Công ty quản lý tài sản (AMC): Được thành lập với mục đích chính là xử lý tài sản thế chấp liên quan đến các khoản nợ xấu nhằm tận thu cho ngân hàng. Công ty AMC đã đóng góp lích cực vào quá trình lành mạnh hoá tình hình tài chính và xử lý nợ xấu của VCB. Hoàn thành sứ mạng của mình, Công ty sẽ được chuyển đổi chức năng để phù hợp với định hướng mang tính kinh doanh trong thị trường
3.2. Đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, đây là ngân hàng thương mại có các khoản nợ xấu và nợ đọng liên quan đến các vụ án kinh tế lớn đứng hàng thứ hai sau Ngân hàng Công thương. Trong những năm qua, Ngân hàng Ngoại thương triển khai các giải pháp: phát mại tài sản, khai thác tài sản, cho thuê tài sản, trích lập dự phòng rủi ro, đề nghị Chính phủ xử lý các khoản nợ đọng theo chính sách từ thời bao cấp, nên đến nay ngân hàng này cũng đã cơ bản xử lý xong nợ xấu, đang khẩn trưởng triển khai kế hoặch cổ phần hoá.
3.3. Nhà nước nên cho các tổ chức tín dụng tự tổ chức đấu giá tài sản thế chấp thu hồi nợ vay, với sự giám sát của một tổ chức có thẩm quyền cho khách quan và được nhận gán nợ khi cần thiết, giúp cho tổ chức tín dụng được chủ động và thu hồi nợ vay nhanh hơn.
3.4. Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm cần tập trung về một cơ quan để việc thực hiện đăng ký được thống nhất. Mở kênh riêng hoặc lập trang web thông tin pháp lý về tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở để các tổ chức tín dụng được quyền truy vấn các thông tin này nhằm tiết kiệm thời gian.
3.5. Để tránh rủi ro tín dụng do nguyên nhân biến động giá trên thị trường bất động sản cũng như việc xử lý tài sản thế chấp, bảo lãnh, SBV khuyến cáo các ngân hàng thương mại ''đây không phải là biện pháp duy nhất để bảo đảm tiền vay do đó cần theo dõi, đánh giá, điều hành hạn mức tín dụng một cách kịp thời''.
3.6. Nhà nước phải tích cực hơn nữa trong việc rà soát lại các văn bản pháp quy đã ban hành, bãi bỏ, sửa đổi những văn bản bất hợp lý, bổ sung các quy định để từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ, xử lý tài sản bảo đảm và các vấn đề có liên quan đến công tác xử lý nợ:
22 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3183 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thanh lý tài sản thế chấp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên B.
2. Nghĩa vụ được bảo đảm là (8): .....................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
ĐIỀU 2
TÀI SẢN THẾ CHẤP
Tài sản thuộc quyền sở hữu của bên A theo ........................................................
............................................................................................................................... (4), cụ thể như sau (3): ......................................
.................................
.................................
.................................
.................................
.................................
............................... nêu trên là tài sản gắn liền với thửa đất sau:
- Tên người sử dụng đất: .....................................................
- Thửa đất số: ...................................................
- Tờ bản đồ số:..................................................
- Địa chỉ thửa đất: ...........................................................................................
- Diện tích: ............................... m2 (bằng chữ: ..............................................)
- Hình thức sử dụng:
+ Sử dụng riêng: ...................................... m2
+ Sử dụng chung: .................................... m2
- Mục đích sử dụng:..........................................
- Thời hạn sử dụng:...........................................
- Nguồn gốc sử dụng:.......................................
Những hạn chế về quyền sử dụng đất (nếu có): ..................................................
......................................................................................................................................
Giấy tờ về quyền sử dụng đất có: ........................................................................
................................................................................................................................ (2)
ĐIỀU 3
GIÁ TRỊ TÀI SẢN THẾ CHẤP
Giá trị tài sản thế chấp nêu tại Điều 2 của Hợp đồng này là: ......................đồng
(bằng chữ: ............................................................... đồng) theo văn bản xác định giá trị tài sản thế chấp ngày ...../......../........
ĐIỀU 4
NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CỦA BÊN A
1. Nghĩa vụ của bên A:
- Giao các giấy tờ về tài sản thế chấp cho bên B;
- Không được chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho, cho thuê, góp vốn hoặc dùng tài sản thế chấp để bảo đảm cho nghĩa vụ khác nếu không được bên B đồng ý bằng văn bản;
- Bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp; áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn giá trị tài sản thế chấp trong trường hợp tài sản thế chấp có nguy cơ bị hư hỏng do khai thác, sử dụng;
- Tạo điều kiện thuận lợi cho bên B kiểm tra tài sản thế chấp.
2. Quyền của bên A:
- Được sử dụng, khai thác, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp;
- Nhận lại các giấy tờ về tài sản thế chấp sau khi hoàn thành nghĩa vụ.
- Yêu cầu bên B bồi thường thiệt hại nếu làm mất, hư hỏng các giấy tờ về tài sản thế chấp.
ĐIỀU 5
NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CỦA BÊN B
1. Nghĩa vụ của bên B:
- Giữ và bảo quản các giấy tờ về tài sản thế chấp, trong trường hợp làm mất, hư hỏng, thì phải bồi thường thiệt hại cho bên A;
- Giao lại các giấy tờ về tài sản thế chấp cho bên A khi bên A hoàn thành nghĩa vụ.
2. Quyền của bên B
- Kiểm tra hoặc yêu cầu bên A cung cấp thông tin về thực trạng tài sản thế chấp;
- Yêu cầu bên A áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn giá trị tài sản thế chấp trong trường hợp tài sản thế chấp có nguy cơ bị hư hỏng do khai thác, sử dụng;
- Yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo phương thức đã thoả thuận.
ĐIỀU 6
VIỆC ĐĂNG KÝ THẾ CHẤP VÀ NỘP LỆ PHÍ
1. Việc đăng ký thế chấp tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật do bên .................. chịu trách nhiệm thực hiện.
2. Lệ phí liên quan đến việc thế chấp quyền sử dụng đất theo Hợp đồng này do bên ................... chịu trách nhiệm nộp.
ĐIỀU 7
XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP
1. Trong trường hợp hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên A không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên B có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo phương thức (9):
............................................................................................................................................................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
2. Việc xử lý tài sản thế chấp được thực hiện để thanh toán nghĩa vụ cho bên B sau khi đã trừ chi phí bảo quản, bán tài sản và các chi phí khác có liên quan đến việc xử lý tài sản thế chấp.
ĐIỀU 8
PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
Trong quá trình thực hiện Hợp đồng này, nếu phát sinh tranh chấp, các bên cùng nhau thương lượng giải quyết trên nguyên tắc tôn trọng quyền lợi của nhau; trong trường hợp không giải quyết được, thì một trong hai bên có quyền khởi kiện để yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
ĐIỀU 9
CAM ĐOAN CỦA CÁC BÊN
Bên A và bên B chịu trách nhiệm trước pháp luật về những lời cam đoan sau đây:
1. Bên A cam đoan:
1.1. Những thông tin về nhân thân, về tài sản và thửa đất có tài sản đã ghi trong Hợp đồng này là đúng sự thật;
1.2. Tài sản thuộc trường hợp được thế chấp tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật;
1.3. Tại thời điểm giao kết Hợp đồng này:
a) Tài sản và thửa đất có tài sản không có tranh chấp;
b) Tài sản và quyền sử dụng đất có tài sản không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
1.4. Việc giao kết Hợp đồng này hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, không bị ép buộc;
1.5. Thực hiện đúng và đầy đủ các thoả thuận đã ghi trong Hợp đồng này.
2. Bên B cam đoan:
2.1. Những thông tin về nhân thân đã ghi trong Hợp đồng này là đúng sự thật;
2.2. Đã xem xét kỹ, biết rõ về tài sản gắn liền với đất, thửa đất có tài sản nêu tại Điều 2 của Hợp đồng này và các giấy tờ về quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, quyền sử dụng đất;
2.3. Việc giao kết Hợp đồng này hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, không bị ép buộc;
2.4. Thực hiện đúng và đầy đủ các thoả thuận đã ghi trong Hợp đồng này.
ĐIỀU ....... (10)
.............................................................................................
..............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
ĐIỀU .......
ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG
Hai bên đã hiểu rõ quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của mình và hậu quả pháp lý của việc giao kết Hợp đồng này.
Bên A
(Ký và ghi rõ họ tên)(11)
Bên B
(Ký và ghi rõ họ tên)(11)
LỜI CHỨNG CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN
Ngày.........tháng...........năm......... (bằng chữ ....................................................)
tại .........................................................................................................................(12), tôi ............................................., Công chứng viên, Phòng Công chứng số ...............,
tỉnh/thành phố ..............................................
CÔNG CHỨNG:
- Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất được giao kết giữa bên A là ...................................................................................................................................... và bên B là …….................................................................……..............................; các bên đã tự nguyện thoả thuận giao kết hợp đồng;
- Tại thời điểm công chứng, các bên đã giao kết hợp đồng có năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy định của pháp luật;
- Nội dung thoả thuận của các bên trong hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
- .........................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................................................................................................(13)
- Hợp đồng này được làm thành .......... bản chính (mỗi bản chính gồm ....... tờ, ........trang), giao cho:
+ Bên A ....... bản chính;
+ Bên B ....... bản chính;
Lưu tại Phòng Công chứng một bản chính.
Số................................, quyển số ................TP/CC-SCC/HĐGD.
CÔNG CHỨNG VIÊN
(Ký, đóng dấu và ghi rõ họ tên)
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN:
4.1. Các quy định của pháp luật về thế chấp, cầm cố tài sản và bảo lãnh để vay vốn ngân hàng:
Trước khi Bộ luật dân sự (BLDS) có hiệu lực pháp luật (01/7/1996) đã có quyết định số 156/QĐ-NH ngày 18/11/1989 của Tổng Giám đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Quy định về thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng, Quyết định số 185/QĐ-NH5 ngày 6/9/1994 của Thống đốc ngân hàng nhà nước về việc ban hành quy chế về dịch vụ cầm cố. Từ ngày 01/7/1996, BLDS với các quy định về biệt tài sản dùng để thế chấp và tài sản dùng để cầm cố (Điều 329, Điều 346 BLDS) có hiệu lực pháp luật nên các quy định này không còn phù hợp nữa.
Thống đốc ngân hàng Nhà nước cũng đã có quyết định số 217/QĐ-NH1 ngày 17/8/1996 thay thế quyết định số 156/QĐ-NH ngày 18/11/1989. Quy chế thế chấp, cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn ngân hàng được ban hành kèm theo quyết định này.
BLDS dành một phần tương đối lớn để quy định về cầm cố (từ Điều 329-345), về thế chấp (từ Điều 346-362) và bảo lãnh (từ Điều 366-376). Tuy nhiên, các quy định của BLDS dù sao cũng chỉ dừng lại ở những điểm chung nhất và mang tính cơ sở do đó, quyết định số 217/QĐ-NH1 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hướng dẫn chi tiết về vấn đề này.
BLDS phân biệt tài sản được dùng để thế chấp với tài sản được dùng để cầm cố. Theo Điều 329 BLDS thì tài sản được cầm cố phải là động sản thuộc sở hữu của bên cầm cố tài sản. Điều 346 BLDS quy định thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền.
Các Điều 332, 334, 335, 351, 352, 353, 354, 371, 372 BLDS đã quy định về quyền và nghĩa vụ của bên cầm cố, bên bảo lãnh. Các quy định này đều thể hiện một quan điểm nhất quán của nhà làm luật là khẳng định cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh là những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ một cách hữu hiệu nhất. Các quy định về quyền của bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp cho thuê trong trường hợp bên cầm cố, bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu xử lý tài sản cầm cố, thế chấp theo phương thức đã thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật và ưu tiên thanh toán.
4.2. Xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh:
Điều 341 và Điều 359 BLDS quy định về phương thức xử lý tài sản cầm cố và thế chấp. Điều 341 BLDS quy định là khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên cầm cố tài sản không thực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng thỏa thuận thì tài sản cầm cố được xử lý theo phương thức do các bên đã thỏa thuận hoặc được bán đấu giá để thực hiện nghĩa vụ. Bên nhận cầm cố được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản cầm cố sau khi trừ chi phí bảo quản, bán đấu giá tài sản. Điều 359 BLDS cũng quy định rõ là trong trường hợp đã đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp để thực hiện nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, BLDS không cụ thể hóa các phương thức xử lý này. Ví dụ, BLDS chỉ quy định "hoặc được bán đấu giá để thực hiện nghĩa vụ" hoặc "có quyền yêu cầu bán đấu giá" còn việc tổ chức bán đấu giá này như thế nào thì Bộ luật không đề cập.
Như vậy, BLDS đã quy định những nét chung nhất nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người cho vay vốn. Quy định thế chấp, cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số 217/QĐ-NH1 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước cụ thể hóa các quy định liên quan đến việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh.
Khoản a và khoản b Điều 131 quy chế trên quy định về xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh: "xử lý tài sản thế
chấp, cầm cố, bảo lãnh theo các phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng như: gán nợ cho bên thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh bằng tài sản đó; tự đấu giá hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền bán đấu giá.
Đối với những tài sản của Doanh nghiệp Nhà nước mà pháp luật có quy định phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép thế chấp, cầm cố theo quy định của Chính phủ thì khi xử lý phải có ý kiến của cơ quan có thẩm quyền đó.
Trong trường hợp có tranh chấp thì các bên yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết hoặc khởi kiện trước pháp luật".
Như vậy, BLDS không đề cập việc tự đấu giá như trong quy chế ban hành kèm theo quyết định số 217/QĐ-NH1 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong quy chế về dịch vụ cầm cố ban hành kèm theo quyết định số 185/QĐ-NH5 ngày 6/9/1994 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng không nói về việc tự đấu giá mà chỉ nói trong Điều 16 rằng việc bán tài sản cầm cố được thực hiện theo phương thức đấu giá công khai và theo đúng quy định của pháp luật.
Rõ ràng, so với các văn bản khác cùng nói về xử lý tài sản cầm cố, thế chấp hiện hành thì Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 217/QĐ-NH1 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam là đã cụ thể hóa quyền của người nhận cầm cố, thế chấp và điều đó tạo điều kiện bảo đảm thực hiện nghĩa vụ một cách có hiệu qủa hơn.
QUY TRÌNH VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP:
1) Trường hợp bên vay tiền đã trả nợ sòng phẳng, Ngân hàng phải giao lại cho bên vay toàn bộ các hồ sơ giấy tờ đã nhận cũng như các tài sản đã thế chấp theo đúng như khi nhận; nếu làm hư hỏng, mất mát thì phải bồi thường; nếu có trường hợp tranh chấp phải cùng bên vay thỏa thuận giải quyết. Trường hợp không thỏa thuận được, bên vay có quyền đề nghị cơ quan pháp luật xét xử.
2) Trường hợp bên vay không trả được nợ, Ngân hàng làm văn bản kèm theo hợp đồng tín dụng và hồ sơ thế chấp đề nghị cơ quan pháp luật xử lý tài sản thế chấp do thu hồi nợ.
Ngân hàng có thể áp dụng nhiều cách phát mại tài sản:
a) Trực tiếp bán tài sản thế chấp cho người mua (trừ trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và các tài sản khác mà pháp luật quy định phải được bán tại tổ chức bán đấu giá chuyên trách):
Trên cơ sở đã thoả thuận giá bán tối thiểu, người đi vay có thể tìm người mua để bán tài sản, trường hợp này xảy ra khi người đi vay có thiện chí muốn trả nợ vay ngân hang, hoặc ngân hàng tìm người mua để bán tài sản. Áp dụng phương pháp này sẽ giảm chi phí bán đấu giá. Hơn nữa, thời gian phát mại được rút ngắn giúp cho ngân hang nhanh chóng thu hồi nợ và khách hàng không phải trả thêm lãi suất vay (thường là cao hơn nợ quá hạn) do giảm bớt thời gian vay.
b) Ngân hàng nhận tài sản thế chấp để thay thế cho nghĩa vụ trả nợ.
Khi nhận tài sản thế chấp để thay thế nghĩa vụ trả nợ phải định giá lại tài sản. Sau khi trừ chi phí phát mại, số tiền còn lại sẽ được khấu trừ nợ ngân hàng (nợ gốc, lãi). Nếu còn sẽ hoàn lại khách hàng. Trong trường hợp không đủ ngân hàng yêu cầu khách hàng phải thanh toán phần thiếu. Trong trường hợp khách hàng không còn khả năng thanh toán thì ngân hàng sẽ tiến hành thanh lý theo quy định bằng các nguồn từ quỹ dự phòng hoặc lợi nhuận sau thuế. Đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cách thức xử lý này chỉ được thực hiện khi người đi vay chấp thuận. Nếu không chỉ được xử lý thông qua bán đấu giá.
c) Bán tài sản thế chấp thông qua tổ chức dịch vụ bán đấu giá như trung tâm bán đấu giá và doanh nghiệp bán đấu giá.
Phương pháp này được áp dụng đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hoặc các loại tài sản khác mà ngân hàng không muốn bán trực tiếp hoặc nhận lại tài sản để thay thế nghĩa vụ trả nợ. Ưu điểm của phương pháp là phổ biến và tiện lợi do dễ tìm được người mua.
Tuy nhiên chi phí cho việc bán đấu giá cũng không nhỏ, từ đó ảnh hưởng đến phầ thu nợ của ngân hàng. Vì vậy lựa chọn thời điểm bán thích hợp để có giá tối ưu là một vấn đề đựơc đặt ra không phải chỉ cho khách hàng đi vay mà còn cho cả ngân hàng.Giá thị trường của tài sản không những phụ thuộc vào tính năng,chất lượng của tái sản mà còn phụ thuộc vào diễn biến của thị trường. Đối với một khỏan tín dụng,một khách hàng có quyền chậm trả trong một thời gian nhất định,nhưng việc kéo dài thời gian xử lý chưa chắc có lợi cho người đi vay.
Ngoài các tổ chức tín dụng bán đấu giá pháp luật còn cho phép ngân hàng uỷ quyền hoặc chuyển giao cho các tổ chức có chức năng mua tài sản để bán.
d) Yêu cầu toà án cho phép phát mại tài sản thế chấp để trả nợ vay ngân hàng :
Đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngân hàng có thể đưa tài sản bán đấu giá hoặc khởi kiện tại toà án. Ngoài ra, nếu tài sản bảo đảm có tranh chấp thì việc phát mại tài sản cũng phải thông qua quýêt định của toà án. Trong những trường hợp như trên, ngân hàng cần đệ đơn yêu cầu sự can thiệp của toà án.
Trong quan hệ tín dụng, ngày được tính là ngày phát sinh tranh chấp rất khác nhau, phụ thuộc vào các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Nếu trong hợp đồng không nêu rõ thì ngày khởi điểm được tính là ngày đáo hạn khoản vay (sau khi đã được gia hạn- nếu có). Để đảm bảo quyền lợi của mình, ngân hàng cần lưu ý và phân biệt hình thức tham gia tố tụng theo luật kinh tế hay luật dân sự cho từng hợp đồng tín dụng cũng như thời hạn bắt buộc sử lý tài sản bảo đảm.
3) Số tiền thu được do đấu giá tài sản thế chấp được xử lý theo thứ tự ưu tiên:
a) Thanh toán nợ vay (cả gốc + lãi) cho Ngân hàng.
b) Thanh toán các chi phí, thủ tục tố tụng trong quá trình đấu giá tài sản.
c) Các chi phí khác phát sinh trong khi đấu giá tài sản.
d) Trả lại cho chủ sở hữu tài sản thế chấp hoặc đưa vào Ngân sách Nhà nước (nếu chủ nhân mất tích).
đ) Nếu số tiền thu được không đủ trang trải các khoản trên thì Ngân hàng phải làm thủ tục khởi tố.
PHẦN II: THANH LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP Ở VIỆT NAM
THỰC TIỄN XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN:
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, hiện tại nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng đã lên tới 20.000 tỷ đồng. 1/3 trong số này là nợ có tài sản thế chấp.Chỉ tính riêng số tài sản thế chấp của EPCO - Minh Phụngcần phải xử lý là 375 tài sản, trị giá hơn 2.100 tỷ đồng. Tuy nhiêntrên thực tế, việc xử lý tài sản thế chấp đang gặp rất nhiều khó khăn. Thành phố Hồ Chí Minhcó khoảng 2.915 tài sản thuộc diện xử lýtrị giá gần 1.000 tỷ đồng nhưng cho đến nay mới xửlý được khoảng 120 tài sản, trị giá 342 tỷ đồng. Nguyên nhân là do Thông tưliên tịchsố 03 của Ngân hành Nhà nước, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính và Tổng cục Địa chính hướng dẫn xử lý tài sản thế chấp chưa cụ thể, khiếnngân hàng và các tổ chức tín dụng lúng túng trong quá trình đàm phán, thương lượng với khách hàng về phương thức xử lý cụ thể đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Ngay cả khi đã đồng ý đưa giá trị quyền sử dụng đất thế chấp rabán đấu giá tại Trung tâmdịch vụ bán đấu giá thì các bên vẫn còn thụ động và lúng túng về thủ tục bán đấu giá loại tài sản này. Tiến sĩ luật Trần Đình Triển - Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, Luật Đất đai có quy định là cá nhân, tổ chứckhi có quyền sử dụng đất có quyền bán, chuyển nhượng, thế nhưng Thông tư 03 quy định, khi thanh lý tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất phải xin phép UBND địa phương từ cấp huyện, đến cấp tỉnh mới được phép đưa tài sản thế chấp là không hợp lý, cần phải được sửa đổi.
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng không thể bán hay chuyển nhượng được những tài sản thế chấp này do chưa đủ thủ tục pháp lý, trong khi số tài sản thế chấp này đang xuống cấp ngày càng nhanh. Một số tài sản là đất đai, hiện đã bị nhiều hộ dân lấn chiếm khiến việc xử lý càng khó khăn. Từ thực tếcông việc của mình, Chánh Toà kinh tế - Toà án nhân dân tối cao ông Đỗ Cao Thắng cũng thừa nhận,có đếngần 1/2 các án kinh tế là án tranh chấp trong các hợp đồng tín dụng. Theo tổng kết củaToà án nhân dân tối cao thì nguyên nhân của những tranh chấp này chủ yếu là tranh chấp từ "tài sản đảm bảo".Vấn đề là ở chỗ chúng ta thực hiện các quy định về tài sản bảo đảm không đúng.
Nhiều ngân hàng cho rằng, để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đẩy nhanh tiến độ xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, cần phải nhanh chóng sửa đổiThông tư 03 hướng dẫn về xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, bất động sản theo hướng cho phép các ngân hàng tiếp cậnquản lý các tài sản này và bán theo giá thị trường để thu hồi nợ. Ông Trần Ngọc Minh- Giám đốc Ngân hàng Nhà nước TPHồ Chí Minhcho biết, mong muốn của các ngân hàng thương mại trên địa bàn TP Hồ Chí Minh là được phép tiếp quản và xử lýtài sản thế chấp theo phương thức tự chọn, không nhất thiết phải qua Trung tâmbán đấu giá. Bởi với số lượng tài sản phải xử lý lớnthì qua Trung tâm sẽ mất rất nhiều thời gian do thủ tục rườm rà. Hơn nữa năng lực của các Trung tâm bán đấu giá không đáp ứng được yêu cầu. Chính vì vậy đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tiếp tục làm việc với các bộ, ngành liên quan hướng dẫn về trình tự thủ tục bán tài sản thế chấp.
Kể từ những năm 90 việc cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM) phần lớn đều phải có tài sản thế chấp. Nhưng loại tài sản được thế chấp lại gần như chỉ áp dụng cho nhà ở và đất đai. Vì vậy, khi mà khối tài sản thế chấp kia lên đến hàng ngàn tỉ đồng (tháng 12.1998) thì đã làm “đóng băng” nợ quá hạn tại các NHTM (80% trong tổng dư nợ quá hạn có tài sản thế chấp). Nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề xử lý các loại tài sản thế chấp đó trong thực tế gặp rất nhiều khó khăn.
Tính đến cuối năm 2000, nợ quá hạn cho vay của các NHTM trên địa bàn TP.HCM là 11.606 tỉ đồng, chiếm tỉ lệ 22,24% trên tổng dư nợ. Trong đó, nợ tồn đọng có tài sản đảm bảo là 8.573 tỉ đồng, chiếm 73,87% trong tổng số nợ quá hạn. Điều này làm cho tình hình tài chính của các NHTM ngày càng khó khăn do nợ không có nguồn thu hồi lại phải ôm giữ một khối tài sản khổng lồ mà giá trị cứ giảm dần theo thời gian. Vốn không thu hồi được, trong khi ngân hàng vẫn phải thanh toán đầy đủ các khoản lãi huy động từ dân cư và các nguồn khác, vẫn phải chi các hoạt động quản lý, tiền lương,…Đặc biệt, ngân hàng còn phải thêm một khoản chi phí cho việc trông coi, quản lý, bảo quản,… các tài sản đó, chưa kể nếu tài sản đó liên quan đến các vụ án thì ngân hàng còn phải mất thêm thời gian, sức lực để theo đuổi. Yêu cầu bức thiết trước mắt là phải xử lý một cách hiệu quả khối tài sản thế chấp kia để đủ sức cạnh tranh khi hội nhập. Do vậy, các NHTM đã nỗ lực tìm mọi biện pháp như ngân hàng tự bán, phối hợp với khách hàng hoặc khách hàng tự tìm người bán,…Tuy nhiên, quá trình xử lý nợ tồn đọng này chậm và hiệu quả chưa cao, đặc biệt là việc tổ chức phát mãi tài sản thế chấp, tài sản được giao từ các vụ án tiến hành rất chậm, thậm chí dậm chân tại chỗ. Do đó, việc giảm tỉ lệ nợ quá hạn và nợ xấu tại các NHTM dù hết sức cố gắng vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra (dưới 5%).
Ví dụ: Kết quả xử lý tài sản đảm bảo trên địa bàn TP.HCM
Tính đến 31.12.2000, nợ quá hạn của các NHTM trên địa bàn TP.HCM là 11.606 tỉ đồng, chiếm 22,24% tổng dư nợ cho vay. Trong đó, nợ quá hạn có tài sản đảm bảo là 8.572 tỉ đồng, chiếm 73,86% tổng nợ quá hạn. Tài sản đảm bảo của các NHTM chuyển giao qua công ty QLN & KTTS trực thuộc là 7.831 tỉ đồng, chiếm tỉ lệ 91,36%.
Tính đến cuối năm 2002, các công ty QLN & KTTS trực thuộc các NHTM trên địa bàn TP.HCM đã tiến hành xử lý các tài sản có giấy tờ hợp lệ trên cơ sở tự bán, khách hàng tìm người bán hoặc phối hợp cùng nhau để bán. Tuy nhiên, số tài sản mà giấy tờ còn hợp lệ cho đến lúc thanh lý chỉ chiếm một phần nhỏ, khoảng 7,74% số tài sản đảm bảo, trị giá 606,2 tỉ đồng. Trong đó, Công ty QLN & KTTS của Ngân hàng công thương (NHCT) là hoạt động mạnh nhất, cũng chỉ bán được 13 tài sản trị giá 9,7 tỉ đồng. (Báo Tuổi trẻ tháng 6.1999).
Các tài sản đưa vào kinh doanh, khai thác cho thuê để thu hồi nợ cũng chiếm tỉ trọng không đáng kể. Tính đến cuối năm 2002, số tài sản đưa vào khai thác, cho thuê là 101,5 tỉ đồng, chiếm tỉ lệ 1,3% tổng dư nợ quá hạn chuyển giao sang công ty QLN & KTTS. NHCT có số tài sản đảm bảo cao nhất là 375 tài sản với trị giá 2.142,4 tỉ đồng, nhưng cũng chỉ khai thác đưa vào cho thuê được 121 tài sản, thu hồi được 46,4 tỉ đồng. Các chi nhánh NHNo & PTNT tại TP.HCM có số tài sản đảm bảo là 98 món với trị giá 80,1 tỉ đồng. Đối với loại tài sản này nguồn thu hồi nợ không cao vì thời gian thuê thường từ 5 năm trở lên.
Dù đã tích cực hoạt động nhằm thu hồi một cách nhanh nhất các khoản nợ quá hạn cho NHTM, nhưng các công ty QLN & KTTS tính đến cuối năm 2002 cũng chỉ giải quyết được 1/3 số nợ quá hạn có tài sản đảm bảo. Trong 7.831 tỉ đồng nợ quá hạn có tài sản đảm bảo được chuyển giao chỉ mới giải quyết thu hồi nợ được 2.423,7 tỉ đồng, chiếm tỉ lệ 31%, còn lại 5.407,3 tỉ đồng nợ tồn đọng chưa giải quyết được (69,05%).
KHÓ KHĂN TRONG THANH LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP:
Pháp luật chồng chéo:
Như chúng ta đã thấy, vấn đề xử lý nợ quá hạn để lành mạnh hóa tình hình tài chính của các NHTM hiện nay là một vấn đề khá bức xúc, tốc độ xử lý chậm, hiệu quả không cao, trong khi thời gian hội nhập ngày càng rút ngắn. Không phải vì Ngân hàng không khẩn trương xử lý mà chính vì trong xử lý còn quá nhiều vướng mắc, bất cập, chẳng hạn như :
Vấn đề bức xúc nhất được các NH phản ánh là sự chồng chéo, rối rắm của các văn bản luật, dưới luật về các lãnh vực đất đai, phá sản, dân sự ... liên quan đến hoạt động của ngành NH. Do đó, giải quyết các vụ việc thường kéo dài, có vụ kéo đến 10 năm vẫn chưa có lối ra, đặc biệt là quyền sử dụng đất. Phần lớn tài sản đảm bảo cho các món vay có giá trị lớn tại các NHTM là đất đai, nhà cửa (trên địa bàn TP.HCM có 2.870 tài sản, trị giá 933.322 triệu đồng).
Một số điểm về cơ chế pháp lý chưa rõ ràng, đặc biệt là quyền sử dụng đất. Phần lớn tài sản đảm bảo cho các món vay có giá trị lớn tại các NHTM là đất đai, nhà cửa (trên địa bàn TP.HCM có 2.870 tài sản, trị giá 933.322 triệu đồng). Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC giữa Liên bộ Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính, Tổng cục địa chính ngày 29.4.2001 (sau đây gọi tắt là Thông tư 03) quy định tổ chức tín dụng (TCTD) không được trực tiếp bán hay được trực tiếp nhận quyền sử dụng đất để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Và theo Khoản 2 – Mục III của thông tư này, nếu không đạt được sự thỏa thuận của các bên thì TCTD phải đưa ra bán đấu giá hay khởi kiện ra Tòa. Trong khi đó, Nghị định 178 lại cho phép TCTD có quyền xử lý tài sản bảo đảm nói chung và tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất nói riêng nếu không đạt được sự thỏa thuận giữa các bên. Việc này gây cản trở cho các TCTD khi xử lý tài sản thế chấp trong thực tế, vì :
- TCTD chuyển hồ sơ của tài sản thế chấp, bảo lãnh sang Trung tâm bán đấu giá chuyên trách thuộc Sở tư pháp để xử lý quyền sử dụng đất, nhưng tiến độ xử lý lại quá chậm, mất nhiều thời gian, thậm chí nhiều trường hợp tồn đọng không xử lý được. Việc này do nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân không thể không nhắc đến là hoạt động của Trung tâm bán đấu giá kém hiệu quả. Trong khi đó, không ít trường hợp TCTD có thể phối hợp với người có tài sản đảm bảo để xử lý hoặc tự xử lý được, nhưng khi tiến hành chuyển quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất cho người mua, thì các cơ quan chức năng từ chối việc thực hiện công chứng, đăng bộ,… với lý do quyền sử dụng đất trong trường hợp này phải thông qua Trung tâm bán đấu giá chuyên trách theo quy định.
- Khi xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, theo Khoản 3 – Mục III, phần B của Thông tư Liên tịch 03, thì TCTD phải xin phép Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho phép bán đấu giá, làm cho quy trình bán đấu giá càng mất nhiều thời gian và thủ tục, cụ thể là :
° 15 ngày xin cơ quan có thẩm quyền cho phép bán đấu giá tài sản.
° 15 ngày thực hiện việc đăng ký bán đấu giá tài sản.
° 30 ngày niêm yết tài sản bán đấu giá.
° 60 ngày cho thời gian cấp giấy chứng nhận cho người mua tài sản.
Trong khi khối lượng tài sản thế chấp của NHTM là rất lớn (trên địa bàn TP.HCM có 2.870 món tài sản đang thế chấp là đất đai, nhà cửa), mà theo quy định này UBND TP.HCM sẽ phải cấp 2.870 lần giấy phép cho các NHTM bán đấu giá tài sản và thời gian thu hồi nợ của các NHTM sẽ là bao lâu?
Công tác thi hành án còn chậm:
Trong thực tế có nhiều bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực thi hành và đã có đơn yêu cầu thi hành án của ngân hàng. Nhưng cơ quan thi hành án vẫn chưa thi hành án với nhiều lý do như bản án chưa rõ ràng, hoặc lý do này khác. Những trường hợp đó, ngân hàng phải chờ cơ quan thi hành án làm việc lại với Tòa án. Thời gian chờ đợi này thường kéo dài hàng tháng thậm chí nửa năm ngân hàng mới nhận được văn bản trả lời của cơ quan thi hành án. Tiến trình bàn giao quá chậm nên dẫn đến tình trạng tài sản hư hỏng, xuống cấp. Nếu ngân hàng muốn bán, khai thác hoặc cho thuê buộc phải sửa chữa, đầu tư thêm. Điều này làm cho chi phí hoạt động của ngân hàng tăng lên, trong khi giá trị thu hồi từ các tài sản này chưa chắc đã thu đủ nợ gốc. Mặt khác, các tài sản này có khi do vướng mắc về hồ sơ, thủ tục,…nên giá bán thực tế đôi khi thấp hơn dự kiến
Thủ tục phát mại tài sản phức tạp đang là nỗi lo lớn của ngân hàng:
Ông Trần Dũng, Trưởng phòng Pháp chế, Ngân hàng TMCP Sài Gòn bức xúc nói: “Nếu ở nước ngoài chỉ cần 24 tiếng là mọi việc được giải quyết xong, cơ quan thi hành án có quyết định của tòa án là có thể chuyển tài sản sang cho ngân hàng xử lý, còn ở Việt Nam thì thủ tục quá rắc rối, phiền hà”. Đơn kiện gửi tới tòa án, 2 bên hòa giải chán chê, cơ quan thi hành án vẫn không thực hiện được, hồ sơ tồn đọng đến mức một cán bộ thi hành án ở TP. HCM phải thụ lý tới 600 hồ sơ. “Nghị định 163/CP về giao dịch bảo đảm cho phép chủ nợ trực tiếp thu hồi tài sản nhưng hướng dẫn không có, công an không hỗ trợ thì ngân hàng làm được gì”, ông Dũng nêu vấn đề tại một hội thảo do Hiệp hội Ngân hàng chủ trì mới đây.
Trên thực tế, Nghị định 163/2006/CP ban hành ngày 29/12/2006 của Chính phủ quy định về nội dung cách thức, thời gian xử lý tài sản bảo đảm nhưng chưa có văn bản hướng dẫn và cũng không có cơ sở để yêu cầu cơ quan thi hành án tham gia cưỡng chế thu hồi tài sản trong trường hợp người thế chấp không tự nguyện giao tài sản. Ngân hàng muốn thu hồi nợ, rút cuộc vẫn phải làm theo cách cũ là khởi kiện ra tòa để yêu cầu thi hành án. Nhưng thủ tục quá rườm rà từ việc có đơn yêu cầu, ra quyết định thi hành án, thời gian tự nguyện, biên bản làm việc của 2 bên tại thi hành án, quyết định cưỡng chế về việc kê biên định giá phát mãi tài sản, quyết định thành lập hội đồng định giá và hợp đồng bán với Trung tâm bán đấu giá tài sản… Rườm rà như vậy, nên cơ quan thi hành án không bao giờ thi hành đúng thời hạn như quyết định của bản án. Hội đồng định giá do cơ quan thi hành án thành lập tự quyết định giá nên không phù hợp với cách thức định giá như các bên thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp. Ông Dũng nêu trường hợp tại ngân hàng mình trong hợp đồng vay, một chiếc ôtô là tài sản thế chấp được định giá có 400 triệu đồng, khi xử lý tài sản thu hồi nợ cơ quan định giá đưa lên tới 1,2 tỷ đồng, “đấu tranh” mãi cuối cùng ngân hàng phải chịu giá 800 triệu đồng.
Bộ phận pháp chế Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cũng mệt mỏi không kém khi giải quyết vụ thu hồi nợ quá hạn tại Công ty Thương mại Đắc Lắk. Tòa án ra quyết định cho phép Ngân hàng tiếp tục thuê khu đất dùng làm tài sản thế chấp trong 20 năm nhưng Chủ tịch UBND tỉnh lại ra văn bản yêu cầu Ngân hàng trả lại đất để tổ chức đấu giá. Qua bao nhiêu cửa, đi lại mấy tháng trời mới giải quyết xong.
- Nghị định 163/CP cho phép các tổ chức tín dụng được lựa chọn hình thức xử lý đa dạng như bán tài sản thế chấp, nhận các khoản tiền và tài sản từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ, phương thức khác do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên không thỏa thuận được phương thức xử lý tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì các tài sản này được đem bán đấu giá nhưng để thực hiện được, các bên lại phải ký hợp đồng ủy quyền tại đơn vị bán đấu giá có thẩm quyền. Nhiều trường hợp bên thế chấp không chấp nhận thì không thể bán đấu giá, khi đó cũng không có cơ chế cho tổ chức tín dụng được tự bán đấu giá tài sản để thu hồi nợ.Cách thu hồi nợ phổ biến nhất là thông qua hình thức khởi kiện tại tòa án nhưng thực tế cho thấy, để giải quyết một vụ kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng từ khi nộp đơn khởi kiện tại tòa đến khi kết thúc rất lâu (từ 1 đến 3 năm) tổ chức tín dụng mới có thể thu hồi được nợ thông qua cơ quan thi hành án. Vấn đề này làm tỷ lệ nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng ngày càng cao, nhất là trong giai đoạn hiện nay ngân hàng đẩy mạnh việc phát triển mở rộng mạng lưới tín dụng.
Khó khăn trong quá trình chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước:
Khi cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, công nợ và vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp này ít được quan tâm đến. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 9 khoá IX đã nêu rõ: "Các ngân hàng thương mại Nhà nước được tham gia xây dựng phương án sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước có vay vốn ngân hàng". Thực tiễn gần như 100% doanh nghiệp Nhà nước đều phải vay vốn ngân hàng thương mại cho hoạt động của mình.
Nhưng trong Thông tư số 126 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/NĐ - CP về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, lại không quy định ngân hàng thương mại cho vay vốn là thành phần trong Ban chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Trong khi đó, ngân hàng thương mại cho vay phần lớn là chủ nợ lớn nhất của doanh nghiệp Nhà nước khi cổ phần hóa. Tại Thông tư này chỉ quy định, ngân hàng thương mại cho vay có ý kiến bằng văn bản thông báo cho doanh nghiệp trong vòng 20 ngày về ý kiến xử lý tài chính. Quá thời hạn đó, doanh nghiệp được tạm loại khoản nợ lãi vay ra khỏi giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá. Thời hạn đó không những quá ngắn , nhiều ngân hàng thương mại không thể thực hiện xác nhận nợ vay, quyết định xoá lãi vay hoặc không xoá lãi vay cho doanh nghiệp.
Tại các văn bản pháp lý hiện hành không có quy định về xử lý đối với doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hoá không ký nhận nợ, hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với các khoản nợ quá hạn. Thực tiễn đã xẩy ra trường hợp, khi tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, một số UBND tỉnh đã loại trừ khoản nợ vay ngân hàng thương mại ra khỏi giá trị doanh nghiệp khi xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa. Do đó, nhiều doanh nghiệp không chịu nhận nợ cũ. Họ sẵn sàng tìm đến chi nhánh ngân hàng thương mại hay ngân hàng thương mại khác để vay vốn mới, còn nợ của ngân hàng thương mại cho vay trước đây thường bị "lờ"đi. ngân hàng thương mại rất bức xúc trong vấn đề này, nợ rõ ràng có, nhưng cơ sở để đòi nợ thì thật nan giải. Có chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn do quá bức xúc đối với một nhà máy mía đường ở miền Trung, có nguồn thu nhưng họ không chịu trả nợ ngân hàng, ngân hàng đã phải kiện doanh nghiệp ra toà.
Nhìn chung, trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, các ngân hàng thương mại thường bị đặt ra ngoài. Vì vậy giải pháp được đề xuất là chuyển nợ vốn vay ngân hàng thương mại của doanh nghiệp thành vốn góp của ngân hàng thương mại tại doanh nghiệp cổ phần hóa. Theo đó, ngân hàng thương mại phải được tham gia với vai trò chính trong quá trình xắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, tham gia trong ban chỉ đạo xắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, thậm chí tham gia trong hội đồng quản trị công ty cổ phần đó, bởi vì vốn của ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng lớn hoặc tỷ trọng khá trong giá trị doanh nghiệp. Trong trường hợp doanh nghiệp không có khả năng trả nợ, ngân hàng sẽ căn cứ vào số nợ còn lại chuyển thành vốn góp cổ phần trong công ty cổ phần. Theo thông lệ quốc tế, khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ ngân hàng, ngân hàng sẽ đóng vai trò chính trong quá trình cơ cấu lại nợ, lên phương án và triển khai phương án phục hồi sản xuất kinh doanh, bơm thêm vốn giám sát nguồn thu bán hàng hoặc giải pháp tối ưu khác cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.
Nợ đọng lớn nhất đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam là các nhà máy mía đường. Hướng xử lý được đưa ra là do các nhà máy mía đường phải cho vay theo chỉ đạo của Chính phủ và được Chính phủ chỉ đạo phải điều chỉnh kỳ hạn nợ. Do đó dư nợ cho vay các nhà máy mía đường không phải trích lập dự phòng rủi ro. Hoặc là cho phép Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trích lập dự phòng rủi ro tuỳ theo năng lực tài chính của ngân hàng. Trong 4 năm qua, nếu như các ngân hàng thương mại cổ phần đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong xử lý nợ đọng, thì nhiều khoản nợ của các ngân hàng thương mại Nhà nước có nguy cơ bị dây dưa kéo dài đối với các doanh nghiệp Nhà nước, nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế. Vì vậy, giải pháp từ cơ chế được coi như "nút gỡ" cơ bản cần được tháo gỡ trong cả chu trình vướng mắc đó.
Giá trị tài sản thế chấp quá lớn :
Có những tài sản trị giá vài chục tỉ hay thậm chí hàng trăm tỉ đồng cũng gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ, vì ít người có khả năng mua được. Hơn nữa, khi bỏ ra một số tiền quá lớn mà mua lại tài sản “vỡ nợ” thì sức ép tâm lý không phải dễ dàng vượt qua.
Việc xử lý nợ trong các trường hợp liên quan đến các DN địa phương rất khó khăn.
Vì lợi ích cục bộ địa phương, chính quyền các tỉnh luôn có xu hướng ủng hộ các giải pháp xử lý nợ có lợi cho địa phương nhưng bất lợi cho ngân hàng, biến vốn ngân hàng thành tài sản của địa phương. Chính quyền các địa phương thường áp dụng các biện pháp như: ra quyết định thu hồi tài sản để giao cho đơn vị khai thác rồi đền bù cho chủ tài sản theo giá rẻ; tác động để trì hoãn việc xử lý nợ, thi hành án; giao các tài sản của DN nợ ngân hàng cho các đơn vị khác quản lý trước khi giải thể, phá sản để tránh việc phải bán tài sản trả nợ cho ngân hàng; thanh toán nợ cho các đơn vị thuộc địa phương trước sau đó mới thanh toán nợ cho ngân hàng...
Những khó khăn khác:
Ngoài những khó khăn nêu trên, khó khăn từ phía khách hàng nợ cũng đã làm giảm đáng kể hiệu quả của việc xử lý nợ tồn đọng. Trong nhiều trường hợp, các khách nợ mặc dù vẫn còn khả năng thanh toán nợ nhưng lại trì hoãn, chây ỳ hoặc lẩn tránh việc trả nợ. Các công cụ của pháp luật để chế tài những hành vi này hiện nay vẫn chưa đủ mạnh để đem lại hiệu quả như mong muốn. Vì vậy, tốc độ xử lý nợ bị hạn chế đáng kể.
Ví dụ như việc quản lý tài sản không chặt:
Một rủi ro của Ngân hàng Cổ phần Quốc tế (trụ sở số 5 Lê Thánh Tông, Hà Nội).Tháng 9/2003 Ngân hàng Cổ phần Quốc Tế sau khi tiến hành thẩm định hồ sơ đã quyết định cho anh Nguyễn Quốc Khánh (188 Phó Đức Chính, Hà Nội) vay số tiền 280 triệu đồng và biện pháp bảo đảm chính là tài sản hình thành từ vốn vay: chiếc xe ôtô Ford 16 chỗ. Theo như hợp đồng tín dụng này thì anh Khánh phải trả một số tiền gốc và tiền lãi cố định hàng tháng cho tới khi hoàn tất số nợ cho Ngân hàng Cổ phần Quốc Tế. Và khi ấy, hợp đồng tín dụng sẽ được thanh lý (hay nói cách khác, lúc đó anh Khánh mới có toàn quyền sở hữu chiếc xe).Nếu như cả hai bên vay và cho vay cùng thực thi đúng những điều khoản trong hợp đồng thì đó đã có thể được coi là một hợp đồng tín dụng thành công, mang lại lợi ích cho cả đôi bên. Thế nhưng bên vay đã vi phạm hợp đồng để giờ đây không chỉ bên cho vay mới gặp rủi ro mà còn liên đới tới người thứ 3.Xe có đăng kí bản gốc, chính chủ và được chính quyền địa phương xác nhận Tháng 12/2003, khi anh Khánh chưa hoàn tất số nợ gốc cũng như lãi cho Ngân hàng Cổ phần Quốc tế (có nghĩa là chiếc xe nói trên chưa thuộc quyền sở hữu của anh mà vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng này), anh Khánh đã bán chiếc xe đó cho chị Nguyễn Thị Đức Huyền (43 Lê Quý Đôn, Hà Nội) với giá thoả thuận là 24.800 USD (tương đương 400 triệu đồng Việt Nam). Sau khi trả đủ tiền cho anh Khánh, chị Huyền đã được anh này giao xe cùng bản gốc đăng ký xe. Thận trọng hơn, chị Huyền đã yêu cầu anh Khánh cùng ra chính quyền xin xác nhận theo bản mẫu của phòng CSGT. Chị Huyền đã sử dụng chiếc xe vào việc kinh doanh của gia đình trong suốt 8 tháng tiếp theo. Cho tới ngày 21/8/2004, chồng chị Huyền bị Cảnh sát 113 giữ lại trên đường khi đang điều khiển chiếc xe với lý do tài sản này là của ngân hàng.Ai được quyền sở hữu hợp pháp chiếc xe?
Đến trụ sở công an, chị Huyền được cơ quan này cho biết chiếc xe mà vợ chồng chị đang sở hữu nằm trong hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng cổ phần Quốc tế và anh Nguyễn Quốc Khánh. Hợp đồng tín dụng đó cho đến nay vẫn chưa thanh lý.Điều làm chị Huyền băn khoăn là không hiểu tại sao Ngân hàng cho vay như vậy mà lại để cho bên vay cầm bản gốc đăng ký xe? Tìm hiểu kỹ, chị Huyền được biết thường khi tài sản mang đi thế chấp ngân hàng thì bao giờ cũng bị ngân hàng giữ hồ sơ gốc. Hơn nữa, bất cứ người dân nào khi mua xe cũng đều khó có thể nghi ngờ quyền sở hữu của người bán nếu được nhìn tận mắt đăng ký gốc do người này đứng tên chính chủ (hơn nữa lại còn có xác nhận của chính quyền)!Đã hơn một tháng trôi qua, chiếc xe là công cụ nuôi sống gia đình chị Huyền nằm gí một chỗ. Cơ quan có thẩm quyền hiện nay vẫn yêu cầu gia đình chị chờ đợi... Theo chị Huyền, chị mua xe có đầy đủ giấy tờ, lại có xác nhận của chính quyền địa phương thì đương nhiên chiếc xe phải thuộc quyền sở hữu của chị.Phía Ngân hàng Cổ phần Quốc tế lại cho rằng chiếc xe là tài sản của mình (và điều này cũng không sai). Sự "sai" duy nhất ở đây là cán bộ tín dụng của ngân hàng này thiếu trách nhiệm trong quá trình kiểm tra, giám sát tài sản thế chấp sau khi cho vay, dẫn đến bên vay đã mang tài sản đi bán 8 tháng ngân hàng mới biết (hơn nữa lại để cho bên vay cầm giấy tờ gốc của tài sản thế chấp).Thực tế sau khi bên vay nhận tiền từ ngân hàng để mua xe, cán bộ tín dụng của Ngân hàng Cổ phần Quốc tế đã cùng bên vay đến Phòng CSGT làm thủ tục đăng ký cho chiếc xe đó và giữ giấy hẹn trả đăng ký xe của Phòng CSGT. Nhưng bên vay đã tự ý đến phòng CSGT để lấy đăng ký (không hiểu vì sao lại lấy được mà không cần có giấy hẹn). Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao Ngân hàng Cổ phần Quốc tế biết chuyện nhưng không làm gì để lấy lại đăng ký từ tay bên vay?
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT:
Sự cần thiết thành lập công ty quản lý nợ
Vào đầu những năm 90 dù rằng các NHTM chuyển sang kinh doanh theo hướng đa năng nhưng vì nền kinh tế vẫn chưa thật sự ổn định nên việc áp dụng các hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp của người đi vay hoặc bên thứ 3 bảo lãnh bằng tài sản được các NHTM Việt Nam xem như một trong những tiêu chí để xét duyệt cấp vốn, vì đó là một hình thức bảo đảm an toàn cho món vay nếu như người đi vay không trả được nợ. Do vậy, gần như toàn bộ nợ tồn đọng của các NHTM đều có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Và chiếm đa số trong tài sản thế chấp hiện nay là nhà cửa, đất đai. Tuy nhiên, khối lượng tài sản gán nợ đó hình như đã trở nên quá sức đối với các NHTM cả về mặt điều hành và pháp lý.
Điều 73, Luật các Tổ chức tín dụng, quy định: “Các Tổ chức tín dụng không được trực tiếp kinh doanh bất động sản”. Giữa thực tế phải bảo toàn vốn và pháp luật như vậy, nên các NHTM từ chỗ chọn biện pháp an toàn cho món vay, giờ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nợ cho vay không thu hồi được, lại phải quản lý tài sản thay cho người đi vay. Dẫn đầu các NHTM về tình trạng này là Ngân hàng công thương khi vụ án Minh Phụng – Epco xảy ra.
Xuất phát từ tình hình thực tế đó, qua tham khảo cách giải quyết nợ tồn đọng và mô hình công ty quản lý nợ của các nước trên thế giới, tháng 1.2000 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có đề nghị xin thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (QLN & KTTS) thế chấp trực thuộc các NHTM trình Chính phủ và đã được Chính phủ đồng ý tại văn bản 122/CP-KTTH ngày 03.02.2000. Do đó, ngày 30.6.2000, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký công văn số 580/CV-NHNN5 chấp thuận cho Ngân hàng công thương Việt Nam được thành lập Công ty quản lý và khai thác tài sản. Đến tháng 9.2000 Công ty quản lý và khai thác tài sản của Ngân hàng công thương Việt Nam đi vào hoạt động. Đó là loại hình công ty mới lạ lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam. Ngân hàng công thương Việt Nam trở thành Ngân hàng đi tiên phong trong lĩnh vực quản lý nợ và khai thác tài sản. Cuối năm 2001, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cũng ra mắt Cty QLN & KTTS của mình có trụ sở đặt tại Hà Nội. Tiếp đến, Sài Gòn công thương ngân hàng – một ngân hàng thương mại cổ phần - cũng có Cty QLN & KTTS đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng lần lượt thành lập Cty QLN & KTTS trực thuộc. Đến nay, đã có thêm 4 NHTM cổ phần cũng thành lập công ty QLN & KTTS, đưa số công ty QLN & KTTS của các NHTM lên đến gần một chục công ty.
Ví d ụ: Công ty quản lý tài sản (AMC): Được thành lập với mục đích chính là xử lý tài sản thế chấp liên quan đến các khoản nợ xấu nhằm tận thu cho ngân hàng. Công ty AMC đã đóng góp lích cực vào quá trình lành mạnh hoá tình hình tài chính và xử lý nợ xấu của VCB. Hoàn thành sứ mạng của mình, Công ty sẽ được chuyển đổi chức năng để phù hợp với định hướng mang tính kinh doanh trong thị trường
3.2. Đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, đây là ngân hàng thương mại có các khoản nợ xấu và nợ đọng liên quan đến các vụ án kinh tế lớn đứng hàng thứ hai sau Ngân hàng Công thương. Trong những năm qua, Ngân hàng Ngoại thương triển khai các giải pháp: phát mại tài sản, khai thác tài sản, cho thuê tài sản, trích lập dự phòng rủi ro, đề nghị Chính phủ xử lý các khoản nợ đọng theo chính sách từ thời bao cấp, nên đến nay ngân hàng này cũng đã cơ bản xử lý xong nợ xấu, đang khẩn trưởng triển khai kế hoặch cổ phần hoá.
3.3. Nhà nước nên cho các tổ chức tín dụng tự tổ chức đấu giá tài sản thế chấp thu hồi nợ vay, với sự giám sát của một tổ chức có thẩm quyền cho khách quan và được nhận gán nợ khi cần thiết, giúp cho tổ chức tín dụng được chủ động và thu hồi nợ vay nhanh hơn.
3.4. Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm cần tập trung về một cơ quan để việc thực hiện đăng ký được thống nhất. Mở kênh riêng hoặc lập trang web thông tin pháp lý về tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở để các tổ chức tín dụng được quyền truy vấn các thông tin này nhằm tiết kiệm thời gian.
3.5. Để tránh rủi ro tín dụng do nguyên nhân biến động giá trên thị trường bất động sản cũng như việc xử lý tài sản thế chấp, bảo lãnh, SBV khuyến cáo các ngân hàng thương mại ''đây không phải là biện pháp duy nhất để bảo đảm tiền vay do đó cần theo dõi, đánh giá, điều hành hạn mức tín dụng một cách kịp thời''.
3.6. Nhà nước phải tích cực hơn nữa trong việc rà soát lại các văn bản pháp quy đã ban hành, bãi bỏ, sửa đổi những văn bản bất hợp lý, bổ sung các quy định để từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ, xử lý tài sản bảo đảm và các vấn đề có liên quan đến công tác xử lý nợ:
- Kể cả Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 217/QĐ-NH1 cũng không đưa ra hình thức tổ chức đấu giá cụ thể nào. Trong trường hợp ngân hàng là bên nhận cầm cố hoặc thế chấp có quyền tự đấu giá thì thành phần của Hội đồng bán đấu giá tài sản bao gồm những thành viên nào? Ngân hàng có quyền tự mình chỉ định thành viên hay bắt buộc phải theo "cơ cấu"? Và nếu trong trường hợp Hội đồng bán đấu giá tài sản được thành lập theo đúng quy định của pháp luật thì Hội đồng đó gồm những ai, do ai quyết định? Thực tiễn vừa qua cho thấy trong trường hợp Hội đồng bán đấu giá phải bắt buộc bao gồm các thành viên luật định thì vai trò của ngân hàng với tư cách là bên nhận cầm cố, thế chấp và đang là chủ nợ đối với bên cầm cố, thế chấp không còn ý nghĩa. Thậm chí, trong nhiều trường hợp do bất đồng về định giá giữa các thành viên dẫn đến việc đấu giá bán không phù hợp với giá cả thực tế của tài sản
- Chưa có quy định cụ thể những phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp cụ thể mà các bên được thỏa thuận với nhau trong hợp đồng;
- Chưa có các hợp đồng mẫu về cầm cố, thế chấp, bảo lãnh trong đó nêu rõ phương thức hai bên thỏa thuận khi xảy ra vi phạm;
- Chưa có văn bản hướng dẫn về thành phần của Hội đồng bán đấu giá để các bên dễ dàng tổ chức lấy việc bán đấu giá. Hội đồng có thể chỉ bao gồm những thành viên của ngân hàng như đại diện Ban Giám đốc, Ban Kiểm soát, Phòng Tài vụ, Phòng tín dụng và đại diện của bên cầm cố, thế chấp và đại diện của ngân hàng cấp trên. Hội đồng quyết định giá bằng cách bỏ phiếu kín trên cơ sở có tham khảo giá cả thị trường và tính theo nguyên tắc cộng chia bình quân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thanh lý tài sản thế chấp.doc