Thị trường chứng khoán Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam

MỤC LỤC š›&š› LỜI NÓI ĐẦU 3 PHẦN A: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 4 1. Tổng quan về thị trường chứng khoán: 4 1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán . 4 1.2. Khái niệm thị trường chứng khoán: 4 1.3 Cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán: 7 1.4 Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán: 8 1.5 Phân loại thị trường chứng khoán: 11 2. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán: 14 2.1. Chủ thể quản lý: 15 2.2. Chủ thể kinh doanh ( Trung gian tài chính ). 16 2.3. Các nhà đầu tư: 16 2.4. Tổ chức phát hành chứng khoán.: 16 2.5. Các tổ chức phụ trợ: 17 PHẦN B: THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM. 17 1. Tình hình hoạt động của TTCK Việt Nam. 17 1.1. Tình hình niêm yết chứng khoán . 17 1.2. Tình hình giao dịch chứng khoán. 18 1.3. Tình hình biến động chỉ số Vindex. 19 2. Các mặt hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam- nguyên nhân. 21 2.1.Các mặt hạn chế. 21 2.2.Nguyên nhân . 23 3.Mô hình tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam . 24 3.1. Ủy ban chứng khoán nhà nước. 24 3.2. Trung tâm giao dịch chứng khoán: 30 3.3. Trung tâm lưu ký chứng khoán và thanh toán bù trừ: 32 3.4. Công ty chứng khoán: 38 3.5. Các quỹ đầu tư: 40 PHẦN C: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TTCK VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP WTO. 43 1.Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam . 43 1.1. Mục tiêu. 43 1.2. Quan điểm và nguyên tắc phát triển TTCK: 44 1.3. Định hướng phát triển TTCK đến năm 2020: 45 1.4. Lộ trình phát triển TTCK Việt Nam: 47 2. Giải pháp thực hiện . 49 2.1. Hoàn thiện khung pháp lý. 49 2.2. Đối với Ủy ban chứng khoán : 51 2.3. Hàng hóa cho thị trường: 52 2.4. Đối với các Công ty chứng khoán : 52 2.5. Hoạt động giao dịch chứng khoán chứng khoán: 53 KẾT LUẬN 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO 55 LỜI NÓI ĐẦU Việc hình thành và phát triển Thị trường (TTCK) là bước phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường. Việt Nam với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường cũng đòi hỏi phải có TTCK để làm cầu nối giữa một bên là các nhà đầu tư (bao gồm các tổ chức kinh tế - xã hội và dân chúng) với bên kia là các doanh nghiệp cần vốn kinh doanh và Nhà nước cần vốn để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước (tiền để thỏa mãn các nhu cầu chung của đất nước). TTCK có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị trường tài chính nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, vai trò đó chỉ có thể được thực hiện khi các giao dịch trên thị trường được diễn ra một cách hợp pháp, tạo điều kiện tăng tính hiệu quả và giảm rủi ro của thị trường. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, để đạt được mục tiêu đó, hoạt động giám sát của Ủy ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) và các Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) đối với TTCK, đặt biệt là giám sát giao dịch chứng khoán trên SGDCK là một yêu cầu rất quan trọng. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và quy mô TTCK ngày càng tăng, sự tham gia của các trung gian tài chính trong và ngoài nước trên TTCK ngày càng phát triển.TTCK từ khi thành lập đến nay đã phát huy được chức năng của mình đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế gây kiềm hãm sự phát triển của thị trường, với những vấn đề trên việc nghiên cứu giao dịch chứng khoán trên TTCKVN thực sự là một nhu cầu cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ thực tế trên nhóm chúng tôi (mạnh dạn nghiên cứu và) thực hiện tiểu luận với đề tài “Thị trường chứng khoán Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam”. Hy vọng những kiến thức của nhóm chúng tôi sẽ mang lại một cái nhìn tổng quát về hoạt động của thị trường Việt Nam trong giai đoạn hội nhập WTO.

doc56 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5196 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường chứng khoán Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n Quảng Nam (MIC), Công ty cổ phần Vincom (VIC), Công ty cổ phần Vinpearland (VPL), vụ thao túng thị trường đối với cổ phiếu của các công ty cổ phần xi măng Cần Thơ (CCM), vụ giao dịch nội gián đối với cổ phiếu của các công ty, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm thủy sản Bến Tre (FBT), Công ty cổ phần phát triển nhà Thủ Đức (TDH), Công ty cổ phần khoáng sản Hà Nam (KSH). Tuy nhiên mức xử phạt hiện hành theo Nghị Định 36/2007/NĐ-CP chỉ dừng lại ở mức xử phạt hành chính tối đa là 70 triệu đồng. Điều này thật sự chưa hợp lý vì lý do việc thu lợi từ việc vi phạm nhiều hơn so với mức đóng phạt hành chính. Điều này chưa đủ sức răn đe. 2.2. Nguyên nhân. Thứ nhất: Hàng hóa trên thị trường tuy có tăng về số lượng nhưng chưa đa dạng về chủng loại. Thị trường niêm yết hiện nay chỉ có cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ, chưa có công cụ phái sinh. Điều này không làm tăng tính đa dạng trong hoạt động đầu tư. Thiếu công cụ phòng ngừa hạn chế rủi ro khi thị trường có biến động lớn. Thứ hai: Các công ty niêm yết phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có sự tham gia của các tập đoàn kinh tế lớn nên khả năng cạnh tranh chưa cao nên chưa làm yên lòng các nhà đầu tư. Ngoài ra công tác quản trị, chế độ kế toán của các công ty niêm yết có những điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế điều này gây trở ngại đối với nhà đầu tư nước ngoài. Thông tin chưa minh bạch, chính xác điều này gây mất niềm tin đối với nhà đầu tư. Thứ ba: Nguồn nhân lực cho hoạt động của thị trường còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Phần lớn nhân lực trong lĩnh vực chứng khoán chưa được đào tạo chính quy và đúng chuyên môn mà từ các lĩnh vực chuyển sang nên còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, chương trình đào tạo cũng như nội dung đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực chứng khoán còn rất nhiều hạn chế. Hiện tại, Ủy ban chứng khoán nhà nước là cơ quan duy nhất được phép đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán, do vậy việc đào tạo gì, cấp bằng gì, chất lượng ra sao không có ai phản biện nên khó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực này. Ngoài ra việc thanh tra, giám sát hoạt động của công ty chứng khoán còn lỏng lẻo và chưa triệt để nên sai phạm của các công ty này diễn ra thường xuyên làm xói mòn niềm tin vào thị trường. Thứ tư: Số lượng công ty chứng khoán hiện nay ở Việt Nam so với quy mô thị trường tương đối nhiều, tuy nhiên còn thiếu về nhiều mặt. Hạ tầng kỹ thuật của các công ty chứng khoán chưa được đầu tư đúng mức, cho nên các công ty chứng khoán tuy nhiều nhưng chất lượng hoạt động chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Phần mềm Giao dịch chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM là phần mềm chuyển giao từ Thái Lan trước đây, khi có sự cố phải mời các chuyên gia Thái Lan sang khắc phục, gây tốn nhiều chi phí và không mang tính chuyên nghiệp mất nhiều thời gian để chuyên gia Thái Lan sửa lỗi. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến nhiều lần “sập sàn” do quy mô giao dịch tăng đột biến những năm 2007. Tính chuyên nghiệp của thị trường chưa cao. Điều này thể hiện ở thị trường chưa minh bạch, kiến thức chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với nhà đầu tư còn hạn chế, pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán chưa ổn định… Thứ năm: Hiện trung tâm lưu ký quản lý tài khoản trực tiếp của công ty chứng khoán mà chưa quản lý cụ thể đến từng nhà đầu tư. Điều này không kiểm soát được việc nhà đầu tư mở một lúc nhiều tài khoản qua nhiều công ty chứng khoán khác nhau. Quan trọng hơn chính vấn đề này nhiều công ty chứng khoán có cơ hội vi phạm như dùng đòn bẩy tài chính, bán chứng khoán ngày T, T+1, T+2, phân bổ chứng khoán của công ty chứng khoán cho nhà đầu tư không chính xác, điều này gây nên sự những nhiễu và bất lợi cho nhà đầu tư nhỏ. 3. Mô hình tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam. (phần này nên nêu một cách khái quát các định nghĩa, chứ không nên nêu cụ thể trách nhiệm và quyền hạn, chỉ cần có sơ đồ minh họa cơ cấu tổ chức là được) 3.1. Ủy ban chứng khoán Nhà nước. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Với vị thế là cơ quan quản lý chuyên ngành về chứng khoán và TTCK, UBCKNN có vai trò rất quan trọng trong việc chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của TTCK, đồng thời tổ chức và quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK với mục tiêu chính là tạo môi trường thuận lợi cho việc huy động vốn cho đầu tư phát triển, đảm bảo cho TTCK hoạt động có tổ chức, an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư. UBCKNN là cơ quan thuộc Chính phủ, có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của một cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực chứng khoán và TTCK. Với Nghị định số 90/2003/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 12/8/2003 thay thế Nghị định số 75/CP, UBCKNN có các nhiệm vụ, quyền hạn: Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng được Thủ tướng Chính phủ phân công ký các văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán và tổ chức thực hiện các văn bản đó; Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, các chương trình, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm và các dự án quan trọng của UBCKNN; tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, chương trình, kế hoạch sau khi được phê duyệt; Ban hành, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm chuyên môn nghiệp vụ và định mức kinh tế - kỹ thuật được áp dụng trong các tổ chức, đơn vị trực thuộc theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán; Cấp, gia hạn, đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép phát hành, niêm yết, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán, hành nghề kinh doanh chứng khoán theo quy định của pháp luật; Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán, các thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức; Tổ chức, quản lý Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán và các thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức, các trung tâm lưu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ chứng khoán; Quản lý các hoạt động liên quan đến thị trường chứng khoán của tổ chức phát hành chứng khoán, tổ chức niêm yết chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán và tổ chức phụ trợ theo quy định của pháp luật; Thanh tra, kiểm tra và giám sát các đối tượng tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán và xử lý các vi phạm về chứng khoán và thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật; Quản lý các dự án đầu tư và xây dựng thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật; tham gia thẩm định các đề án, dự án quan trọng thuộc lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Hướng dẫn, tạo điều kiện cho các tổ chức hiệp hội chứng khoán thực hiện mục đích, tôn chỉ và điều lệ hoạt động của hiệp hội; kiểm tra thực hiện các quy định của Nhà nước, xử lý hoặc kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật của hiệp hội chứng khoán theo quy định của pháp luật; Tổ chức nghiên cứu khoa học về chứng khoán và thị trường chứng khoán; đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và các đơn vị trực thuộc, nhân viên kinh doanh chứng khoán và các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán; Tổ chức thông tin, tuyên truyền, phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho các tổ chức và cho công chúng; Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật; Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; chỉ đạo thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước; Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ theo quy định của pháp luật; Thực hiện chế độ báo cáo với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyề theo quy định của pháp luật. Cơ cấu tổ chức của UBCKNN theo Nghị định 90/2003/NĐ-CP của Chính phủ: Lãnh đạo UBCKNN: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch; Các Uỷ viên kiêm nhiệm cấp Thứ trưởng Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Các tổ chức tham mưu giúp Chủ tịch UBCKNN (Chủ tịch) thực hiện quản lý các lĩnh vực về chứng khoán và TTCK: Vụ Phát triển thị trường chứng khoán: tham mưu giúp Chủ tịch về chiến lược và chính sách phát triển TTCK; Vụ Quản lý phát hành chứng khoán: tham mưu giúp Chủ tịch về quản lý phát hành và niêm yết chứng khoán; Vụ Quản lý kinh doanh chứng khoán: tham mưu giúp Chủ tịch quản lý về tổ chức và hoạt động của các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; Vụ Pháp chế: tham mưu giúp Chủ tịch trong việc thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật về chứng khoán và TTCK; Thanh tra: tham mưu giúp Chủ tịch và thực hiện công tác thanh tra, giám sát về việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK; Vụ Kế hoạch - Tài chính: tham mưu giúp Chủ tịch về công tác tài chính - kế toán, đầu tư và xây dựng đối với các tổ chức thuộc UBCKNN; Vụ Hợp tác quốc tế: Tham mưu giúp Chủ tịch về hợp tác quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK; Vụ Tổ chức cán bộ: tham mưu giúp Chủ tịch thực hiện các chủ trương, chính sách về tổ chức bộ máy, biên chế, đào tạo công chức, viên chức của UBCKNN; Văn phòng: tham mưu giúp Chủ tịch tổng hợp, điều phối hoạt động các tổ chức của UBCKNN, thực hiện công tác hành chính, quản trị đối với các hoạt động của Uỷ ban. Văn phòng UBCKNN có đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sáp nhập Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước vào Bộ Tài chính: Căn cứ Nghị định số 66/2004/NĐ-CP ngày 19/02/2004, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ngày 07/9/2004 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 161/2004/QĐ-TTg quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Theo Quyết định này, UBCKNN là tổ chức thuộc Bộ Tài chính, chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài chính, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK; trực tiếp quản lý, giám sát   hoạt động chứng khoán và TTCK; quản lý các hoạt động dịch vụ công thuộc lĩnh vực chứng khoán và TTCK theo quy định của pháp luật. 3.2. Trung tâm giao dịch chứng khoán. 3.2.1 Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh: Qua 7 năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với TTCK thế giới, Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM đã chính thức được Chính phủ ký Quyết định số:599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 chuyển đổi thành Sở giao dịch Chứng khoán Tp.HCM. Ngày 08/08/2007, SGDCK TP.HCM đã chính thức được khai trương. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh (TTGDCK TP.HCM) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg  ngày 11/07/1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng  trong đời sống kinh tế- xã hội của đất nước. Sự ra đời của TTGDCK TP.HCM có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra một kênh huy động và luân chuyển vốn mới phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là sản phẩm của nền chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhà nước ta. Là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân  sách nhà nước cấp, Trung tâm được Chính phủ giao một số chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán tập trung tại Việt Nam. Đó là: tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán; quản lý điều hành hệ thống giao dịch; thực hiện hoạt động quản lý niêm yết, công bố thông tin, giám sát giao dịch, hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán và một số hoạt động khác. Để thực hiện tốt các chức năng, Trung tâm có cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ, bao gồm: một Giám đốc và hai Phó giám đốc, trong đó có một Phó giám đốc thường trực và 9 phòng, ban (Phòng Quản lý niêm yết, Phòng Quản lý thành viên, Phòng Giám sát giao dịch, Phòng Đăng ký - Lưu ký - Thanh toán bù trừ, Phòng Công nghệ thông tin, Phòng Thông tin Thị trường, Phòng Hành chính Tổng hợp, Phòng Kế toán và Ban quản lý Dự án).          3.2.2. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội: Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) được thành lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-Ttg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Ngày 11 tháng 07 năm 1998, Chính phủ ra Quyết định số 127/1998/QÐ-TTg thành lập hai Trung tâm giao dịch chứng khoán trực thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Theo đó, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân sách Nhà nước cấp. Biên chế của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thuộc biên chế của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. TTGDCK Hà Nội có các nhiệm vụ chủ yếu sau: Tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán; Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán; Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng khoán; Thực hiện đăng ký chứng khoán. Có thể khái quát các nội dung hoạt động chính trong giai đoạn đầu của TTGDCK Hà Nội như sau: Tổ chức đấu giá cổ phần cho các doanh nghiệp; Tổ chức đấu thầu trái phiếu; Tổ chức giao dịch chứng khoán theo cơ chế đăng ký giao dịch. 3.3. Trung tâm lưu ký chứng khoán và thanh toán bù trừ. * Các khái niệm: a.Lưu ký chứng khoán: Lưu ký (Deposit) là việc gửi chứng chỉ chứng khoán như tờ cổ phiếu, trái phiếu, hoặc các loại giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sở hữu chứng khoán vào hệ thống lưu ký. Chứng khoán đã được lưu ký sẽ được ghi nhận vào tài khoản lưu ký chứng khoán đứng tên nhà đầu tư. Khi chứng khoán được giao dịch, tài khoản của nhà đầu tư sẽ được ghi tăng hoặc giảm mà không cần phải trao tay tờ chứng chỉ chứng khoán. Lưu ký chứng khoán là bắt buộc trước khi muốn chứng khoán được giao dịch qua sàn giao dịch của Trung tâm giao dịch chứng khoán, nó như một bước khởi đầu nhằm tiện lợi và đơn giản hóa các thủ tục về sau. *Nguyên tắc lưu ký chứng khoán Việc lưu ký chứng khoán của khách hàng được quản lý theo hai cấp: khách hàng lưu ký chứng khoán tại thành viên lưu ký và thành viên lưu ký tái lưu ký chứng khoán của khách hàng tại TTLK. Thành viên lưu ký nhận lưu ký các chứng khoán của khách hàng với tư cách là người được khách hàng uỷ quyền thực hiện các nghiệp vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán. Để lưu ký chứng khoán, khách hàng phải ký hợp đồng mở tài khoản lưu ký chứng khoán với thành viên lưu ký. TTLK nhận tái lưu ký chứng khoán từ các thành viên lưu ký với tư cách là người được thành viên uỷ quyền thực hiện các nghiệp vụ liên quan tới hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán. Để tái lưu ký chứng khoán, thành viên phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán đứng tên thành viên lưu ký tại TTLK. *Hiệu lực lưu ký chứng khoán - Việc lưu ký chứng khoán có hiệu lực kể từ thời điểm TTLK thực hiện hạch toán trên tài khoản lưu ký chứng khoán liên quan của thành viên mở tại TTLK. - Việc hạch toán, chuyển khoản chứng khoán bằng bút toán ghi sổ giữa các tài khoản lưu ký chứng khoán của thành viên hoặc khách hàng lưu ký tại TTLK có hiệu lực pháp lý như đối với chuyển giao chứng khoán vật chất và được pháp luật thừa nhận. - Chứng khoán chưa được giao dịch bán khi chưa được TTLK hạch toán vào tài khoản chứng khoán giao dịch của thành viên. b. Trung tâm lưu ký chứng khoán và thanh toán bù trừ: Hệ thống lưu ký chứng khoán trước đây ở Việt Nam được quy định rõ trong Chương V- Đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán – Nghị định 144CP, gồm hai bước cụ thể. Thứ nhất, việc lưu ký chứng khoán của các nhà đầu tư chỉ được thực hiện tại các thành viên lưu ký của Trung tâm giao dịch chứng khoán nên chứng khoán của các nhà đầu tư sẽ được tập trung tại Trung tâm giao dịch chứng khoán và Trung tâm lưu ký chứng khoán qua các thành viên lưu ký. Sau đó các thành viên lưu ký sẽ lưu ký chứng khoán khách hàng của mình tại Trung tâm giao dịch và Trung tâm giao dịch, nơi mà họ đã mở tài khoản lưu ký của chính mình. Lúc đó, Trung tâm giao dịch chứng khoán Việt Nam đóng vai trò là Trung tâm lưu ký. Các thành viên lưu ký bao gồm các công ty chứng khoán và các ngân hàng thương mại đã được Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước cấp phép hoạt động lưu ký và đã đăng ký làm thành viên lưu ký của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Nói đến đăng ký chứng khoán, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán là nói đến dịch vụ hỗ trợ giao dịch chứng khoán trên các thị trường chứng khoán (TTCK) bao gồm cả các thị trường chính thức và thị trường phi tập trung Đăng ký chứng khoán Phần trên đã đề cập, để chứng khoán niêm yết hay đăng ký giao dịch được giao dịch trên TTCK, chúng cần phải được lưu ký tập trung tại một nơi, nơi đó chính là TTLKCK. Tuy nhiên, trước khi chứng khoán được đưa vào lưu ký tập trung tại TTLKCK, chúng cần phải được đăng ký đầy đủ thông tin để TTLKCK có thể nhận lưu ký. Các thông tin đăng ký bao gồm: - Đăng ký thông tin về chứng khoán chẳng hạn như tên chứng khoán, loại chứng khoán, mẫu mã chứng khoán, số lượng đang lưu hành.... - Đăng ký thông tin về người sở hữu chứng khoán chẳng hạn như tên, địa chỉ, điện thoại liên lạc của người sở hữu, số lượng sở hữu... Việc thực hiện đăng ký thông tin thường do tổ chức phát hành tiến hành hoặc do một tổ chức được tổ chức phát hành ủy quyền tiến hành. Như vậy, đối với các chứng khoán niêm yết hoặc đăng ký giao dịch, TTLKCK trở thành nơi duy nhất thực hiện dịch vụ làm đại lý chuyển nhượng, cụ thể là: - Thực hiện quản lý sổ đăng ký người sở hữu chứng khoán cho các tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký giao dịch, ghi nhận quyền sở hữu và thông tin thay đổi quyền sở hữu của người sở hữu chứng khoán. - Thực hiện các quyền liên quan đến chứng khoán lưu ký cho người sở hữu chứng khoán bao gồm các quyền như quyền tham dự đại hội cổ đông, quyền nhận cổ tức, quyền bỏ phiếu, quyền nhận trái tức và vốn gốc, quyền mua, quyền chuyển đổi, tách hoặc gộp cổ phiếu... Lưu ký chứng khoán Lưu ký chứng khoán thực chất là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng cả chứng khoán vật chất và chứng khoán ghi sổ. Đồng thời đối với các chứng chỉ vật chất, TTLK còn phải thực hiện cả việc quản lý nhập, xuất và bảo quản an toàn chứng chỉ chứng khoán tại kho chứng chỉ chứng khoán. Để theo dõi và quản lý luồng ra vào chứng khoán của khách hàng ký gửi tại TTLKCK (ký gửi thông qua các tổ chức lưu ký thành viên), TTLKCK phải thực hiện mở tài khoản lưu ký chứng khoán cho các tổ chức lưu ký thành viên và cho khách hàng, tương tự như việc ngân hàng thương mại (NHTM) mở tài khoản vãng lai để quản lý luồng tiền cho khách hàng của mình. Chính vì vậy, lưu ký chứng khoán còn bao gồm cả việc thực hiện các dịch vụ liên quan đến mở tài khoản, nhận gửi, rút, chuyển khoản chứng khoán lưu ký. Ngoài ra, TTLKCK cũng như các tổ chức lưu ký còn cung ứng bất cứ dịch vụ nào khác được pháp luật cho phép liên quan đến tài khoản lưu ký chứng khoán, chẳng hạn như dịch vụ làm trung gian trong các giao dịch bảo đảm như cầm cố, giải tỏa cầm cố chứng khoán. Cầm cố chứng khoán là việc các NHTM, tổ chức tín dụng cho người đầu tư vay tiền để đầu tư chứng khoán với thế chấp là chứng khoán do người đầu tư sở hữu. Vì vậy, đây thực chất là một dạng quan hệ hợp đồng giữa bên cầm cố (người đầu tư) và bên nhận cầm cố (ngân hàng), mà trong quan hệ này các tổ chức lưu ký chỉ đóng vai trò là trung gian, trên cơ sở bản hợp đồng cầm cố đó thực hiện chuyển khoản số chứng khoán cầm cố từ tài khoản chứng khoán giao dịch vào tài khoản chứng khoán cầm cố để đảm bảo việc duy trì tài sản thế chấp cho bên nhận cầm cố. Khi hợp đồng cầm cố hết hiệu lực hoặc theo yêu cầu của bên nhận cầm cố, tổ chức lưu ký sẽ thực hiện giải tỏa số chứng khoán cầm cố, trả lại cho người đầu tư (bên cầm cố). Bù trừ chứng khoán và tiền Nếu đăng ký và lưu ký chứng khoán là khâu hỗ trợ trước giao dịch chứng khoán, thì bù trừ chứng khoán và tiền là khâu hỗ trợ sau giao dịch chứng khoán. Sau khi chứng khoán niêm yết đã được đưa vào đăng ký, lưu ký tập trung tại TTLKCK, chúng sẽ được phép giao dịch trên TTCK. Tuy nhiên, sau khi giao dịch trên thị trường được thực hiện (đã được xác nhận), thì các bên tham gia giao dịch cần phải nhận được tài sản của mình: bên bán nhận được tiền, bên mua nhận được chứng khoán. Bù trừ chứng khoán và tiền là khâu tiếp theo sau giao dịch, thực hiện việc xử lý thông tin về các giao dịch chứng khoán, tính toán lại nhằm xác định số tiền và chứng khoán ròng cuối cùng mà các đối tác tham gia giao dịch phải có nghĩa vụ thanh toán sau khi giao dịch được thực hiện. Hoạt động bù trừ trên TTCK về cơ bản cũng tương tự như hoạt động bù trừ của các NHTM, đặc biệt là liên quan đến mảng bù trừ tiền. Kết quả bù trừ tiền luôn thể hiện nghĩa vụ thanh toán một chiều đối với một thành viên lưu ký: hoặc được nhận tiền, nếu tổng số tiền phải trả nhỏ hơn tổng số tiền được nhận; hoặc phải trả tiền nếu tổng số tiền phải trả lớn hơn tổng số tiền được nhận. Điểm khác nhau so với bù trừ cho giao dịch của các NHTM là bù trừ cho các giao dịch chứng khoán không chỉ liên quan đến mảng tiền mà còn liên quan đến mảng chứng khoán nữa. Việc bù trừ chứng khoán cũng mang đặc thù riêng là phải được thực hiện theo từng loại chứng khoán do không thể bù trừ các loại chứng khoán khác nhau với nhau. Do đó, đối với cùng một loại chứng khoán nhất định, kết quả bù trừ chứng khoán sẽ chỉ ra nghĩa vụ thanh toán một chiều của từng thành viên lưu ký: hoặc phải giao loại chứng khoán đó nếu số lượng chứng khoán khách hàng đặt mua ít hơn số lượng khách hàng đặt bán, hoặc được nhận về loại chứng khoán đó nếu số lượng chứng khoán khách hàng đặt mua nhiều hơn số lượng khách hàng đặt bán. Trong hoạt động bù trừ, phương thức bù trừ cũng là một vấn đề cần quan tâm. Phương thức bù trừ cho các giao dịch chứng khoán được quyết định bởi phương thức giao dịch trên TTCK. Nếu phương thức giao dịch là đa phương (nhiều bên mua với nhiều bên bán), điển hình có thể thấy là đối với các giao dịch khớp lệnh cổ phiếu, thì phương thức bù trừ chứng khoán và tiền sẽ là bù trừ đa phương. Nếu phương thức giao dịch là song phương (một bên mua với một bên bán), điển hình có thể thấy là đối với các giao dịch thỏa thuận, thì phương thức bù trừ cũng sẽ là bù trừ song phương. Thanh toán chứng khoán và tiền Thanh toán chứng khoán và tiền cũng là dịch vụ hỗ trợ sau giao dịch chứng khoán, là hoạt động cuối cùng để hoàn tất các giao dịch chứng khoán, theo đó các bên tham gia giao dịch sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình: bên phải trả chứng khoán thực hiện giao chứng khoán, bên phải trả tiền thực hiện việc chuyển tiền, lần lượt trên cơ sở kết quả bù trừ chứng khoán và tiền được đưa ra ở trên. Để giảm rủi ro cho các đối tác tham gia giao dịch, việc thanh toán chứng khoán và tiền luôn phải đảm bảo nguyên tắc giao chứng khoán đồng thời với việc thanh toán tiền, hay còn gọi là nguyên tắc DVP (Delivery versus Payment). Thời hạn của việc thanh toán được quyết định bởi chu kỳ thanh toán. Tùy thuộc vào điều kiện của từng nước mà chu kỳ thanh toán áp dụng có thể là T+1; T+2 hay T+3, trong đó T được hiểu là ngày giao dịch (ngày mà giao dịch được thực hiện) và 1; 2; 3 là số ngày giao dịch (không tính ngày nghỉ) tiếp theo kể từ ngày T. Theo khuyến nghị của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), của Tổ chức các ủy ban Chứng khoán quốc tế (IOSCO) cũng như của nhóm G30 (nhóm các quốc gia có TTCK phát triển), các nước nên áp dụng chu kỳ thanh toán tối đa là T+3. Trong hoạt động thanh toán chứng khoán và tiền, phương thức thanh toán cũng là mối quan tâm của các bên tham gia giao dịch. Phương thức thanh toán được quyết định bởi phương thức bù trừ, do thanh toán luôn được thực hiện trên cơ sở của kết quả bù trừ. Chính vì vậy, nếu phương thức bù trừ là đa phương thì phương thức thanh toán cũng là thanh toán đa phương và tương tự, phương thức bù trừ là song phương thì phương thức thanh toán cũng sẽ là thanh toán song phương. 3.4. Công ty chứng khoán: 3.4.1 Khái niệm: Hoạt động trên TTCK phản tuân theo các nguyên tắc nhất định, trong đó nguyên tắc trung gian là quan trong nhất. Theo nguyên tắc đó, việc mua bán chứng khoán đều phải thông qua người trung gian môi giới. Người môi giới chứng khoán có thể với tư cách thể nhân hay pháp nhân, trong đó môi giới pháp nhân được các nhà đâu tư ưa chuộng và tin tưởng hơn, nhưng tất cả đều phải do Ủy ban Nhà nước về chứng khoán cấp giấy phép hoạt động. Môi giới chứng khoán là một pháp nhân được gọi là côn ty chứng khoán. *Về hình thức tổ chức, công ty chứng khoán có thể tồn tại dưới 2 hình thức là: Công ty cổ phần Công ty trách nhiệm hữu hạn. *Công ty chứng khoán muốn được cấp phép hoạt động phải đáp ứng các điều kiện gồm: Có phương án kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, và ngành chứng khoán. Có đủ cơ sở vất chất kỹ thuật để phục vụ cho việc kinh doanh chứng khoán. Có mức vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định theo quy định cho từng loại hình kinh doanh chứng khoán. Tổng giám đốc và các nhân viên kinh doanh của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán do UBCK nhà nước cấp. 3.4.2. Chức năng của công ty chứng khoán a.Thứ nhất, giao dịch chứng khoán trên thị trường. Tùy theo qui mô hoạt động mà công ty chứng khoán có thể được phép thực hiện một hay nhiều loại nghiệp vụ giao dịch sau: Môi giới chứng khoán Buôn bán chứng khoán Đại lý phát hành chứng khoán Bảo lãnh phát hành chứng khoán b.Thứ hai, trung tam thông tin và tư vấn cho các nhà đâu tư chứng khoán. c.Thứ ba, can thiệp trên thị trường chứng khoán, góp phần điều tiết giá chứng khoán. 3.4.3. Quyền lợi và nghĩa vụ của công ty chứng khoán: Ký hợp đồng bằng văn bản với khách hàng về mua bán chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán. Phải thu thập đầy đủ thông tin về tình hình tài chính mục tiêu đầu tư của khách hàng. Quản lý tài sản chứng khoán của khách hàng tách biệt với tài sản chứng khoán của công ty. Chỉ được nhận lệnh giao dịch của khách hàng tại trụ sở. Ưu tiên thực hiện lệnh mua hay bán chứng khoán của khách hàng trước lệnh của công ty. Bảo mật thông tin cho khách hàng Thu phí cung cấp dịch vụ. Mức phí do UBCK nhà nước quy định sau khi thỏa thuận với Bô tài chính. Thực hiện chế độ kế toán, tài chính theo quy định của PL. Tuân thủ các quy định khác về kinh doanh chứng khoán của UBCK nhà nước. 3.5. Quỹ đầu tư 3.5.1.Quỹ đầu tư: Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trung gian có nhiệm vụ huy động những nguồn nhỏ bé lẻ tẻ nhàn rỗi trong xã hội thành những nguồn vốn lớn, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư dài hạn, đặc biệt là các dự án phát triển sản xuất trong nền kinh tế. Các bên tham gia: các bên tham gia hoạt dộng của quỹ đầu tư chứng khoán là công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và người đầu tư. Công ty quản lý quỹ thực hiện việc quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Ngân hàng giám sát thực hiện việc bảo quản, lưu ý tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán và giám sát công ty quản lý quỹ trong việc bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Người đầu tư: góp vốn vào quỹ đầu tư chứng khoán và được hưởng lợi từ việc đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán. 3.5.2. Công ty quản lý quỹ: a.Công ty quản lý quỹ là một dạng doanh nghiệp là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, nó phát hành và bán cổ phiếu để lấy vốn hoạt động. Công ty đầu tư là một dạng doanh nghiệp đặc biệt. nó không dung vốn của mình để mua máy móc thiết bị, các yếu tố sản xuất khác để tiến hàng các hoạt động sản xuất kinh doanh mà dung vốn để đầu tư dài hạn, qua góp vốn lien doanh, mua cồ phần hoặc các loại chứng khoán khắc với mục đích thu lợi nhuận. như vậy hoạt dộng của công ty đầu tư là kinh doanh đầu tư vốn bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. b.Điều kiện thành lập công ty quản lý quỹ: Công ty quản lý quỹ phải được ủy ban chứng khoán nhà nước cấp phép hoạt động. để được cấp giấy phép hoạt động, công ty quản lý quỹ phải: Là công ty cồ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập theo quy định của pháp luật, có mức vốn pháp định là 5 tỷ đồng. Có đội ngũ nhân viên nghiệp vụ được đào tạo về chứng khoán, có cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm thực hiện hoạt động quản lý quỹ theo quy định của ủy ban chứng khoán nhà nước. Có những người điều hành công ty quản lý quỹ và điều hành quỹ được ủy ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán. c.Phân loại quỹ đầu tư: Căn cứ vào qui mô, cách thức và tính chất góp vốn, quỹ đầu tư chia làm 2 loại: *Quỹ đầu tư dạng đóng: Đây là quỹ đầu tư mà theo điều lệ quy định thường chỉ tạo vốn qua một lần bán chứng khoán cho công chúng, Quỹ đầu tư dạng đóng có thể phát hành cổ phiếu thông thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu. Quỹ không được phát hành thêm bất kỳ một loại cổ phiếu nào để huy động thêm vốn và cũng không mua lại các cổ phiếu đã phát hành. Số cổ phần đó được mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán cũng như cổ phiếu của các công ty khác. Muốn mua bán cổ phiếu của quỹ đầu tư dạng đóng này phải tiếp xúc với nhà môi giới và phải trả tiền hoa hồng cho mỗi dịch vụ cũng như mua bán các loại cổ phiếu khác. *Quỹ đầu tư dạng mở: Khác với quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở luôn phát hành thêm những cổ phiếu mới để tăng thêm vốn và cũng sẵn sang chuộc lại những cổ phiếu đã phát hành. Các cổ phiếu của quỹ được bán trực tiếp cho công chúng không qua thị trường chứng khoán. Muốn mua cổ phiếu của quỹ đầu tư dạng mở chúng ta không phải qua môi giới, không phải trả tiền hoa hồng và có thể viết thư hoặc điện thoại trực tiếp cho quỹ xin các giấy tờ cần thiết. 3.5.3 Ngân hàng giám sát: Ngân hàng giám sát là ngân hàng thực hiện việc bảo quản, lưu ký tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán và giám sát mọi hoạt động của công ty quản lý quỹ nhằm bảo vệ lợi ích của người đầu tư chứng khoán. Một ngân hàng muốn trở thành ngân hàng giám sát phải đáp ứng các điều kiện: Được NHNNVN cấp phép hoạt động Được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động lưu ký chứng khoán. Là ngân hàng độc lập với công ty quản lý quỹ. Không sở hữu bất kỳ tài sản nào của quỹ đầu tư chứng khoán. Trách nhiệm của ngân hàng giám sát: Bảo quản tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán và phải tách biệt tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán với tài sản khác. Kiểm tra, giám sát, đảm bảo các quyết định đầu tư của công ty quản lý quỹ đúng với pháp luật và điều lệ quỹ, bảo vệ quyền lợi người đầu tư. 3.5.4 Người đầu tư: Người đầu tư là ngưới góp vốn vào quỹ đầu tư chứng khoán và được hưởng lợi từ việc đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán nhưng không trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với các tài sản trong danh mục đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán. PHẦN C: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN TTCK Ở VIỆT NAM. 1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. 1.1. Mục tiêu. Phát triển thị trường chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó, cũng phải nhấn mạnh đến việc mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường; bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán liên hệ mật thiết với chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung và chiến lược phát triển tài chính đến năm 2020 nói riêng. Cần tăng quy mô, chất lượng công ty chứng khoán theo hướng tái cấu trúc (phá sản, thâu tóm, sáp nhập); giảm số lượng công ty chứng khoán từ trên 100 như hiện nay xuống khoảng 50 công ty (bình quân thị phần mỗi công ty chứng khoán là 4 tỷ USD). Để thực hiện được những mục tiêu trên, cần hoàn thiện khung pháp lý, thể chế mà cơ bản là hoàn thiện Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn; tạo cơ chế để các cơ quan quản lý có tính độc lập; tăng nguồn cung cho thị trường chứng khoán, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước và phát huy vai trò các Hiệp hội ngành nghề chứng khoán, vai trò tư vấn độc lập, phản biện chính sách từ các tổ chức. 1.2. Quan điểm và nguyên tắc phát triển TTCK. 1. Phát triển thị trường chứng khoán phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, từng bước hội nhập với thị trường tài chính khu vực và thế giới; 2. Xây dựng thị trường chứng khoán thống nhất trong cả nước, hoạt động an toàn, hiệu quả góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước; 3. Nhà nước thực hiện quản lý bằng pháp luật, tạo điều kiện để thị trường chứng khoán hoạt động và phát triển; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán; 4. Bảo đảm tính thống nhất của thị trường tài chính trong phạm vi quốc gia, gắn việc phát triển thị trường chứng khoán với việc phát triển thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường bảo hiểm. 1.3. Định hướng phát triển TTCK đến năm 2020. 1. Mở rộng quy mô của thị trường chứng khoán tập trung. Về định hướng chiến lược, dự kiến năm 2015, quy mô vốn hóa thị trường đạt 65-70% GDP và đến năm 2020 quy mô vốn hóa thị trường đạt 90-100% GDP. a) Tập trung phát triển thị trường trái phiếu, trước hết là trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển. b) Tăng số lượng các loại cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung nhằm tăng quy mô về vốn cho các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các công ty niêm yết. 2. Phát triển các định chế tài chính trung gian cho thị trường chứng khoán Việt Nam. a) Tăng quy mô và phạm vi hoạt động nghiệp vụ kinh doanh, dịch vụ của các công ty chứng khoán. Phát triển các công ty chứng khoán theo hai loại hình: Công ty Chứng khoán đa nghiệp vụ và Công ty Chứng khoán chuyên doanh, nhằm tăng chất lượng cung cấp dịch vụ và khả năng chuyên môn hoá hoạt động nghiệp vụ. b) Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có đủ điều kiện thành lập các công ty chứng khoán, khuyến khích các công ty chứng khoán thành lập các chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh ở các tỉnh, thành phố lớn, các khu vực đông dân cư trong cả nước. c) Phát triển các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt động. Đa dạng hoá các loại hình sở hữu đối với công ty quản lý quỹ đầu tư. Khuyến khích các công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư. d) Thành lập một số công ty định mức tín nhiệm để đánh giá, xếp loại rủi ro các loại chứng khoán niêm yết và định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam. 3. Phát triển các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư cá nhân. a) Thiết lập hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức bao gồm các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, các quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư..., tạo điều kiện cho các tổ chức này tham gia thị trường với vai trò là các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và thực hiện chức năng của các nhà tạo lập thị trường. b) Mở rộng và phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán; tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào thị trường chứng khoán thông qua góp vốn vào các quỹ đầu tư. 4. Nâng cao năng lực quản lý, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm và cưỡng chế thực thi những vi phạm của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán; tăng cường năng lực giám sát thị trường, đảm bảo cho thị trường hoạt động bền vững, an toàn, công khai, minh bạch. 1.4. Lộ trình phát triển TTCK Việt Nam. Giai đoạn 2000-2005 được xem là giai đọan khởi động của thị trường chứng khoán. Sự có mặt của Sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM không những đã khuấy động được không khí đầu tư trong công chúng mà còn góp phần tích lũy những kinh nghiệm ban đầu tạo đà cho việc ra đời Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội vào ngày 8/3/2005. Trong giai đọan này quy mô của thị trường còn nhỏ với giá trị vốn hóa nhỏ hơn 5% GDP. Bên cạnh đó, cơ chế hoạt động của thị trường chưa hoàn chỉnh, năng lực quản lý của thị trường chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển lâu dài của thị trường, cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn yếu đã làm ảnh hưởng đến hệ thống giao dịch, khả năng cập nhật thông tin, xử lý và dự báo của thị trường.  (Nguồn: UBCK Nhà nước) Bước sang giai đọan 2005-2009 được xem là giai đọan tăng tốc của thị trường với sự tăng trưởng đột phá. Tỷ lệ vốn hóa/GDP vượt xa so với chiến lược phát triển của thị trường đến năm 2010 (ở mức 10-15% GDP).  (Nguồn: UBCK Nhà nước) Với quy mô thị trường trong giai đọan này số lượng công ty chứng khóan và người đầu tư cũng tăng trưởng mạnh. Nếu như năm 2000 với 6 công ty chứng khóan vốn điều lệ trung bình không quá 50 tỷ đồng thì đến cuối năm 2009 cả nước đã có 105 công ty chứng khoán vốn điều lệ trung bình 175 tỷ đồng, trong đó có những công ty vốn lớn trên 1.000 tỷ đồng như Công ty CP chứng khoán Sài Gòn (SSI) 1.533 tỷ đồng, Công ty Chứng khoán Ngân hàng Á Châu (ACBS) 1.500 tỷ đồng… Trong giai đoạn này ngoài tăng trưởng, thị trường chứng khoán cũng đón nhận những sự chuyển biến mạnh mẽ về công tác quản lý khi tháng 1/2007 Luật Chứng khoán có hiệu lực. Năm 2007 Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM thực hiện chuyển đổi thành Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) nhằm tạo sự chủ động hơn trong công tác quản lý, góp phần thúc đẩy thị truờng phát triển. Năm 2008, mặc dù chịu ảnh hưởng không ít do suy thoái kinh tế toàn cầu song khối lượng giao dịch bình quân tại HOSE vẫn đạt 13 triệu đơn vị/phiên, triển khai giao dịch trực tuyến, khớp lệnh liên tục góp phần thúc đẩy họat động giao dịch của thị trường. Bước sang năm 2009 với chủ trương kích cầu của Chính phủ và dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế vào những tháng cuối năm đã giúp cho thị trường khởi sắc trở lại. Tính đến cuối năm 2009 mức vốn hóa toàn thị trường đạt 620 nghìn tỷ đồng, tương đương 38% GDP. Có thể thấy những kết quả đạt được sau 10 năm thị trường chứng khoán hình thành và phát triển khá rõ nét song ngay trong những giai đọan thị trường tăng trưởng mạnh nhất vẫn bộc lộ những hạn chế như tính thanh khoản của thị trường thấp dẫn đến mất cân đối cung cầu làm giá cả biến động thất thường. Sự tăng trưởng của thị trường chưa bắt nguồn từ động cơ tích cực khi nhà đầu tư còn chạy theo phong trào, thị trường thiếu vắng các nhà đầu tư dài hạn. Hệ thống các tổ chức trung gian hỗ trợ cho hoạt động của thị trường còn nhiều hạn chế, khung pháp lý của thị trường còn nhiều bất cập khi mà Luật Chứng khoán đã ban hành song chưa đầy đủ ở một số hành vi như giao dịch khống, giao dịch tín dụng, giao dịch các sản phẩm phái sinh… Trong giai đọan phát triển từ nay đến năm 2020 thị trường chứng khoán tiếp tục là kênh dẫn vốn đầu tư cho nền kinh tế. Mục tiêu chiến lược phát triển thị trường chứng khoán giai đoạn 2011-2020 là phát triển về quy mô, chất lượng hoạt động, duy trì trật tự an toàn cho thị trường. Bên cạnh đó, chú trọng việc mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường; bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Về định hướng chiến lược, dự kiến năm 2015, quy mô vốn hóa thị trường đạt 65-70% GDP và đến năm 2020 quy mô vốn hóa thị trường đạt 90-100% GDP. Vớiđịnh hướng chung đó thị trường chứng khoán củng cố và hòan thiện họat động đảm bảo sự phát triển bền vững và lành mạnh. Hay nói cách khác thị trường cần đạt chuẩn mực chung của một thị trường chứng khoán hiệu quả với độ tin cậy của số liệu thông tin trên thị trường; thị trường có tính thanh khỏan cao góp phần hình thành giá cả hợp lý, năng lực các công ty chứng khoán đảm bảo sự tín nhiệm. Để phát triển mạnh thị trường chứng khoán thì cần đẩy mạnh việc cải cách, sắp xếp lại Doanh nghiệp Nhà nước và tạo động lực cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế huy động được các nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn cho đầu tư phát triển qua thị trường chứng khoán.Đồng hành với sự phát triển của thị trường chứng khoán, các thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán phái sinh, thị trường bảo hiểm cũng cần được hoàn thiện về mặt thể chế để tạo ra sự thống nhất, đồng bộ cho thị trường tài chính. Ngoài ra, thị trường và các thành viên cũng rất cần chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh./. 2. Giải pháp thực hiện. 2.1. Hoàn thiện khung pháp lý: - Hoàn thiện các văn bản pháp lý, cơ chế chính sách cho sự phát triển của thị trường chứng khoán cụ thể xem xét sửa đổi, bổ sung Luật chứng khoán theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật cho phù hợp với xu thế hội nhập của nền kinh tế; Cần sớm cho ra đời và phát triển của chứng khoán phái sinh. Thực tế thị trường đang đòi hỏi sớm có các quy định hướng dẫn các nghiệp vụ chứng khoán trọng yếu như giao dịch ký quỹ, giao dịch bán khống có quản lý (cơ chế vay, cho vay chứng khoán), giao dịch mua - bán bắt buộc, các quy định hướng dẫn tổ chức thực hiện và giao dịch chứng khoán phái sinh như quyền chọn, hợp đồng tương lai… - Tăng cường công tác thanh tra giám sát hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường, xử lý nghiêm các vi phạm về công bố thông tin, về tin đồn gây bất lợi cho hệ thống thị trường tài chính, về rò rỉ thông tin, giao dịch nội gián, làm giá cổ phiếu... Để khắc phục tình trạng + Một là: Rà soát lại thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin và áp dụng thống nhất cho việc công bố thông tin trên thị trường; tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm khắc việc công bố thông tin chậm, công bố thông tin không chính xác, để rò rỉ thông tin bất luận là tổ chức hay cá nhân. + Hai là: xử lý nghiêm khắc các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng phương tiện truyền thông (báo, chí, trang tin…) đưa thông tin sai lệch, hoặc làm méo mó tin, hoặc thông tin bất lợi cho thị trường mà không rõ nguồn gốc. + Ba là: tiếp tục yêu cầu các công ty đại chúng đăng ký trên thị trường UpCoM bằng các quy định và chế tài cụ thể (đối với các công ty chưa thực hiện đăng ký khi có đủ điều kiện). + Bốn là: Về phía cơ quan quản lý nhà nước cần có thông điệp rõ ràng, minh bạch về việc điều hành các chính sách kinh tế – tài chính cũng như các thông tin vĩ mô để mọi người dân biết, hiểu đúng và chấp hành nghiêm túc. + Năm là: Thu hẹp hoạt động của thị trường tự do bằng cách yêu cầu các công ty đại chúng giao dịch trên thị trường tự do phải tuân thủ các yêu cầu về kiểm toán, công bố thông tin, quản trị công ty như các doanh nghiệp đã niêm yết. Điều này vừa giúp giảm thiểu rủi ro trong thanh toán, vừa làm cho các giao dịch này được công khai, dễ kiểm soát, từng bước thu hút vào thị trường có tổ chức. Mặt khác cũng cần cải tiến và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền để người dân tiếp cận được thông tin kịp thời về cơ chế chính sách của Nhà nước nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. - Phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Nếu quản lý tài khoá yếu kém, sẽ tăng kỳ vọng lạm phát, có thể làm tăng lãi suất và cung tiền, điều này ảnh hưởng lớn đến việc vay nợ của Chính phủ trên thị trường chứng khoán. Ngược lại, lạm phát và lãi suất tăng cao, không những làm giảm nguồn thu cho Chính phủ, mà còn làm cho giá chứng khoán biến động mạnh theo xu hướng giảm, làm nản lòng nhà đầu tư trên thị trường do tính thanh khoản của thị trường bị ảnh hưởng. Vì vậy rất cần một sự nhận thức đúng và đầy đủ về mối quan hệ giữa hai chính sách, nhằm tăng cường sự kết nối và giảm sung đột giữa chúng để cùng đạt được mục tiêu đặt ra. 2.2 Đối với Ủy ban chứng khoán - Ủy ban chứng khoán nhà nước nên sớm cho áp dụng thanh toán T+2, mua bán trong ngày và cho phép nhà đầu tư được mở nhiều tài khoản. Kéo dài thời gian giao dịch vào buổi chiều. - Nhập 2 Sở giao dịch thành một, giao dịch các loại chứng khoán niêm yết có vốn từ 80 hoặc 100 tỷ đồng trở lên và có một thị trường UPCoM giao dịch các loại chứng khoán chưa niêm yết, theo nguyên tắc đấu giá cạnh tranh – đó là mô hình thứ hai. Thực hiện cổ phần hóa Sở giao dịch, bán cổ phần cho các công ty chứng khoán thành viên, để các công ty chứng khoán vừa là người chủ sở hữu vừa là thành viên thị trường, từ đó nâng cao quyền hạn và ý thức trách nhiệm của các công ty chứng khoán với thị trường. Sở giao dịch là một tổ chức tài chính kinh doanh, có cơ chế tài chính riêng, tự tích lũy để phát triển, xóa bỏ bao cấp của Nhà nước. Bên cạnh các thị trường giao dịch cổ phiếu có một thị trường giao dịch trái phiếu chuyên biệt. - Phải có cơ chế chính sách, đối với thị trường phát hành.. Vì hiện nay các công ty thường lợi dụng việc tăng vốn để phát hành cổ phiếu, chia cổ tức bằng cổ phiếu… gây loãng giá cổ phiếu và giảm chất lượng… do đó, chúng ta cần phải nâng cao điều kiện phát hành và điều kiện niêm yết. Muốn được phát hành hoặc niêm yết, công ty phải có 3 năm liên tục gần nhất có lợi nhuận (hiện nay 1 năm) và tỷ suất lợi nhuận phải đạt một tỷ lệ phần trăm nào đó so với vốn điều lệ (hiện nay chưa có điều kiện này). Ngoài ra, phát hành chứng khoán ra công chúng phải trên cơ sở một dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế. điều kiện phát hành và niêm yết càng khắt khe, chứng khoán trên thị trường càng có chất lượng, thì thị trường càng an toàn và phát triển bền vững. 2.3. Hàng hóa cho thị trường - Tạo hàng hoá có chất lượng tốt cho thị trường. Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá để tạo hàng hoá có chất lượng cao cho thị trường chứng khoán. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược (trong và ngoài nước) mua cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam theo phương thức thoả thuận, hoặc đấu giá giữa các nhà đầu tư chiến lược với nhau, để cải thiện nhanh hơn về năng lực tài chính, chất lượng quản trị doanh nghiệp. Chính phủ có thể đưa mức sở hữu của các tổ chức nước ngoài đối với các Ngân hàng thương mại tối đa lên 30%. - Phát triển một số tổ chức tạo lập thị trường. Ở một số nước, nhà tạo lập thị trường thường là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, quĩ đầu tư, quĩ hưu trí, công ty tài chính… Đây là những tổ chức có năng lực tài chính mạnh, kinh doanh chuyên nghiệp, có khả năng liên kết cao. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, không phải tất cả các tổ chức đều có thể trở thành nhà tạo lập thị trường. Vì vậy, trước mắt lựa chọn một số ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán lớn đáp ứng các điều kiện qui định thực hiện chức năng nhà tạo lập thị trường. Sự năng động và minh bạch của thị trường phụ thuộc không nhỏ vào hoạt động của các nhà tạo lập thị trường. 2.4. Đối với các công ty chứng khoán - Đối với các công ty chứng khoán cũng cần thực hiện tái cấu trúc theo hướng nâng cao yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu, yêu cầu về cơ sở vật chất, năng lực quản trị công ty và nguồn nhân lực, song song với việc thực hiện sát nhập, mua lại… để giảm bớt về số lượng công ty chứng khoán, hướng một số công ty chứng khoán lớn phát triển thành Tập đoàn, cũng như các nhà tạo lập thị trường. - Để nâng cao hoạt động và nâng cao nang lực cạnh tranh, công ty chứng khoán cần chủ động đầu tư hạ tầng khoa học kỹ thuật, vốn, lĩnh vực kinh doanh và quản lý và đào tạo nguồn nhân lực của công ty. 2.5. Hoạt động giao dịch chứng khoán - Biên độ giao dịch chứng khoán hiện nay trên các sàn có sự chênh lệnh khá lớn (HOSE với biên độ 5%, HNX với 7% và Upcom là 10%). Điều này sẽ dẫn đến tình trạng đầu cơ gia tăng khi thị trường có biến động mạnh. Kiến nghị nên thống nhất một biên độ chung cho các thị trường. Thúc đẩy hoạt động của Hiệp hội các nhà đầu tư chứng khoán (mà trước mắt là VAFI Viet Nam Association Finance Investments ) để tổ chức này có thể can thiệp vào các hoạt động của thị trường trong những trường hợp cần thiết. KẾT LUẬN Thị trường chứng khoán Việt Nam trải qua 10 hoạt động đã có những bước phát triển nhất định, cùng với việc hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu càng củng cố lòng tin của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, hứa hẹn một tương lai tươi sáng cho thị trường chứng khoán nước nhà. Chúng ta tin tưởng trong tương lai, với việc khắc phục những hạn chế, mở cửa thị trường rộng hơn, minh bạch trong chính sách, công khai hóa thông tin thì thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ ngày càng thu hút nhiều hơn nguồn vốn, từ đó đầu tư và phát triển đưa đất nước phát triển bền vững hơn. Tài liệu tham khảo: 1. GS.TS.Lê Văn Tư (2006). Thị trường chứng khoán .Nxb.TK. 2. GS.TS.Nguyễn Thanh Tuyền (chủ biên), TS.Nguyễn Đăng Dờn, Th.S.Bùi Kim Yến, Th.S.Thân Thị Thu Thủy, TS.Vũ Thị Minh Hằng (2005). “Thị trường chứng khoán”. Nxb.TK. 3. Phạm Văn Quan (2001) “ Chứng khoán và tìm hiểu thị trường chứng khoán”.Nxb.TK. 4. Giải pháp nào cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển bền vững - PGS. TS. Nguyễn Thị Mùi – Trường Đào tạo & PTNNL VietinBank. Đăng trên website 5. Tìm giải pháp phát triển thị trường chứng khoán - Việt Anh. Đăng trên website 6. Nâng cấp, hoàn thiện thị trường chứng khoán Việt Nam - Bùi Nguyên Hoàn  (Cơ quan đại diện SSC tại TPHCM. Đăng trên website 7. Thị trường chứng khóan Việt Nam: 10 năm hình thành và phát triển . PGS-TS Vũ Thị Minh Hằng - Ths Nguyễn Anh Tuấn.Trường đại học Kinh tế TP.HCM 8. Website của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước www.ssc.gov.vn 9.Website của Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh www.hsx.vn 10.Website của Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội www.hnx.vn 11.Trang Web: 12.Tập thể tác giả - Giáo trình Luật Chứng Khoán –Trường Đại học Luật Hà Nội – Nhà xuất bản Công An Nhân Dân. 13.Thời Báo kinh tế Sài Gòn, số 29-2010. ngày 15 tháng 07 năm 2010.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThị trường chứng khoán Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.doc
Luận văn liên quan