Để đối phó với vấn đề ô nhiễm môi trư¬ờng và đáp ứng các yêu cầu khi gia nhập Tổ chức thương mại. Theo lộ trình, giai đoạn 2005-2008, nước ta sẽ xây dựng tiêu chuẩn chất lượng khí thải xe hơi phù hợp với Euro II trong hệ thống tiêu chuẩn châu Âu. Đây là một trong những hệ thống tiêu chuẩn tiên tiến nhất, được áp dụng rộng rãi trên thế giới, gồm cả Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.
Châu Âu là cái nôi của ngành công nghiệp ôtô thế giới bởi những phát minh sáng chế đầu tiên về động cơ đốt trong ra đời từ lục địa này. Sự phát triển vượt bậc của thị trường ôtô giai đoạn 1960-1970 và bài học về cái chết của 80 người dân New York trong 4 ngày thời tiết đảo lộn do ô nhiễm không khí, buộc chính phủ của các nước châu Âu xây dựng một chương trình cắt giảm khí thải xe hơi vào năm 1970. Tuy nhiên, phải đến năm 1987, dự luật hoàn chỉnh quy định giá trị nồng độ giới hạn của các loại khí thải mới được thông qua và người ta vẫn thường gọi đó là Euro 0. Trải qua 18 năm, thêm 4 tiêu chuẩn nữa được ban hành bao gồm: Euro I năm 1991, Euro II năm 1996, Euro III năm 2000 và Euro IV năm 2005. Với mỗi tiêu chuẩn mới ra đời, nồng độ giới hạn của khí thải lại thấp hơn tiêu chuẩn trước.
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2746 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tham luận về sử dụng xăng tiêu chuẩn mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hệ thống tiêu chuẩn khí thải
Để đối phó với vấn đề ô nhiễm môi trường và đáp ứng các yêu cầu khi gia nhập Tổ chức thương mại. Theo lộ trình, giai đoạn 2005-2008, nước ta sẽ xây dựng tiêu chuẩn chất lượng khí thải xe hơi phù hợp với Euro II trong hệ thống tiêu chuẩn châu Âu. Đây là một trong những hệ thống tiêu chuẩn tiên tiến nhất, được áp dụng rộng rãi trên thế giới, gồm cả Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.
Châu Âu là cái nôi của ngành công nghiệp ôtô thế giới bởi những phát minh sáng chế đầu tiên về động cơ đốt trong ra đời từ lục địa này. Sự phát triển vượt bậc của thị trường ôtô giai đoạn 1960-1970 và bài học về cái chết của 80 người dân New York trong 4 ngày thời tiết đảo lộn do ô nhiễm không khí, buộc chính phủ của các nước châu Âu xây dựng một chương trình cắt giảm khí thải xe hơi vào năm 1970. Tuy nhiên, phải đến năm 1987, dự luật hoàn chỉnh quy định giá trị nồng độ giới hạn của các loại khí thải mới được thông qua và người ta vẫn thường gọi đó là Euro 0. Trải qua 18 năm, thêm 4 tiêu chuẩn nữa được ban hành bao gồm: Euro I năm 1991, Euro II năm 1996, Euro III năm 2000 và Euro IV năm 2005. Với mỗi tiêu chuẩn mới ra đời, nồng độ giới hạn của khí thải lại thấp hơn tiêu chuẩn trước.
Tiêu chuẩn Euro đối với từng loại xe.
Hệ thống Euro áp dụng cho tất cả các loại xe trên 4 bánh lắp động cơ đốt trong chạy bằng nhiên liệu xăng, dầu, LPG (Liquefied Petroleum Gas) và chia theo tính năng như: xe du lịch, xe công suất nhỏ, xe công suất lớn và xe bus.
Khí thải gây ô nhiễm là những hợp chất độc hại có ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe con người và môi trường trong thời gian dài bao gồm: cacbon oxít (CO), nitơ oxít (NOx), hydrocacbon nói chung (HC) và thành phần bụi bay theo (Particulate Matter-PM). Điển hình nhất trong số các khí trên là cacbon oxít (CO), sinh ra do quá trình cháy không hoàn toàn các hợp chất chứa cacbon. Loại khí này có khả năng làm mất vai trò vận chuyển oxy của hemoglobin một cách nhanh chóng nhờ tạo liên kết bền với nguyên tố sắt (Fe) - thành phần quan trọng của hemoglobin- và là tác nhân chính gây ra hiện tượng ngất do hít phải quá nhiều khói lò gạch ở các vùng quê Việt Nam.
Phương pháp xác định
Trong các tài liệu về hệ thống tiêu chuẩn Euro, giá trị nồng độ khí có thể khác nhau tùy theo cách đánh giá. Cách thứ nhất xác định nồng độ khí thải theo hành trình của phương tiện bằng đơn vị “g/km”. Cách thứ hai đánh giá theo công do động cơ sinh ra, lúc đó giá trị nồng độ khí thải có thứ nguyên “g/kWh”.
Bên cạnh kết cấu động cơ, lượng khí thải phụ thuộc rất lớn vào những yếu tố như: thời gian khởi động, tải trọng, vận tốc, độ ổn định của vận tốc và loại đường vận hành. Nhằm đưa toàn bộ ảnh hưởng của những nhân tố trên vào mô hình hóa thực nghiệm, các nhà kiểm định đưa ra hai phương pháp: ESC (European Steady Cycle - Chu trình thực nghiệm ổn định) và ETC (European Transient Cycle - chu trình thực nghiệm tức thời).
Biểu đồ về mức độ khí thải cho phép của các tiêu chuẩn Euro.
ESC là phương pháp kiểm định tiến hành theo nhiều giai đoạn. Ở mỗi giai đoạn, vận tốc và tải trọng của xe không đổi. Nhưng khi chuyển sang giai đoạn khác người ta sẽ thay đổi hai thông số đó một cách ngẫu nhiên. Trong suốt quá trình thực hiện, khí thải liên tục đi qua thiết bị đo nồng độ và giá trị cuối cùng là trung bình cộng của toàn bộ các giai đoạn. ESC phù hợp với điều kiện vận hành trên đường trường, ít thay đổi vận tốc và tải trọng.
Không giống với ESC, phương pháp ETC dựa trên việc thay đổi vận tốc, tải trọng một cách tức thời. Người ta không cho khí thải qua thiết bị đo ngay mà gom vào một túi khí plastic và phân tích sau khi kết thúc thực nghiệm. ETC thích hợp cho điều kiện chạy trong thành phố, phải liên tục thay đổi vận tốc cũng như tải trọng.
Hệ thống tiêu chuẩn Euro thường xuyên được nghiên cứu, cập nhật theo tình hình sử dụng ôtô ở các nước thành viên liên minh châu Âu. Những báo cáo về lượng xe hơi và nồng độ khí thải trong không khí là cơ sở để các nhà chức trách đưa ra những quy định mới do khoảng thời gian áp dụng của Euro thường không ấn định trước. Ví như chỉ 3 năm sau khi có hiệu lực, Euro IV sẽ được thay thế bằng tiêu chuẩn mới, Euro V.
*Bộ trung hòa khí thải
Những quy định hết sức khắt khe của Euro V khiến các hãng sản xuất ôtô lại tiếp tục thay đổi kết cấu động cơ nhằm tăng hiệu suất cháy, lắp đặt bộ chuyển hóa xúc tác (catalytic converter), thay đổi nguồn nhiên liệu và nghiên cứu thiết kế quy trình sản xuất thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, Euro còn quy định các loại xe hoạt động tại châu Âu phải thỏa mãn tiêu chuẩn trong vòng 80.000 km. Nếu không đáp ứng được yêu cầu trên, nhà sản xuất sẽ phải thu hồi toàn bộ loại sản phẩm đó.
Việt Nam và Euro
Mặc dù mức độ ô nhiễm không khí tại các thành phố lớn là đáng báo động nhưng do khó khăn về kinh thế, kỹ thuật nên Việt Nam chưa thể áp dụng ngay hệ thống tiêu chuẩn Euro. Đến 2007, chúng ta mới có thể quy định Euro I cho xe hơi, tiếp đến là Euro II năm 2010. Trong khi đó, hầu hết các nước Đông Nam Á đã và đang chuẩ muộn, áp dụng tiêu chuẩn Euro để kiểm soát lượng khí thải là nhiệm vụ cần thiết bởi những ảnh hưởng về môi trường và sứ n bị chuyển sang Euro II, thậm chí là Euro III. Dù sớm hay c khỏe con người là hết sức to lớn.
Vào đầu thập kỷ 90, Châu Âu đã áp dụng các tiêu chuẩn bắt buộc sử dụng chất xúc tác trong xe chạy xăng mới (gọi là Tiêu chuẩn EURO 1) và dần thắt chặt qua nhiều giai đoạn: EURO 2 năm 1996, EURO 3 năm 2000 và EURO 4 vào đầu năm 2005. Yêu cầu tương tự cũng áp dụng cho xe chạy điêzen. Bên cạnh thắt chặt tiêu chuẩn phương tiện, thì tiêu chuẩn chất lượng nhiên liệu cũng được nâng cao. Ví dụ, áp dụng Tiêu chuẩn EURO 1 choxăng xe đòi hỏi phải sử dụng xăng không chì. áp dụng Tiêu chuẩn EURO 2 cho xe điêzen đòi hỏi sử dụng điêzen có hàm lượng lưu huỳnh nhỏ hơn 500 ppm. Mức lưu huỳnh trong xăng và điêzen phải tiếp tục giảm khi áp dụng Tiêu chuẩn EURO 3,4 và 5.
Theo kinh nghiệm của các nước, việc xây dựng tiêu chuẩn khí thải xe mới phải xuất phát từ:
- Nguồn nhiên liệu được cung cấp. Nếu nước nào có sẵn nguồn nhiên liệu thích hợp thì có thể áp dụng sớm tiêu chuẩn EURO 2,3 hoặc 4.
- Cân nhắc có một lộ trình thích hợp cho việc áp dụng Tiêu chuẩn EURO và nhất là công bố công khai lộ trình này. Phần lớn các nước Châu á đã áp dụng Tiêu chuẩn EURO 1 cho xe mới nhưng chỉ có ít nước công bố lộ trình áp dụng tiêu chuẩn EURO 2,3 và 4. Cần phải xây dựng kế hoạch ngắn hạn và dài hạn để ngành công nghiệp ô tô và nhiên liệu có đủ thời gian chuẩn bị.
- Nhiều nước trong khu vực trong đó có Việt Nam đang tụt hậu so với Châu Âu gần một thập kỷ. Các nước cần phải đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 đuổi kịp tiêu chuẩn Châu Âu, Mỹ hoặc Nhật Bản.
- Phải kết hợp tiêu chuẩn xe mới với tiêu chuẩn xe đang lưu hành. Phải có chương trình phối hợp giữa ngành công nghiệp ô tô, xe máy với ngành sản xuất nhiên liệu.
Năm 2000, Việt Nam đã thực hiện một bước chuyển nhanh chóng từ sử dụng xăng chì sang xăng không chì. TCVN 6776:2000 - Xăng không chì đã được áp dụng 4 năm, nhiều chỉ tiêu quy định trong tiêu chuẩn không còn phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế, xã hội, quy định về bảo vệ và kiểm soát môi trường, đặc biệt là khi lộ trình áp dụng các tiêu chuẩn Châu Âu về khí phát thải xe cơ giới đang được triển khai trong các khu vực Châu Âu, Châu á và trên thế giới.
Việc soát xét lại Tiêu chuẩn TCVN 6776:2000 phải xuất phát từ các quy trình sau:
- Lộ trình áp dụng tiêu chuẩn phát thải của Châu Âu đối với các phương tiện vận tải. Theo dự kiến thì từ 1/7/2007, nước ta sẽ áp dụng Tiêu chuẩn EURO 2 cho các loại xe mới.
- 90% xăng tiêu thụ hiện nay của Việt Nam là nhập khẩu từ Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, chưa phải là sản phẩm do các nhà máy lọc dầu của Việt Nam sản xuất, do vậy cần thắt chặt tiêu chuẩn về nhiên liệu để các nhà nhập khẩu Việt Nam nhập khẩu nhiên liệu sạch, không thể tự biến Việt Nam thành nơi tiêu thụ nguồn nhiên liệu bẩn.
- Các nước trong khu vực như: Trung Quốc, Malaixia, Singapore, Đài Loan... đã áp dụng EURO 2 từ năm 2000. Chúng ta không thể tụt hậu, cần hài hoà tiêu chuẩn nhiên liệu của Việt Nam và tiêu chuẩn của các nước trong khu vực.
- Cần có sự tham gia của các bên có liên quan: Cơ quan quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, các nhà nhập khẩu, kinh doanh nhiên liệu, các cơ sở sản xuất,... trong việc soát xét tiêu chuẩn.
- Cần thực hiện đồng bộ các biện pháp hỗ trợ cho việc xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn nhiên liệu sạch: Tuyên truyền, quảng bá rộng rãi để nâng cao hiểu biết của cộng đồng. Nên hạn chế hỗ trợ hoặc ưu đãi cho loại nhiên liệu gây ra nhiều khí độc hại, cần thông qua chính sách thuế khuyến khích sử dụng nhiên liệu sạch.
A. Xăng: (Dự thảo TCVN 6776:2005)
1. Trị số ốc tan: Dự kiến là RON 90/92/95 và MON 80/82/85 các chất ô nhiễm đáng lưu ý nhất của xe chạy xăng là oxit cácbon (CO), hydrocacbon (HC), oxitnito (NOx), chì và một số hydrocacbon độc khác, ví dụ benzen. Mỗi loại chất thải này đều có thể bị chi phối bởi thành phần của loại xăng mà xe đang sử dụng. Xét về ảnh hưởng đến khí thải thì đặc tính quan trọng nhất của xăng là thành phần chì, hàm lượng lưu huỳnh, tình trạng bay hơi và thành phần benzen.
2. Hàm lượng chì: Chì không tồn tại tự nhiên trong xăng, nó được pha thêm vào xăng. Tuy nhiên từ năm 1970 đã có xu hướng giảm dần chì trong xăng và tiến tới loại bỏ hoàn toàn chì. Hiện có 85% xăng bán trên thế giới là xăng không chì và hiện có khoảng 90% xe có lắp bộ chuyển đổi xúc tác để sử dụng riêng cho nhiên liệu không chì, vì vậy TCVN 6776:2005 quy định hàm lượng chì giống như cũ0,013.
3. Hàm lượng lưu huỳnh: Đây là chỉ tiêu quan trọng cần phải được thắt chặt khi xây dựng TCVN 6776:2005 và là tiêu chí cơ bản để đánh giá chất lượng nhiên liệu phù hợp với tiêu chuẩn EURO. Đối với xe không có bộ chuyển đổi xúc tác, ảnh hưởng của lưu huỳnh lên khí thải là rất nhỏ. Tuy nhiên, nếu xe có bộ chuyển đổi xúc tác, tác dụng của nó đối với chất thải CO, HC và NO là đáng kể. Hiện nay, Nhật Bản và Mỹ đang sử dụng xăng có mức lưu huỳnh là dưới 30ppm. Liên minh Châu Âu yêu cầu hàm lượng lưu huỳnh tối đa không quá 50ppm vào năm 2005 khi Tiêu chuẩn EURO 4 được áp dụng. Gần đây EU còn đề nghị hạ mức lưu huỳnh xuống còn tối đa 10ppm. Để phát huy hết công năng của công nghệ xúc tác hiện nay, lượng lưu huỳnh trong xăng phải giảm xuống mức tối đa là 500ppm ngay khi áp dụng tiêu chuẩn xe mới yêu cầu có bộ xúc tác.
4. áp suất hơi:
Một thông số quan trọng khác của nhiên liệu là áp suất hơi, áp suất hơi cho mỗi mùa phải thấp ở mức có thể giảm bốc hơi từ các kho chứa và xe. Nhưng áp suất hơi phải đủ lớn để có thể khởi động. Một điều thuận lợi để kiểm soát độ bay hơi của xăng là chúng có thể ảnh hưởng đến khí thải từ hệ thống phân phối xăng và các xe đang lưu hành. áp suất hơi của xăng cần phải giảm đến mức tối đa là 60 kilopascal khi nhiệt độ vượt quá 20oC. TCVN 6776-2005 quy định: áp suất hơi của xăng ở nhiệt độ 37,8oC là 43-80 kilopascal.
5. Benzen: Benzen là một loại hydrocacbon thơm tồn tại ở dạng khí trong khí xả và khí thải dễ bay hơi của phương tiện. Benzen trong khí xả biểu hiện bằng phần trăm của tổng các khí hữu cơ, rất khác nhau tuỳ thuộc vào công nghệ kiểm soát (ví dụ loại xúc tác). Benzen trong khí thải dễ bay hơi phụ thuộc công nghệ kiểm soát, thành phần và đặc tính của nhiên liệu. EU quy định hàm lượng benzen trong xăng tối đa là 1%. TCVN 6776:2005 quy định hàm lượng benzen2,5% thể tích (tiêu chuẩn cũ quy định 5%).
6. Olefin: là các hydrocacbon thơm không bão hoà, nó có ý nghĩa tốt đối với ốctan của xăng, nhưng lại là chất không bền nhiệt, tạo cặn và tăng chất phát thải của xe. Tiêu chuẩn các nước quy định: Olefin25% thể tích. Tiêu chuẩn cũ không quy định. TCVN 6776:2005 quy định: Olefin38% thể tích.
7. Màu của xăng: Để phục vụ yêu cầu quản lý, hướng dẫn người tiêu dùng lựa chọn loại xăng theo mục đích sử dụng và để kiểm soát gian lận thương mại, TCVN 6776:2005 dự kiến quy định màu của xăng phù hợp với quy định trong Quyết định 1273/2004 BTM của Bộ Thương mại như sau: RON 90: màu đỏ; RON 92: màu xanh và RON 95 không phamàu.
B. Diezel
Phương tiện giao thông chạy bằng điegen thải ra một lượng đáng kể lưu huỳnh và bụi hạt. Giảm khí thải, bụi hạt của phương tiện giao thông chạy bằng điegen trở thành ưu tiên hàng đầu vì chất thải hạt nói chung rất nguy hiểm có nguy cơ gây ung thư. ở Việt Nam, lượng tiêu thụ điegen gấp đôi so với xăng và vì vậy càng đòi hỏi nhiên liệu điegen cũng phải sạch hơn. Cũng tương tự như xăng không chì TCVN 5689:2002, nhiên liệu điegen - yêu cầu kỹ thuật đã lạc hậu. Để phục vụ cho lộ trình áp dụngTiêu chuẩn EURO 2, đảm bảo yêu cầu làm sạch nhiên liệu, TCVN 5689:2002 hiện đang được soát xét, đổi thành TCVN 5689:2005.
1. Chỉ số xetan: Chỉ số xetan là số đo về khả năng đánh lửa khí nén của nhiên liệu, ảnh hưởng đến khả năng khởi động, chất thải và tiếng ồn khi cháy. Chỉ số xetan là xetan tự nhiên của nhiên liệu được tính dựa trên các tính chất của nhiên liệu đã đo. Tương tự như xăng, yêu cầu của chỉ số xetan phụ thuộc vào thiết kế, kích thước, đặc điểm của động cơ. Sự gia tăng trị số xetan khi vượt qua giá trị thực tế yêu cầu sẽ không cải thiện tính năng của động cơ. Tiêu chuẩn TCVN 5689:2005 quy định chỉ số xetan thấp nhất là 47 tương đương với mức quy định của các nước trong khu vực.
2. Hàm lượng lưu huỳnh: Hạt lưu huỳnh và khí thải SOx đều là chất ô nhiễm có hại được phát thải hoàn toàn tương ứng với lượng lưu huỳnh có trong nhiên liệu điegen. ảnh hưởng đối với sức khoẻ và cộng đồng của khí thải SOx từ động cơ điegen có thể lớn hơn rất nhiều so với lượng khí thải từ ống khói nhà máy hoặc từ nồi hơi công nghiệp. Các đánh giá về điegen cho thấy nên giảm lượng lưu huỳnh trong điegen có thể giảm được bụi hạt và mối quan hệ này là tuyến tính nghĩa là cứ giảm 100PPm lưu huỳnh thì sẽ giảm 0,16% bụi của xe nhẹ và 0,87% của xe nặng. Ngoài ra, lượng lưu huỳnh thấp còn có ích trong việc làm giảm ăn mòn do lưu huỳnh và làm chậm quá trình axít hoá dầu bôi trơn động cơ. Điều đó sẽ kéo dài được thời gian bảo dưỡng định kỳ và giảm giá thành bảo dưỡng xe. Tiêu chuẩn TCVN 5689:2002 quy định 3 mức hàm lượng lưu huỳnh là 500/2500/5000 mg/kg TCVN 5689:2005 dự kiến quy định hai mức tối đa 500/2500 mg/kg.
Những đặc tính khác của điegen cũng có thể ảnh hưởng đến khí thải ví dụ độ đậm đặc của nhiên liệu, độ nhớt động học, tính ăn mòn, các đặc tính bôi trơn.
Việc nghiên cứu xây dựng TCVN 6776:2005 đối với xăng và TCVN 5689:2005 đối với điegen và tổ chức áp dụng các tiêu chuẩn này trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh là đòi hỏi của phát triển kinh tế xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế. Việc nâng cao chất lượng nhiên liệu quy định trong tiêu chuẩn làm cho nước ta không phải là nơi tiêu thụ nhiên liệu bẩn của thế giới và sẽ là định hướng quan trọng cho quy hoạch xây dựng các nhà máy lọc dầu ở nước ta và định hướng kinh doanh cho các nhà nhập khẩu nhiên liệu.
Bộ Khoa học công nghệ vừa ban hành tiêu chuẩn mới cho xăng không chì và dầu Diesel tại VN. Cơ sở áp dụng dựa trên hệ thống tiêu chuẩn Châu Âu Euro 2, nhằm giảm lượng khí thải đối với xe cơ giới đường bộ và chất lượng nhiên liệu.
Theo bà Hoàng Thị Tính, Trung tâm tiêu chuẩn đo lường chất lượng Việt Nam, tiêu chuẩn mới cũng nhằm cung cấp cho người tiêu dùng những loại xăng chất lượng sạch, góp phần hạn chế các nguy cơ ô nhiễm và bệnh tật từ những chất thải độc hại như CO2, SO2, bụi (PM)... Tiêu chuẩn TCVN 6776:2005 sẽ thay thế cho TCVN 6776:2000 áp dụng trong quản lý chất lượng xăng không chì; TCVN 5689:2005 thay cho TCVN 5689:2002 quy định chất lượng nhiên liệu Diesel.
\"Quy định mới xây dựng đồng bộ tiêu chuẩn chất lượng nhiên liệu theo tiêu chuẩn Euro2\", bà Tính cho biết. Euro2 quy định lượng lưu huỳnh (S) phát thải khi sử dụng nhiên liệu phải đạt tối đa 500ppm; theo tiêu chuẩn Euro1 thì S phát thải đạt tối đa 1.000ppm, tức độ ô nhiễm cao hơn. Bà Tính nói: \"Muốn đạt độ phát thải ô nhiễm theo tiêu chuẩn Euro2 thì đầu tiên phải xây dựng tiêu chuẩn mới cho nhiên liệu trước khi xây dựng tiêu chuẩn cho các loại xe cơ giới\".
Nếu theo TCVN 6776:2000, trị số ốc tan được tính theo phương pháp nghiên cứu (RON) bao gồm các loại xăng tiêu chuẩn 90, 92, 95; thì tiêu chuẩn mới quy định được phép áp dụng thêm phương pháp môtơ (MON) khi có yêu cầu. Theo đó nếu thị trường cần, sẽ có thêm các loại xăng tiêu chuẩn 79, 81, 84. Tuy nhiên, trên thực tế kiểm tra, bà Tính cho rằng không phải cây xăng nào cũng có bán đủ 3 loại xăng RON mà chỉ có 90, 92 hoặc 92, 95. Mặc khác, người tiêu dùng cũng khó phân biệt được từng chủng loại xăng nên dễ dàng bị người bán lừa. Do đó Bộ Thương mại vừa ra Thông tư liên bộ quy định về màu của xăng để tránh nhầm lẫn cho người tiêu dùng như xăng 90 có màu đỏ, màu xanh là xăng 92...
Ngoài ra, áp dụng tiêu chuẩn Euro2, TCVN 6776:2005 quy định các điểm mới khác cho xăng không chì như áp suất hơi (Reid) ở 37,8oC là 43-75kPa, không thay đổi nhiều so với quy định trước đây 43-80kPa; hàm lượng benzen giảm từ 5% thể tích xuống còn 2,5%. Bà Tính cho biết, hầu hết các loại xăng đang bán trên thị trường khi qua kiểm tra đều có hàm lượng benzen 1-1,5%, thấp hơn nhiều so với quy định mới, như vậy cũng khá đạt yêu cầu.
Qua kiểm tra, lượng kim loại như sắt (Fe), mangan (Mn) cũng hầu như không có trong thành phần xăng đang bán trên thị trường trong nước, nhưng một số tài liệu trên thế giới đã phát hiện có vết Fe, Mn trong xăng, đặc biệt nghiêm trọng khi Mn là một kim loại rất độc, dễ gây những di chứng về não cho người do ô nhiễm. Vì vậy TCVN 6776:2005 vẫn quy định hàm lượng Fe, Mn cho phép có trong thành phần xăng là 5mg/l.
Tương tự đối với TCVN 5689:2005 quy định tiêu chuẩn mới cho nhiên liệu Diesel, hàm lượng S giảm xuống còn 0,05-0,25% khối lượng so với tiêu chuẩn cũ là dầu DO 0,05%, DO 0,25%, DO 0,5%. Độ nhớt động học ở 40oC là 2÷4,5mm2/s so với trước đây 1,6÷5,5mm2/s. Tiêu chuẩn mới dành cho nhiên liệu Diesel cũng đưa ra một số yếu tố mà tiêu chuẩn cũ chưa quy định như độ bôi trơn, hàm lượng tạp chất dạng hạt..., giảm khối lượng nước từ 500 xuống còn 200 mg/kg.
Nhiều chuyên gia môi trường trên thế giới đều cho rằng những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong việc loại bỏ xăng pha chì và từng bước triển khai áp dụng tiêu chuẩn Euro1; tuy nhiên độ ô nhiễm môi trường do khí thải từ hoạt động giao thông cơ giới vẫn còn cao. \"Việt Nam hiện đứng gần cuối bảng trong danh sách các nước Châu Á có tiêu chuẩn không khí chưa đạt yêu cầu\", ông Nathan Sage, Giám đốc chương trình môi trường Mỹ - Á (USAEP) Việt Nam cho biết.
Cục trưởng Đăng kiểm Cao Xuân Vịnh nói: \"Mức tiêu thụ nhiên liệu tại các thành phố lớn ở Việt Nam hiện nay tăng trên 20% so với con số 1,5 triệu tấn xăng và dầu Diesel mà các phương tiện giao thông đã sử dụng năm 2002. Độ ô nhiễm từ đó cũng tăng gấp rưỡi\".
Theo kết quả nghiên cứu mới nhất về môi trường không khí đô thị và khu công nghiệp của các nhà khoa học mà Cục Đăng kiểm có được, hiện nay nguyên nhân gây ô nhiễm không khí do giao thông vận tải gây ra chiếm trên 90% về chì, 25% do khí NO2, 98% khí CO và khoảng 95% vì khí CmHn.
Cũng theo số liệu của Cục Đăng kiểm, cả nước hiện có 264.721 xe ô tô đang lưu hành và hơn 13 triệu xe gắn máy. Trong những năm gần đây, mức độ tăng trưởng trung bình đội xe cơ giới trong nước khoảng 15-17% so với năm trước, dẫn đến tổng lượng khí thải vào môi trường ngày càng cao, mức độ ô nhiễm không khí ngày càng nghiêm trọng. \"Điều này ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp, trước mắt và lâu dài tới sức khỏe con người, gây thiệt hại kinh tế\", ông Robert O\'Keefe, Phó chủ tịch Viện Nghiên cứu ảnh hưởng sức khỏe (Mỹ), nói.
Theo các chuyên gia môi trường, việc áp dụng tiêu chuẩn Euro2 là cần thiết, nhưng phải tiến hành từng bước và có lộ trình để tránh bị động cho nền kinh tế cũng như chuẩn bị cho thói quen tiêu dùng của người dân. Trước mắt, TCVN 6776:2005 và TCVN 5689:2005 đã được ban hành nhằm quy định chất lượng nhiên liệu xăng dầu theo tiêu chuẩn Euro2. Bước kế tiếp, theo ông Cao Xuân Vịnh, từ 1/1/2006 áp dụng TCVN 6438:2001 \"Phương tiện giao thông đường bộ - Giới hạn lớn nhất cho phép của khí thải\" đối với các xe cơ giới đã qua sử dụng nhập khẩu vào Việt Nam.
Từ 1/1/2007, cũng sẽ áp dụng TCVN 6438:2001 đối với xe cơ giới tham gia giao thông, đăng ký biển số tại các thành phố Hà Nội, TP HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Vào thời điểm này, sẽ áp dụng các tiêu chuẩn Việt Nam tương đương tiêu chuẩn Euro2 đối với xe cơ giới mới được sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu. Từ 1/1/2008 sẽ áp dụng TCVN 6438-2001 đối với xe cơ giới tham gia giao thông, đăng ký biển số tại các tỉnh thành còn lại.
Từ 1-7-2007, áp dụng tiêu chuẩn khí thải Euro 2 với các xe cơ giới:
Tiếp tục đi sau thế giới hít khí thải độc hại
(Tuổi trẻ, 13/11/2005)
* Xăng dầu tiêu thụ ở Việt Nam thuộc loại gây ô nhiễm môi trường nhất thế giới* Quyết định quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải
Từ 1-7-2007, tất cả các loại xe lắp ráp trong nước hay nhập khẩu đều phải đạt tiêu chuẩn Euro 2
Thủ tướng Chính phủ vừa có quyết định Quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Từ 1-7-2007 tất cả các loại xe cơ giới (ô tô, xe máy) phải áp dụng tiêu chuẩn khí thải tương đương mức Euro 2.
Trao đổi với PV , ông Cao Xuân Vịnh, Trưởng phòng Môi trường, Cục Đăng kiểm Việt Nam cho biết:
- Trước hết cần khẳng định rằng đây là nỗ lực của Việt Nam nhằm hạn chế vấn đề ô nhiễm không khí, nhất là khu vực đô thị trong khi số lượng người sử dụng ô tô, xe máy ngày càng tăng. Quy định mới được áp dụng tương đương với tiêu chuẩn Euro 2 của châu Âu, siết chặt giới hạn tối đa cho phép của khí thải độc hại, gây ô nhiễm môi trường như carbon monoxide, hydrocarbon, khói.
Theo số liệu mới nhất của Bộ Tài nguyên và Môi trường, năm 2002, phương tiện giao thông vận tải đã sử dụng khoảng 1,5 triệu tấn xăng và dầu diesel, tương ứng với lượng khí thải thoát ra là 6 triệu tấn CO2, 61.000 tấn CO, 35.000 tấn NO2, 12.000 tấn SO2 và trên 22.000 tấn CmHn; và tại các nút giao thông chính ở một số đô thị, nồng độ bụi vượt tiêu chuẩn 1,5 đến 3 lần, nồng độ SO2 gấp 2-3 lần.
Cách đây ba năm, Cục Đăng kiểm cũng đã xới vấn đề áp dụng tiêu chuẩn Euro 2 nhưng hoàn cảnh của ta chưa thể áp dụng được do nhiều lý do, trong đó có việc tiêu chuẩn xăng dầu của ta chưa phù hợp. Thứ hai là cần phải có một khoảng thời gian để loại thải những xe quá niên hạn. Việc nữa là phải chuẩn bị đầy đủ hệ thống tiêu chuẩn phát thải, rồi công nghệ lắp ráp xe của ta nữa.
* Vì sao chúng ta không áp dụng luôn tiêu chuẩn Euro 4 như các nước trong khu vực đang làm?
- Chuyển thẳng từ bây giờ thì không thể chuyển được. Lý do thứ nhất là từ trước đến nay có bao giờ mình thông báo là mình áp dụng Euro 1 đâu. Euro 1 là mình bỏ qua rồi. Từ tháng 7-2001, Việt Nam đã loại bỏ xăng pha chì theo chỉ thị 24 của Thủ tướng Chính phủ. Việc này cũng tương ứng với tiêu chuẩn Euro 1 nhưng chúng ta lại không công bố tiêu chuẩn cho xe cơ giới, đến bây giờ mới công bố Euro 2.
Thêm nữa là nhiên liệu mà chúng ta đang nhập khẩu là loại nhiên liệu giá rẻ, không tương ứng với tiêu chuẩn Euro 4. Xăng, dầu chúng ta đang sử dụng có hàm lượng lưu huỳnh quá lớn, gần như ở mức cao nhất thế giới. Hàm lượng lưu huỳnh có trong xăng theo tiêu chuẩn 6776 năm 2000 là 1.500 ppm, tương đương với 1.500 mlg/lít, còn diesel lên tới 5.000 ppm, tương đương với 5.000 mlg/lít.
Muốn áp dụng Euro 4 thì hàm lượng lưu huỳnh trong xăng tối đa là 30 ppm. Ngoài ra còn có vấn đề benzen (C6H6). Hiện tại hàm lượng benzen của ta là 5 mlg/lít, các nước khác chỉ có 1 mlg/lít. Hàm lượng chất thơm có trong xăng cũng rất cao, chỉ số octan lại thấp chỉ từ 90 - 92, trong khi để xe chạy hết công suất thì chỉ số octan phải là 98. Trong tiêu chuẩn mà dự án Dung Quất đưa ra là chế biến được xăng có hàm lượng lưu huỳnh 30 ppm nhưng theo tôi biết khoảng năm 2010 nhà máy này mới hoạt động được.
Sau này mình có thể bỏ qua việc áp dụng tiêu chuẩn Euro 3 mà tiến thẳng lên áp dụng Euro 4. Điều này là hoàn toàn có thể và tốt hơn nếu ta đi từ Euro 2 lên Euro 3 rồi mới lên Euro 4, nhưng theo tôi sớm nhất cũng phải đến năm 2010 thì các điều kiện mới đủ để cho phép áp dụng được tiêu chuẩn tương đương với Euro 4.
Ngoài ra quyết định này cũng có độ mở. Những địa phương nào muốn áp dụng tiêu chuẩn cao hơn hoặc là muốn áp dụng mức chặt chẽ hơn thì Chính phủ khuyến khích.
* Sự chậm trễ này có gây hậu quả gì, thưa ông?
- Đúng là nó có hậu quả nhất định. Chúng tôi đã điều tra, có nhiều xe sản xuất lắp ráp tại nước mình nhưng động cơ lại được nhập ngoại. Nước ta chưa yêu cầu nhà sản xuất phải áp dụng tiêu chuẩn cao, các nước bên cạnh thì đã làm rồi. Khi áp dụng tiêu chuẩn mới, các nhà sản xuất sẽ còn một lượng hàng tồn kho không được tiêu thụ vì không đáp ứng được yêu cầu. Do tiêu chuẩn của mình thấp nên nhà sản xuất đưa hàng tồn kho ở các nước khác về Việt Nam tiêu thụ. Những chiếc xe Toyota, Mercedes nhập khẩu đủ tiêu chuẩn Euro 2 nhưng mình không đòi hỏi nên họ cũng tháo ra.
* Áp dụng tiêu chuẩn mới này, các doanh nghiệp sản xuất có gặp khó khăn trong việc đầu tư dây chuyền mới?
- Tiêu chuẩn Euro 2 chỉ liên quan đến động cơ của xe, các doanh nghiệp thì chỉ lắp ráp, còn động cơ đều nhập từ nước ngoài. Vì thế, việc áp dụng tiêu chuẩn Euro 2 sẽ không có khó khăn gì đối với các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô. Thực tế, thời gian qua chúng tôi cũng đã khảo sát thăm dò ở nhiều doanh nghiệp, kết quả họ đều cho rằng không ảnh hưởng lớn đến việc sản xuất.
* Với những xe nhập khẩu mới thì sao?
- Tất cả đều phải kiểm tra, phải đáp ứng được Euro 2 mới cho nhập. Nếu nước xuất khẩu xe đang áp dụng tiêu chuẩn Euro 2 hoặc các tiêu chuẩn cao hơn thì khi nhập về sẽ không bị kiểm tra lại.
* Khi nào chúng ta mới áp dụng tiêu chuẩn Euro 2 cho tất cả các xe đang lưu hành?
- Euro là tiêu chuẩn chỉ áp dụng nơi đầu nguồn kiểm tra. Nghĩa là chỉ kiểm tra đối với những xe sản xuất mới hoặc nhập khẩu mới, tiêu chuẩn Euro không áp dụng cho các xe đang lưu hành. Khi nào tất cả những chiếc xe đang lưu hành hết niên hạn sử dụng thì lúc đó mới loại bỏ được tiêu chuẩn Euro 1.
Quyết định cũng đặt ra giới hạn tối đa cho phép của khí thải đối với các loại xe cơ giới đang lưu thông. Tiêu chuẩn này được áp dụng theo 2 lộ trình: từ ngày 1-7-2006 (các thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ); từ 1-7-2008 (các tỉnh, thành phố còn lại).
* Theo các doanh nghiệp, động cơ đáp ứng được tiêu chuẩn Euro 2 đắt hơn động cơ có tiêu chuẩn Euro 1. Có nghĩa là khi áp dụng tiêu chuẩn Euro 2 thì giá xe sẽ tăng?
- Theo tôi điều này sẽ khó xảy ra. Kinh nghiệm của các nước cho thấy xe càng sạch giá càng rẻ. Chính phủ sẽ khuyến khích người dân sử dụng những chiếc xe có tiêu chuẩn cao. Động cơ có tiêu chuẩn Euro 2 đắt hơn động cơ có tiêu chuẩn Euro 1, nhưng để khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn mới mà giá xe vẫn không đổi, Chính phủ có thể giảm thuế. Tôi cho rằng, tình hình sẽ phát triển theo hướng này.
Bộ Khoa học và Công nghệ: ban hành TCVN 6776:2005 và TCVN 5689:2005
Năm 2000, Việt Nam đã thực hiện một bước chuyển nhanh chóng từ sử dụng xăng chì sang xăng không chì. TCVN 6776:2000 - Xăng không chì đã được áp dụng 4 năm, nhiều chỉ tiêu quy định trong tiêu chuẩn không còn phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế, xã hội, quy định về bảo vệ và kiểm soát môi trường, đặc biệt là khi lộ trình áp dụng các tiêu chuẩn châu Âu về khí phát thải xe cơ giới đang được triển khai trong các khu vực châu Âu, châu Á và trên thế giới.
Việc nghiên cứu xây dựng TCVN 6776:2005 đối với xăng và TCVN 5689:2005 đối với điegen và tổ chức áp dụng các tiêu chuẩn này trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh là đòi hỏi của phát triển kinh tế xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế. Việc nâng cao chất lượng nhiên liệu quy định trong tiêu chuẩn làm cho nước ta không phải là nơi tiêu thụ nhiên liệu bẩn của thế giới và sẽ là định hướng quan trọng cho quy hoạch xây dựng các nhà máy lọc dầu ở nước ta và định hướng kinh doanh cho các nhà nhập khẩu nhiên liệu.
Bộ Khoa học và Công nghệ vừa có công văn gửi Tổng cục Hải quan về việc phối hợp kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu theo Quyết định 50/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, những hàng hoá thuộc Danh mục sản phẩm, hàng hoá phải kiểm tra về chất lượng thuộc lĩnh vực khoa học công nghệ theo Quyết định 50 khi nhập khẩu đều phải kiểm tra Nhà nước về chất lượng, do đó Bộ Khoa học và Công nghệ không phải công bố danh mục Danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu phải kiểm tra chất lượng. Bộ đề nghị Tổng cục Hải quan tiếp tục thực hiện theo Thông tư liên tịch số 37/2001/TTLT/BKHCNMT-TCHQ.
Riêng đối với 2 loại hàng hoá là xăng không chì và nhiên liệu diêden, Thủ tướng đã đồng ý cho phép áp dụng tiêu chuẩn mới về kiểm tra chất lượng nhập khẩu (TCVN 6776-2005 xăng không chì – yêu cầu kỹ thuật và TCVN 5689-2005 nhiên liệu diezel), bắt đầu từ ngày 1.1.2007.
1. Ô nhiễm không khí do phương tiện cơ giới và sự cần thiết phải áp dụng các mức phát thải nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn Quốc tế
Nhiều chuyên gia môi trường trên thế giới đều cho rằng những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong việc loại bỏ xăng pha chì và từng bước triển khai áp dụng tiêu chuẩn Euro1. Tuy nhiên độ ô nhiễm môi trường do khí thải từ hoạt động giao thông cơ giới vẫn còn cao. Việt Nam hiện đứng gần cuối bảng trong danh sách các nước Châu Á có tiêu chuẩn không khí chưa đạt yêu cầu.
Mức tiêu thụ nhiên liệu tại các thành phố lớn ở Việt Nam hiện nay tăng trên 20% so với con số 1,5 triệu tấn xăng và dầu điêzel mà các phương tiện giao thông đã sử dụng năm 2002. Độ ô nhiễm từ đó cũng tăng gấp rưỡi.
Theo kết quả nghiên cứu mới nhất về môi trường không khí đô thị và khu công nghiệp của các nhà khoa học, hiện nay nguyên nhân gây ô nhiễm không khí do giao thông vận tải gây ra chiếm trên 90% về chì, 25% do khí NO2, 98% khí CO và khoảng 95% về khí CmHn.
Theo số liệu của Cục Đăng kiểm, cả nước hiện có 264.721 xe ô tô đang lưu hành và hơn 13 triệu xe gắn máy. Trong những năm gần đây, mức độ tăng trưởng trung bình đội xe cơ giới trong nước khoảng 15-17% so với năm trước, dẫn đến tổng lượng khí thải vào môi trường ngày càng cao, mức độ ô nhiễm không khí ngày càng nghiêm trọng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp, trước mắt và lâu dài tới sức khỏe con người, gây thiệt hại cho nền kinh tế.
Có thể nói rằng từ sau "Sự kiện loại bỏ xăng pha chì 7/2001" Việt Nam đã triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp giảm thiểu mức phát thải từ xe cơ giới để hội nhập và hài hòa với tiêu chuẩn khu vực và Quốc tế trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm từ phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Việc triển khai áp dụng lộ trình khí thải theo tiêu chuẩn Châu Âu - Euro là một việc làm có ý nghĩa thực tiễn quan trọng và mang tính chất thời sự khi chúng ta vừa gia nhập WTO và triển khai thực hiện Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong Thương mại.
2. Áp dụng tiêu chuẩn Euro 2.
Để đối phó với vấn đề ô nhiễm môi trường và đáp ứng các yêu cầu khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giớ WTO, Giai đoạn 2005-2008, nước ta sẽ xây dựng tiêu chuẩn chất lượng khí thải xe hơi phù hợp với Euro II trong hệ thống tiêu chuẩn châu Âu. Đây là một trong những hệ thống tiêu chuẩn tiên tiến nhất, được áp dụng rộng rãi trên thế giới, gồm cả Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.
Châu Âu là cái nôi của ngành công nghiệp ôtô thế giới bởi những phát minh sáng chế đầu tiên về động cơ đốt trong ra đời từ lục địa này. Sự phát triển vượt bậc của thị trường ôtô giai đoạn 1960-1970 và bài học về cái chết của 80 người dân New York trong 4 ngày thời tiết đảo lộn do ô nhiễm không khí, buộc chính phủ của các nước châu Âu xây dựng một chương trình cắt giảm khí thải xe hơi vào năm 1970. Tuy nhiên, phải đến năm 1987, dự luật hoàn chỉnh quy định giá trị nồng độ giới hạn của các loại khí thải mới được thông qua và người ta vẫn thường gọi đó là Euro 0. Trải qua 18 năm, thêm 4 tiêu chuẩn nữa được ban hành bao gồm: Euro I năm 1991, Euro II năm 1996, Euro III năm 2000 và Euro IV năm 2005. Với mỗi tiêu chuẩn mới ra đời, nồng độ giới hạn của khí thải lại thấp hơn tiêu chuẩn trước.
3. Áp dụng TCVN 6776:2005 và TCVN 5689:2005
Ngày10/10/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ nhằm tổ chức quản lý, kiểm soát nguồn khí thải do hoạt động của phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gây ra; hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm không khí, từng bước cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường không khí nói chung, môi trường không khí các đô thị nói riêng.
Theo Quyết định trên, các loại xe cơ giới được sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới phải áp dụng các mức tiêu chuẩn khí thải theo các Tiêu chuẩn Việt Nam tương đương với mức Euro 2 đối với từng loại xe kể từ ngày 01/7/2007. Đối với xe cơ giới mà kiểu loại đă được chứng nhận chất lượng, an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường trước ngày 01/7/2007 nhưng chưa được sản xuất, lắp ráp thì áp dụng các mức tiêu chuẩn khí thải theo các Tiêu chuẩn Việt Nam tương đương mức Euro 2 đối với từng loại xe kể từ ngày 01/7/2008.
Một trong những yêu cầu cần có để đáp ứng tiêu chuẩn khí thải mới là phải sử dụng nhiên liệu có chất lượng phù hợp. Có nghĩa là để áp dụng tiêu chuẩn khí thải (Euro 2)đối với phương tiện giao thông cơ gới đường bộ thì bắt buộc phải sử dụng nhiên liệu có tiêu chuẩn kỹ thuật đáp ứng tiêu chuẩn Euro 2 về nhiên liệu. Chính vì vậy, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành hai tiêu chuẩn mới: TCVN 6776: 2005 - Xăng không chì - Yêu cầu kỹ thuật và TCVN 5689: 2005 - Nhiên liệu điêzen - Yêu cầu kỹ thuật để thay thế cho hai tiêu chuẩn cũ: TCVN 6776: 2000 - Xăng không chì - Yêu cầu kỹ thuật và TCVN 5689: 2002 - Nhiên liệu điêzen - Yêu cầu kỹ thuật.
So với TCVN 6776: 2000 và TCVN 5689: 2002 thì TCVN 6776: 2005 và TCVN 5689: 2005 có những đặc trưng sau :
Có các yêu cầu kỹ thuật tương đương yêu cầu kỹ thuật của Euro 2 về xăng và nhiên liệu điêzen.
A. XĂNG (TCVN 6776:2005).
1. Trị số ốc tan.
Dự kiến là RON 90/92/95 và MON 80/82/85 các chất ô nhiễm đáng lưu ý nhất của xe chạy xăng là oxit cácbon (CO), hydrocacbon (HC), oxitnito (NOx), chì và một số hydrocacbon độc khác, ví dụ benzen. Mỗi loại chất thải này đều có thể bị chi phối bởi thành phần của loại xăng mà xe đang sử dụng. Xét về ảnh hưởng đến khí thải thì đặc tính quan trọng nhất của xăng là thành phần chì, hàm lượng lưu huỳnh, tình trạng bay hơi và thành phần benzen.
2. Hàm lượng chì.
Chì không tồn tại tự nhiên trong xăng, nó được pha thêm vào xăng. Tuy nhiên từ năm 1970 đã có xu hướng giảm dần chì trong xăng và tiến tới loại bỏ hoàn toàn chì. Hiện có 85% xăng bán trên thế giới là xăng không chì và hiện có khoảng 90% xe có lắp bộ chuyển đổi xúc tác để sử dụng riêng cho nhiên liệu không chì, vì vậy TCVN 6776:2005 quy định hàm lượng chì giống như cũ0,013.
3. Hàm lượng lưu huỳnh: Đây là chỉ tiêu quan trọng cần phải được thắt chặt khi xây dựng TCVN 6776:2005 và là tiêu chí cơ bản để đánh giá chất lượng nhiên liệu phù hợp với tiêu chuẩn EURO. Đối với xe không có bộ chuyển đổi xúc tác, ảnh hưởng của lưu huỳnh lên khí thải là rất nhỏ. Tuy nhiên, nếu xe có bộ chuyển đổi xúc tác, tác dụng của nó đối với chất thải CO, HC và NO là đáng kể. Hiện nay, Nhật Bản và Mỹ đang sử dụng xăng có mức lưu huỳnh là dưới 30ppm. Liên minh Châu Âu yêu cầu hàm lượng lưu huỳnh tối đa không quá 50ppm vào năm 2005 khi Tiêu chuẩn EURO 4 được áp dụng. Gần đây EU còn đề nghị hạ mức lưu huỳnh xuống còn tối đa 10ppm. Để phát huy hết công năng của công nghệ xúc tác hiện nay, lượng lưu huỳnh trong xăng phải giảm xuống mức tối đa là 500ppm ngay khi áp dụng tiêu chuẩn xe mới yêu cầu có bộ xúc tác.
4. Áp suất hơi.
Một thông số quan trọng khác của nhiên liệu là áp suất hơi, áp suất hơi cho mỗi mùa phải thấp ở mức có thể giảm bốc hơi từ các kho chứa và xe. Nhưng áp suất hơi phải đủ lớn để có thể khởi động. Một điều thuận lợi để kiểm soát độ bay hơi của xăng là chúng có thể ảnh hưởng đến khí thải từ hệ thống phân phối xăng và các xe đang lưu hành. áp suất hơi của xăng cần phải giảm đến mức tối đa là 60 kilopascal khi nhiệt độ vượt quá 20oC. TCVN 6776-2005 quy định: áp suất hơi của xăng ở nhiệt độ 37,8oC là 43-80 kilopascal.
5. Benzen.
Benzen là một loại hydrocacbon thơm tồn tại ở dạng khí trong khí xả và khí thải dễ bay hơi của phương tiện. Benzen trong khí xả biểu hiện bằng phần trăm của tổng các khí hữu cơ, rất khác nhau tuỳ thuộc vào công nghệ kiểm soát (ví dụ loại xúc tác). Benzen trong khí thải dễ bay hơi phụ thuộc công nghệ kiểm soát, thành phần và đặc tính của nhiên liệu. EU quy định hàm lượng benzen trong xăng tối đa là 1%. TCVN 6776:2005 quy định hàm lượng benzen2,5% thể tích (tiêu chuẩn cũ quy định 5%).
6. Olefin.
Là các hydrocacbon thơm không bão hoà, nó có ý nghĩa tốt đối với ốctan của xăng, nhưng lại là chất không bền nhiệt, tạo cặn và tăng chất phát thải của xe. Tiêu chuẩn các nước quy định: Olefin25% thể tích. Tiêu chuẩn cũ không quy định. TCVN 6776:2005 quy định: Olefin38% thể tích.
7. Màu của xăng.
Để phục vụ yêu cầu quản lý, hướng dẫn người tiêu dùng lựa chọn loại xăng theo mục đích sử dụng và để kiểm soát gian lận thương mại, TCVN 6776:2005 dự kiến quy định màu của xăng phù hợp với quy định trong Quyết định 1273/2004 BTM của Bộ Thương mại như sau: RON 90: màu đỏ; RON 92: màu xanh và RON 95 không phamàu.
B. DIEZEL (5689 : 2005).
Phương tiện giao thông chạy bằng điegen thải ra một lượng đáng kể lưu huỳnh và bụi hạt. Giảm khí thải, bụi hạt của phương tiện giao thông chạy bằng Diezen trở thành ưu tiên hàng đầu vì chất thải hạt nói chung rất nguy hiểm có nguy cơ gây ung thư. ở Việt Nam, lượng tiêu thụ điegen gấp đôi so với xăng và vì vậy càng đòi hỏi nhiên liệu điegen cũng phải sạch hơn. Cũng tương tự như xăng không chì TCVN 5689:2002, nhiên liệu Diezen - yêu cầu kỹ thuật đã lạc hậu. Để phục vụ cho lộ trình áp dụngTiêu chuẩn EURO 2, đảm bảo yêu cầu làm sạch nhiên liệu, TCVN 5689:2002 hiện đang được soát xét, đổi thành TCVN 5689:2005.
1. Chỉ số xetan.
Chỉ số xetan là số đo về khả năng đánh lửa khí nén của nhiên liệu, ảnh hưởng đến khả năng khởi động, chất thải và tiếng ồn khi cháy. Chỉ số xetan là xetan tự nhiên của nhiên liệu được tính dựa trên các tính chất của nhiên liệu đã đo. Tương tự như xăng, yêu cầu của chỉ số xetan phụ thuộc vào thiết kế, kích thước, đặc điểm của động cơ. Sự gia tăng trị số xetan khi vượt qua giá trị thực tế yêu cầu sẽ không cải thiện tính năng của động cơ. Tiêu chuẩn TCVN 5689:2005 quy định chỉ số xetan thấp nhất là 46 tương đương với mức quy định của các nước trong khu vực.
2. Hàm lượng lưu huỳnh.
Hạt lưu huỳnh và khí thải SOx đều là chất ô nhiễm có hại được phát thải hoàn toàn tương ứng với lượng lưu huỳnh có trong nhiên liệu Diezel. ảnh hưởng đối với sức khoẻ và cộng đồng của khí thải SOx từ động cơ Diezel có thể lớn hơn rất nhiều so với lượng khí thải từ ống khói nhà máy hoặc từ nồi hơi công nghiệp. Các đánh giá về Diezel cho thấy nên giảm lượng lưu huỳnh trong Diezel có thể giảm được bụi hạt và mối quan hệ này là tuyến tính nghĩa là cứ giảm 100PPm lưu huỳnh thì sẽ giảm 0,16% bụi của xe nhẹ và 0,87% của xe nặng. Ngoài ra, lượng lưu huỳnh thấp còn có ích trong việc làm giảm ăn mòn do lưu huỳnh và làm chậm quá trình axít hoá dầu bôi trơn động cơ. Điều đó sẽ kéo dài được thời gian bảo dưỡng định kỳ và giảm giá thành bảo dưỡng xe. Tiêu chuẩn TCVN 5689:2002 quy định 3 mức hàm lượng lưu huỳnh là 500/2500/5000 mg/kg TCVN 5689:2005 quy định hai mức tối đa 500/2500 mg/kg.
3. Độ bôi trơn.
Tiêu chuẩn mới TCVN 5689:2005 về Diezel còn bổ sung tiêu chuẩn mới (tiêu chuẩn cũ không áp dụng) đó là độ bôi trơn của nhiên liệu Diezel. Chỉ tiêu này đặc trưng cho khả năng bôi trơn, chống mài mòn hệ thống bơm cao áp và kim phun nhiên liệu, tăng khả năng làm kín hệ thống bơm cao áp.
Những đặc tính khác của Diezen cũng có thể ảnh hưởng đến khí thải ví dụ độ đậm đặc của nhiên liệu, độ nhớt động học, tính ăn mòn.
Việc nghiên cứu xây dựng TCVN 6776:2005 đối với xăng và TCVN 5689:2005 đối với Diezen và tổ chức áp dụng các tiêu chuẩn này trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh là đòi hỏi của phát triển kinh tế xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế. Việc nâng cao chất lượng nhiên liệu quy định trong tiêu chuẩn làm cho nước ta không phải là nơi tiêu thụ nhiên liệu bẩn của thế giới và sẽ là định hướng quan trọng cho quy hoạch xây dựng các nhà máy lọc dầu ở nước ta và định hướng kinh doanh cho các nhà nhập khẩu nhiên liệu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tham luận về sử dụng xăng tiêu chuẩn mới.doc