Hiệu lực của thuốc sau 3 ngày phun: hiệu lực của thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt cao nhất 70,35%. Rồi đến hiệu lực của thuốc hạt củ đậu đạt 57,73%.
Hiệu lực của thuốc sau 5 ngày phun: hiệu lực của công thức ở cả 2 công thức đều giảm, hiệu lực của thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt là 59,92% và hiệu lực của thuốc hạt củ đậu là 50,39%.
Hiệu lực thuốc sau 7 ngày: đến ngày thứ 7 thì hiệu lực của 2 loại thuốc đều giảm, hiệu lực của thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt là 47,66%, còn hiệu lực của thuốc hạt củ đậu là 39,06%.
Hiệu lực của thuốc sau 10 ngày: hiệu lực của thuốc ở cả 2 công thức đều giảm. Nhưng hiệu lực thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt vẫn có hiệu lực cao 41,67%. Còn hiệu lực của thuốc hạt củ đậu 30,25%.
36 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2740 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thử hiệu lực của một số thuốc trừ sâu có nguồn gốc thảo mộc đối với sâu hại chính trên lúa và trên rau cải trong vụ mùa năm 2013 tại xã Thanh An – huyện Điện Biên – Tỉnh Điện Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ười cũng đã biết sử dụng các loài cây độc và lưu huỳnh trong tro núi lửa để diệt trừ sâu bệnh. Từ thế kỷ 19, hoàng loạt sự kiện đáng ghi nhớ, tạo điều kiện cho biện pháp hóa học ra đời. Benediet Prevest (1807) đã chứng minh nước đun xôi trong nồi đồng có thể diệt bào tử nấm than đen Ustilaginales. 1848 lưu huỳnh được dùng để trừ bệnh phấn trắng Erysiphacea hại nho; dung dịch Boocđô ra đời năm 1879; lưu huỳnh vôi dùng để trừ rệp sáp Aspidiotus perniciosus hại cam (1881). Mở đầu cho việc dùng các chất xông hơi trong BVTV là sự kiện dùng HCN trừ rệp vảy Aonidiella aurantii hại cam (1887). Năm 1889, aseto asenat đồng được dùng trừ sâu Leptinotarsa decemeatas hại khoai tây. Năm 1892 gipxin để trừ sâu ăn quả, sâu rừng Porthetria dispr. Nửa cuối thế kỷ 19 cacbon disulfua (CS2) được dùng để chống chuột đồng và các ổ rệp Pluylloxera hại nho. Nhưng biện pháp hóa học lúc này vẫn chưa có một vai trò đáng kể trong sản xuất nông nghiệp.
Giai đoạn 2(Từ cuối thế kỷ 20 đến năm 1960): Các thuốc trừ dịch hại hữu cơ ra đời, làm thay đổi vai trò của biện pháp hóa học trong sản xuất nông nghiệp. Ceresan – thuốc trừ nấm thủy ngân hữu cơ đầu tiên (1913); các thuốc trừ nấm lưu huỳnh (1940); rồi đến các nhóm khác. Thuốc trừ cỏ còn xuất hiện muộn hơn (những năm 40 của thế kỷ 20). Việc xuất hiện khả năng diệt côn trùng của DDT (1939) đã mở ra cuộc cải cách của các biện pháp khoa học BVTV. Hàng loạt các thuốc trừ sâu ra đời sau đó: Clo hữu cơ (những năm 1940 - 1950), các thuốc lân hữu cơ, các thuốc cacbamat (1945 - 1950) lúc này người ta cho rằng: Mọi vấn đề BVTV đều có thể giải quyết bằng thuốc hóa học. Biện pháp hoá học được khai thác ở mức tối đa, thậm chí người ta còn hy vọng, nhờ thuốc hóa học để loại trừ hẳn một loài dịch hại trong một vùng rộng lớn.
Từ cuối những năm 1950, những hậu quả xấu của thuốc BVTV gây ra cho con người, môi sinh và môi trường được phát hiện. Khái niệm phòng trừ tổng hợp sâu bệnh được ra đời.
Giai đoạn 3(Những năm 1960 - 1980): việc lạm dụng thuốc BVTV đã để lại những hậu quả rất xấu cho môi sinh môi trường dẫn đến tình trạng nhiều chương trình phòng chống dịch hại của nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế dựa vào thuốc hóa học đã bị sụp đổ; tư tưởng sợ hãi không dám dùng thuốc BVTV xuất hiện; thậm chí có người cho rằng cần loại bỏ không dùng thuốc BVTV trong sản xuất nông nhiệp.
Tuy vậy, các loại thuốc BVTV mới có nhiều ưu điểm, an toàn hơn đối với môi sinh môi trường, như thuốc trừ cỏ mới, các thuốc trừ sâu nhóm Perethroid tổng hợp (1970), các thuốc trừ sâu bệnh có nguồn gốc sinh học, hay tác động sinh học, các chất điều tiết sinh trưởng côn trùng và cây trồng vẫn liên tục ra đời. Lượng thuốc BVTV được dùng trên thế giới không những giảm mà còn tăng lên không ngừng.
Giai đoạn 4(Từ năm 1980 đến nay): vấn đề bảo vệ môi trường được quan tam hơn bao giờ hết. Nhiều loại thuốc BVTV mới, trong đó có nhiều thuốc trừ sâu bảo vệ sinh học, có nhiều hiệu quả cao đối với dịch hại, nhưng an toàn với môi trường ra đời. Vai trò của biện pháp hóa học đã được thừa nhận. Tư tưởng sợ thuốc BVTV cũng bớt dần. Quan điểm phòng trừ tổng hợp được phổ biến rộng rãi.
2.1.2. Tình hình sản xuất và sử dụng thuốc BVTV trên thế giới
Mặc dù sự phát triển của biện pháp hóa học có nhiều lúc thăng trầm, song tổng giá trị tiêu thụ thuốc BVTV trên thế giới và số hoạt chất tăng lên không ngừng, số chủng loại này ngày càng phong phú. Nhiều thuốc mới và dạng thuốc mới an toàn hơn với môi sinh môi trường liên tục xuất hiện bất chấp các quy định quản lý ngày càng chặt chẽ của các quốc gia đối với thuốc BVTV và kinh phí đầu tư cho nghiên cứu để một loại thuốc mới ra đời ngày càng lớn.
Trong 10 năm gần đây tổng lượng thuốc BVTV tiêu thụ có xu hướng giảm, nhưng giá trị của các thuốc tăng lên không ngừng. Nguyên nhân là do cơ cấu thuốc thay đổi: nhiều loại thuốc cũ, giá rẻ, dùng với lượng lớn, độc với môi sinh môi trường được thay thế dần bằng các loại thuốc mới hiệu quả, an toàn và dùng với lượng ít hơn, nhưng lại có giá thành cao.
Tuy vậy, mức đầu tư về thuốc BVTV và cơ cấu tiêu thụ các nhóm thuốc tùy thuộc vào trình độ phát triển và đặc điểm canh tác của từng nước.
Ngày nay, biện pháp hóa học BVTV được phát triển theo các hướng chính sau:
- Nghiên cứu tìm ra các hoạt chất mới có cơ chế tác động mới, có tính chọn lọc và hiệu lực trừ dịch hại cao hơn, lượng dùng nhỏ hơn, tồn lưu ngắn, ít độc và dễ dung hơn. Thuốc trừ sâu tác dụng chậm (điều khiển sinh trưởng côn trùng, pheromon, các chất phản di truyền, chất triệt sản) là những ví dụ điển hình. Thuốc sinh học được chú ý dùng nhiều hơn.
- Tìm hiểu các phương pháp và nguyên liệu để gia công thành các dạng thuốc mới ít ô nhiễm, hiệu lực dài, dễ dùng, loại dần dạng thuốc gây ô nhiễm môi trường.
- Nghiên cứu công cụ phun rải tiên tiến và cải tiến các loại công cụ hiện có để tăng khả năng trang trải, tăng độ bám dính, giảm đến mức tối thiểu sự rửa trôi của thuốc. Chú ý dùng các phương pháp sử dụng thuốc khác bên cạnh phun thuốc còn đang được phổ biến. thay phun thuốc sớm, đại trà và định kỳ bằng phun thuốc trước khi dịch hại đạt đến ngưỡng.[1]
2.2. Lịch sử phát triển của biện pháp hóa học, tình hình sản xuất và sử dụng thuốc BVTV ở Việt Nam
Có thể chia thành 3 giai đoạn:
* Trước năm 1957:
Biện pháp hóa học hầu như không có vị trí trong sản xuất nông nghiệp. Một lượng rất nhỏ sunfat đồng được dùng ở một số đồn điền do Pháp quản lý để trừ bệnh gỉ sắt cà phê và Phytophthora cao su và một số ít DDT được dùng để trừ sâu hại rau.
Việc thành lập Tổ Hóa BVTV ở Việt Nam. Thuốc BVTV được dùng lần đầu trong sản xuất nông nghiệp ở Miền Bắc là trừ sâu gai, sâu cuốn lá lớn bùng phát ở Hưng Yên (vụ Đông Xuân 1956 - 1957). Ở Miền Nam, thuốc BVTV được sử dụng từ năm 1962.
* Giai đoạn từ 1957- 1990:
Thời kỳ bao cấp. Việc nhập khẩu, quản lý và phân phối thuốc cho các tỉnh theo giá bao cấp. Bằng mạng lưới vật tư nông nghiệp địa phương, thuốc BVTV được phân phối thẳng xuống HTX nông nghiệp. Ban quản lý HTX quản lý và giao cho tổ BVTV hướng dẫn các xã viên điều trị dịch hại trên đồng ruộng. lượng thuốc BVTV dùng không nhiều, khoảng 15000 tấn thành phẩm/năm với khoảng 20 chủng loại thuốc trừ sâu và thuốc trừ bệnh. Đa phần là các thuốc có độ tồn lưu lâu trong môi trường hay có độ độc cao. Việc quản lý thuốc lúc này khá dễ dàng, thuốc giả thuốc kém chất lượng không có điều kiện phát triển. Song tình trạng phân phối thuốc không kịp thời; đáp ứng không đúng chủng loại, nơi thừa, nơi thiếu, gây tình trạng khan hiếm giả tạo, dẫn đến hiệu quả sử dụng thuốc thấp. Mặt khác người nông dân không có điều kiện lựa chọn thuốc, thiếu tính chủ động và ỷ lại nhà nước.
Tuy lượng thuốc dùng ít, nhưng tình trạng lạm dụng thuốc BVTV vẫn nảy sinh. Để phòng trừ sâu bệnh người ta chỉ dựa vào thuốc BVTV. Thuốc dùng tràn lan, phun phòng là phổ biến, khuynh hướng phun sớm, phun định kỳ ra đời, thậm chí dùng thuốc cả vào những thời kỳ không cần thiết; tình trạng dùng thuốc sai kỹ thuật nảy sinh khắp nơi; thậm chí người ta còn hy vọng dùng thuốc BVTV để loại trừ hẳn một loại dịch hại ra khỏi một vùng rộng lớn. Thuốc đã để lại hậu quả rất xấu đối với môi trường và sức khỏe con người.
Khi nhận ra những hậu quả của thuốc BVTV, cộng với tuyên truyền quá mức về tác hại của chúng đã gây nên tâm lý sợ thuốc. Từ cuối những năm 80 của thế kỷ 20, đã có nhiều ý kiến đề xuất nên hạn chế, thậm chí loại bỏ hẳn thuốc BVTV; dùng biện pháp sinh học để thay thế biện pháp hóa học trong phòng trừ dịch hại nông nghiệp.
* Giai đoạn từ năm 1990 đến nay:
Thị trường thuốc BVTV đã thay đổi cơ bản: Nền kinh tế từ tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường. Năm thành phần kinh tế, đều được phép kinh doanh thuốc BVTV. Nguồn hàng phong phú, nhiều chủng loại được cung ứng kịp thời, nông dân có điều kiện lựa chọn thuốc, giá cả khá ổn định có lợi cho nông dân. Lượng thuốc BVTV tiêu thụ qua các năm tăng. Nhiều loại thuốc mới, hiệu quả hơn, an toàn hơn với môi trường được nhập. Một mạng lưới phân phối thuốc BVTV rộng khắp cả nước đã hình thành, việc cung ứng thuốc đến nông dân rất thuận lợi. Công tác quản lý thuốc BVTV được chú ý đặc biệt và đạt được hiệu quả khích lệ.
Nhưng do nhiều nguồn hàng, mạng lưới lưu thông quá rộng đã gây khó cho công tác quản lý; quá nhiều tên thuốc đẩy người sử dụng khó lựa chọn được thuốc tốt và việc hướng dẫn kỹ thuật dùng thuốc cũng gặp không ít khó khăn. Tình trạng lạm dụng thuốc, tư tưởng ỷ lại biện pháp hóa học đã để lại những hậu quả xấu cho sản xuất và sức khỏe con người. Ngược lại, có nhiều người “bài xích” thuốc BVTV, tìm cách hạn chế, thậm chí đòi loại bỏ thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp và tìm cách thay thế bằng các biện pháp phòng trừ khác.
Tuy vậy, vai trò của biện pháp hóa học trong sản xuất nông nghiệp vẫn được thừa nhận. Để phát huy được hiệu quả của thuốc BVTV và sử dụng chúng an toàn, phòng trừ tổng hợp là con đường tất yếu phải đến. Phải phối hợp hài hòa các biện pháp trong phòng trừ tổng hợp; sử dụng thuốc BVTV là biện pháp cuối cùng, khi các biện pháp phòng trừ khác sử dụng không hiệu quả.
Trong thời gian này, mối quan hệ quốc tế giữa nước ta với các nước, với các tổ chức quốc tế (FAO, WHO, CIRAP)…và các tổ chức trong khu vực vốn có nay càng được đẩy mạnh và phát huy tác dụng, giúp cho chúng ta nhanh chóng hội nhập được với các trào lưu chung của thế giới.[2]
2.3. Đặc điểm chung của thuốc trừ sâu bằng thảo mộc
Trong sản xuất nông nghiệp, muốn đạt năng xuất cây trồng cao, ngoài những biện pháp: chọn giống tốt, làm đất kỹ, bón phân đầy đủ, kịp thời vui xới cây trồng…Còn phải có biện pháp bảo vệ cây trồng và phòng trừ tốt những loại sâu bệnh phá hoại mùa màng.
Để phòng trừ sâu bệnh có hiệu quả, ngoài biện pháp canh tác, ngoài cách bắt giết sâu…Việc dùng thuốc trừ sâu bệnh đóng một vai trò quan trọng và ngày càng được mở rộng ở miền Bắc nước ta. Thuốc trừ sâu có rất nhiều loại: thuốc trừ sâu vô cơ (chế biến từ những chất vô cơ từ quặng đá sẵn có trong thiên nhiên), thuốc trừ sâu tổng hợp hữu cơ, thuốc trừ sâu thảo mộc (chế biến từ các loại cây có chất độc)….Một trong những loại thuốc trừ sâu được con người sử dụng sớm nhất là thuốc trừ sâu thảo mộc.
Từ bao đời nay nông dân khắp trên thế giới, đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm phong phú để đối phó có hiệu quả với những loài sâu bệnh hại khác nhau phá hoại cây trồng. Ngoài những cách bắt sâu, nông dân đã biết sử dụng các loại cây chứa chất độc sẵn có trong thiên nhiên để làm thuốc trừ sâu. Tổng kết kinh nghiệm của nhiều nước, người ta đã thống kê được trên 2000 loài cây khác nhau có thể sử dụng làm thuốc trừ sâu. Một số loại có hiệu lực trừ sâu cao như cúc trừ sâu (Chrysanthemum cine – rariaefolium), cây Ruốc cá (Derris elleptica)…Chẳng những đã được khai thác, tận dụng mà còn được trồng để sản xuất theo quy mô rộng lớn. Nhật Bản hàng năm vẫn trồng và xuất khẩu một lượng cúc trừ sâu quan trọng. Nga, Trung Quốc, Philippin…Đã phát triển trồng những cây như Derris, Anabasin aphylla,…chế biến thành thuốc trừ sâu để phục vụ cho nhu cầu của nông nghiệp và xuất khẩu ra nước ngoài.
Nước ta là một nước nhiệt đới, có nhiều loại cây chứa chất độc sẵn có trong thiên nhiên, dùng làm thuốc trừ sâu tốt. Nông dân cả nước ta đã có kinh nghiệm dùng các loại “lá say, lá đắng” vãi suống ruộng để trừ sâu, làm bả giết chuột, dùng tắm cho trâu bò trừ ve, trừ giận…Ngay trong thời kỳ pháp thuộc, Nông dân Nam bộ đã có kinh nghệm trồng cây “Ruốc cá” (Derris.sp.) ở xung quanh hàng rào để lấy rễ cây làm thuốc trừ sâu hại rau. Cây bách bộ (Stemona tuberosa) cũng đã dược chế biến dùng để trừ sâu ở Nam bộ.
Hiện nay trong thực tế sản xuất, nhiều địa phương như Thái nguyên, Vĩnh linh, Quảng bình, Hoà bình…Đã dùng nhiều loại cây có chất độc chế thành thuốc trừ sâu, trừ chuột và đã thu được kết quả tốt đẹp. Nhưng nhìn chung việc sử dụng thuốc trừ sâu bằng thảo mộc vẫn chưa được coi trọng đúng mức.
Việc sử dụng thuốc trừ sâu bằng thảo mộc ở nước ta cần được đẩy mạnh không phải đơn thuần vì lý do ta còn thiếu nhiều thuốc trừ sâu bằng các hoá chất. Ngay các nước đã có nền công nghiệp hoá chất phát triển như Nga, Mỹ, Anh, Nhật Bản…Tuy hàng năm sản xuất ra một khối lượng lớn nhiều loại thuốc trừ sâu bằng các hoạt chất vừa thoả mãn đầy đủ nhu cầu trong nước, vừa xuất khẩu ra nước ngoài, nhưng thuốc trừ sâu bằng thảo mộc vẫn được coi trọng. Ở Nga người ta vẫn sử dụng thuốc trừ sâu bằng loại cây Anabasin, ở Mỹ vẫn dùng thuốc trừ sâu bằng loại cây Ryani, những năm gần đây diện tích trồng cúc trừ sâu ở một số nước có tăng nhưng vẫn không đủ để cung cấp cho nhu cầu trừ sâu trong nông nghiệp và trong ý tế. Trong những năm của phong trào nhảy vọt ở Trung quốc, thuốc trừ sâu bằng thảo mộc đã được đề cao và được sử dụng rất rộng rãi, thu được kinh nghiệm phong phú. Nông dân Trung quốc đã phát hiện ra hàng trăm loại cây sẵn có ở địa phương, Chế biến bằng những phương pháp đơn giản, dùng làm thuốc trừ sâu rất công hiệu, do đó đã dập tắt kịp thời những nạn sâu hại quan trọng, không cho chúng lan tràn phá hại mùa màng.
Như vậy rõ ràng là sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tuy thuốc trừ sâu từ các hoá chất có phát triển mạnh mẽ, dần chiếm vai trò chủ chốt trong các hoá chất để bảo vệ cây trồng, nhưng trong một số trường hợp nhất định nó vẫn chưa thay thế được thuốc trừ sâu bằng thảo mộc. Tại nhiều nước trên thế giới, thuốc trừ sâu bằng thảo mộc vẫn có một vị trí nhất định trong các loại thuốc trừ sâu và được sử dụng song song với các thuốc trừ sâu khác.
Sở dĩ có hiện tượng trên đây là do thuốc trừ sâu bằng thảo mộc có một số ưu điểm nổi bật, hơn hẳn một số loại thuốc trừ sâu chế biến từ các loại hoá chất. [2]
2.4. Thành phần có trong hạt củ đậu và lá xoan
2.4.1.Thành phần có trong hạt củ đậu
Năm 1902 nhà bác học Nhật Bản Nagai lần đầu tiên tách ra từ một loài cây có tên địa phương là Rhoten một chất Alkaloit thực vật. Chất đó được đặt tên là Rotenon. Sau này người ta đã phát hiện ra tới sáu, bảy chục loại cây có chứa Rotenon, mọc rải rác ở khắp các vùng trên thế giới. Có nơi cày mọc hoang dại trong rừng, nhưng cũng có nước như Indonexya, đã trồng những loại cây chứa Rotenon để xuất khẩu và sử dụng ở trong nước làm thuốc trừ sâu. Những loại cây có chứa nhiều Rotenon hơn cả là những loài Derris, Lonecho- carpux, Tephrosia, Milletia.
Tinh khiết, Rotenon là chất tinh trắng, có độ nóng chẩy là 1630C Rotenon rất ít tan trong nước và tan trong một số dung môi hưu cơ như Axeton, Cacbon, Disunfua v.v… Dung dịch Rotenon đưa ra ngoài không khí và đưa ra ngoài ánh sáng, sẽ bị oxy hóa: từ không màu; dung dịch sẽ có màu nâu và bị phân giải thành những hợp chất không độc đối với sâu hại. Cũng vì vậy mà Rotenon thường được chứa trong chai màu, cất ở nơi tối và cũng để tránh tình trạng Rotenon bị phân giải, khi thu hoạch những bộ phận cây chứa Rotenon về người ta không phơi chúng ra nắng, mà chỉ để trong bóng râm để hong khô trước khi cho vào kho cất giữ. Cuối cùng, cũng do Rotenon dễ bị ánh sáng, không khí phân giải nên sau khi phun lên cây, chỉ trong vòng 10 ngày trên cây không còn dấu vết của Rotenon nữa; những cây được phun Rotenon để trừ sâu, chỉ cần chờ đợi sau khi phun thuốc độ 5-7 ngày là có thể thu hoạch để ăn mà không sợ độc cho người.
Những loài derris và hạt những loài Milletia…Ngoài Rotenon, còn chứa những hợp chất khác tương tự Rotenon, được gọi chung là những Rotenon. Rotenon cũng có hiệu đực trừ sâu nhưng kém Rotenon.
Khi sâu hại ăn phải lá chứa Rotenon hoạc tiếp xúc phải Rotenon, chúng đều có thể bị chết rất nhanh. Sau khi phun thuốc trên đồng ruộng được 6 – 7 giờ mà có gặp mưa thì cũng không ảnh hưởng lớn đến công tác trừ sâu. Vì trong khoảng thời gian đó, Rotenon đã làm cho sâu hại bi chết, trước khi thuốc bị mưa rửa trôi. Để tăng cường hiệu lực của thuốc đối với sâu hại, có thể thêm những chất loang, nhằm giúp cho thuốc bám dính được vào cơ thể sâu hại tốt hơn (thí dụ những dấn suất sunfo đã oxy hóa của những Hydrocacbon dầu mỏ, xà phòng,...). Muốn kéo dài thời gian có hiêu lực trừ sâu của Rotenon đã phun lên cây trồng người ta có thể trộn thêm vào thuốc bột Rotenon các loại mồ hóng, bột than để làm giảm độ phân giải của các ánh sáng hoặc trộn thêm những chất khử như sunfit axit, những chất chống oxy hóa như Tanin, Hexora.
Một điều đáng chú ý là nhiều nhà nghiên cứu (Ambrose, Haag, Tillemans …) đã nhận xết rằng lấy rế cây derris nghiền mịn ra để trừ sâu thì hiệu quả sẽ cao hơn là khi chích chất độc ở rễ đó ra để sử dụng. Nếu làm cho dịch chiết đó tinh khiết đi thì hiệu lực trừ sâu kém hơn cả.
Rotenon có hiệu lực cao đối với nhiều loại sâu hại. Nhưng có một số loại như sâu khoang hại rau (Spodoptera litura Fabr), rệp sáp, mọt Calandru granaria hại ngũ cốc v.v… Lại có sức chống chịu khỏe với Rotenon.
Rotenon rất ít độc với con người. Ngươi ta có thể ăn nhầm 150 mg Rotenon mà không bị chúng độc (Haag). Khi sử dụng chất Rotenon thí dụ như xay, nghiền rễ cây derris thành bột, sử dụng thuốc chứa Rotenon phun trừ sâu trên đồng ruộng…Người ta có thể bị khô, nóng cổ. Da người có mồ hôi mà bị bám bụi Rotenon, có thể bị mẩn ngứa. Nhưng nếu trộn thêm với dầu thảo mộc hay dầu khoáng, độc tính của Rotenon đối với động vật máu nóng có thể tăng lên gấp 20 lần.
Trên đồng ruộng thực tế Rotenon thường được sử dụng với liều lượng rất thấp để phòng trừ sâu hại; Rotenon lại dễ bị phân giải bởi ánh sáng mặt trời, tương đối ít độc đối với người nên chưa có trường hợp nào người ta bị ngộ độc vì bị ăn phải những thực phẩm đã có phun Rotenon trước khi thu hoạch 5 ngày. Điểm cuối cùng cần chú ý là Rotenon rất độc đối với cá. Chỉ cần ở nồng độ rất loãng, thuốc cũng có thể làm cho cá chết.[2]
2.4.2. Thành phần có trong lá xoan
Xoan là loại cây rất phổ biến hoặc mọc tự nhiên, hoặc do nhân dân trồng để lấy gỗ làm nhà. Khắp các tỉnh miền Bắc nước ta nơi nào cũng có cây xoan, được trồng trong vườn, quanh nhà ở nơi đất ẩm. Ngoài việc dùng gỗ làm cột nhà, lá xoan, vỏ cây xoan, quả xoan, còn có thể dùng làm thuốc trừ sâu. Trong quả xoan có chứa một loại kiềm thực vật, chất Azaridin. Ngoài ra còn có các hợp chất: Badoyanin, Margosin, n- Nonaca-san, L-fucose và Ka- empferole.
Nước ta là nước nhiệt đới, có nhiều loại cây chứa chất độc sẵn có trong thiên nhiên, được dùng làm thuốc trừ sâu rất tốt. Nông dân cả nước ta đã có kinh nghiệm dùng các loại “lá say, lá đắng” vãi xuống ruộng để trừ sâu, làm bả giết chuột, dùng tắm cho trâu bò trừ ve, trừ rận,…Ngay trong thời kỳ pháp thuộc, nông dân Nam Bộ đã có kinh nghiệm trồng cây Ruốc cá (Derris.sp.) ở quanh hàng rào để lấy rễ cây làm thuốc trừ sâu hại rau. Cây bách bộ (Stemona tuberosa) cũng đã chế biến dùng để trừ sâu ở Nam bộ.
Hiện nay trong thực tế sản xuất, nhiều địa phương như Thái Nguyên, Vĩnh linh, Quảng Bình, Hòa Bình,…Đã dùng nhiều loại cây có chất độc chế thành thuốc trừ sâu, trừ chuột và đã thu được nhiều kết quả tốt. Nhưng nhìn chung việc sử dụng thuốc trừ sâu bằng thảo mộc vẫn chưa được chọn đúng mức.[2]
PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu.
3.1.1.Đối tượng
Chế phẩm chiết xuất từ hạt củ đậu, hạt củ đậu bổ sung ớt và chất bám dính (xà phòng bánh, dầu thực vật).
3.1.2. Địa điểm nghiên cứu.
Tại xã Thanh an - huyện Điện Biên - tỉnh Điện Biên
3.1.3. Thời gian nghiên cứu.
Từ tháng 7/2013 đến 11 /2013.
3.2.Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Trong phòng thí nghiệm
- Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu và hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đối với rệp cải Rhopalosiphum pseudobrassicae Davis.
- Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu và hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đối với sâu xanh Pieris rapae Linnaeus.
3.2.2. Ngoài đồng ruộng
- Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu và hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đối với rệp cải Rhopalosiphum pseudobrassicae Davis.
- Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu và hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đối với sâu xanh Pieris rapae Linnaeus.
- Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu đối với Sâu cuốn lá nhỏ Cnaphalocrocis medinalis Guenee.
- Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đối với Sâu cuốn lá nhỏ Cnaphalocrocis medinalis Guenee.
- Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đối với Rầy nâu Nilavata lugen Stal.
- Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu đối với Rầy nâu Nilavata lugen Stal.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Pha chế thuốc
* Pha chế chất bám dính
Lấy 10 gam xà phòng cắt ra từng miếng nhỏ hòa tan trong 1 lít nước đun nóng lên độ tầm 10 phút để cho xà phòng tan hết trong nước. Để nguội và lấy 0,5 lít dầu thực vật đổ từ từ nước xà phòng vào, vừa đổ vừa lấy que đánh thật kĩ.
* Chiết xuất chế phẩm trừ sâu từ hạt củ đậu
Ngâm 100 gam hạt củ đậu qua đêm, sớm hôm sau vớt hạt ra, giã nhỏ đem ngâm với nước trong 4 – 5 giờ, vắt lọc lấy nước.
* Chiết xuất chế phẩm trừ sâu từ hạt củ đậu bổ sung thêm ớt
Ngâm 100 gam hạt củ đậu qua đêm, sớm hôm sau vớt hạt ra, giã nhỏ 100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt, đem ngâm chung với nước trong 4 – 5 giờ, vắt lọc lấy nước .
3.3.2. Thử hiệu lực của thuốc thảo mộc trong phòng
Thời gian bố trí thí nghiệm ngày 10 tháng 7 năm 2013, tại thôn Thanh Bình, xã Thanh An, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
3.3.2.1. Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu
*Thí nghiệm 1: Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu đối với rệp cải Rhopalosiphum pseudobrassicae Davis.
- Bố trí thí nghiệm kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên đầy đủ RCB với 4 công thức thuốc ở các nồng độ pha khác nhau và một công thức đối chứng .
CT1 - 100 gam hạt củ đậu ngâm với 4 lít nước
CT2 - 100 gam hạt củ đậu ngâm với 3 lít nước
CT3 - 100 gam hạt củ đậu ngâm với 2 lít nước
CT4 - 100 gam hạt củ đậu ngâm với 1 lít nước
CT5 - Đối chứng (nước lã)
Mỗi công thức thả 1 con rệp trưởng thành trên cây rau cải được trồng trong rọ nhựa, sau đó để rệp sinh ra một thế hệ, rồi để đúng 50 con rệp trưởng thành/cây rau, rồi phun ướt đẫm cây rau.
- Theo dõi hàng ngày số rệp sống ở mỗi công thức sau 1, 3, 5 và 7 ngày.
- Hiệu lực của thuốc được hiệu đính theo công thức Abbott.
E(%) = x 100
Trong đó:
E: là hiệu lực của thuốc tính bằng (%)
C: là số rệp sáp sống ở công thức đối chứng
T: là số rệp sáp sống ở công thức xử lí
Sơ đồ thí nghiệm.
LN1
LN2
LN3
CT1
CT4
CT3
CT4
CT3
CT1
CT5
CT1
CT2
CT3
CT2
CT5
CT2
CT5
CT4
Dải bảo vệ
Dải bảo vệ
* Thí nghiệm 2: Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu đối với sâu xanh bướm trắng Pieris rapae Linnaeus.
- Các công thức và bố trí thí nghiệm tương thí nghiệm 1.
- Nhưng đối với sâu xanh bướm trắng :
Mỗi công thức là 30 con sâu xanh (cùng tuổi) cho sâu vào vải màn rồi nhúng vào dung dịch thuốc đã pha trong 1 giây. Rồi thả sâu vào hộp xốp có rau cải và hàng ngày thay thức ăn cho sâu.
- Theo dõi hàng ngày số sâu xanh bướm trắng sống ở mỗi công thức sau 1, 3, 5 và 7 ngày.
3.3.2.2. Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu hạt củ đậu bổ sung thêm ớt
*Thí nghiệm 3: Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đối với rệp cải Rhopalosiphum pseudobrassicae Davis.
*Thí nghiệm 4: Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đối với sâu xanh bướm trắng Pieris rapae Linnaeus.
- Thí nghiệm 3 và thí nghiệm 4 cách bố trí thí nhiệm tương tự mục 3.3.2.1 nhưng chỉ khác ở công thức thí nghiệm.
CT1 - 100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 4 lít nước
CT2 - 100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 3 lít nước
CT3 - 100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 2 lít nước
CT4 - 100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 1 lít nước
CT5 - Đối chứng (nước lã)
3.3.3. Thử hiệu lực của thuốc thảo mộc ngoài đồng ruộng
3.3.3.1. Thử hiệu lực của thuốc thảo mộc ngoài đồng ruộng đối với sâu hại trên rau
* Thí nghiệm 5: Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu và hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đối với rệp cải Rhopalosiphum pseudobrassicae Davis.
Thời gian bố trí thí nghiệm 25 tháng 9 năm 2013, tại thôn Thanh Bình, xã Thanh An, huyện Điện Biên. Bố trí thí nghiệm theo khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB) với 2 công thức thuốc đã chọn ở thí nghiệm trong phòng và 1 công thức đối chứng, 4 lần nhắc lại.
+ CT1 - hạt củ đậu (100 gam hạt củ đậu với 2 lít nước)
+ CT2 - hạt hạt củ đậu bổ sung thêm ớt (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 2 lít nước)
+ CT3 - đối chứng (nước lã)
Tiến hành điều tra trước phun một ngày của 15 ô thí nghiệm (mỗi một ô thí nghiệm là 12 m2) với rệp hại rau cải một công thức chọn 5 cây rau cải có rệp sau đó tính mật độ rệp/cây. Sau đó tiến hành điều tra sau khi phun: 3, 5, 7 và 10 ngày.
Sơ đồ thí nghiệm.
Dải bảo vệ
LN1
LN2
LN3
LN4
CT1
CT3
CT2
CT1
CT3
CT2
CT1
CT3
CT2
CT1
CT3
CT2
Dải bảo vệ
* Thí nghiệm 6: Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu và hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đối với sâu xanh bướm trắng Pieris rapae Linnaeus.
- Thời gian bố trí thí nghiệm 6 tháng 8 năm 2013, tại thôn Thanh Bình, xã Thanh An, huyện Điện Biên. Bố trí thí nghiệm tương tự như thí nghiệm 5 nhưng khác nhau ở các nồng độ pha .
+ CT1 - hạt củ đậu (100 gam hạt củ đậu với 2 lít nước)
+ CT2 - hạt hạt củ đậu bổ sung thêm ớt (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 3 lít nước)
+ CT3 - đối chứng (nước lã)
- Điều tra trước khi phun chế phẩm một ngày, mỗi ô thí nghiệm 5 điểm, mỗi điểm 1m2, mỗi ô thí nghiệm là 12m2, sau đó tính mật độ sâu hại trong mỗi ô thí nghiệm, rồi tiến hành điều tra sau khi phun 3,5,7 và 10 ngày.
3.3.3.1. Thử hiệu lực của thuốc thảo mộc ngoài đồng ruộng đối với sâu hại trên lúa
- Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ thảo mộc đối với sâu cuốn lá nhỏ
Thời gian bố trí thí nghiệm ngày 10 tháng 7 năm 2013, tại thôn Thanh Bình, xã Thanh An, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
* Thí nghiệm 7: Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu đối với Sâu cuốn lá nhỏ Cnaphalocrocis medinalis Guenee.
- Bố trí thí nghiệm kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên đầy đủ RCB với 4 công thức thuốc ở các nồng độ pha khác nhau và một công thức đối chứng .
CT1 - 100 gam hạt củ đậu ngâm với 4 lít nước
CT2 - 100 gam hạt củ đậu ngâm với 3 lít nước
CT3 - 100 gam hạt củ đậu ngâm với 2 lít nước
CT4 - 100 gam hạt củ đậu ngâm với 1 lít nước
CT5 - Đối chứng (nước lã)
+ Điều tra mật sâu cuốn lá con/m2 trước khi phun của 15 ô thí nghiệm (1 CT = 12 m2) cách điều tra
+ Theo dõi số lượng sâu cuốn lá sau 3, 5, 7 và 10 ngày.
* Thí nghiệm 8: Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đối với Sâu cuốn lá nhỏ Cnaphalocrocis medinalis Guenee.
Bố trí thí nghiệm tương tự như thí nghiệm 7 nhưng chỉ khác ở công thức thí nghiệm.
CT1 - 100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 4 lít nước
CT2 - 100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 3 lít nước
CT3 - 100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 2 lít nước
CT4 - 100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 1 lít nước
CT5 - Đối chứng (nước lã)
- Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ thảo mộc đối với Rầy nâu
Thời gian bố trí thí nghiệm ngày 12 tháng 9 năm 2013, tại thôn Thanh Bình, xã Thanh An, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
* Thí nghiệm 9: Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu đối với Rầy nâu Nilavata lugen Stal.
Bố trí thí nghiệm giống thí nghiệm 7.
* Thí nghiệm 10: Thử hiệu lực của thuốc trừ sâu chiết xuất từ hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đối với Rầy nâu Nilavata lugen Stal.
Bố trí thí nghiệm tương tự như thí nghiệm 8.
Điều tra trước khi phun chế phẩm một ngày điều tra mỗi ô thí nghiệm 5 điểm, mỗi điểm 10 khóm, mỗi ô thí nghiệm là 12m2, gồm 46 khóm/m2 sau đó tính mật độ sâu hại trong mỗi ô thí nghiệm, rồi tiến hành điều tra sau khi phun 3,5,7 và 10 ngày.
Tính hiệu lực của thuốc theo CT Henderson – Tilton :
ĐHH % = [1- (Ta . Cb /Tb . Ca)]. 100%
Ta : số lượng cá thể sống ở CT sử lý thuốc sau khi thí nghiệm.
Tb : số lượng cá thể sống ở CT sử lý thuốc trước khi thí nghiệm.
Ca : số lượng cá thể sống ở CT đối chứng sau khi thí nghiệm.
Cb : số lượng cá thể sống ở CT đối chứng trước khi thí nghiệm.
Xử lý số liệu bằng phần mềm Microsoft Excel.
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Kết quả thử thuốc trong phòng
4.1.1. Thuốc được chiết xuất từ hạt củ đậu bổ sung thêm ớt
Kết quả thử hiệu lực của thuốc hạt củ đậu bổ sung thêm ớt với 4 nồng độ thuốc khác nhau được trình bày ở bảng 1 và 2.
Bảng 1. Hiệu lực trừ rệp cải trong phòng của thuốc hạt củ đậu bổ sung thêm ớt
Công thức
Hiệu lực (%) của các công thức thuốc
Sau 1 ngày
Sau 3 ngày
Sau 5 ngày
Sau 7 ngày
CT1 - (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 5 lít nước)
49,23d
51,94d
53,54d
54,94d
CT2 - (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 4 lít nước)
55,15c
60,22c
63,92c
64,91c
CT3 - (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 3 lít nước)
59,35b
64,91b
67,52b
71,80b
CT4- (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 2 lít nước)
64,44a
69,23a
75.28a
78,71a
CT5- (Đối chứng nước lã)
0,00
0,00
0,00
0,00
LSDα=0.05=3,51
CV%= 4,23%
LSDα=0.05=2,69
CV%= 3,01%
LSDα=0.05=3,87
CV%= 4,08%
LSDα=0.05=4,46
CV%= 4,54%
Ghi chú: Các chữ a, b, c, d, biểu hiện sự sai khác giữa các công thức
Kết quả nhận thấy hiệu lực trừ rệp ở trong phòng tăng lên theo thời gian ở tất cả các công thức. Sau xử lý 1 ngày hiệu lực của công thức 1 đạt 49,23 % sau 3 ngày đạt 51,94 %, sau 5 ngày đạt 53,54%, sau 7 ngày đã đạt 54,94%. Công thức 2 sau 1 ngày đạt 55,15%, sau 3 ngày đạt 60,22%, sau 5 ngày đạt 63,92%, sau 7 ngày đạt 64,91%. Công thức 3 sau 1 ngày hiệu lực mới đạt 59,35% nhưng sau 3 ngày hiệu lực đã tăng lên 64,91%, đến ngày thứ 5 hiệu lực đạt 67,52% và đến ngày thứ 7 hiệu lực đã đạt 71,80%. Đối với công thức 4 sau 1 ngày hiệu lực mới đạt 64,44% nhưng sau 3 ngày hiệu lực đã tăng lên 69,23 %, đến ngày thứ 5 hiệu lực đạt 75,28 % và đến ngày thứ 7 hiệu lực đã đạt 78,71%.
Sau xử lý thuốc 1 ngày hiệu lực trừ rệp cải của thuốc hạt củ đậu bổ sung thêm ớt còn rất thấp, sau 3 ngày hiệu lực của thuốc tăng nhanh nhanh so với sau 1 ngày. Đến ngày thứ 5 và ngày thứ 7 sau xử lý, hiệu lực của thuốc tăng nhưng chậm.
Hiệu lực trừ rệp của thuốc hạt củ đậu bổ sung thêm ớt sử dụng ở các nồng độ khác nhau là khác nhau ở độ tin cậy 95%. Công thức 4 hiệu lực đạt cao nhất, sau đến công thức 3, rồi công thức 2, thấp nhất công thức 1. Cụ thể sau 3 ngày hiệu lực của công thức 4 đã đạt 69,23 %. Công thức công thức 3 đạt 64,91%, nhưng công thức 2 mới đạt 60,22 % và công thức 1 chỉ đạt 51,94 %. Đến ngày thứ 7 sau xử lý, hiệu lực công thức 4 đã đạt 78,71 công thức 3 đã đạt 71,80%, nhưng công thức 2 đạt 64,91 % và công thức 1 đạt 54,94%.
Bảng 2. Hiệu lực trừ sâu xanh bướm trắng trong phòng của thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt
Công thức
Hiệu lực (%) của các công thức thuốc
Sau 1 ngày
Sau 3 ngày
Sau 5 ngày
Sau 7 ngày
CT1 - (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 5 lít nước )
42,43d
47,55d
48,83d
49,88c
CT2 - (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 4 lít nước)
46,91c
61,92c
65,97c
67,69b
CT3 - (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 3 lít nước)
53,40b
66,79b
72,72b
76,43a
CT4- (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 2 lít nước)
58,93a
70,57a
77,99a
79,41a
CT5- (Đối chứng nước lã)
0,00
0,00
0,00
0,00
LSDα=0.05=3,48
CV%= 4,74%
LSDα=0.05=3,71
CV%= 4,13%
LSDα=0.05=3,72
CV%= 3,85%
LSDα=0.05=4,68
CV%= 4,71%
Ghi chú: Các chữ a, b, c, d, biểu hiện sự sai khác giữa các công thức.
Kết quả nhận thấy hiệu lực trừ sâu xanh bướm trắng ở trong phòng tăng lên theo thời gian ở tất cả các công thức. Sau xử lý thuốc 1 ngày hiệu lực trừ sâu xanh bướm trắng của thuốc hạt củ đậu bổ sung thêm ớt còn tương đối thấp, sau 3, 5 ngày hiệu lực của thuốc tăng nhanh nhanh so với sau 1 ngày.
Hiệu lực trừ rệp của thuốc hạt củ đậu bổ sung thêm ớt sử dụng ở các nồng độ khác nhau là khác nhau ở độ tin cậy 95%. Công thức 4 hiệu lực đạt cao nhất, sau đến công thức 3, rồi công thức 2, thấp nhất công thức 1. Cụ thể sau 3 ngày hiệu lực của công thức 4 đã đạt 70,57%. công thức 3 đạt 66,79%, nhưng công thức 2 mới đạt 61,92 % và công thức 1 chỉ đạt 47,55 %. Đến ngày thứ 7 sau xử lý, hiệu lực công thức 4 đã đạt 79,41 % công thức 3 đã đạt 76,43 %, nhưng công thức 2 đạt 67,69 % và công thức 1 mới đạt 49,88%.
Tuy nhiên sau phun 7 ngày hiệu lực của thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt ở công thức 4 và công thức 3 tương đương nhau, tương ứng đạt 79,41% và 76,43% cao hơn hẳn công thức 1 và công thức 2.
4.1.2. Thuốc được chiết xuất từ hạt củ đậu
Kết quả thử hiệu lực của thuốc hạt củ đậu với 4 nồng độ thuốc khác nhau được trình bày ở bảng 3 và 4.
Bảng 3. Hiệu lực trừ rệp cải trong phòng của thuốc hạt củ đậu
Công thức
Hiệu lực (%) của các công thức thuốc
Sau 1 ngày
Sau 3 ngày
Sau 5 ngày
Sau 7 ngày
CT1 - (100 gam hạt củ đậu với 5 ít nước)
44,23d
48,84d
51,80d
53,79d
CT2 - (100 gam hạt củ đậu với 4 lít nước)
50,38c
55,97c
62,42c
65,46c
CT3 - (100 gam hạt củ đậu với 3 lít nước)
56,79b
63,45b
67,98b
69,70b
CT4 - (100 gam hạt củ đậu với 2 lít nước)
61,14a
67,55a
71,56a
75,02a
CT5- (Đối chứng nước lã)
0,00
0,00
0,00
0,00
LSDα=0.05=3,13
CV%= 4,04%
LSDα=0.05=3,99
CV%= 4,65%
LSDα=0.05=3,31
CV%= 3,59%
LSDα=0.05=3,85
CV%= 4,01%
Ghi chú: Các chữ a, b, c, d, biểu hiện sự sai khác giữa các công thức
Sau xử lý thuốc 1 ngày hiệu lực trừ rệp cải của thuốc hạt củ đậu còn tương đối cao, sau 3 ngày hiệu lực của thuốc tăng nhanh nhanh so với sau 1 ngày. Đến ngày thứ 5 và ngày thứ 7 sau xử lý, hiệu lực của thuốc tăng nhưng chậm.
Hiệu lực trừ rệp của thuốc hạt củ đậu sử dụng ở các nồng độ khác nhau là khác nhau ở độ tin cậy 95%. Công thức 4 hiệu lực đạt cao nhất, sau đến công thức 3, rồi công thức 2 , thấp nhất công thức 1. Cụ thể sau 3 ngày hiệu lực của công thức 4 đã đạt 67,55%. Công thức 3 đạt 63,45%, nhưng công thức 2 mới đạt 55,97 % và công thức 1 chỉ đạt 48,84 %. Đến ngày thứ 7 sau xử lý, hiệu lực công thức 4 đã đạt 75,02% công thức 3 đã đạt 69,70%, nhưng công thức 2 đạt 65,46 % và công thức 1 mới đạt 53,79%.
Bảng 4. Hiệu lực trừ sâu xanh bướm trắng trong phòng của thuốc hạt củ đậu.
Công thức
Hiệu lực (%) của các công thức thuốc
Sau 1 ngày
Sau 3 ngày
Sau 5 ngày
Sau 7 ngày
CT1 - ( 100 gam hạt củ đậu với 5 ít nước )
41,16d
44,05d
49,16d
50,49d
CT2 - ( 100 gam hạt củ đậu với 4 lít nước )
46,27c
54,50c
57,28c
60,98c
CT3 - ( 100 gam hạt củ đậu với 3 lít nước )
50,77b
57,36b
65,84b
69,46b
CT4- ( 100 gam hạt củ đậu với 2 lít nước )
56,10a
62,49a
71,64a
73,79a
CT5- (Đối chứng nước lã)
0,00
0,00
0,00
0,00
LSDα=0.05=2,59
CV%= 3,66%
LSDα=0.05=3,53
CV%= 4,48%
LSDα=0.05=3,58
CV%= 4,03%
LSDα=0.05=3,24
CV%= 3,50%
Ghi chú: Các chữ a, b, c, d, biểu hiện sự sai khác giữa các công thức.
Kết quả nhận thấy hiệu lực trừ sâu xanh bướm trắng ở trong phòng tăng lên theo thời gian ở tất cả các công thức. Sau xử lý thuốc 1 ngày hiệu lực trừ sâu xanh bướm trắng của thuốc hạt củ đậu còn tương đối thấp, sau 3 ngày hiệu lực của thuốc tăng nhanh đến ngày thứ 5 so với sau 1 ngày. Đến ngày thứ 7 sau xử lý, hiệu lực của thuốc tăng nhưng chậm.
Hiệu lực trừ sâu xanh bướm trắng của thuốc hạt củ đậu sử dụng ở các nồng độ khác nhau là khác nhau ở độ tin cậy 95%. Công thức 4 hiệu lực đạt cao nhất, sau đến công thức 3, rồi công thức 2, thấp nhất công thức 1. Cụ thể sau 3 ngày hiệu lực của công thức 4 đã đạt 62,49%. Công thức 3 đạt 57,36 %, nhưng công thức 2 mới đạt 54,50 % và công thức 1 chỉ đạt 44,05 %. Đến ngày thứ 7 sau xử lý, hiệu lực công thức 4 đã đạt 73,79% công thức 3 đã đạt 69,46 %, nhưng công thức 2 đạt 60,98 % và công thức 1 mới đạt 50,49 %.
4.2. Kết quả thử thuốc ngoài đồng
4.2.1. Thử hiệu lực của thuốc thảo mộc ngoài đồng ruộng đối với sâu hại trên rau
Chúng tôi tiếp tục tiến hành thử hiệu lực của các loại thuốc thảo mộc (có nồng độ pha tốt nhất) đã được chọn từ thí nghiệm trong phòng đối với rệp cải Phopalosiphum pseudobrassicae Davis và sâu xanh bướm trắng Pieris rapae Linnaeus. Thí nghiệm tiến hành ở thôn Thanh Bình, xã Thanh An, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Kết quả được trình bày ở bảng 5 và 6.
Bảng 5. Hiệu lực trừ rệp cải ngoài đồng ruộng của các loại thuốc thảo mộc
Công thức
Hiệu lực (%) của các công thức thuốc
Sau 3 ngày
Sau 5 ngày
Sau 7 ngày
Sau 10 ngày
CT1 – (hạt củ đậu)
60,59b
64,81b
58,05b
46,64b
CT1 – (hạt củ đậu bổ sung ớt)
67,37a
74,85a
67,10a
54,11a
CT5 - (Đối chứng nước lã)
0,00
0,00
0,00
0,00
LSDα=0.05=4,89
CV%= 6,63%
LSDα=0.05=7,79
CV%= 9,92%
LSDα=0.05=5,38
CV%= 7,74%
LSDα=0.05=5,27
CV%= 9,08%
Ghi chú: Các chữ a, b, c, d, biểu hiện sự sai khác giữa các công thức.
Hiệu lực của các loại thuốc sau khi phun ở các công thức khác nhau là có sự khác nhau. Được thể hiện qua hiệu lực phòng trừ của các loại thuốc. Từ bảng 5 ta nhận thấy:
Hiệu lực của thuốc sau 3 ngày phun: hiệu lực của thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt cao nhất 67,37%. Rồi đến hiệu lực của thuốc hạt củ đậu đạt 60,59%.
Hiệu lực của thuốc sau 5 ngày phun: hiệu lực của công thức ở cả 2 công thức đều tăng, hiệu lực của thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt là 74,85% và hiệu lực của thuốc hạt củ đậu đạt 64,81%.
Hiệu lực thuốc sau 7 ngày: đến ngày thứ 7 thì hiệu lực của 2 loại thuốc đều giảm, hiệu lực của thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt là 67,10%, còn hiệu lực của thuốc hạt củ đậu đạt 58,05%.
Hiệu lực của thuốc sau 10 ngày: hiệu lực của thuốc ở cả 2 công thức đều giảm. Nhưng hiệu lực thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt vẫn có hiệu lực cao nhất 54,11%. Còn hiệu lực của thuốc hạt củ đậu đạt 46,64%.
Bảng 6. Hiệu lực trừ sâu xanh bướm trắng ngoài đồng ruộng của các loại thuốc thảo mộc
Công thức
Hiệu lực (%) của các công thức thuốc
Sau 3 ngày
Sau 5 ngày
Sau 7 ngày
Sau 10 ngày
CT1 – (hạt củ đậu)
57,73b
50,39b
39,06b
30,25b
CT1 – (hạt củ đậu bổ sung ớt)
70,35a
59,92a
47,66a
41,67a
CT5 - (Đối chứng nước lã)
0,00
0,00
0,00
0,00
LSDα=0.05=5,75
CV%= 7,78%
LSDα=0.05=7,60
CV%= 11,94%
LSDα=0.05=4,78
CV%= 9,56%
LSDα=0.05=4,37
CV%= 10,55%
Ghi chú: Các chữ a, b, c, d, biểu hiện sự sai khác giữa các công thức.
Từ bảng 6 ta nhận thấy:
Hiệu lực của thuốc sau 3 ngày phun: hiệu lực của thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt cao nhất 70,35%. Rồi đến hiệu lực của thuốc hạt củ đậu đạt 57,73%.
Hiệu lực của thuốc sau 5 ngày phun: hiệu lực của công thức ở cả 2 công thức đều giảm, hiệu lực của thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt là 59,92% và hiệu lực của thuốc hạt củ đậu là 50,39%.
Hiệu lực thuốc sau 7 ngày: đến ngày thứ 7 thì hiệu lực của 2 loại thuốc đều giảm, hiệu lực của thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt là 47,66%, còn hiệu lực của thuốc hạt củ đậu là 39,06%.
Hiệu lực của thuốc sau 10 ngày: hiệu lực của thuốc ở cả 2 công thức đều giảm. Nhưng hiệu lực thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt vẫn có hiệu lực cao 41,67%. Còn hiệu lực của thuốc hạt củ đậu 30,25%.
4.2.2. Thử hiệu lực của thuốc thảo mộc ngoài đồng ruộng đối với sâu hại trên lúa
Đối với sâu hại trên lúa chúng tôi tiến hành thử hiệu lực của 2 loại thuốc thảo mộc là: thuốc hạt củ đậu và thuốc hạt củ đậu bổ sung thêm ớt ( nồng độ pha khác nhau) đối với Sâu cuốn lá nhỏ Cnaphalocrocis medinalis Guenee và Rầy nâu Nilavata lugen Stal. Thí nghiệm tiến hành ở thôn Thanh Bình, xã Thanh An, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên .
4.2.2.1. Thuốc được chiết xuất từ hạt củ đậu bổ sung thêm ớt
Kết quả thử hiệu lực của thuốc hạt củ đậu bổ sung thêm ớt với 4 nồng độ thuốc khác nhau được trình bày ở bảng 7 và 8.
Bảng 7. Hiệu lực trừ rầy nâu ngoài đồng ruộng của thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt
Công thức
Hiệu lực (%) của các công thức thuốc
Sau 3 ngày
Sau 5 ngày
Sau 7 ngày
Sau 10 ngày
CT1 - (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 5 lít nước )
28,92d
23,24d
19,26d
16,35c
CT2 - (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 4 lít nước )
37,70c
31,32c
29,13c
25,99b
CT3 - (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 3 lít nước)
44,51b
39,82b
36,25b
30,08b
CT4- (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 2 lít nước)
55,63a
51,86a
47,42a
43,82a
CT5 - (Đối chứng nước lã)
0,00
0,00
0,00
0,00
LSDα=0.05=5,50
CV%= 8,76%
LSDα=0.05=5,33
CV%= 9,66%
LSDα=0.05=6,14
CV%= 12,35%
LSDα=0.05=4,83
CV%= 11,04%
Ghi chú: Các chữ a, b, c, d, biểu hiện sự sai khác giữa các công thức.
Kết quả nhận thấy hiệu lực trừ Rầy nâu của thuốc thảo mộc ở các công thức cao nhất ở ngày thứ 3 sau phun thuốc. Sau đó hiệu lực của thuốc giảm dần sau 5, 7 và 10 ngày. Cụ thể hiệu lực của công thức 1 sau phun 3 ngày cao nhất 28,92%, nhưng sau 5 ngày hiệu lực bắt đầu giảm 23,24%, sau 7 ngày đạt 19,26%, đến 10 ngày sau phun hiệu lực chỉ còn 16,35%; Ở công thức 2, sau phun thuốc 3 ngày hiệu lực đạt cao nhất 37,70%, sau 5 ngày hiệu lực giảm còn 31,32%, sau 7 ngày hiệu lực đạt 29,13%, nhưng sau 10 ngày hiệu lực giảm còn 25,99%; Ở công thức 3 Sau phun 3 hiệu lực đạt cao nhất 44,51%, sau 5 ngày hiệu lực bắt đầu giảm 39,82% và sau 7 ngày đạt 36,25%, nhưng sau 10 ngày hiệu lực chỉ còn 30.08%; Ở công thức 4 sau phun 3 ngày cao nhất 55,63%, nhưng sau 5 ngày hiệu lực bắt đầu giảm 51,86%, sau 7 ngày đạt 47,42%, đến 10 ngày sau phun hiệu lực chỉ còn 43,82%.
Hiệu lực ngoài đồng của thuốc thảo mộc ở các nồng độ pha khác có sự khác nhau rõ rệt ở độ tin cậy 95%. Hiệu lực sau phun 3, 5, 7 ngày cao nhất ở công thức 4, sau đến công thức 3, rồi công thức 2 và thấp nhất công thức 1. Cụ thể công thức 4 sau 3 ngày, hiệu lực đạt 55,63%, nhưng công thức 3 đạt 44,51%, công thức 2 đạt 37,70% và công thức 1 đạt 28,92; Sau phun 5 ngày, hiệu lực của công thức 4 đạt 51,86%, công thức 3 đạt 39,82%, công thức 2 đạt 31,32% và ở công thức 1 đạt 23,24%; Sau phun 7 ngày, hiệu lực của công thức 4 đạt 47,42%, công thức 3 đạt 36,25%, công thức 2 đạt 29,13% và thấp nhất ở công thức 1 đạt 19,26%.
Tuy nhiên sau phun 10 ngày hiệu lực của thuốc thảo mộc ở công thức 3 và công thức 2 tương đương nhau, tương ứng đạt 30,08% và 25,99% nhưng vẫn thấp hơn công thức 4 (đạt 43,82%) và cao hơn hẳn công thức 1.
Bảng 8. Hiệu lực trừ sâu cuốn lá nhỏ ngoài đồng ruộng của thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt
Công thức
Hiệu lực (%) của các công thức thuốc
Sau 3 ngày
Sau 5 ngày
Sau 7 ngày
Sau 10 ngày
CT1 - (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 5 lít nước)
31,33d
26,77d
21,05d
13,91d
CT2 - (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 4 lít nước)
44,61c
41,17c
33,19c
28,97c
CT3 - (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 3 lít nước)
55,55b
52,33b
46,52b
43,53b
CT4 - (100 gam hạt củ đậu và 100 gam ớt ngâm với 2 lít nước)
66,72a
65,35a
60,59a
57,94a
CT5 - (Đối chứng nước lã)
0,00
0,00
0,00
0,00
LSDα=0.05=4,57
CV%= 6,12%
LSDα=0.05=6,38
CV%= 9,13%
LSDα=0.05=6,59
CV%= 10,79%
LSDα=0.05=5,45
CV%= 10,03%
Ghi chú: Các chữ a, b, c, d, biểu hiện sự sai khác giữa các công thức.
Từ bảng kết quả nhận thấy hiệu lực ngoài đồng của thuốc thảo mộc ở các nồng độ pha khác có sự khác nhau rõ rệt ở độ tin cậy 95%. Hiệu lực sau phun 3, 5, 7 ngày cao nhất ở công thức 4, sau đến công thức 3, rồi công thức 2 và thấp nhất công thức 1. Cụ thể công thức 4 sau 3 ngày, hiệu lực đạt 66,72%, nhưng công thức 3 đạt 55,55%, công thức 2 đạt 44,61% và công thức 1 đạt 31,33%; Sau phun 5 ngày, hiệu lực của công thức 4 đạt 65,35%, công thức 3 đạt 52,33%, công thức 2 đạt 41,17% và ở công thức 1 đạt 26,77%; Sau phun 7 ngày, hiệu lực của công thức 4 đạt 60,59%, công thức 3 đạt 46,52%, công thức 2 đạt 33,19% và công thức 1 đạt 21,05%%; Sau phun 10 ngày, hiệu lực của công thức 4 đạt 57,94%, công thức 3 đạt 43,53%, công thức 2 đạt 28,97% và thấp nhất ở công thức 1 đạt 13,91%.
4.2.2.2. Thuốc được chiết xuất từ hạt củ đậu
Kết quả thử hiệu lực của thuốc hạt củ đậu với 4 nồng độ thuốc khác nhau được trình bày ở bảng 9 và 10.
Bảng 9. Hiệu lực trừ rầy nâu ngoài đồng ruộng của thuốc hạt củ đậu
Công thức
Hiệu lực (%) của các công thức thuốc
Sau 3 ngày
Sau 5 ngày
Sau 7 ngày
Sau 10 ngày
CT1 - (100 gam hạt củ đậu với 5 ít nước)
26,72d
20,53d
14,79d
11,30c
CT2 - (100 gam hạt củ đậu với 4 lít nước)
33,25c
29,47c
25,43c
20,79b
CT3 - (100 gam hạt củ đậu với 3 lít nước)
40,30b
35,25b
31,28b
28,14b
CT4- (100 gam hạt củ đậu với 2 lít nước)
49,83a
42,44a
40,98a
38,45a
CT5 - (Đối chứng nước lã)
0,00
0,00
0,00
0,00
LSDα=0.05=4,46
CV%= 7,90%
LSDα=0.05=5,01
CV%= 10,42%
LSDα=0.05=3,85
CV%= 9,08%
LSDα=0.05=3,09
CV%= 8,32%
Ghi chú: Các chữ a, b, c, d, biểu hiện sự sai khác giữa các công thức.
Kết quả nhận thấy hiệu lực trừ Rầy nâu ngoài đồng của thuốc thảo mộc ở các nồng độ pha khác có sự khác nhau rõ rệt ở độ tin cậy 95%. Hiệu lực sau phun 3, 5, 7 ngày cao nhất ở công thức 4, sau đến công thức 3, rồi công thức 2 và thấp nhất công thức 1. Cụ thể công thức 4 sau 3 ngày, hiệu lực đạt 49,83%, nhưng công thức 3 đạt 40,30%, công thức 2 đạt 33,25% và công thức 1 đạt 26,72%; Sau phun 5 ngày, hiệu lực của công thức 4 đạt 42,44%, công thức 3 đạt 35,25%, công thức 2 đạt 29,47% và ở công thức 1 đạt 20,53%; Sau phun 7 ngày, hiệu lực của công thức 4 đạt 40,98%, công thức 3 đạt 31,28%, công thức 2 đạt 25,43% và thấp nhất ở công thức 1 đạt 14,79%.
Tuy nhiên sau phun 10 ngày hiệu lực của thuốc hạt củ đậu ở công thức 4 (hiệu lực đạt 38,45%) vẫn cao hơn hẳn công thức 3 (hiệu lực đạt 28,14%), công thức 2 (hiệu lực đạt 20,79%) và công thức 1 (hiệu lực đạt 11,30%).
Bảng 10. Hiệu lực trừ sâu cuốn lá nhỏ ngoài đồng ruộng của thuốc hạt củ đậu
Công thức
Hiệu lực (%) của các công thức thuốc
Sau 3 ngày
Sau 5 ngày
Sau 7 ngày
Sau 10 ngày
CT1 - (100 gam ớt ngâm với 5 lít nước)
29,50d
25,76d
20,91d
15,07d
CT2 - (100 gam ớt ngâm với 4 lít nước)
40,65c
36,64c
32,52c
27,40c
CT3 - (100 gam ớt ngâm với 3 lít nước)
53,85b
50,03b
47,47b
42,25b
CT4- (100 gam ớt ngâm với 2 lít nước)
62,59a
60,27a
58,62a
52,16a
CT5- (Đối chứng nước lã)
0,00
0,00
0,00
0,00
LSDα=0.05=4,02
CV%= 5,73%
LSDα=0.05=7,05
CV%= 11,53%
LSDα=0.05=6,48
CV%= 10,81%
LSDα=0.05=5,10
CV%= 9,89%
Ghi chú: Các chữ a, b, c, d, biểu hiện sự sai khác giữa các công thức.
Từ bảng kết quả nhận thấy hiệu lực sâu cuốn lá nhỏ ngoài đồng của thuốc thảo mộc ở các nồng độ pha khác có sự khác nhau rõ rệt ở độ tin cậy 95%. Hiệu lực sau phun 3, 5, 7 ngày cao nhất ở công thức 4, sau đến công thức 3, rồi công thức 2 và thấp nhất công thức 1. Cụ thể công thức 4 sau 3 ngày, hiệu lực đạt 62,59%, nhưng công thức 3 đạt 53,85%, công thức 2 đạt 40,65% và công thức 1 đạt 29,50%; Sau phun 5 ngày, hiệu lực của công thức 4 đạt 60,27%, công thức 3 đạt 50,03%, công thức 2 đạt 36,64% và ở công thức 1 đạt 25,76%; Sau phun 7 ngày, hiệu lực của công thức 4 đạt 58,62%, công thức 3 đạt 47,47%, công thức 2 đạt 32,52% và công thức 1 đạt 20,91%%; Sau phun 10 ngày, hiệu lực của công thức 4 đạt 52,16%, công thức 3 đạt 42,25%, công thức 2 đạt 27,40% và thấp nhất ở công thức 1 đạt 15,07%.
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài “Thử hiệu lực của một số thuốc trừ sâu có nguồn gốc thảo mộc đối với sâu hại chính trên lúa và trên rau cải trong vụ mùa năm 2013 tại xã Thanh An – huyện Điện Biên – tỉnh Điện Biên” thì chúng tôi có một số kết luận sau:
5.1.1. Hiệu lực trong phòng của thuốc chiết xuất từ lá hạt củ đậu và hạt củ đậu bổ sung thêm ớt
- Hiệu lực trong phòng trừ rệp cải Phopalosiphum pseudobrassicae Davis tương đối cao. Cụ thể, sau 7 ngày thuốc hạt củ đậu bổ sung thêm ớt cao nhất (hiệu lực đạt 78,71%), sau đó đến thuốc hạt củ đậu (đạt 75,02 %) .
- Hiệu lực trong phòng trừ sâu xanh bướm trắng Pieris rapae Linnaeus tương đối cao, sau 7 ngày là thuốc hạt củ đậu bổ sung thêm ớt cao nhất (hiệu lực đạt 79,41%), sau đó là đến thuốc hạt củ đậu (hiệu lực đạt 73,79%).
5.1.2. Hiệu lực ngoài đồng ruộng của thuốc chiết xuất từ hạt củ đậu và hạt củ đậu bổ sung thêm ớt
đối với sâu hại trên rau
- Hiệu lực trừ rệp cải Phopalosiphum pseudobrassicae Davis ở ngoài đồng ruộng cao nhất là thuốc hạt củ đậu bổ sung thêm ớt (đạt 74,85%). Thuốc phát huy hiệu quả cao nhất sau phun 5 ngày.
- Hiệu lực trừ sâu xanh bướm trắng Pieris rapae Linnaeus ở ngoài đồng ruộng cao nhất là thuốc hạt củ đậu bổ sung ớt, sau 3 ngày phun đạt 70,35 %.
đối với sâu hại trên lúa
- Hiệu lực trừ Rầy nâu Nilavata lugen Stal. ở ngoài đồng ruộng của thuốc thảo mộc ở mức trung bình thấp (sau 3 ngày phun, thuốc hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đạt 55,63%, thuốc hạt củ đậu đạt 49,83%).
- Hiệu lực trừ Sâu cuốn lá nhỏ Cnaphalocrocis medinalis Guenee. ở ngoài đồng ruộng của thuốc thảo mộc ở mức trung bình (sau 3 ngày phun, thuốc hạt củ đậu bổ sung thêm ớt đạt 66,72%, thuốc hạt củ đậu đạt 62,59%).
- Từ những kết quả trên cho thấy, khi mà thuốc thảo mộc có bổ sung thêm ớt thì hiệu lực đã tăng hơn so với thuốc thảo mộc không thêm ớt. Vì vậy để tăng hiệu lực của thuốc thì trong quá trình chiết xuất chúng ta cần bổ sung ớt để thuốc phát huy hiệu lực cao nhất.
5.2. Kiến nghị
Trong quá trình thực hiện đề tài về cách pha chế chúng tôi thu được những kết quả sơ bộ về hiệu lực trừ sâu của một số loại thuốc thảo mộc tại xã Thanh An – huyện Điện Biên – tỉnh Điện Biên. Vì vậy chúng tôi đề nghị tiếp tục nghiên cứu cải tiến sao cho thật đơn giản, tốn ít công, ít nguyên liệu mà thuốc vẫn diệt được sâu tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Văn Oánh - Nguyễn Văn Viên - Bùi Trọng Thủy(2007), giáo trính sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, NXB Nông nghiệp Hà Nội .
Lê Trường(1967), thuốc trừ sâu bằng cây cỏ, NXB khoa học Hà Nội -
Nguyễn Văn Tuất, Lê Văn Thuyết(2001), giáo trình sản xuất, chế biến và sử dụng thuốc Bảo Vệ Thực Vật thảo mộc và sinh học, NXB Nông nghiệp Hà Nội .
Phạm Chí Thành(1976), Giáo trình phương pháp thí nghiệm đồng ruộng, NXB Nông nghiệp.
Nguyễn Viết Tùng(1981), Giáo trình công trùng đại cương, NXB Nông nghiệp.
Bộ môn côn trùng (2004), Giáo trình côn trùng chuyên khoa, NXB Nông nghiệp.
QCVN 01-38 : 2010/BNNPTNT, Quy chuẩn Quốc gia về phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng.
Viện Bảo Vệ Thực Vật(1997) Tập 3: Phương pháp điều tra đánh giá sâu, bệnh, cỏ dại, chuột hại cây trồng cạn, NXB Nông Nghiệp Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuyen_de_tot_nghiep_896.doc