PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Thủ tục hành chính đóng vai trò quan trọng trong quản lý Nhà nước, đó chính là cơ sở và điều kiện để cơ quan Nhà nước giải quyết công việc của dân và của các tổ chức, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và của cơ quan có công việc cần giải quyết.
Trong thời kỳ đổi mới thì thủ tục hành chính trong thời bao cấp đã không còn phù hợp, bộc lộ những tồn tại và yếu kém, làm kìm hãm đến sự phát triển chung. Do vậy, vấn đề cải cách thủ tục hành chính đang được đặt ra cấp thiết, nhằm từng bước làm đơn giản thủ tục hành chính, giảm bớt phiền hà, giải quyết công việc một cách nhanh chóng, tạo ra môi trường thông thoáng lành mạnh trên mọi lĩnh vực góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đó cũng chính là tính cấp thiết của đề tài này với mục đích cụ thể là:
- Cung cấp một cái nhìn tổng quát nhất cho những người quan tâm về thực trạng thủ tục hành chính và cải cách thủ tục hành chính ở nước ta; vai trò, những tồn tại yếu kém và tính cấp thiết phải tiến hành cải cách thủ tục hành chính.
- Thông qua đề tài này, hy vọng sẽ có những ý tưởng mới, thiết thực, góp phần nhỏ bé vào việc cải cách và hoàn thiện thủ tục hành chính ở nước ta trong thời gian tới về những vấn đề đã được cải cách và những lĩnh vực sẽ được cải cách.
- Với đề tài này, hy vọng nó sẽ trở thành tài liệu tham khảo, hoc tập cho những sinh viên đang theo học nghành luật, hoăc những sinh viên đang theo hoc khác nghành song quan tâm tới vấn đề thủ tục hành chính.
Vấn đề thủ tục hành chính và cải tạo thủ tục hành chính, từ trước tới nay đã có nhiều học giả, các giáo sư, tiến sĩ nghiên cứu, do vậy khi chọn đề tài này không tránh khỏi do dự trước những tri thức lớn đó, xong với khuôn khổ là một báo cáo thực tập tất yếu sẽ không tránh khỏi những sai xót và hạn chế. Vì vậy, rất mong được sự thông cảm và chỉ bảo tận tình của quý thầy cô và của các bạn.
II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ một báo cáo thực tập và thời gian hạn chế, vì vậy không thể đi sâu vào nghiên cứu toàn bộ văn bản, các quy định của pháp luật về vấn đề này. Ở đây chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, nghị quyết 38/CP ngày 4/8/1994 của Chính phủ về cải cách một bước thủ tục hành chính và một số văn bản pháp luật liên quan. Đồng thời tiến hành làm rõ những thành tựu đã đạt được trong 8 lĩnh vực của gần 8 năm thực hiện; những tồn tại và phương hướng khắc phục trong thời gian tới của cải cách hành chính ở nước ta.
2. Phương pháp nghiên cứu
Với phương châm nghiên cứu đề tài một cách toàn diện, có hệ thống, chúng ta luôn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Đặt sự vật, hiện tượng trong một trạng thái động theo mối quan hệ biện chứng để từ đó phân tích đánh giá vấn đề một cách khách quan trong tinh thần thấm nhuần các đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Từ đối tượng nghiên cứu đã trình bày ở trên nên phương pháp nghien cứu đươc áp dung trong quá trình nghiên cứu là :
- Phương pháp tổng hợp – liệt kê
- Phương pháp phân tích – so sánh
- Phương pháp chứng minh
33 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5588 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thủ tục hành chỉnh thực trạng và phương hướng hoàn chỉnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân được Nhà nước bảo đảm. Công dân , tổ chức có quyền khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có căn cứ để cho rằng có quyết định hành chính(QĐHC), hành vi hành chính(HVHC) của cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Do vai trò , vị trí quan trọng của quyền khiếu nại, tố cáo trong đời sống chính trị, xã hội, ngay từ khi ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã chú ý đặc biệt đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, cơ quan, tổ chức, nên hoạt động giải quyết khiếu nại,tố cáo của Nhà nước ta ngày càng được đổi mới và hoàn thiện. Điều này được phản ánh trước hết thông qua tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước. Trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, cùng với các cơ quan trong bộ máy nhà nước, hệ thống thanh tra nhà nước đã góp phần đáng kể trong việc giải quyết các khiếu nại hành chính. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn phải thừa nhận một thực tế là trong nhiều lĩnh vực thuộc đời sống xã hội vẫn còn tình trạng thiếu dân chủ, kỷ cương lỏng lẻo, bộ máy nhà nước của chúng ta vẫn còn cồng kềnh gây lãng phí ngân quỹ nhà nước, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm, chồng chéo, trùng lắp, hiệu quả chưa cao.
Nhằm đổi mới tổ chức, hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính, nhà nước ta tiếp tục trao quyền giải quyết các KKHC cho các cơ quan hành chính nhà nước, trong đó có TPHC. Hiện nay TPHC ở nước ta ngày càng được coi trọng và có ý nghĩa sâu sắc, việc thiết lập hệ thống các cơ quan TPHC để giải quyết các khiếu kiện hành chính ( KKHC) cũng đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần nghiên cứu
Bản thân còn là sinh viên ngồi trên ghế nhà trường- là người được thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy,trên cơ sở các kiến thức tiếp thu được trong quá trình học tập,tôi mạnh dạn chọn đề tài "Quan niệm về Tài phán hành chính ở nước ta hiện nay".
2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài .
Thông qua việc nghiên cứu hệ thống pháp luật về TPHC trên phương diện lý luận nhằm hệ thống hoá các lý luận về tài phán hành chính(TPHC). Đồng thời làm rõ thực trạng về tổ chức và hoạt động TPHC ở Việt Nam. Đánh giá các mặt tích cực và hạn chế trong việc tổ chức và hoạt động về TPHC ở nước ta. Qua đó đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới, hoàn thiện pháp luật về TPHC ở nước ta.
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để hoàn thiện đề tài này tôi đi sâu vào nghiên cứu bằng các phương pháp nhận thức khoa học cụ thể như: phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, thống kê; phương pháp phân tích đánh giá…
4. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Nội dung đề tài được chia làm hai chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về tài phán hành chính, thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tài phán hành chính ở nước ta.
Chương 2: Vấn đề hoàn thiện mô hình tài phán hành chính ở nước ta.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH . THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA
1.1. Cơ sở lý luận về tài phán hành chính
1.1.1. Khái niệm và tính chất cuả tài phán hành chính
1.1.1.1. Khái niệm tài phán hành chính
TPHC là một vấn đề luôn tồn tại và phát triển cùng với hoạt động quản lý nhà nước. Đối với Việt Nam chúng ta, thuật ngữ “tài phán hành chính” được sử dụng khá phổ biến trong khoảng thời gian hơn một thập niên trở lại đây. Tuy nhiên, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có định nghĩa pháp lý về khái niệm này .
Có quan điểm cho rằng TPHC là hoạt động xét xử cuả Tòa án nhằm giải quyết các tranh chấp hành chính phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước. Có quan điểm khác cho rằng TPHC là hoạt động giải quyết các tranh chấp hành chính do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện .Theo quan điểm này thì hoạt động giải quyết khiếu nại cuả các cơ quan hành chính nhà nước chính là hoạt động TPHC. Ngoài ra, hiểu theo quan điểm này hoạt động TPHC cũng có thể là hoạt động cuả cơ quan có chức năng xét xử các tranh chấp hành chính nhưng không phải là Tòa án mà là cơ quan thuộc bộ máy hành pháp. Quan điểm này tách hoạt động hành chính nhà nước thành hai mảng riêng biệt đó là hành chính chấp hành, điều hành (hành chính quản lý) và hành chính tài phán (tài phán hành chính).
Như vậy, khái niệm tài phán rộng hơn khái niệm xét xử và không chỉ Tòa án mới có quyền tài phán mà các cơ quan hành chính cũng có thể có quyền tài phán. Điều đó có nghĩa là không nên đồng nhất khái niệm TPHC với hoạt động xét xử cuả Tòa án, không nên đồng nhất TPHC với hoạt động xét xử cuả Tòa án hành chính hoặc Tòa hành chính. Đồng thời cũng không nên đồng nhất TPHC với hoạt động giải quyết các tranh chấp hành chính cuả cơ quan hành chính nhà nước .Khái niệm TPHC trong đề tài này được hiểu theo nghĩa này - tức là theo nghĩa rộng của khái niệm “ tài phán hành chính ”.
1.1.1.2. Tính chất của tài phán hành chính
Một là, tính quyền lực nhà nước Quyền lực nhà nước thể hiện ở quyền quản lý cuả Nhà nước đối với xã hội trên cơ sở pháp luật. Trong việc thực thi quyền lực nhà nước về lĩnh vực TPHC, đó là thực hiện chức năng xét xử. Đây là chức năng được sản sinh từ quyền tư pháp, một trong ba bộ phận cấu thành cuả quyền lực nhà nước. Thông qua hoạt động giải quyết KKHC, các chủ thể thực hiện hoạt động TPHC ban hành các phán quyết buộc các đương sự phải thực hiện. Phán quyết cuả TPHC là phán quyết mang tính nhà nước, chứa đựng quyền lực cuả Nhà nước và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng cữơng chế nhà nước.
Hai là, tính nhân đạo : Bản chất cuả Nhà nước ta là nhà nước cuả dân, do dân và vì dân. Cơ quan TPHC được thành lập ở nước ta cũng là nhằm bảo vệ
lợi ích hợp pháp cuả nhân dân. Do đó, cơ quan TPHC cũng như cán bộ, công chức trong cơ quan TPHC phải có thái độ đúng mực thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta. Mặt khác, hiện nay chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Hơn lúc nào hết TPHC phải bảo đảm được tính nhân đạo XHCN để hạn chế đến mức thấp nhất các yếu tố tiêu cực của kinh tế thị trường, phải tôn trọng con người, phục vụ con người, lấy mục tiêu xây dựng một xã hội văn minh, nhân ái, nhân đạo làm kim chỉ nam cho hoạt động cuả mình, bảo đảm cho mọi người khi tham gia tố tụng đều được bình đẳng.
Ba là, tính trọng tài: Đây là một điểm đặc trưng nhất cuả TPHC. Để bảo đảm đúng tính chất cuả TPHC với tư cách là một hoạt động mang tính trọng tài, phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Phải bảo đảm sự độc lập: Độc lập cuả TPHC là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tính pháp quyền và công bằng trong hoạt động tài phán. Với tính chất độc lập, cơ quan tài phán sẽ thực hiện chức năng cuả mình một cách độc lập trên cơ sở đánh giá kỹ lưỡng các tình tiết theo quy định cuả pháp luật mà không phải bị tác động bởi bất kỳ ảnh hưởng, cám dỗ, sức ép, mối đe doạ hoặc can thiệp nào cho dù là trực tiếp hay gián tiếp.
Phải bảo đảm tính khách quan: Khách quan là một yếu tố thiết yếu để thực hiện đúng đắn các hoạt động tài phán. Điều này không chỉ được thể hiện thông qua các phán quyết mà còn phải được thể hiện trong cả quy trình để ra được phán quyết.
Phải bảo đảm công bằng: TPHC là hoạt động trọng tàì, do đó tính công bằng cuả hoạt động phải được đặt lên hàng đầu, công bằng là hạt nhân quan trọng nhất của họat động tài phán vì chính do muốn có được sự công bằng mà người ta đã chấp nhận một người thứ 3 đứng ra để phân xử và nhờ có công bằng mà các phán quyết tài phán mới được các bên tự giác thực hiện.
Bốn là, tính không vụ lợi: TPHC được đặt ra để giải quyết các tranh chấp hành chính nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức trước sự xâm phạm hoặc đe doạ xâm phạm trái pháp luật cuả quyền lực công. Mục đích cuả TPHC nhằm tạo ra một nền hành chính trong sạch, phục vụ tốt lợi ích cuả Nhà nước cũng như cuả toàn xã hội. Do đó, TPHC phải bảo đảm sự công tâm, trong sạch, không theo đuổi mục tiêu lợi nhuận,không đòi hỏi người phục vụ phải trả thù lao. Đây chính là một trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt TPHC với các tổ chức tài phán phi chính phủ hoặc các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Nếu như mục tiêu cuả các tổ chức và hoạt động kinh doanh là lợi nhuận và phục vụ cho những mục tiêu riêng cuả chủ sở hưũ thì TPHC chính lại được tổ chức nhằm phục vụ xã hội. TPHC tồn tại vì xã hội, vì lợi ích cuả xã hội. Tính xã hội, tính nhân dân cuả TPHC làm cho nó trở thành một tổ chức không vụ lợi.
1.1.2. Vai trò của tài phán hành chính
1.1.2.1. Vai trò của tài phán hành chính trong hoạt động hành chính nhà nước
Tại Việt Nam, quyền TPHC được giao trực tiếp cho các cơ quan hành chính nhà nước. Đối với một số loại KKHC như: khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính ( XPVPHC); khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố; khiếukiện việc cấp, thu hồi giấy phép xây dựng… người khởi kiện có quyền lưạ chọn hoặc cơ quan hành chính nhà nước hoặc Tòa án để giải quyết.
Thông qua hoạt động tài phán, Nhà nước có thể kiểm soát được hoạt động quản lý, cụ thể là bằng công cụ TPHC Nhà nước huỷ bỏ các QĐHC trái pháp luật, buộc cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ công chức nhà nước phải chấm dứt HVHC trái pháp luật. Thông qua TPHC Nhà nước có thể phát hiện những khiếm khuyết cuả pháp luật hành chính, cuả bộ máy hành chính nhà nước, từ đó có các giải pháp bổ sung, sưả đổi, chấn chỉnh cho phù hợp. Thực hiện TPHC làm cho trách nhiệm cuả bộ máy hành chính nhà nước được nâng cao, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động quản lý nhà nước, góp phần nâng cao trách nhiệm, bổn phận cuả cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi công vụ.
Vai trò cuả cuả TPHC được quyết định bởi chức năng cuả cơ quan tài phán. TPHC được Nhà nước tổ chức, thành lập để giải quyết các các KKHC. TPHC là phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật cuả nền hành chính nhà nước, là biện pháp kiểm tra, giám sát hưũ hiệu hoạt động cuả cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước, tránh các hành vi lạm quyền, lộng quyền, trốn tránh trách nhiệm, hạn chế các hiện tượng tiêu cực, cưả quyền, quan liêu trong bộ máy hành chính, góp phần làm lành mạnh hoá nền hành chính nhà nước.
1..1.2.2. Vai trò cuả tài phán hành chính trong việc bảo vệ quyền dân chủ cuả công dân
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhà nước cuả dân, do dân và vì dân. Dân chủ vưà là mục tiêu, vưà là động lực, phương tiện hữu hiệu, vừa là nội dung xuyên suốt công cuộc đổi mới đất nước. Nhân dân thiết lập nên nhà nước bằng quyền bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước cuả mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Nhà nước XHCN Việt Nam là một thiết chế dân chủ, quyền làm chủ cuả nhân dân không chỉ giới hạn trong lĩnh vực chính trị mà còn được mở rộng trên tất cả các lĩnh vực khác cuả đời sống xã hội. Mọi người có quyền tự do kinh doanh theo quy định cuả pháp luật, có quyền sở hữu về tài sản, quyền học tập, quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh sáng chế, quyền tự do đi lại và cư trú, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, lập hội, tự do tín ngưỡng... Để bảo đảm các quyền tự do, dân chủ đó cuả cá nhân, cơ quan, tổ chức, đặc biệt là bảo vệ các quyền tự do, dân chủ trước sự xâm phạm trái pháp luật cuả các QĐHC, HVHC, hoạt động TPHC luôn được Nhà nước ta quan tâm bảo đảm. Quyền và lợi ích hợp pháp cuả các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hành chính được Nhà nước bảo hộ bằng hoạt động TPHC. Thông qua hoạt động TPHC, các quyền và lợi ích hợp pháp cuả cá nhân, cơ quan, tổ chức được Nhà nước bảo vệ .
1.1.3. Các quan điểm và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động tài phán hành chính ở nước ta
1.1.3.1. Những quan điểm tổ chức và hoạt động tài phán hành chính
Theo một số ý kiến thì hoạt động TPHC phải tuân theo các quan điểm chỉ đạo cơ bản sau đây:
Phải thể hiện được tinh thần đổi mới cuả Đảng trong đó có các quan điểm chỉ đạo về cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Tinh thần đổi mới không có nghĩa là chỉ cần thay đổi mô hình tổ chức và thủ tục giải quyết KKHC bằng một mô hình và thủ tục tố tụng khác, mà đổi mới cần phải được hiểu cả về nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp, cả về hình thức lẫn nội dung. Mô hình TPHC đưa ra phải bảo đảm nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước gọn nhẹ, không làm cồng kềnh thêm bộ máy hiện có.
Phải đặt trong tổng thể cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phải căn cứ vào hiến pháp và các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước. TPHC là một trong những nội dung cuả nền hành chính nhà nước. Cùng với những đổi mới về tư duy chúng ta phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động cuả hệ thống chính trị, đổi mới bộ máy nhà nước, cải cách hành chính nhà nước và cải cách tư pháp, tức là phải đổi mới thiết chế nhà nước, đổi mới về tổ chức, hoạt động cuả bộ máy nhà nước, quy định rõ quy chế công chức, công vụ. TPHC phải thực sự là công cụ kiểm soát hoạt động cuả các cơ quan hành chính và cán bộ công chức nhà nước, bộ máy tổ chức phải gọn nhẹ, thủ tục tố tụng phải chặt chẽ nhưng đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, phải bảo đảm được quyền kiểm tra, giám sát cuả nhân dân đối với hoạt động cuả cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước.
Phải dưạ trên cơ sở tổng kết thực tiễn giải quyết KKHC cuả công dân, cơ quan, tổ chức đối với các QĐHC, HVHC. Việc giải quyết KKHC phải là sự kế thưà và nâng lên một bước cao hơn việc giải quyết các khiếu nại cuả người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu. Trên thế giới có nhiều mô hình tổ chức KKHC khác nhau, có thể nói không có mô hình nào là hòan thiện hơn cả, nó phù hợp ở nước này nhưng chưa hẳn đã phù hợp với nước khác, vì vậy ta không thể sao chép bất kỳ máy móc vào điều kiện cuả nước ta mà phải tiếp thu nó một cách có chọn lọc, vận dụng một cách thích hợp vào hòan cảnh kinh tế- xã hội, đặc điểm nền hành chính và truyền thống pháp lý cuả nước ta.
Phải bảo đảm tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật; Các đương sự phải bình đẳng khi tham gia tố tụng. Nguyên tắc này liên quan đến việc lưạ chọn mô hình tổ chức, xác định thẩm quyền và thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm việc độc lập cuả cơ quan tài phán khi giải quyết vụ việc. Bảo đảm sự phân định giữa hành chính quản lý và hành chính tài phán. Điều đó có nghĩa là tổ chức TPHC phải thóat khỏi quan hệ mệnh lệnh - phục tùng. Có như vậy hoạt động tài phán mới bảo đảm sự độc lập và bảo đảm sự bình đẳng giữa các cá nhân với pháp nhân, giữa cơ quan nhà nước với cá nhân, cơ quan, tổ chức khác.
Phải đánh giá đúng yếu tố cán bộ và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho tổ chức và hoạt động cuả cơ quan TPHC. Cán bộ quyết định mọi vấn đề, đó là nhân tố chủ yếu, nhân tố hành đầu. Tổ chức cơ quan TPHC phụ thuộc trước hết vào trình độ hiểu biết và năng lực hành động cuả công chức làm việc trong cơ quan tài phán, đặc biệt là những cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác giải quyết khiếu kiện. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của TPHC đòi hỏi cán bộ trực tiếp giải quyết vụ việc phải có phẩm chất, đạo đức chính trị vững vàng, năng lực trí tuệ, năng lực chuyên môn ngang tầm công việc.
Phải thể hiện được sự ưu việt cuả mô hình so với các mô hình giải quyết KKHC trước đó. Xã hội loài người luôn vận động và phát triển theo chiều hướng cái sau sẽ hoàn thiện hơn cái trước, mô hình tài phán mới phải bảo đảm khắc phục được những hạn chế cuả các mô hình trước đó. Mô hình này phải đáp ứng được các đòi hỏi cuả công dân đó là phải bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp cuả người khởi kiện; tổ chức phải gọn gàng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh xã hội; thủ tục tố tụng phải chặt chẽ nhưng phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện.
1.1.3.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động tài phán hành chính
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động cuả TPHC là những tư tưởng, nguyên lý chủ đạo, xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động TPHC. Việc tuân thủ các nguyên tắc này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, hiệu lực cuả hoạt động TPHC. Các nguyên tắc này là một hệ thống thống nhất, việc thực hiện chúnglà điều kiện, tiền đề cho việc thực hiện các nguyên tắc khác. Vì vậy, cần phải thực hiện đồng bộ tất cả các nguyên tắc này Việc thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động sẽ bảo đảm cho bộ máy tổ chức tài phán có một cơ cấu hợp lý, gọn nhẹ, tránh được những trùng lắp không cần thiết. Trong hoạt động, việc tuân thủ các nguyên tắc làm cho bộ máy tài phán hoạt động đồng bộ, thông suốt, phát huy được tính chủ động, độc lập cuả đội ngũ cán bộ, công chức, bảo đảm cho pháp luật được áp dụng một cách nhất quán và phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TPHC bao gồm các nguyên tắc chung và các nguyên tắc đặc thù.
1) Những nguyên tắc chung : Những nguyên tắc chung là những nguyên tắc làm cơ sở chỉ đạo tổ chức và hoạt động của Nhà nước nói chung, trong đó có TPHC.
Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
. Nhà nước ta là nhà nước XHCN, là tổ chức để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ cuả mình, là nhà nước cuả dân, do dân và vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, trong đó có quyền về tư pháp.
Thực hiện nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động giải quyết KKHC, thực chất là bảo đảm quyền lực cuả nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội. Hoạt động TPHC phải bảo đảm cũng là một hoạt động nhằm thực hiện quyền lực nhà nước cuả nhân dân. Điều này có nghiã là nhân dân phải được đóng góp ý kiến cuả mình về mô hình tổ chức TPHC, hoạt động tài phán phải chiụ sự giám sát cuả nhân dân (việc giám sát này có thể được thực hiện thông quá hoạt động giám sát cuả các cơ quan dân cử như Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc các hình thức khác như thông qua việc khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị cuả công dân...). Thậm chí nhân dân cũng có thể trực tiếp tham gia vào hoạt động giải quyết khiếu kiện với tư cách là Hoà giải viên, Hội thẩm nhân dân hoặc bồi thẩm đoàn ...
Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thực ra, nội dung cơ bản nhất cuả tập trung dân chủ là yếu tố tập trung. Điều này là chân lý do bản chất quyền uy cuả hoạt động quản lý tạo ra, bởi ở đâu có quản lý là ở đó phải có tập trung. Tuy nhiên, theo quan điểm tiến bộ thì tập trung phải được thực hiện trên cơ sở phát triển dân chủ, trên nền tảng cuả dân chủ. Yêu cầu cơ bản cuả nguyên tắc này là phải bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành tập trung thống nhất cuả các cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp dưới, giữa thủ trưởng với nhân viên, đồng thời, bảo đảm quyền chủ động, sáng tạo và khả năng độc lập nhất định trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ được giao cuả các cán bộ, công chức, cơ quan cấp dưới.
Đặc biệt là bảo đảm sự độc lập cuả cán bộ, công chức và cơ quan tài phán cấp dưới đối với thủ trưởng cơ quan tài phán, đối với cơ quan tài phán cấp trên hoặc đối với các cơ quan hành chính bị kiện khi giải quyết các KKHC.
Nguyên tắc pháp chế XHCN.
Thực hiện nguyên tắc pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động cuả TPHC có nghĩa là mọi cơ quan, cán bộ, công chức khi giải quyết các KKHC cũng như mọi đối tượng khi tham gia vào hoạt động tố tụng cuả TPHC đều phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và nghiêm minh; bảo đảm sự thống nhất cuả trật tự, kỷ cương, hiệu lực cuả phán quyết; bảo đảm dân chủ và công bằng xã hội. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ góp phần đấu tranh chống các tư tưởng cục bộ, tuỳ tiện, vô chính phủ, đấu tranh có hiệu quả để ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác trong việc giải quyết khiếu kiện.
Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo cuả Đảng.
Thông qua hoạt động TPHC, Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo cuả mình đối với xã hội. Sự lãnh đạo cuả Đảng cộng sản nhằm bảo đảm cho ý chí cuả giai cấp lãnh đạo được thực hiện trong thực tế. Vì vậy bảo đảm sự lãnh đạo cuả Đảng là một yêu cầu khách quan đặt ra khi tổ chức cơ quan TPHC. Sự lãnh đạo cuả Đảng không chỉ nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động cuả TPHC được thực hiện theo đúng đường lối, chính sách cuả Đảng mà còn là điều kiện cơ sở để bảo đảm các quyền tự do dân chủ cuả công dân.
2) Những nguyên tắc đặc thù
Đây là những nguyên tắc riêng chỉ đạo tổ chức và hoạt động tài phán hành chính.
Tổ chức mô hình phải phù hợp với chức năng tài phán; Phải bảo đảm sự hoàn chỉnh và thống nhất.
TPHC không phải là hoạt động quản lý, không phải là hoạt động nghiên cứu khoa học, đồng thời cũng không phải là một hoạt động dịch vụ mà là hoạt động trọng tài cuả Nhà nước để giải quyết các tranh chấp liên quan đến QĐHC, HVHC. Do đó, về hình thức, cơ cấu tổ chức cuả TPHC phải bảo đảm làm sao cho phù hợp với chức năng cuả mình, không nên tổ chức một khâu, một bộ phận nào đó cuả tài phán hành chính nếu khâu, bộ phận đó không liên quan đến hoạt động cuả tài phán và không trực tiếp thực hiện hoặc phục vụ cho hoạt động tài phán. TPHC phải có bộ phận chuyên môn để trực tiếp giải quyết khiếu kiện, đồng thời phải có bộ phận phục vụ để bảo đảm cho các hoạtđộng chuyên môn. TPHC cũng phải được tổ chức thành hệ thống bảo đảm vụ việc khiếu kiện sau khi đã được giải quyết lần đầu phải được xem xét lại bởi một một cấp tiếp theo nếu có đương sự không đồng ý.
Phải phân định thẩm quyền rõ ràng.
Quyền lực nhà nước được thực hiện bởi hệ thống các cơ quan nhà nước nhưng làm thế nào để không xảy ra sự chồng chéo về thẩm quyền giữa chúng. Vấn đề đặt ra là cần có quy định cụ thể, rõ ràng về thẩm quyền cho từng cơ quan và phải đúng nguyên tắc, phương pháp phân định thẩm quyền. TPHC phải được trao quyền một cách cụ thể, rõ ràng. Các trường hợp có thể có chồng chéo về thẩm quyền thì cần phải chú ý phân định.
1.2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tài phán hành chính ở Việt Nam.
1.2.1. Thực trạng pháp luật về tài phán hành chính ở Việt Nam
1.2.1.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Như trên đã nói, trong đề tài này khái niệm “tài phán hành chính” được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm GQKN hành chính và giải quyết vụ án hành chính.
Thủ trưởng cơ quan cấp trên cuả cơ quan có QĐHC, HVHC bị khiếu nại có thẩm quyền GQKN tiếp theo đối với các khiếu nại mà hết thời hiệu GQKN lần đầu nhưng không được giải quyết hoặc thủ trưởng cơ quan cấp dưới đã GQKN lần đầu nhưng người khiếu nại vẫn không đồng ý. Riêng khiếu nại đối với QĐHC, HVHC cuả bộ trưởng hoặc khiếu nại đối với QĐHC, HVHC cuả UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh mà nội dung QĐHC, HVHC đó không thuộc lĩnh vực quản lý cuả bộ, ngành kinh tế, kỹ thuật thì việc GQKN chỉ có một cấp. Nếu không đồng ý với quyết định GQKN lần đầu cuả bộ trưởng hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương thì người khiếu nại chỉ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án và không có quyền khiếu nại tiếp theo nếu pháp luật không quy định khác (Điều 39 Luật 2005 ).
Về thủ tục khiếu nại: Người khiếu nại lần đầu phải khiếu nại đến người có QĐHC, HVHC bị khiếu nại nếu đó là người có thẩm quyền mà Luật 1998 quy định; trong trường hợp người đã có QĐHC, HVHC bị khiếu nại không phải là người có thẩm quyền mà Luật 1998 quy định thì cần khiếu nại đến thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm quản lý người đó.
Người khiếu nại chỉ được quyền khiếu nại khi: thời hiệu khiếu nại vẫn còn; QĐHC,HVHC phải liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp cuả người khiếu nại. Hiện nay về vấn đề thời hiệu khiếu nại, pháp luật vẫn có những quy định khác nhauTrong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại, người có thẩm quyền GQKN phải thụ lý để giải quyết vụ việc. Tuỳ theo ở điều kiện vùng sâu, vùng xa, vùng đi lại khó khăn hay vùng bình thường, vụ việc phúc tạp hay đơn giản mà từ 30 ngày đến 60 ngày kể từ ngày thụ lý, người có thẩm quyền GQKN phải giải quyết xong vụ việc.
Khi GQKN, người có thẩm quyền GQKN lần đầu có quyền giữ nguyên, sưả đổi hoặc huỷ bỏ một phần hay toàn bộ QĐHC, chấm dứt HVHC bị khiếu nại, giải quyết các vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại.
Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền GQKN lần đầu hoặc hết thời hạn GQKN lần đầu mà khiếu nại đó không được giải quyết người
Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền GQKN lần đầu hoặc hết thời hạn GQKN lần đầu mà khiếu nại đó không được giải quyết người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính hoặc khiếu nại đến người có thẩm quyền GQKN lần hai.( Điều 39 Luật 2005). Theo luật năm 2004 thì “ Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền, người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của pháp luật ”.
1.2.1.2. Thực trạng pháp luật về giải quyết các vụ án hành chính
Thông qua nghiên cứu pháp luật về giải quyết các vụ án hành chính hiện nay,có thể rút ra một số nhận xét như sau :
1) Tính chất hoạt động xét xử cuả Toà án nước ta:
Tòa án xét xử là nhân danh Nhà nước. Do đó, việc xét xử cuả Tòa án có tính dứt khóat, có nghĩa là Tòa án là cơ quan được pháp luật trao quyền phán quyết cuối cùng. Chỉ có Tòa án cấp trên mới có quyền xem xét lại bản án cuả Tòa án cấp dưới theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Những phán quyết cuả Tòa án là sự phán quyết mang tính quyền lực nhà nước. Khi các phán quyết này có hiệu lực pháp luật thì bắt buộc các đương sự phải chấp hành nghiêm chỉnh, trường hợp đương sự không tự giác chấp hành sẽ có các biện pháp cưỡng chế buộc họ phải chấp hành.
Hoạt động xét xử cuả Tòa án là một hoạt động sáng tạo. Khi xây dựng pháp luật, nhà làm luật không thể dự kiến hết được mọi sự việc, tình tiết các hành vi sẽ diễn ra trong đời sống xã hội. Do đó, khi xét xử Hội đồng xét xử phải nghiên cứu kỹ, đánh giá toàn diện, khách quan các tình tiết, hòan cảnh, điều kiện liên quan đến vụ án để tìm ra phương án giải quyết phù hợp với quy định cuả pháp luật.
2) Đặc trưng của hoạt động xét xử cuả Toà án nước ta:
Chỉ có Tòa án mới có chức năng xét xử. Ngoài Tòa án không có cơ quan nhà nước nào được thực hiện việc xét xử. Tòa án căn cứ vào pháp luật đưa ra phán xét,quyết định cuối cùng nhằm kết thúc vụ án.
Hoạt động xét xử được thực hiện bởi những phương thức được quy định cụ thể trong pháp luật.
Là hoạt động mang tính dưới luật. Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập chỉ tuân theo pháp luật.
Là hoạt động được thực hiện theo thủ tục chặt chẽ, nghiêm ngặt được quy định trong các văn bản pháp luật.
Là hành động thể hiện thái độ cuả Nhà nước trong việc đánh giá một vụ việc cụ thể, căn cứ vào pháp luật Tòa án xác định trách nhiệm pháp lý áp dụng chế tài phù hợp. Đây cũng là hành động thể hiện thái độ dứt khoát cuả Nhà nước đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Là sự biểu hiện cuả công lý và quyền lực nhà nước trong quan hệ qua lại hưũ cơ với nhau
1.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tài phán hành chính ở Việt Nam
1.2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Mặc dù các cơ qua hành chính nhà nước đã tích cực giải quyết nhưng số lượng đơn khiếu nại gửi đến các cơ quan hành chính nhà nước vẫn ngày càng gia tăng, tính chất, mức độ cuả khiếu nại cũng phức tạp và gay gắt hơn.
Việc GQKN hành chính thường kéo dài, không đảm bảo thời hạn luật định, nhiều tầng nấc, không có điểm dừng. Có những vụ việc đã có quyết định GQKN có hiệu lực thi hành từ hơn 10 năm, nay đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại và khiếu nại này vẫn được cơ quan hành chính nhà nước thụ lý, giải quyết.
Việc áp dụng pháp luật giữa các cơ quan nhà nước và cuả cùng một người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước trước, sau hoặc trong cùng một loại việc không nhất quán với nhau.
Có những trường hợp, người có thẩm quyền đã ban hành nhiều quyết định GQKN cuối cùng hoặc quyết định có hiệu lực thi hành đối với một vụ việc nhưng nội dung lại khác nhau.
Có nhiều quyết định GQKN được ban hành sai về thẩm quyền, thủ tục và hình thức văn bản.
Còn có tình trạng đùn đẩy trách nhiệm GQKN giữa các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tranh chấp về thẩm quyền GQKN giữa các cơ quan.
Đơn khiếu nại tồn đọng ở các cơ quan hành chính còn nhiều, nhiều đơn đã quá hạn nhưng chưa được giải quyết. Thời gian GQKN cuả các cơ quan hành chính còn kéo dài quá thời hạn luật định. Việc theo dõi, cập nhập hồ sơ khiếu nại chưa khoa học nên chưa theo dõi và trả lời kịp thời được cho người khiếu nại về tiến độ giải quyết.
Việc tổ chức thực hiện các quyết định GQKN đã có hiệu lực pháp luật tuy có chuyển biến nhưng vẫn còn chậm hoặc chưa được thực hiện.
Xem xét tình hình thực tiễn GQKN cuả các cơ quan hành chính nhà nước, ta có thể rút ra một số nguyên nhân cuả tình trạng trên như sau:
Cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến việc khiếu nại và GQKN còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tế. Thậm chí có một số vấn đề mới phát sinh nhưng chúng ta chưa kịp thời có văn bản pháp luật điều chỉnh.
Thẩm quyền giải quyết KKHC cuả Tòa án còn nhiều hạn chế.
Ở một số điạ phương các cấp chính quyền chưa thực sự quan tâm nhiều đến công tác GQKN, chưa coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, chưa kịp thời giải quyết những thắc mắc cuả người dân để cho các thắc mắc này ứ đọng lại thành phức tạp.
Nhiều nơi, cơ quan có thẩm quyền chậm ra quyết định GQKN, chậm khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp cuả người khiếu nại làm phát sinh các khiếu nại mới.
Còn nhiều trường hợp không thể tổ chức thực hiện quyết định GQKN đã có hiệu lực pháp luật được vì phải chờ ý kiến hoặc chờ phối hợp cuả các bộ, ngành liên quan.
Về phía người khiếu nại, vẫn còn tình trạng không chấp hành quyết định GQKN đã có hiệu lực pháp luật, tiếp tục khiếu nại vượt cấp, khiếu nại đến nhiều nơi.
1.2.2.2. Thực trạng hoạt động giải quyết các vụ án hành chính
Số lượng các vụ án hành chính mà ngành Tòa án nhân dân thụ lý, giải quyết không nhiều. Nhìn chung, khi nhận được đơn khiếu kiện đúng thẩm quyền, ngành Tòa án đã tích cực giải quyết và giải quyết đạt tỷ lệ rất cao.Việc giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án được thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tố tụng. Nội dung các phán quyết bảo đảm được các quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự .
Việc giải quyết các vụ án hành chính vẫn bộc lộ một số nhược điểm:
Trong một số trường hợp việc giải quyết chưa đúng thủ tục tố tụng, áp dụng pháp luật về nội dung chưa chính xác dẫn đến vụ án bị kháng cáo, kháng nghị, bản án bị cấp phúc thẩm huỷ, sửa gây ảnh hưởng đến niềm tin cuả các đương sự đối với Tòa án. Còn trường hợp áp dụng pháp luật, đánh giá chứng cứ chưa thống nhất giữa cáccấp Tòa án. Tòa án vẫn còn thái độ dè dặt, ngại đụng chạm đến người bị kiện là các cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.Do đó, đã phát sinh tư tưởng ngại giải quyết các vụ án hành chính và coi mỗi vụ ánhành chính là một gánh nặng khi thụ lý giải quyết. Do chưa có các quy định cụ thể về mối quan hệ giữa các nguyên tắc Đảng lãnh đạo, tập trung dân chủ, cấp trên chỉ đạo cấp dưới, khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nên nhiều cấp Tòa án còn lúng túng khi kết hợp các nguyên tắc này, đặc biệt là những trường hợp có ý kiến khác nhau về cách giải quyết vụ án giữa thẩm phán được giao trách nhiệm giải quyết vụ án với lãnh đạo Tòa án.
1.2.3. Các hạn chế cuả mô hình tổ chức và hoạt động tài phán hành chính ở nước ta hiện nay.
Mặc dù cơ chế và thực tế giải quyết khiếu kiện hành chính hiện nay ở nước ta cũng có nhiều ưu điểm, cơ bản đã giải quyết được phần lớn các KKHC. Tuy nhiên cơ chế này vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế.
1.2.3.1. Các hạn chế cuả cơ chế giải quyết các khiếu nại hành chính.
Việc trao quyền GQKN hành chính cho các cơ quan hành chính nhà nước có các hạn chế:
Không bảo đảm tính công khai, minh bạch cuả hoạt động GQKN hành chính và quyền tranh tụng cuả các đương sự.
Tạo ra tình trạng cơ quan nhà nước“ vưà đá bóng, vưà thổi còi ”, gây tâm lý nghi ngờ cuả người khiếu nại về sự khách quan, vô tư và thực tế giải quyết cũng khó tránh khỏi sự thiếu khách quan vô tư.
Chúng ta đang đứng trước một yêu cầu khách quan cuả sự phát triển chung, đó là yêu cầu về tính chuyên môn hoá và yêu cầu phải có một sự phân công lao động rõ ràng thì sự không phù hợp trong việc giao quyền TPHC cho chính các cơ quan hành chính nhà nước càng bộc lộ rõ như:
Việc GQKN cuả cơ quan hành chính không bảo đảm tính chuyên nghiệp nên hiệu quản không cao;
Cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính không được trang bị kiến thức cần thiết để giả GQKN, trong khi đó các khiếu nại thường rất đa dạng, phức tạp làm các cơ quan hành chính mất quá nhiều thời gian, công sức vào việc GQKN nên không đủ thời gian và điều kiện để thực hiện nhiệm vụ chính là quản lý, điều hành.
Trình tự, thủ tục GQKN cuả cơ quan hành chính còn phức tạp, thiếu dân chủ, công khai, minh bạch. Việc khiếu nại phải được tiến hành qua nhiều cấp, tại nhiều cơ quan. Khiếu nại đã có quyết định giải quyết cuối cùng vẫn được xem xét lại làm cho việc khiếu nại kéo dài không có điểm dừng gây xáo trộn hoạt động quản lý điều hành, lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc cuả Nhà nước cũng như cuả người khiếu nại.
Thủ tục khiếu nại bị pha tạp giữa thủ tục hành chính và thủ tục tố tụng gây khó khăn cho việc thực hiện cuả cả người khiếu nại và người có thẩm quyền GQKN, không có sự tách bạnh giữa thủ tục khiếu nại QĐHC, HVHC với thủ tục đòi bồi thường thiệt hại.
Mặc dù pháp luật về khiếu nại quy định: Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền, người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính nếu pháp luật không quy định khác. Nhưng với quy định về thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính cuả Tòa án theo pháp luật hiện hành thì có rất nhiều loại KKHC, người khiếu kiện không thể khởi kiện đến Tòa án vì pháp luật không trao quyền cho Tòa án giải quyết. Nói cách khác quyết định GQKN cuả cơ quan hành chính chính là quyết định giải quyết khiếu kiện cuối cùng (không được quyền khởi kiện tại Toà án). Trong những trường hợp này quyền TPHC là quyền riêng có của cơ quan hành chính
Như vậy, nhìn phiến diện quyền quyết định cuối cùng về tài phán hành chính tưởng như chỉ thuộc về cơ quan Tòa án nhưng thực chất chúng ta vẫn tồn tại song song hai hệ thống cơ quan nhà nước cùng có chức năng giải quyết các KKHC. Việc tồn tại song song hai hệ thống cơ quan TPHC làm cho bộ máy nhà nước cồng kềnh, trùng lắp, lãng phí nhân, tài lực, trong nhiều trường hợp còn tạo ra sự lẫn lộn, tranh chấp không cần thiết về thẩm quyền giải quyết giữa hai hệ thống cơ quan này.
1.2.3.2. Các hạn chế cuả mô hình Tòa hành chính hiện hành.
Việc pháp luật Việt Nam cho phép các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính đối với các QĐHC, HVHC cuả cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước ra trước Toà án một bước phát triển đáng kể trong việc xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghiã, là bằng chứng cụ thể cuả một xã hội dân chủ, với mục tiêu xây dựng một nền tư pháp vững mạnh, không ngừng bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp cuả công dân. Mặc dù từ năm 1996 đến nay, nhà nước ta liên tục có các điều chỉnh về pháp luật để hoạt động giải quyết các vụ án hành chính cuả Toà án phát huy được vai trò cuả mình, nhưng mô hình tổ chức giải quyết các KHHC củaToà án hiện hành vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Một là, pháp luật về khiếu nại không hạn chế quyền khởi kiện cuả các đương sự đối với QĐHC, HVHC nhưng pháp luật về tố tụng vụ án hành chính lại hạn chế quyền khởi kiện này cuả các đương sự. Điều này thể hiện sự không thống nhất giữa các văn bản pháp luật khác nhau về cùng một vấn đề có liên quan, thể hiện sự vi phạm nguyên tắc pháp chế trong lĩnh vực ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cuả Nhà nước. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả và hạn chế vai trò cuả Tòa án trong việc giải quyết KKHC.
Hai là, tổ chức hệ thống Tòa án hiện hành, trong đó có Tòa hành chính, tương ứng với cấp hành chính đã bộc lộ nhiều điểm không phù hợp với thực tiễn, cụ thể:
Mặc dù cách tổ chức này đã tạo những điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp công tác giữa cơ quan Tòa án với chính quyền điạ phương cùng cấp, nhưng khi phát sinh vụ án hành chính mà bị đơn là chính cơ quan nhà nước hoặc những người có thẩm quyền thì mối quan hệ nêu trên lại trở thành một áp lực có khả năng làm ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử cuả Tòa án.
Ba là, theo quy định cuả pháp luật hiện hành, ở các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án cấp huyện không tổ chức bộ phận chuyên trách để giải quyết các khiếu kiện hành chính nên không phát huy được tính chuyên nghiệp, chuyên sâu cuả nghề nghiệp và công việc cuả đội ngũ thẩm phán Tòa án. TPHC chính là cơ chế để giải quyết các khiếu kiện ành chính. Tùy theo điều kiện chính trị, kinh tế và xã hội cụ thể, mỗi quốc gia có thể có hình thức tổ chức họat động TPHC khác nhau, cách thức của nước này có thể không phù hợp với nước khác. Ở nước ta, việc giải quyết KKHC được pháp luật trao cho các cơ quan hành chính. Đối với một số khiếu kiện, pháp luật cho phép người dân được quyền lựa chọn hoặc khiếu nại theo thủ tục hành chính hoặc khởi kiện tại Tòa án. Với cơ chế này, thời gian qua chúng ta đã giải quyết được một phần lớn các khiếu kiện phát sinh.
Tuy nhiên, trong việc giải quyết khiếu kiện của các cơ quan hành chính cũng như của Tòa án vẫn còn bộc lộ các hạn chế cần phải được tiếp tục nghiên để đổi mới.
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HÒAN THIỆN MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA
2.1. Vấn đề hòan thiện mô hình tài phán hành chính ở nước ta
Để khắc phục các hạn chế cuả mô hình TPHC hiện hành ở nước ta, trên cơ
sở lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động TPHC, đặc biệt là việc nghiên cứu về mục đích, yêu cầu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động cuả TPHC với chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cuả Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, cần phải có một số giải pháp nhằm hòan thiện mô hình tổ chức và hoạt động TPHC ở nước ta.
2.1.1 Các quan điểm cần quán triệt
Cải cách mô hình tổ chức toà án để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đó có các KKHC là một nội dung quan trọng trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ ra một số phương hướng sau:
Sẽ mở rộng thẩm quyền xét xử cuả Tòa án đối với các KKHC. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục tố tụng hành chính; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án.
Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án cuả Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết cuả Tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành .
Tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Việc thành lập Toà chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử cuả từng cấp Tòa án, từng khu vực…
Theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo thì phương hướng cải cách tư pháp được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW là căn cứ quan trọng hàng đầu để nghiên cứu và tìm ra các giải pháp nhằm hòan thiện mô hình tổ chức và hoạt động TPHC ở nước ta. Dưới góc độ phát triển, đổi mới mô hình tổ chức TPHC là xu hướng, là đòi hỏi tất yếu của một xã hội dân chủ, một nhà nước văn minh nhưng đổi mới không đơn giản là tổ chức một mô hình TPHC khác mà đổi mới cần phải được hiểu cả về nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp, cả về hình thức lẫn nội dung, cả về số lượng và chất lượng. Đổi mới không có nghiã là bỏ cũ thay mới mà đổi mới phải được thực hiện trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các yếu tố còn phù hợp của mô hình cũ. Đổi mới phải bảo đảm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động chủ yếu cuả tài phán hành chính ở nước ta, đặc biệt là nguyên tắc độc lập xét xử, nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả; phát huy được vai trò cuả tài phán hành chính đối với nền hành chính quốc gia trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Bởi lẽ, các nguyên tắc trên là các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh tổ chức và họat động của TPHC ở nước ta. Tùy theo quan điểm về TPHC cũng như các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể các quốc gia trên thế giới đã hợp. Mỗi một hình thức tài phán ( thuộc chính phủ, thuộc Tòa án tư pháp hoặc độc lập) đều chứa đựng trong nó những yếu tố tích cực cùng các hạn chế. Đổi mới mô hình TPHC phải đứng trên quan điểm khai thác triệt để ưu điểm cuả các mô hình TPHC của các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt là các ưu điểm về mô hình tổ chức cuả các nước phát triển (Mỹ, Pháp, Đức…) và các nước có các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá tương đối tương đồng với chúng ta (Trung quốc, Thái Lan….). Do vậy đổi mới mô hình TPHC ở nước ta phải khắc phục được hoặc hạn chế đến mức thấp nhất các nhược điểm đã gặp cuả mô hình TPHC hiện hành.
2.1.2. Mô hình tài phán hành chính được đề xuất
Nhằm tăng cường tính chất chuyên môn hóa của họat động TPHC, trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và họat động của TPHC, các quan điểm về đổi mới và sự tiếp thu có chọn lọc về mô hình TPHC của một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới, chúng tôi đề nghị nên giao tòan bộ quyền TPHC cho ngành tòa án nhân dân đảm trách.
Giao toàn bộ quyền TPHC cho Toà án vừa là biểu hiện cuả sự phát triển đúng quy luật về phân công lao động và chuyên môn hoá hoạt động xét xử; vừa khắc phục được các hạn chế cuả cơ chế giải quyết khiếu nại hiện hành cũng như các hạn chế cuả cơ chế TPHC thuộc Chính phủ như:
Bảo đảm các tranh chấp phát sinh trong việc thực hiện các quan hệ pháp luật đều được giải quyết bởi cơ quan xét xử chuyên nghiệp cuả Nhà nước (Tòa án);
Bảo đảm sự tách bạch, rõ ràng về chức năng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước (Quốc hội: Lập pháp, Chính phủ: Hành pháp, Toà án: Tư pháp);
Không làm tăng thêm số lượng các cơ quan hành chính nhà nước;
Hạn chế sự lẫn lộn, lạm dụng quyền hành pháp cuả Thủ tướng chính phủ trong việc thực hiện quyền TPHC;
Tạo điều kiện cho cơ quan hành chính nhà nước có thời gian tập trung làm tốt chức năng quản lý, điều hành.
Một trong những vấn đề làm cho nhiều người lo ngại khi trao toàn bộ quyền giải quyết KKHC cho Toà án đó là trong các khiếu kiện có những khiếu kiện có nội dung liên quan đến bí mật quốc gia hoặc bí mật về an ninh quốc phòng việc xét xử công khai cuả Toà án có thể không bảo đảm được các bí mật này. Theo chúng tôi vấn đề lo lắng trên có thể giải quyết được bằng cách đưa vào thủ tục tố tụng hành chính quy định như: Việc tổ chức các phiên toà không công khai, việc giữ bí mật cuả những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng khi toà án giải quyết các KKHC liên quan đến các thông tin thuộc về bí mật theo quy định cuả pháp luật.
Một vấn đề nưã cũng được đặt ra là: Liệu ngành Toà án có bảo đảm đủ các điều kiện về vật chất cũng như con người để đảm nhận giải quyết được toàn bộ các tranh chấp hành chính phát sinh khi cơ quan hành chính nhà nước không còn thẩm quyền nhận và giải quyết các khiếu kiện này. Đặc biệt là việc tổ chức mô hình giải quyết KKHC cuả Toà án như thế nào để bảo đảm sự khách quan, vô tư cuả Toà án.
Về mô hình tổ chức: Như chúng ta đã biết, việc tổ chức giải quyết KKHC hiện nay cuả ngành Toà án có nhiều điểm hạn chế như đã phân tích ở phần trên. Để khắc phục các hạn chế đó, chúng ta cần thay đổi mô hình hiện nay bằng việc thành lập hệ thống Tòa hành chính độc lập thuộc Tòa án nhân dân, bao gồm: Tòa hành chính tối cao; Tòa hành chính vùng, miền và Toà hành chính khu vực để giải quyết các KKHC,cụ thể:
Tòa hành chính tối cao: Là một Tòa chuyên trách thuộc TANDTC có thẩm quyền xem xét lại các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật cuả Toà hành chính vùng và Toà hành chính khu vực theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Pháp luật cuả hầu hết các quốc gia đều trao quyền giám đốc thẩm, tái thẩm cho TANDTC. Tuy nhiên, ở nước ta thẩm quyền này cuả TANDTC đã được trao cho các Toà chuyên trách (Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà hành chính, Toà lao động) cuả TANDTC thực hiện. Do đó, cùng với việc tổ chức lại hệ thống Toà hành chính cần phải bỏ quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cuả Hội đồng thẩm phán TANDTC để Hội đồng thẩm phán tập trung vào việc hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật.
Tòa hành chính vùng: Vị trí điạ lý, điều kiện tự nhiên, phong tục, tập quán sinh hoạt cuả vùng, miền, đặc biệt là lịch sử phát triển cuả đất nước đã tạo ra trên đất nước ta 3 vùng miền với nhiều yếu tố mang nét đặc trưng riêng trong một đại gia đình Việt Nam, tương ứng với 3 vị trí cụ thể trên bản đồ quốc gia: Miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Tại 3 vùng này, Toà án nhân dân tối cao đã thành lập tại mỗi vùng 1 Toà phúc thẩm để xét xử phúc thẩm toàn bộ các vụ án sơ thẩm cuả các Toà án nhân dân cấp tỉnh trong vùng bị kháng cáo, kháng nghị. Căn cứ vào vị trí, điều kiện điạ lý, dân số và số lượng các cơ quan hành chính trong các vùng, miền này, căn cứ thực tế tổ chức các Toà phúc thẩm cuả Toà án nhân dân tối cao, theo chúng tôi, tại mỗi vùng, miền trên, chúng ta cũng tổ chức một Toà hành chính vùng, miền (Toà hành chính miền Bắc, Toà hành chính miền Trung, Toà hành chính miền Nam).
Toà hành chính vùng, miền là toà chuyên trách độc lập có thẩm quyền giải quyết phúc thẩm những vụ án hành chính mà bản án, quyết định sơ thẩm cuả các Toà hành chính khu vực thuộc vùng, miền đã giải quyết chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục tố tụng.
Tòa hành chính khu vực: tuỳ thuộc vị trí điạ lý cuả các địa bàn cấp huyện; tùy thuộc số lượng quận, huyện, thành phố, thị xã, phường, xã, thị trấn; tùy theo dân số trong khu vực và số lượng, quy mô các cơ quan, tổ chức trong khu vực, có thể từ 8 đến 10 quận, huyện hoặc từ 10 đến 15 huyện thì thành lập một Tòa hành chính khu vực. Để hạn chế sự phụ thuộc cuả thẩm phán và Toà hành chính khu vực vào các cơ quan hành chính nhà nước, bảo đảm sự khách quan vô tư cho cơ quan Toà án, việc thành lập Toà hành chính khu vực phải bảo đảm nguyên tắc không có trường hợp lãnh thổ thuộc phạm vi thẩm quyền xét xử cuả Tòa hành chính khu vực trùng hòan tòan với lãnh thổ cuả một đơn vị hành chính cấp tỉnh. Toà hành chính khu vực là toà chuyên trách độc lập có thẩm quyền:
Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các khiếu kiện hành chính đối với các QĐHC, HVHC cuả cơ quan, cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước cấp xã và cấp huyện thuộc khu vực. Phiên toà hành chính sơ thẩm cuả Toà hành chính khu vực được tiến hành tại trụ sở cuả toà. Để tạo thuận lợi cho các đương sự khi tham dự phiên tòa có thể đi về trong cùng một ngày, nên quy định phiên Tòa hành chính phúc thẩm được tiến hành tại trụ sở cuả Toà hành chính vùng, miền, nếu khoảng cách từ tỉnh lỵ nơi người khởi kiện có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi làm việc đến tỉnh lỵ nơi đặt trụ sở cuả Toà hành chính vùng, miền thuộc phạm vi bán kính l00km (đây là khoảng cách tối đa đủ để các đương sự có thể tham dự phiên toà và đi về trong cùng một ngày). Trường hợp khoảng cách lớn hơn, thì phiên Tòa hành chính phúc thẩm được tiến hành tại trụ sở cuả Toà hành chính khu vực nơi người khởi kiện có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi làm việc.
KẾT LUẬN
Trong nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, quyền tự do, dân chủ. Tổ chức và hoạt động của TPHC là phương thức hữu hiệu nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong nền hành chính quốc gia, là phương thức bảo vệ quyền, tự do, lợi ích hợp pháp cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức trước sự xâm hại từ phía các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước.
Trong sự nghiệp đổi mới cuả chúng ta hiện nay cải cách tư pháp là vấn đề hết sức bức xúc được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng. Cùng với sự thay đổi to lớn cuả đất nước trong những năm qua, chúng ta đã tiến hành cải cách tư pháp, bước đầu đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, pháp luật về TPHC và việc thực hiện pháp luật về TPHC ở nước ta hiện nay vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, thẩm quyền chưa rõ ràng, quyền hành pháp và tư pháp còn lẫn lộn, chưa phát huy được tính chuyên môn, chuyên nghiệp cuả nghề “thẩm phán”, chưa phát huy được hết vai trò cuả Toà án trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cuả công dân. Vấn đề độc lập xét xử cuả Toà án chưa thực sự được bảo đảm; các quy định về mối quan hệ giữa cơ quan Đảng, cơ quan hành chính nhà nước với sự độc lập xét xử cuả toà án còn chưa được cụ thể… nên cần phải được tiếp tục cải cách, đổi mới. Nhưng đổi mới không có nghĩa là phủ định tòan bộ những gì đang có mà đổi mới phải bảo đảm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động chủ yếu cuả TPHC, phải bảo đảm khai thác triệt để ưu điểm cuả các mô hình TPHC của các quốc gia trên thế giới và phải khắc phục được hoặc hạn chế đến mức thấp nhất các nhược điểm đã gặp cuả mô hình TPHC.
Giao toàn bộ quyền TPHC cho Toà án sẽ khắc phục được các hạn chế cuả cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính hiện hành cũng như các hạn chế cuả cơ chế TPHC thuộc Chính phủ. Tuy nhiên, mô hình tổ chức giải quyết KKHC hiện nay cuả ngành Toà án có nhiều điểm hạn chế. Để khắc phục các hạn chế đó, chúng ta cần thay đổi mô hình hiện nay bằng việc thành lập hệ thống Tòa hành chính độc lập thuộc Tòa án nhân dân. Song song với nó, cần phải thực hiện đồng bộ với các giải pháp khác như: Cải tiến thủ tục tố tụng; Củng cố công tác thi hành án; Xây dựng tiêu chuẩn thẩm phán Tòa hành chính, quy chế công vụ, chế độ trách nhiệm, cơ chế giám sát, bảo hộ pháp lý và chế độ đãi ngộ cho thẩm phán; Củng cố, hoàn thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán hành chính…
Xã hội lòai người luôn vận động và phát triển, có những cái hôm qua còn phù hợp nhưng hôm nay đã trở thành lạc hậu. Do vậy, nghiên cứu TPHC và mô hình tổ chức hoạt động của TPHC phải được đặt dưới góc độ “liên tục phát triển” để tổ chức TPHC cuả Nhà nước ta luôn theo kịp và đáp ứng được các đòi hỏi của xã hội, thực sự là một tổ chức nhà nước cuả dân, do dân và vì dân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Niên luận.doc