thú trong học tập môn văn, từ đó dần dần củng cố được những kiến thức cũ và tiếp thu kiến thức mới một cách tự giác.
2) Các giải pháp chủ yếu:
- Phân loại đối tượng HS, khả năng tiếp thu kiến thức cũng như trình độ kiến thức của HS.
- Gần gũi, quan tâm động viên, khích lệ HS trong học tập.
- Nghiên cứu kỹ nội dung bài học để đề ra những tình huống thảo luận, những trò chơi phù hợp với từng bài học.
- Dự giờ thăm lớp để nắm kỹ về đối tượng HS và học hỏi những kinh nghiệm về cách tạo hứng thú cho HS trong phương pháp giảng dạy.
- Có kế hoạch trao đổi với tổ, với đồng nghiệp để tổ chức những giờ dạy thực nghiệm áp dụng những hình thức thảo luận nhóm và trò chơi trong giờ học hoặc giờ ngoại khoá.
3) Tổ chức triển khai thực hiện:
3.1- Hình thức tổ chức thảo luận nhóm:
3.1.1 Cách thức tổ chức:
- Để thực hiện một tiết dạy học Ngữ văn có sử dụng hình thức hoạt độngnhóm, chúng ta hãy bắt đầu bằng cách chia lớp học thành các nhóm nhỏ ( 2,4,6em). Chúng ta cần phải biết cách chia nhóm, chọn kiểu nhóm nào để phù hợp với điều kiện lớp bạn. Nhóm: Gồm 2 đến 6 em, tuỳ mục đích và yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc lựa chọn chủ định, được duy trì ổn định hoặc thay đổi theo từng phần của tiết học, được giao nhiệm vụ cụ thể.Các nhóm lớn (6 em, tạo điều kiện cho các thành viên trong nhóm niềm tin lớn nhất về kết quả làm việc vì có nhiều khả năng tìm câu hỏi đúng). Vớí loại nhóm này, thu hút được nhiều ý kiến, nhiều kinh nghiệm và có khả năng hiểu đúng, hiểu nhanh chóng nhiệm vụ. Tuy nhiên nhóm lớn cũng có hạn chế là khó đi đến quyết định thống nhất và giáo viên khó quản lí.Các nhóm nhỏ (2-4 em) các em có nhiều cơ hội để thể hiện ý kiến của mình, thống nhất ý kiến nhanh hơn và dễ quản lí hơn.
*Cơ cấu nhóm:
Để nhóm hoạt động có hiệu quả, các thành viên phải biết rõ nhiệm vụ của mình, vì vậy phải phân công nhiệm vụ cho các em:
+ Trưởng nhóm: điều khiển hoạt động nhóm.
+ Thư kí: ghi chép kết quả hoạt động của nhóm sau khi đã thống nhất.
+ Báo cáo viên: Báo cáo kết quả làm việc của nhóm.
+ Thành viên khác: có nhiệm vụ tham gia tích cực vào các hoạt động của nhóm.
Trong nhóm có học sinh phải thay nhau đóng vai của các thành viên trên hoặc kiêm nhiệm. Khi hoạt động nhóm các thành viên trên cần:
+ Hướng vào nhau ( ngồi thành vòng tròn hoặc xung quanh bàn )
+ Chăm chú lắng nghe người khác phát biểu.
+ Từng thành viên sẵn sàng đưa ra ý kiến của mình.
+ Trao đổi, thảo luận để có ý kiến thống nhất.
+ Tuân theo sự điều khiển của từng nhóm trưởng.
+ Đảm bảo thời gian.
* Cách chia nhóm
Trong giờ lên lớp, tuỳ theo mục tiêu của từng hoạt động. GVcó thể chia nhóm nhỏ có từ hai HS trở lên. Việc chia nhóm nhiều hay ít HS là do GV yêu cầu và quyết định. Sau đây là một số cách chia nhóm đang được giáo viên áp dụng:
- Gọi ngẫu nhiên: tuỳ theo mục đích chia nhóm giáo viên có thể chia nhóm thích hợp( từ số 1 đến số 6…rồi quay trở lại).
- Chỉ định: Giáo viên lần lượt đọc tên học sinh vào từng nhóm.
- Chia nhóm biểu tượng: GV có thể dùng các biểu tượng: hình tam giác,hoa hồng, các loại qủa, tên các anh hùng …để chia nhóm. Các em có cùng biểu tượng vào một nhóm để tạo ra sự ngẫu nhiên và thoải mái cho học sinh.
- Chia từng cặp: Giáo viên chỉ định hai học sinh ngồi gần nhau làm việc.Cách này thường diễn ra ngay sau khi học sinh làm việc cá nhân.
- Với hình thức thảo luận nhóm thì chúng ta có thể sử dụng trong tất cảc các tiết dạy, trong tất cả các bài học. Còn hình thức tổ chức trò chơi thì chỉ có thể áp dụng ở một số bài cho phù hợp, tuy nhiên để sử dụng trò chơi trong một tiết dạy thì bắt buộc trong đó sẽ có hình thức thảo luận nhóm.
Khi cho HS thảo luận nhóm thì có rất nhiều cách để chúng ta thực hiện:
+ Viết sẵn câu hỏi ra giấy rồi phát cho mỗi nhóm một tờ.
+ Treo bảng phụ có ghi nội dung câu hỏi thảo luận.
+ Chỉ cho HS câu hỏi trong sách GK và HS nhìn vào đó để thảo luận.
+ Từ một ý kiến thắc mắc của HS về bài học, tổ chức cho các em thảo luận.
3.1.2 Chuẩn bị của giáo viên:
+ Phiếu học tập, bảng phụ,…chuẩn bị nội dung câu hỏi thảo luận.
+ Câu hỏi thảo luận nên chia nhỏ, câu hỏi khó phải có câu hỏi gợi mở.
+ Nội dung câu hỏi phải rõ ràng, phù hợp với đối tượng HS.
+ Câu hỏi phải phát huy khả năng tư duy, kích thích khả năng sáng tạo cho HS.
+ Các câu hỏi chỉ nên xoay quanh nội dung chính của bài học.
+ Thời gian thảo luận không quá ngắn HS không kịp định hình, cũng không quá dài ảnh hưởng tới thời gian tiết học.
+ Phân nhóm cho HS thảo luận không nên quá ít mà cũng không quá đông.
+ HS thảo luận xong, GV gọi ít nhất hai nhóm trả lời, còn lại thu bài về nhà chấm và sửa hôm sau phát lại (tránh mất nhiều thời gian của tiết học).
+ Phân công một HS nhanh nhẹn làm trưởng nhóm, một HS ghi nhanh làm thư ký.
+ Việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm thì có thể sắp xếp bất kì khoảng thời gian nào trong tiết dạy.
3.1.3 Chuẩn bị của học sinh:
+ Đọc kĩ các câu hỏi trong phần bài học.
+ Ghi ý kiến của bản thân về các câu hỏi cho là khó.
+ Mạnh dạn trình bày ý kiến trước lớp.
3.1.4 Một số ví dụ minh hoạ:
* Khi dạy văn bản Chuyện người con gái Nam Xương , có thể dùng một số câu hỏi thảo luận như sau:
- Lời trăn trối của bà mẹ chồng giúp ta hiểu thêm điều gì về nàng Vũ Nương ?
- Theo em, nguyên nhân dẫn đến nỗi oan của Vũ Nương là gì? Em hãy chỉ rõ và phân tích những nguyên nhân đó ?
- Theo em, có cách nào để kết cục cuộc đời của những con người như Vũ Nương, Thị Kính không rơi vào bi kịch mà không cần đênswcs mạnh thần bí ?
* Khi dạy văn bản Đồng chí của Chính Hữu, để thấy rõ nghệ thuật của bài thơ cũng như sự chuyển ý thơ, ta có thể đặt câu hỏi:
- Câu thơ thứ 7 trong bài thơ có gì đặc biệt ?
* Đối với bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, có thể đặt câu hỏi:
- Tại sao tác giả lại viết “Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” ? , sau đó dùng câu hỏi gợi mở: Từ “ấp iu” thể hiện hành động như thế nào ?Bếp lửa luôn gắn với hình ảnh nào trong bài thơ ? Bếp lửa có thể hiện được sự ấp iu không ?...
* Khi dạy bài Các phương châm hội thoại, sau khi HS đọc xong truyện cười “Quả bí khổng lồ”, GV đưa ra những câu hỏi sau đây cho HS thảo luận nhóm 4 em:
- Trả lời quả bí to bằng cái nhà có đúng không? Nếu nói cho đúng về quả bí to thì nên nói như thế nào?
- Trả lời cái nồi đồng to bằng cả cái đình có đúng không? Nếu nói cho đúng về cái nồi to thì nên nói như thế nào?
- Những câu trả lời trên đã có bằng chứng xác thực đưa ra chưa ?
- Như vậy, trong giao tiếp có điều gì cần tránh ?
* Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích :
- Tại sao tác giả để Thuý Kiều nhớ Kim Trọng trước rồi mới nhớ đến cha mẹ? Điều đó có hợp lí không? Vì sao ?
* Trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều :
- Nếu đặt tên cho văn bản này, em sẽ đặt như thế nào ?
* Trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga :
- Có ý kiến cho rằng “Lục Vân Tiên” gần như là tự truyện của Nguyễn Đình Chiểu. Qua so sánh cuộc đời nhân vật Lục Vân Tiên và cuộc đời tác giả, ý kiến của em như thế nào ?
* Trong bài Nghị luận trong văn bản tự sự , GV cho 2 nhóm tìm hiểu đoạn trích trong bài học theo những gợi ý dưới đây:
- Nội dung của mỗi đoạn trích là gì ?
- Yếu tố lập luận trong đoạn trích: Vấn đề cần lập luận, luận cứ, luận chứng,…
- Từ ngữ, kiểu câu dùng trong lập luận (đặc biệt ở đoạn trích 1).
* Văn bản Những ngôi sao xa xôi, thảo luận về ý nghĩa của tên truyện:
- “Những ngôi sao xa xôi” có ý nghĩa gì ?
Ø Trên đây chỉ là một vài ví dụ cụ thể về việc áp dụng hình thức thảo luận trong dạy học văn. Trong chương trình Ngữ văn THCS còn có rất nhiều bài học có thể áp dụng một cách linh hoạt hình thức này trong dạy học.
3.2- Hình thức sử dụng trò chơi trong dạy học văn:
3.2.1 Cách thức tổ chức:
Đối với việc sử dụng trò chơi thì cũng cần chú ý lựa chọn trò chơi phù hợp với từng nội dung bài dạy và thời gian của tiết học. Có thể trò chơi “Giải ô chữ”, “Rung chuông vàng”, “Tiếp sức”,…
Ví dụ: Để dạy các văn bản những tác phẩm truyện, chúng ta có thể tổ chức cho HS chơi trò chơi “giải ô chữ” bằng cách kẽ sẵn các ô chữ trên bảng phụ và đưa ra các câu hỏi gợi ý để tìm ra nội dung, nghệ thuật chính của truyện. GV cũng có thể tổ chức trò chơi “Rung chuông vàng” ở cuối tiết học bằng cách phân chia lớp thành nhiều nhóm và và đưa ra những câu hỏi trắc nghiệm để HS thảo luận, nhóm nào trả lời đúng sẽ được điểm tối đa. Hoặc khi dạy các bài Tiếng Việt, có thể tổ chức trò chơi “Tiếp sức”… Tuy nhiên, phải chú ý một điều là khi tổ chức các trò chơi, GV cần lưu ý nêu trước thể lệ trò chơi và qui định thời gian cho HS biết để thực hiện. Và đặc biệt phải chú ý kết hợp với các phương pháp khác để có hiệu quả cao trong tiết dạy. Khi đưa ra câu hỏi trong trò chơi “Giải ô chữ”, GV cần chuẩn bị sẵn những câu hỏi gợi mở để HS nhanh chóng tìm ra ô chữ, không để làm ảnh hưởng đến tiết học, và cuối cùng HS sẽ tìm ra được từ khoá chính là nội dung bài học hoặc một phần của bài học.
3.2.2 Chuẩn bị của giáo viên:
+ Đọc, tìm hiểu nội dung bài học.
+ Xác định nội dung quan trọng nhất cần sử dụng trò chơi.
+ Sắp xếp các ô chữ trong bảng phụ, nếu dạy ứng dụng công nghệ thông tin chỉ việc cài đặt chế độ trong máy, khi giảng dạy thực hiện từng bước với từng câu hỏi.
+ Hướng dẫn thể lệ, cách thức thực hiện trò chơi.
3.2.3 Một số ví dụ minh hoạ:
* Khi dạy bài Ôn tập truyện trung đại, để cho giờ học sôi nổi hơn, học sinh không cảm thấy nhàm chán, gò bó, thì chúng ta có thể sử dụng trò chơi “Rung chuông vàng”.
GV chia lớp thành 4 đội, sau đó nêu thể lệ cách thức, quy định của trò chơi. Lần lượt nêu các câu hỏi về các tác giả, năm sinh, quê quán, nội dung, nghệ thuật của các văn bản đã học. Các nhóm trả lời, giáo viên lần lượt loại những học sinh trả lời sai. Cuối cùng còn lại học sinh của nhóm nào trả lời đến câu hỏi cuối cùng thì nhóm đó được rung chuông vàng.
* Hoặc khi dạy bài Tổng kết về từ vựng chúng ta có thể sử dụng trò chơi tiếp sức.
Chia nhóm và công bố thể lệ, cách thức trò chơi. Mỗi nhóm chuẩn bị một nội dung của bài học. Lần lượt gọi học sinh trong nhóm trả lời. Nhóm nào trả lời tiếp sức đúng thì đạt điểm tối đa, nhóm nào không tiếp sức được đổi cho nhóm khác và bị điểm trừ.
* Khi dạy tiết Tập làm văn: Người kể chuyện trong văn bản tự sự, chúng ta có thể sử dụng trò chơi giải ô chữ để tìm ra ngôi kể thứ nhất và vai trò của ngôi kể thứ nhất.
* Khi dạy tiết trả bài Tập làm văn, phần HS tự chữa lỗi có thể chuyển thành trò chơi thi chữa lỗi “Tuyển biên tập viên”.
* Khi dạy phần luyện tập của bài Các phương châm hội thoại (tiếp theo), ở bài tập 3 trong SGK, tổ chức thi điền từ nhanh trên bảng lớp (nói mát, nói hớt, nói móc, nói ra đầu ra đũa).
* Bài Sự phát triển của từ vựng (tiếp theo), ở bài tập 1 trong SGK, chuyển thành trò chơi cho hai đội lần lượt thi tìm từ có cùng yếu tố gốc.
* Bài Thuật ngữ, bài tập 1 trong SGK ở phần luyện tập, tổ chức cho HS chơi trò “Điền thuật ngữ”: Cho 2 đội lên bảng thi điền từ, tính thời gian và tính số từ điền đúng để tính điểm và xác định đội thắng cuộc.
* Bài Trau dồi vốn từ, phần luyện tập ở bài tập 2 SGK chuyển thành trò chơi “Điền vào bảng trống”: GV chuẩn bị những băng giấy ghi nghĩa của các từ có yếu tố tuyệt chia cho HS để các em dán vào bảng trống trên bảng phụ.
* Bài tập 8 trong bài Trau dồi vốn từ, chuyển thành trò chơi “Tìm từ nhanh” (Tìm các danh từ, động từ, tính từ có đặc điểm là khi đảo trật tự các thành tố thì nghĩa của từ không thay đổi. Ví dụ như: quần áo – áo quần).
* Phần Ôn tập từ tượng thanh, tượng hình trong bài Tổng kết từ vựng, tổ chức thành trò chơi: Chia lớp thành hai đội, một đội nêu khái niệm, một đội nêu ví dụ tưng ứng, sau đó đảo ngược lại; đội nào nêu khái niệm không chính xác hoặc lấy ví dụ sai sẽ thua cuộc.
* Bài Tập làm thơ tám chữ, tổ chức thành trò chơi “Thả thơ”: điền từ thiếu trong mỗi đoạn thơ hoặc lần lượt sáng tác câu thơ tiếp nối.
* Bài Luyện tập phân tích và tổng hợp, phần Thực hành phân tích một vấn đề, GV có thể chuyển thành trò chơi “Thi hùng biện”.
* Bài Liên kết câu và liên kết đoạn văn (Luyện tập), ở bài tập 3 và 4 chuyển
thành trò chơi “Tuyển biên tập viên” : thi chỉ ra lỗi liên kết và chữa lỗi liên kết.
* Bài Ôn tập phần thơ, phần Thống kê phân loại các tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam đã học trong SGK Ngữ văn 9, trên cơ sở HS đã chuẩn bị bảng thống kê theo mẫu ở SGK Ngữ văn 9 tập 2 trang 89, GV cho HS chơi trò chơi “Chọn người uyên bác” :
- GV ghi ra 11 phiếu (tương ứng với 11 tác giả, tác phẩm học trong chương trình), mỗi phiếu hai dòng thơ của một tác phẩm thơ trữ tình. Photo mỗi phiếu đó tương ứng với số người tham gia chơi (4 – 5 em).
- Tiến hành: 5 người chơi ngồi trên ghế quay mặt xuống lớp. Trên bàn, trước mặt GV đặt 5 tờ phiếu (đã ghi cùng một câu thơ) gấp lại để giữ bí mật. Quản trò hô “bắt đầu”, 5 người chơi mở tờ phiếu, xác định câu hỏi và giơ tay xin trả lời. Ai nhanh nhất sẽ được trả lời. Trả lời đúng mỗi lượt sẽ được điểm tối đa, trả lời chưa đúng thì những người chơi còn lại sẽ giơ tay xin bổ sung. Sau 11 lượt chơi, cộng ai nhiều điểm nhất được chọn làm “Người uyên bác”.
* Bài Nghĩa tường minh và hàm ý, ở bài tập 3 chuyển thành trò chơi “Điền câu” : Hai đội chơi, mỗi đội 4 em. Mỗi đội đồng thời viết lên bảng những câu theo yêu cầu của bài tập. Cả lớp tính số câu đạt yêu cầu của từng đội để đánh giá kết quả.
* Một ví dụ cụ thể về trò chơi “Giải ô chữ” trong bài Người kể chuyện trong văn bản tự sự như sau:
- HS đọc đoạn trích trong SGK trang 193. GV chia lớp thành 4 nhóm và tổ chức trò chơi trong thời gian 5 phút.
- Trò chơi có các ô chữ gồm 8 hàng ngang, mỗi một hàng ngang có một gợi ý để trả lời. Lần lượt gọi các tổ lựa chọn hàng ngang trả lời để cuối cùng tìm ra từ chìa khoá có liên quan đến ngôi kể của đoạn trích.
+ Hàng ngang thứ 1 gồm 10 chữ cái : Bút danh của tác giả đoạn trích trên là gì ?
+ Hàng ngang thứ 2 gồm 11 chữ cái: Tên của đoạn trích trên ?
+ Hàng ngang thứ 3 gồm 6 chữ cái: Nhân vật chính trong đoạn trích trên là ai ?
+ Hàng ngang thứ 4 gồm 3 chữ cái: Câu nói đầu tiên khi mẹ chú bé gặp chú bé ?
+ Hàng ngang thứ 5 gồm 3 chữ cái: Người kể chuyện trong đoạn trích xưng hô như thế nào ?
+ Hàng ngang thứ 6 gồm 7 chữ cái: Khi đuổi theo mẹ, chú bé đã thở như thế nào?
+ Hàng ngang thứ 7 gồm 11 chữ cái: Mẹ chú bé đã lấy vạt áo làm gì ?
+ Hàng ngang thứ 8 gồm 1 chữ cái: Số đầu tiên trong dãy số tự nhiên ?
+ Từ chìa khoá: hàng dọc gồm 8 chữ cái, bắt đầu bằng chữ N, là ngôi kể của đoạn trích.
N
G
U
Y
Ê
N
H
Ô
N
G
T
R
O
N
G
L
O
N
G
M
E
B
E
H
Ô
N
G
C
O
N
N
I
N
Đ
I
T
Ô
I
H
Ô
N
G
H
Ô
C
T
H
Â
M
N
Ư
Ơ
C
M
Ă
T
1
* Hoặc tổ chức ngoại khoá trò chơi “Giải ô chữ” để ôn tập một số kiến thức về văn học trung đại mà HS đã học bằng một số câu hỏi gợi ý như sau:
+ Hàng 1 gồm 6 chữ cái: “Truyện Kiều” là loại truyện thơ viết bằng…(CHỮ NÔM)
+ Hàng 2 gồm 7 chữ cái: Nhân vật chính trong truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” (VŨ NƯƠNG).
+ Hàng 3 ồm 13 chữ cái: Tuỳ bút viết trong những ngày mưa (VŨ TRUNG TUỲ BÚT).
+ Hàng 4 gồm 6 chữ cái: Ngoài biện pháp ước lệ, đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” còn sử dụng biện pháp nghệ thuật nào để miêu tả chị em TK ?(ĐÒN BẨY)
+ Hàng 5 gồm 15 chữ cái: Một nhà thơ lớn của dân tộc sớm phải chịu cảnh mù loà ở tuổi 27 (NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU).
+ Hàng 6 gồm 6 chữ cái: Tác phâm “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô Gia văn phái viết bằng chữ gì ? (CHỮ HÁN).
+ Hàng 7 gồm 8 chữ cái: Tác giả truyện “Chuyện người con gái nam Xương” (NGUYỄN DỮ)
+ Hàng 8 gồm 14 chữ cái: Thể văn ghi chép những điều kì lạ vẫn được lưu truyền (TRUYỀN KÌ ).
C
H
Ữ
N
Ô
M
V
Ũ
N
Ư
Ơ
N
G
V
Ũ
T
R
U
N
G
T
Ù
Y
B
Ú
T
Đ
Ò
N
B
Ẩ
Y
N
G
U
Y
Ễ
N
Đ
Ì
N
H
C
H
I
Ể
U
C
H
Ữ
H
Á
N
N
G
U
Y
Ễ
N
D
Ữ
T
R
U
Y
Ề
N
K
Ì
- Từ chìa khoá là: Đây là một đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới
Ø Trên đây chỉ là một vài ví dụ cụ thể về việc áp dụng các hình thức sử dụng trò chơi trong dạy học văn. Trong chương trình ngữ văn THCS còn rất nhiều bài có thể áp dụng các hình thức trên.
Chương IV: KẾT QUẢ CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.
Trên đây là một vài nhận biết và việc làm cụ thể của bản thân tôi trong việc thực hiện theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy - học giúp học sinh hứng thú hơn trong giờ học môn Ngữ văn ở trường THCS. Qua tiết dạy có vận dụng hình thức thảo luận nhóm và sử dụng trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Ngô Quyền, tôi đã thu được một số kết quả sau:
- Tiết học tập làm văn trước đây trầm lắng, tẻ nhạt, chỉ có thầy hỏi trò trả lời thì bây giờ các em cảm thấy thoải mái hơn, sôi nổi thảo luận với nhau và đưa ra các ý kiến của bản thân.
- Giờ học không còn là thầy hỏi rồi tự trả lời mà đã có học trò tham gia đối thoại, tranh luận
- Các em cảm thấy hứng thú hơn, không uể oải trong giờ học .
- Các em rất thích thú với việc tổ chức trò chơi, hầu như tất cả học sinh đều muốn tham gia vào cuộc chơi đó.
- Và đặc biệt, có những em học yếu cũng tích cực tham gia trò chơi . Khi HS đã tích cực tham gia sôi nổi thì sẽ tránh được hiện tượng không chú ý khi thầy cô giảng bài.
- Tỉ lệ HS tích cực, hứng thú trong học văn so với điều tra, theo dõi ban đầu là vượt trên 600/0.
- Tỉ lệ HS khá giỏi về bộ môn tăng lên đáng kể
Có thể thấy qua bảng so sánh sau:
Khi chưa áp dụng(Năm học 2009-2010)
TIÊU CHÍ
TỈ LỆ (%)
Hs yêu thích môn Ngữ văn
31
Hs không yêu thích môn Ngữ văn
69
Điểm TBM loại Giỏi
0
Điểm TBM loại Khá
12
Sau khi áp dụng(Năm học 2010-2011)
TIÊU CHÍ
TỈ LỆ (%)
Hs yêu thích môn Ngữ văn
62
Hs không yêu thích môn Ngữ văn
38
Điểm TBM loại Giỏi
1.9
Điểm TBM loại Khá
26
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1) Kết luận:
Với hình thức thảo luận nhóm và sử dụng trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn ở trường trung học cơ sở đã một phần gây hứng thú hơn trong tiết học, HS đã có sự chuyển biến hơn, tích cực giao lưu với thầy cô giáo hơn, trong mỗi giờ học tất cả học sinh đều tham gia và muốn tham gia vào quy trình dạy –học. Các em không còn thụ động ngồi nghe giáo viên giảng bài mà cảm thấy hứng thú hơn; hăng say phát biểu, hiểu bài hơn.Tuy nhiên đây chưa phải là phương pháp tối ưu nhất bởi vì cũng không phải tiết dạy văn nào chúng ta cũng áp dụng được các trò chơi một cách hiệu quả Chính vì vậy khi dạy bất kì một tiết học nào chúng ta cũng cần kết hợp rất nhiều các phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy của mình.
2) Khuyến nghị:
Hình thức thảo luận nhóm thì chúng ta đã áp dụng từ rất lâu và ít nhiều đã đạt kết quả trong dạy học, còn hình thức sử dụng trò chơi khi giảng dạy môn Ngữ văn theo suy nghĩ của bản thân tôi, đây là hình thức đang còn khá mới mẻ đối với mỗi giáo viên văn. Hơn nữa đòi hỏi GV phải đầu tư nhiều thời gian, phương tiện nhất là về máy chiếu và máy tính xách tay mà ở vùng sâu vùng xa các trường học cũng không hoặc chưa thể đầu tư được. Cá nhân GV với đồng lương ít ỏi, giá cả leo thang càng khó khăn hơn. Bản thân tôi, trong quá trình giảng dạy cũng nhận thấy còn một số thiếu sót, hạn chế khi áp dụng các hình thức trên. Những đề xuất trên chỉ là kinh nghiệm chủ quan của cá nhân tôi và những kinh nghiệm đó bản thân tôi cũng chỉ mới áp dụng được ở một số tiết ở lớp 9 bởi trong mấy năm học gần đây tôi được phân công dạy khối lớp này. Tuy nhiên, tôi cũng xin được chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp mong góp một chút sức mình vào công tác đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường.
Để kinh nghiệm này có tính khả thi cao, ngoài việc mỗi GV phải không ngừng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, tâm huyết với nghề, bản thân tôi cũng như các GV khác rất mong được sự quan tâm, giúp đỡ của các cấp lãnh đạo nhà trường và ngành GD như đầu tư thêm tài liệu tham khảo về môn văn, sắp xếp để các em học sinh có điều kiện tham khảo, nghiên cứu. Có thể trang bị cho mỗi trường vùng sâu, vùng xa, miền núi… máy chiếu, máy tính xách tay để việc giảng dạy thuận lợi hơn, nên tăng cường mở các hội nghị, chuyên đề trao đổi về phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa…
Trên đây là một chút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của bản thân. Trong quá trình thể nghiệm và viết lý thuyết những kinh nghiệm này không tránh khỏi thiếu sót, rất mong được sự góp ý, chỉnh sửa của lãnh đạo nhà trường cũng như của các đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn.
Người thực hiện
Phạm Văn Hiếu
MỤC LỤC
Mục Trang
I. Phần mở đầu……………………………………………………………………….2
1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………….…………..2
2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………….…………...2
3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………………..2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………………….……..2
5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………….……….2
II. Nội dung đề tài………………………………………………………….………...3
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn……………………………………….……..…3
1. Cơ sở lí luận……………………………………………………………….……....3
2. Cơ sở thực tiễn………………………………………………………….……..…..3
Chương 2: Mục tiêu, giải pháp, tổ chức thực hiện đề tài………………….…….…...4
1. Mục tiêu………………………………………………………………….…….….4
2. Giải pháp……………………………………………………………….……..…...4
3. Tổ chức triển khai thực hiện…………………………………………….……..….4
3.1 Hình thức tổ chức thảo luận nhóm………………………………………...……..4
3.1.1 Cách thức tổ chức…………………………………………………….…..…….4
3.1.2 Chuẩn bị của giáo viên…………………………………………………...…….6
3.1.3 Chuẩn bị của học sinh…………………………………………………...……..6
3.1.4 Một số ví dụ minh họa……………………………………………….…..…….6
3.2 Hình thức tổ chức trò chơi…………………………………………..….………..6
3.2.1 Cách tổ chức………………………………………………………..…..………6
3.2.2 Chuẩn bị của giáo viên……………………………………………...………….7
3.2.3 Chuẩn bị của học sinh……………………………………………….…..……..7
3.2.4 Một số ví dụ minh họa………………………………………………...……….7
Chương 3: Kết quả đề tài nghiên cứu……………………………………..………..11
III. Kết luận và khuyến nghị…………………………………………….………….12
1. Kết luận……………………………………………………………….………….12
2. Khuyến nghị………………………………………………………….…………..12
IV. Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………….………..13
IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ văn lớp 9.
Sách Thiết kế bài giảng Ngữ văn lớp 9 (NXB Hà Nội).
Sách Dạy học Ngữ văn 9 theo hướng tích hợp (NXB Đại học sư phạm).
Sách Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm và bài tập tự luận Ngữ văn 9 (NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh).
Sách Ngữ văn 9 nâng cao (NXB Giáo dục).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tạo hứng thú trong giờ dạy học ngữ văn bằng cách tổ chức thảo luận nhóm và trò chơi.doc