Thỏa ước lao động tập thể vô hiệu và hậu quả pháp lí của thỏa ước vô hiệu

I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ lao động chủ yếu được hình thành trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận giữa các bên: NLĐ và NSDLĐ. Trong mối quan hệ này, Nhà nước không quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên mà chỉ tạo hành lang pháp lí làm cơ sở cho các bên tự thương lượng, thỏa thuận các quyền và nghĩa vụ cụ thể, phù hợp với điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp. Để đảm bảo lợi ích cho mình, cả NLĐ và NSDLĐ đều thấy rằng cần phải có thỏa thuận chung về những vấn đề phát sinh trong quan hệ lao động. Những thỏa thuận chung đó chính là những bản thỏa ước lao động tập thể. Trong bài này sẽ xem xét đến vấn đề thỏa ước lao động tập thể vô hiệu và việc xử lý thỏa ước vô hiệu. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Thỏa ước lao động tập thể vô hiệu. Thỏa ước lao động tập thể theo quy định tại Điều 44 Bộ luật lao động là: “Thoả ước lao động tập thể (sau đây gọi tắt là thoả ước tập thể) là văn bản thoả thuận giữa tập thể lao động và NSDLĐ về các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động”. Trên thực tế, khi kí kết thỏa ước tập thể, hầu hết các bên đều tuân thủ đúng các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho thỏa ước có hiệu lực pháp luật. Song cũng không tránh khỏi một số trường hợp thỏa ước được kí kết không đúng pháp luật về nội dung cũng như trình tự kí kết. Đối với những thỏa ước đó thì tùy từng trường hợp sẽ được coi là vô hiệu một phần hoặc vô hiệu toàn bộ. Theo Điều 48 Bộ luật lao động thì thỏa ước lao động tập thể bị coi là vô hiệu một phần hoặc một số điều khoản của thỏa ước trái với quy định của pháp luật. Còn thỏa ước bị coi là vô hiệu toàn bộ khi thuộc một trong các trường hợp sau: - Toàn bộ nội dung thỏa ước trái pháp luật; - Người kí kết không đúng thẩm quyền; - Không tiến hành theo đúng trình tự kí kết. a) Nội dung của thỏa ước. Khoản 2 Điều 46 Bộ luật lao động có quy định về nội dung của thỏa ước là: “Nội dung chủ yếu của thoả ước tập thể gồm những cam kết về việc làm và bảo đảm việc làm; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp lương; định mức lao động; an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với người lao động”. Ngoài những nội dung cơ bản này, các bên có thể thỏa thuận thêm một số nội dung khác. Khi kí kết thỏa ước các bên phải tuân thủ nguyên tắc nội dung của thỏa ước phù hợp với pháp luật lao động bởi nếu những thỏa thuận đó trái với pháp luật thì thỏa ước sẽ bị coi là vô hiệu. b) Thẩm quyền kí kết thỏa ước. Các chủ thể tham gia thương lượng không có nghĩa là các chủ thể kí kết thỏa ước. Theo quy định tại Điều 45 Bộ luật lao động thì đại diện ký kết của bên tập thể lao động là Chủ tịch Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc người có giấy uỷ quyền của Ban chấp hành công đoàn. Đại diện ký kết của bên người sử dụng lao động là Giám đốc doanh nghiệp hoặc người có giấy uỷ quyền của Giám đốc doanh nghiệp. Nếu khi kí kết thỏa ước không do các chủ thể trên thực hiện thỏa ước sẽ vô hiệu do người kí kết không đúng thẩm quyền. c) Trình tự kí kết thỏa ước. Trình tự kí kết thỏa ước là các bước luật định mà các bên phải tuân thủ khi kí kết thỏa ước. Nếu khi kí kết thỏa ước, các bên không thực hiện theo các trình tự này sẽ dẫn đến thỏa ước vô hiệu. Cụ thể khi kí kết các bên phải tuân theo các bước sau: - Bước 1: Đề xuất yêu cầu kí kết thỏa ước. - Bước 2: Đàm phán nội dung thỏa ước. - Bước 3: Tổ chức lấy ý kiến tập thể lao động về nội dung của thỏa ước. - Bước 4: Kí kết thỏa ước – thỏa ước được lập thành 4 bản, mỗi bên 1 bản, và gửi cho công đoàn cấp trên và cơ quan có thẩm quyền đăng kí. Trước đây, pháp luật có quy định trường hợp thỏa ước lao động tập thể nếu không đăng kí tại cơ quan có thẩm quyền sẽ bị coi là vô hiệu toàn bộ. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc đăng kí thỏa ước tại cơ quan có thẩm quyền chỉ để quản lí lao động. Vì thế, nếu thỏa ước không đăng kí tại cơ quan nhà nước co thẩm quyền cũng không bị coi là vôi hiệu toàn bộ. 2. Xử lí thỏa ước vô hiệu. Cơ quan có thẩm quyên tuyên bố thỏa ước tập thể vô hiệu là cơ quan quản lí nhà nước về lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tòa án nhân dân trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động nếu phát hiện thấy thỏa ước lao động tập thể trái với pháp luật lao động thì có quyền tuyên bố thỏa ước lao động tập thể vô hiệu toàn bộ hoặc một phần (khoản 4 Điều 166 Bộ luật lao động). Đối với trường hợp thỏa ước vô hiệu do người kí kết không đúng thẩm quyền hoặc không tiến hành theo đúng trình tự kí kết, nếu nội dung đã kí kết có lợi cho NLĐ thì cơ quan quản lí nhà nước về lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hướng dẫn để các bên làm lại cho đúng quy định trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hướng dẫn, nếu không làm lại thì bị tuyên bố vô hiệu. Những nội dung nào trong thỏa ước bị tuyên bố vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ, lợi ích của các bên được giải quyết theo các nội dung tương ứng quy định trong pháp luật hiện hành và theo các thỏa thuận hợp pháp trong HĐLĐ cá nhân (nếu có). III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ. Thỏa ức tập thể là sắc thái đặc sắc của luật lao động, có ưu điểm là uyển chuyển và dễ thích ứng với xã hội. Thỏa ước lao động tập thể rất được thịnh hành ở các nước công nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay việc tìm hiểu về thỏa ước lao động tập thể và các vấn đề liên quan đến nó là rất hữu ích. Từ những điều đã trình bày trong bài, ta phần nào hiểu rõ hơn về vấn đề thỏa ước lao động tập thể vô hiệu và việc xử lí thỏa ước vô hiệu. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Bộ luật lao động. 2. Giáo trình luật lao động Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân. 3. Website:http://www.congdoanbdvn.org.vn/express/express_detail.aspx?id3=548&id2=

doc4 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2999 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thỏa ước lao động tập thể vô hiệu và hậu quả pháp lí của thỏa ước vô hiệu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ lao động chủ yếu được hình thành trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận giữa các bên: NLĐ và NSDLĐ. Trong mối quan hệ này, Nhà nước không quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên mà chỉ tạo hành lang pháp lí làm cơ sở cho các bên tự thương lượng, thỏa thuận các quyền và nghĩa vụ cụ thể, phù hợp với điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp. Để đảm bảo lợi ích cho mình, cả NLĐ và NSDLĐ đều thấy rằng cần phải có thỏa thuận chung về những vấn đề phát sinh trong quan hệ lao động. Những thỏa thuận chung đó chính là những bản thỏa ước lao động tập thể. Trong bài này sẽ xem xét đến vấn đề thỏa ước lao động tập thể vô hiệu và việc xử lý thỏa ước vô hiệu. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Thỏa ước lao động tập thể vô hiệu. Thỏa ước lao động tập thể theo quy định tại Điều 44 Bộ luật lao động là: “Thoả ước lao động tập thể (sau đây gọi tắt là thoả ước tập thể) là văn bản thoả thuận giữa tập thể lao động và NSDLĐ về các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động”. Trên thực tế, khi kí kết thỏa ước tập thể, hầu hết các bên đều tuân thủ đúng các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho thỏa ước có hiệu lực pháp luật. Song cũng không tránh khỏi một số trường hợp thỏa ước được kí kết không đúng pháp luật về nội dung cũng như trình tự kí kết. Đối với những thỏa ước đó thì tùy từng trường hợp sẽ được coi là vô hiệu một phần hoặc vô hiệu toàn bộ. Theo Điều 48 Bộ luật lao động thì thỏa ước lao động tập thể bị coi là vô hiệu một phần hoặc một số điều khoản của thỏa ước trái với quy định của pháp luật. Còn thỏa ước bị coi là vô hiệu toàn bộ khi thuộc một trong các trường hợp sau: Toàn bộ nội dung thỏa ước trái pháp luật; Người kí kết không đúng thẩm quyền; Không tiến hành theo đúng trình tự kí kết. a) Nội dung của thỏa ước. Khoản 2 Điều 46 Bộ luật lao động có quy định về nội dung của thỏa ước là: “Nội dung chủ yếu của thoả ước tập thể gồm những cam kết về việc làm và bảo đảm việc làm; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp lương; định mức lao động; an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với người lao động”. Ngoài những nội dung cơ bản này, các bên có thể thỏa thuận thêm một số nội dung khác. Khi kí kết thỏa ước các bên phải tuân thủ nguyên tắc nội dung của thỏa ước phù hợp với pháp luật lao động bởi nếu những thỏa thuận đó trái với pháp luật thì thỏa ước sẽ bị coi là vô hiệu. b) Thẩm quyền kí kết thỏa ước. Các chủ thể tham gia thương lượng không có nghĩa là các chủ thể kí kết thỏa ước. Theo quy định tại Điều 45 Bộ luật lao động thì đại diện ký kết của bên tập thể lao động là Chủ tịch Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc người có giấy uỷ quyền của Ban chấp hành công đoàn. Đại diện ký kết của bên người sử dụng lao động là Giám đốc doanh nghiệp hoặc người có giấy uỷ quyền của Giám đốc doanh nghiệp. Nếu khi kí kết thỏa ước không do các chủ thể trên thực hiện thỏa ước sẽ vô hiệu do người kí kết không đúng thẩm quyền. c) Trình tự kí kết thỏa ước. Trình tự kí kết thỏa ước là các bước luật định mà các bên phải tuân thủ khi kí kết thỏa ước. Nếu khi kí kết thỏa ước, các bên không thực hiện theo các trình tự này sẽ dẫn đến thỏa ước vô hiệu. Cụ thể khi kí kết các bên phải tuân theo các bước sau: - Bước 1: Đề xuất yêu cầu kí kết thỏa ước. - Bước 2: Đàm phán nội dung thỏa ước. - Bước 3: Tổ chức lấy ý kiến tập thể lao động về nội dung của thỏa ước. - Bước 4: Kí kết thỏa ước – thỏa ước được lập thành 4 bản, mỗi bên 1 bản, và gửi cho công đoàn cấp trên và cơ quan có thẩm quyền đăng kí. Trước đây, pháp luật có quy định trường hợp thỏa ước lao động tập thể nếu không đăng kí tại cơ quan có thẩm quyền sẽ bị coi là vô hiệu toàn bộ. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc đăng kí thỏa ước tại cơ quan có thẩm quyền chỉ để quản lí lao động. Vì thế, nếu thỏa ước không đăng kí tại cơ quan nhà nước co thẩm quyền cũng không bị coi là vôi hiệu toàn bộ. Xử lí thỏa ước vô hiệu. Cơ quan có thẩm quyên tuyên bố thỏa ước tập thể vô hiệu là cơ quan quản lí nhà nước về lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tòa án nhân dân trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động nếu phát hiện thấy thỏa ước lao động tập thể trái với pháp luật lao động thì có quyền tuyên bố thỏa ước lao động tập thể vô hiệu toàn bộ hoặc một phần (khoản 4 Điều 166 Bộ luật lao động). Đối với trường hợp thỏa ước vô hiệu do người kí kết không đúng thẩm quyền hoặc không tiến hành theo đúng trình tự kí kết, nếu nội dung đã kí kết có lợi cho NLĐ thì cơ quan quản lí nhà nước về lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hướng dẫn để các bên làm lại cho đúng quy định trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hướng dẫn, nếu không làm lại thì bị tuyên bố vô hiệu. Những nội dung nào trong thỏa ước bị tuyên bố vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ, lợi ích của các bên được giải quyết theo các nội dung tương ứng quy định trong pháp luật hiện hành và theo các thỏa thuận hợp pháp trong HĐLĐ cá nhân (nếu có). KẾT THÚC VẤN ĐỀ. Thỏa ức tập thể là sắc thái đặc sắc của luật lao động, có ưu điểm là uyển chuyển và dễ thích ứng với xã hội. Thỏa ước lao động tập thể rất được thịnh hành ở các nước công nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay việc tìm hiểu về thỏa ước lao động tập thể và các vấn đề liên quan đến nó là rất hữu ích. Từ những điều đã trình bày trong bài, ta phần nào hiểu rõ hơn về vấn đề thỏa ước lao động tập thể vô hiệu và việc xử lí thỏa ước vô hiệu. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Bộ luật lao động. Giáo trình luật lao động Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân. Website:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThỏa ước lao động tập thể vô hiệu và hậu quả pháp lí của thỏa ước vô hiệu.doc
Luận văn liên quan