Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu và giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật thuế nhập khẩu

Trong cấu trúc hệ thống thuế ở mỗi quốc gia, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có vai trò và ý nghĩa thiết thực. Mặc dù xuất hiện muộn hơn so với một số sắc thuế nội địa nhưng thuế nhập khẩu đã nhanh chóng khẳng định được vai trò, tác dụng to lớn của mình đối với nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là vai trò kiểm soát hoạt động nhập khẩu hàng hóa với bên ngoài. Ngày nay cho dù xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang từng bước ảnh hưởng đến tình trạng của loại thuế này theo hướng hạn chế vai trò của nó ở mỗi quốc gia. Song về cơ bản đây vẫn là giải pháp quản lý vĩ mô có hiệu quả đối với nền kinh tế trong nước nhất là đối với những quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường như Việt Nam. Từ việc tìm hiểu về thuế nhập khẩu, nhóm xin chọn đề tài: “Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu và giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật thuế nhập khẩu”. I- Khái quát về thuế nhập khẩu. 1. Thuế nhập khẩu. 2. Pháp luật thuế nhập khẩu. II- Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay. 1. Khái quát thực trạng pháp luật thuế nhập khẩu ở nước ta hiện nay. 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu ở nước ta hiện nay: III- Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu. 1. Những định hướng chung. 2. Những giải pháp hoàn thiện.

doc16 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5989 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu và giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật thuế nhập khẩu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU. Trong cấu trúc hệ thống thuế ở mỗi quốc gia, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có vai trò và ý nghĩa thiết thực. Mặc dù xuất hiện muộn hơn so với một số sắc thuế nội địa nhưng thuế nhập khẩu đã nhanh chóng khẳng định được vai trò, tác dụng to lớn của mình đối với nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là vai trò kiểm soát hoạt động nhập khẩu hàng hóa với bên ngoài. Ngày nay cho dù xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang từng bước ảnh hưởng đến tình trạng của loại thuế này theo hướng hạn chế vai trò của nó ở mỗi quốc gia. Song về cơ bản đây vẫn là giải pháp quản lý vĩ mô có hiệu quả đối với nền kinh tế trong nước nhất là đối với những quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường như Việt Nam. Từ việc tìm hiểu về thuế nhập khẩu, nhóm xin chọn đề tài: “Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu và giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật thuế nhập khẩu”. NỘI DUNG. Khái quát về thuế nhập khẩu. 1. Thuế nhập khẩu. Là một bộ phận quan trọng trong hệ thống thuế, là nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, thuế nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển và ổn định nền kinh tế nước ta. Theo quan niệm chung, thuế là khoản tiền do tổ chức, cá nhân nộp cho Nhà nước để thực hiện chi tiêu cho những công việc cần thiết của Nhà nước. Theo quy định của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 và luật hải quan sửa đổi bổ sung năm 2005 thì thuế nhập khẩu được định nghĩa là: loại thuế đánh vào hàng hóa được nhập khẩu vào những khu vực trong lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt nam, nơi hải quan được áp dụng. Thuế nhập khẩu có những đặc điểm sau: Thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng hóa được phép vận chuyển qua biên giới. Thuế nhập khẩu không tác động vào đối tượng nhập khẩu là các loại hình dịch vụ. Thuế nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hoặc gián thu: nếu nhà nhập khẩu nộp thuế nhập khẩu và tự tiêu dùng số hàng hóa nhập khẩu thì khoản thuế nhập khẩu đã nộp có tính chất là thuế trực thu; ngược lại khi nhà nhập khẩu đã nộp xong thuế nhập khẩu và bán số hàng hóa đó cho người khác thì khoản thuế nhập khẩu đã nộp có tính chất là thuế gián thu. Thuế nhập khẩu gắn liền với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ bởi hoạt động ngoại thương là một tro ng những hoạt động cơ bản của nền kinh tế đối ngoại mà thuế nhập khẩu là công cụ góp phần thực hiện vai trò quản lý, kiểm soát hoạt động ngoại thương của Nhà nước. Thuế nhập khẩu được quản lý bởi cơ quan chuyên trách là cơ quan hải quan. Điều 1 Luật hải quan quy định: hải quan Việt nam có nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Thuế nhập khẩu bị chi phối bởi nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố hội nhập nền kinh tế của quốc gia. Các yếu tố cơ bản chi phối đến chính sách thuế như nhu cầu thu ngân sách nhà nước, yếu tố thực trạng kinh tế xã hội, chính sách thuế nhập khẩu phải phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước… Với những đặc trưng cơ bản trên đã cho thấy những nét khác biệt giữa thuế nhập khẩu với các loại thuế khác. Trên cơ sở đó hiểu rõ bản chất cũng như vai trò của loại thuế này. 2. Pháp luật thuế nhập khẩu. Pháp luật về thuế nhập khẩu được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lý các vi phạm phát sinh giữa nhà nước với người nộp thuế. Xét về hình thức, pháp luật thuế thể hiện ở hệ thống các văn bản pháp luật ban hành liên quan như luật, nghị quyết, nghị định. Xét về phương diện nội dung, pháp luật về thuế nhập khẩu bao gồm các vấn đề chủ yếu như phạm vi áp dụng, căn cứ tính thuế nhập khẩu, chế đội miễn giảm thuế nhập khẩu và hoàn thuế nhập khẩu, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về thuế nhập khẩu. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập hiện nay, pháp luật về thuế nhập khẩu không chỉ giới hạn bởi các nội dung trên mà còn liên quan đến nội dung các điều ước song phương hoặc đa phương mà Việt Nam ký kết như hiệp định ưu đãi thuế quan, hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, hiệp định WTO….Trên cơ sở đó, pháp luật Việt Nam phải có sự điều chỉnh cho phù hợp với những nội dung trên. Từ những phân tích trên, pháp luật về thuế nhập khẩu hiện nay khá đa dạng về hình thức, nội dung được quy định khá chi tiết, không chỉ bao gồm các quy định trong pháp luật quốc gia mà phải phù hợp với các quy định quốc tế mà nước ta ký kết. Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay. Khái quát thực trạng pháp luật thuế nhập khẩu ở nước ta hiện nay. Để phù hợp với các yêu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được kí kết dựa trên nguyên tắc và chuẩn mực của WTO và do sức ép của tiến trình đàm phán Việt Nam với các nước để gia nhập WTO, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về thuế nhập khẩu để đáp ứng yêu cầu đó. Hệ thống các văn bản pháp luật hiện đang có hiệu lực thi hành gồm: Luật hải quan số 29/ 2001/ QH10 ngày 29/ 6/ 2001; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan só 42/ 2005/ QH 11 ngày 14/ 6/ 2005. Luật quản lí thuế số 78/ 2006/ QH 11 ngày 29/ 11/ 2006. Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu số 45/ 2005/ QH 11 ngày 14/ 6/ 2005. Pháp lệnh số 41/ 2002/ PL- UBTVQH 10 ngày 25/ 5/ 2002 về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế. Pháp lệnh số 42/ 2002/ PL- UBTVQH 10 ngày 25/ 5/ 2002 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam. Pháp lệnh số 20/ 2004/ PL- UBTVQH 11 ngày 29/ 4/ 2004 về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Nghị định 154/ 2005/ NĐ- CP ngày 15/ 12/ 2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan. Nghị định số 40/ 2007/ NĐ- CP ngày 16/ 3/ 2007 quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu ( thay thế nghị định 155/ 2005). Nghị định 85/ 2007/ NĐ- CP ngày 25/ 5/ 2007 quy định chi tiết thi hành Luật quản lý thuế. Nghị định 89/ 2005/ NĐ- CP ngày 11/ 7/ 2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Nghị định 90/ 2005/ NĐ- CP ngày 11/ 7/ 2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Nghị định 150/ 2003/ NĐ- CP ngày 8/ 12/ 2003 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hang hóa nước ngoài vào Việt Nam Thông tư số 59/ 2007/ TT- BTC ngày 14/ 6/ 2007 hướng dẫn thi hành thuế xuất khẩu, nhập khẩu, quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Nghị định số 87 /2010/ NĐ- CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Trong thời gian gần đây, pháp luật thuế nhập khẩu thường xuyên được sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản mới nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và có nhiều nội dung mới đáp ứng yêu cầu gia nhập WTO vào cuối năm 2006. Những nội dung sửa đổi cơ bản trên của thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 và các văn bản pháp luật về thuế nhập khẩu đã thể hiện được mục tiêu , yêu cầu cải cách hệ thống chính sách thuế theo yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Các quy định về phạm vi áp dụng. Về chủ thể nộp thuế: Theo quy định tại điều 4 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005, người nộp thuế nhập khẩu là tổ chức, cá nhân có hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế nhập khẩu. Taị nghị định số 87 /2010/ NĐ- CP cũng đã có quy định chi tiết đối tượng nộp thuế nhập khẩu tại Điều 4, theo đó, chủ thể nộp thuế bao gồm có : chủ hàng hóa nhập khẩu; tổ chức nhận ủy thác nhập khẩu hàng hóa; cá nhân có hàng hóa nhập khẩu khi nhập cảnh, nhận hàng qua cửa khẩu biên giới Việt Nam. Về nguyên tắc, một tổ chức hay cá nhân chỉ được xem là đối tượng nộp thuế nhập khẩu khi chủ thể đó thoả mãn những điều kiện sau: + Là người trực tiếp đứng tên làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá với nước ngoài + Hàng hoá do chủ thể đó nhập khẩu với nước ngoài theo quy định của pháp luật về thuế nhập khẩu. Về đối tượng chịu thuế: Theo Điều 2 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu, hàng hóa là đối tượng chịu thuế nhập khẩu gồm: Hàng hóa nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam (hàng hóa nhập khẩu qua cửa khẩu đường bộ, đường song, cảng biển, cảng hàng không, đường sắt liên vận quốc tế, bưu điện quốc tế và địa điểm làm thủ tục hải quan khác được thánh lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền) ; hàng hóa được đưa từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước. Như vậy, so với các đạo luật cũ, Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 có một số thay đổi trong quy định về đối tượng chịu thuế. Theo đó, cụm từ “ khu phi thuế quan” đã thay thế cho cụm từ “ khu chế xuất” trước đây. Theo đó, khu phi thuế quan bao gồm khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, khu bảo thuế, kho ngoại quan, kho kinh tế thương mại đặc biệt và các khu vực kinh tế khác được thánh lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, có quan hệ mua bán trao đổi hàng hóa giữa khu này với bên ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu. Trong việc xác định đối tượng chịu thuế nhập khẩu, Luật thuế xuất, nhập khẩu 2005 đã sử dụng phương pháp loại trừ bằng cách quy định những hàng hóa không thuộc đối tượng chịu thuế. Theo Điều 3 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì hàng hóa trong các trường hợp sau đây là đối tượng không chịu thuế nhập khẩu: Hàng hóa vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu biên giới Việt Nam, hàng hóa chuyển khẩu theo quy định của Chính phủ; Hàng hóa viện trợ nhân đạo, hàng hóa viện trợ không hoàn lại; Hàng hóa từ khu phi thuế quan nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan, hàng hóa đưa từ khu phi thuế quan này sang khu phi thuế quan khác. Các quy định về căn cứ tính thuế. Hiện nay pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam quy định những tiêu chí sau được sử dụng làm căn cứ tính thuế: Thứ nhất, số lượng đơn vị hàng hóa nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan Trên nguyên tắc, tất cả các hàng hóa khi được nhập khẩu vào một lãnh thổ hải quan đều phải được chủ thể nhập khẩu tiến hành khai báo hải quan. Theo quy định của pháp luật Hải quan thì khi làm thủ tục hải quan người khai bào hải quan phải kê khai và nộp tờ khai hải quan, xuất trình chứng từ thuộc hồ sơ hải quan. Số lượng hàng hóa nhập khẩu là tổng số lượng hàng hóa được nhà nhập khẩu khai trong tờ khai hải quan. Cùng với giá tính thuế đối với đơn vị hàng hóa nhập khẩu đây là một trong những đại lượng quan trọng để xác định giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu. Về cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến số lượng hàng hóa nhập khẩu: Việt Nam cam kết từ ngày gia nhập WTO, Việt Nam hạn chế phạm vi của các sản phẩm quản lí bằng hạn ngạch thuế quan một cách minh bạch và không phân biệt đối xử, phù hợp với Hiệp định WTO bao gồm các Điều I, II, III, VIII, X, XIII của GATT 1994 và Điều 4 hiệp định nông nghiệp, điều 2 về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại và hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu. Trên thực tế hiện nay ở Việt Nam, hạn ngạch thuế quan chỉ áp dụng đối với muối, thuốc lá, nguyên liệu và trứng được quản lí theo Thông tư số 04/2006/TM-BTM ngày 06/04/2006 của Bộ thương mại hướng dẫn thi hành Nghị định của Chính phủ số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/1/2006 theo đúng như cam kết của mình. Đối với hàng hóa nhập khẩu được quản lí bằng hạn ngạch trong mọi trường hợp vượt quá hạn ngạch cho phép thì số hàng hóa đó vẫn được nhập khẩu nhưng sẽ áp dụng ở mức thuế suất ngoài hạn ngạch. Thứ hai, giá tính thuế hàng nhập khẩu: Trị giá hải quan được tính bằng số lượng hàng hóa nhập khẩu nhân (x) với giá tính thuế. Việt Nam cam kết rằng kể từ ngày gia nhập WTO, Việt nam sẽ áp dụng đầy đủ Hiệp định xác định giá trị Hải quan của WTO. Cụ thể, giá trị giao dịch sẽ được sử dụng là giá trị tính thuế và Việt Nam sẽ không áp dụng giá tối thiểu và hệ thông giá tham khảo hay biểu trị giá hải quan cố định áp dụng đối với hàng nhập khẩu thay cho giá trị giao dịch. Trước đây ở Việt Nam giá tính thuế được xác định theo 3 hướng : Giá tính thuế nhập khẩu theo bảng giá tính thuế do Nhà nước ban hành; Giá tính thuế nhập khẩu theo hợp đồng mua bán ngoại thương; Giá tính thuế nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều VII của GATT 1994. Tuy nhiên, hiện nay cùng với hội nhập kinh tế quốc tế, để phù hợp với Hiệp định thực hiện Điều VII của GATT 1994, luật thuế xuất, nhập khẩu đã có những thay đổi so với trước đây về việc xác ddinghj trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu. Khoản 2 Điều 9 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 quy định : “Giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên theo hợp đồng, phù hợp với cam kết quốc tế”. Bên cạnh đó, Nghị định 155/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ quy định về xác định trị giá hải quan đối với hàng nhập khẩu thì tất cả hàng hóa nhập khẩu đều có chung một văn bản hướng dẫn xác định trị giá hải quan mà không có sự phân biệt như trước. Thứ ba, thuế suất thuế nhập khẩu Có thể phân loại thuế suất theo những tiêu chí sau: Xét theo tiêu chí kỹ thuật thu thuế thì thuế suất có hai loại: Thuế suất theo tỉ lệ : là loại thuế suất được quy định bằng một tỷ lệ % nhất định đánh vào mỗi loại hàng hóa nhập khẩu nhất định. Cách tính thuế nhập khẩu phải nộp đối với loại hàng hóa này như sau: Thuế phải nộp = (số lượng hàng hóa nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan) x (giá tính thuế từng mặt hàng) x (thuế suất) Thuế suất tuyệt đối: là loại thuế suất được ấn định bằng số tiền nhất định tính trên mỗi đơn vị hàng hóa nhập khẩu. Cách tính : Thuế phải nộp = (số lượng hàng hóa nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan) x ( thuế suất). Xét theo tiêu chí quan hệ thương mại giữa các quốc gia thì có ba loại : Thuế suất ưu đãi : là thuế suất áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc (MFN) trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất này được quy định riêng cho từng mặt hàng được quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. Thuế suất ưu đãi đặc biệt: là thuế suất áp dụng đối với các loại hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ các quốc gia trong liên minh thuế quan, khu thương mại tự do hay để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại biên giới của hai bên. Điều kiện áp dụng loại thuế này bao gồm : + Hàng hóa nhập khẩu là những mặt hàng được quy định cụ thể trong thỏa thuận kí giữa Việt Nam với nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế và phải đáp ứng đủ các điều kiện ghi trpong thỏa thuận + Có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. Tuy nhiên đối với hàng hóa đã có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế quan với nước ta nhưng lô hàng có tổng giá trị từ 200USD trở xuống thì không cần có C/O + Phải là hàng hóa có xuất xứ từ nước, nhóm nước, vùng lãnh thổ mà Việt Nam có thỏa thuận ưu đãi thuế nhập khẩu và phải đáp ứng các điều kiện này + C/O phải phù hợp với quy định của pháp luật về xuất xứ hàng hóa Thuế suất thông thường: là thuế suất áp dụng đối với hàng hóa có xuất xứ từ các nước còn lại. Theo quy định của Luật thuế xuất, nhập khẩu 2005 thì thuế suất thông thường không quá 170% so với thuế suất ưu đãi. Điều này có thể giúp Bộ tài chính quy định trong khung mở rộng từ 100% đến 170% so với thuế suất ưu đãi của hàng hóa tương ứng. Các quy định về quy trình hành thu thuế nhập khẩu. Thứ nhất, kê khai thuế nhập khẩu: Khi nhập khẩu hàng hóa thì hành vi đầu tiên của chủ thể nộp thuế là tiến hàn kê khai thuế nhập khẩu theo mẫu ( tờ khai hải quan). Tờ khai này thể hiện rõ các nội dung như nguồn gốc, xuất xứ, số lượng hàng hóa nhập khẩu…Theo Điều 13 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì “ Đối tượng nộp thuế nhập khẩu có trách nhiệm kê khai đầy đủ, chính xác, minh bạch và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai”. Như vậy, tờ khai hải quan không chỉ là căn cứ để cơ quan hải quan tiến hành tính thuế nhập khẩu cho người nộp thuế mà còn là bằng chứng chứng minh mức độ trung thực của người nộp thuế, từ đó xác định có hành vi khai man, trốn thuế không để ra uyết định xử phạt. Theo quy định của Luật hải quan thì thời hạn nộp tờ khai hải quan đối với hàng nhập khẩu là trước ngày hàng hóa đến cửa khẩu hoặc trong thời hạ 30 ngày kể từ ngày hàng hóa đến cửa khẩu. Tờ khai hải quan có giá trị làm thủ tục hải quan trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày đăng ký. Sau khi đăng ký, người nhập khẩu nộp tờ khai cho cơ quan hải quan để làm thủ tục nhập khẩu. Thứ hai, kiểm tra, giám sát đối với hàng hóa nhập khẩu: Sau khi nhận được tờ khai hàng hóa nhập khẩu, cơ quan hải quan tiến hành kiểm tra hồ sơ đăng ký hải quan và kiểm tra hàng hóa trên thực tế. Việc kiểm tra hồ sơ đăng ký hải quan được tiến hành như sau: Đối với chủ hàng chấp hành tốt pháp luật về hải quan thì công chức hải quan kiểm tra việc kê khai các tiêu chí trên tờ khai, kiểm tra sơ bộ nội dung khai, kiểm đếm số lượng, chủng loại các chứng từ kèm theo tờ khai hải quan. Đối với trường hợp phát hiện sai phạm hoặc đối với các chủ hàng khác thì kiểm tra nội dung khai, số lượng, chủng loại, giấy tờ thuộc hồ sơ, tính đồng bộ giữa các chứng từ. Nếu không chấp nhậ dăng ký thì báo cho người khai biết rõ lý do. Sau quá trình kiểm tra hải quan đối với hàng hóa, cơ quan hải quan tiến hành tính thuế và thông báo thuế cho ngườu kê khai hải quan trong thời hạn 8 giờ kể từ khi nhận được tờ khai hải quan. Đối với những hàng hóa có số lượng nhập khẩu mỗi lần lớn và những mặt hàng bắt buộc phải có giám định tiêu chuẩn chất lượng của Chính phủ trước khi được phép lưu thông trên thị trường Việt Nam thì thời hạn tính thuế và gửi thông báo có thể kéo dài hơn 8 giờ nhưng không quá 3 ngày làm việc. Đối với những mặt hàng bắt buộc phải có giám địn tiêu chuẩn ky thuật mới xác định được mã số theo danh mục biểu thuế hoặc cần giám định để sác định tình trạng cũ, mới của hàng hóa nhằm giúp cho việc tính thuế được chính xác thì thời hạn tính thuế và gửi thông báo thuế có thể kéo dài quá 3 ngày nhưng không quá 15 ngày làm việc. Về nguyên tắc, thuế nhập khẩu được tính tại thời điểm đăng ký tờ khai hàng hóa nhập khẩu, đồng thời được tính theo mức thuế suất, giá tính tại thời điểm đăng ký tờ khai hàng hóa nhập khẩu. Thứ ba, nộp thuế và thời hạn nộp thuế nhập khẩu: Nộp thuế nhập khẩu là nghĩa vụ cơ bản của người nhập khẩu. Nghĩa vụ này phát sinh khi người nhập khẩu làm thủ tục hải quan để đưa hàng hóa vào lãnh thổ Việt Nam và phải được thực hiện trong một thời hạn nộp thuế do pháp luật quy định. Theo dự liệu tại Điều 15 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thời hạn nộp thuế được quy định rất cụ thể. Tùy thuộc vào mục đích nhập khẩu là sản xuất hay để xuất khẩu mà hời hạn nộp thuế được quy định theo mức 15 ngày, 30 ngày hoặc 275 ngày. Thứ tư, miễn, giảm thuế và hoàn thuế nhập khẩu: Miễn thuế, giảm thuế và truy thu thuế nhập khẩu: Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu quy định những trường hợp cụ thể được xét miễn, giảm thuế nhập khẩu tại Điều 16, 17, 18. Nhìn chung, về đối tượng hàng hóa được xét miễn, giảm thuế, Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 đã kế thừa những uy định của Luật trước đây, chỉ có bổ sung là trong trường hợp xét giảm thuế đối với hàng hóa phục vụ nghiên cứu khoa học thì phải trừ trường hợp đã quy định về hàng đã miễn thuế để sử dụng và hoạt động nghiên cứu khoa học như trên. Viêc truy thu thuế được quy định tại Điều 21 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005, theo đó, việc truy thu thuế đặt ra trong trường hợp đối tượng nộp thuế có hàng hóa được miễn, giảm thuế theo quy định tại Điều 16, 17 của Luật nhưng sau đó sử dụng khác mục đích thì phải nộp đủ thuế. Hoàn thuế nhập khẩu: Đối với trường hợp hoàn thuế, Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu đã bổ sung thêm trường hợp hàng hóa được phép tạm nhập, tái xuất là máy móc, thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận chuyển của các tổ chức, cá nhân để thực hiện dự án đầu tư, thi công xây dựng, lắp đặt công trình hoặc phục vụ sản xuấtđã nộp thuế nhập khẩu cũng là đối tượng được hoàn thuế. Quy định này là phù hợp với các quy định mới về các trường hợp được miễn thuế. Theo đó, hiện nay có 8 trường hợp hoàn thuế được quy định tại Điều 19 của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu ở nước ta hiện nay: Những kết quả đạt được. Trải qua hơn 5 năm thực hiện, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 đã khắc phục những hạn chế trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991 và đạt được những kết quả đáng kể: Thứ nhất, góp phần huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Là một nước đang phát triển, thu ngân sách của Việt Nam chủ yếu dựa vào các nguồn thu từ thuế, trong đó nguồn thu từ thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu chiếm một tỉ trọng lớn đặc biệt là thu từ thuế nhập khẩu. Bảng 1. Tổng thu ngân sách nhà nước từ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (2008-2010) (Đơn vị: Tỉ đồng) 2008 2009 2010 Tổng thu ngân sách nhà nước 399.000 442.340 559.170 Tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 91.000 105.664 130.100 Tỉ trọng so với tổng thu ngân sách nhà nước (%) 22,8 23,89 23,27 Từ bảng trên có thể thấy số tiền thu được từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chiếm trên 20% tổng thu ngân sách nhà nước và liên tục tăng qua các năm. Thứ hai, thúc đẩy hoạt động buôn bán, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Những điều chỉnh trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 để đáp ứng những yêu cầu của quá trình hội nhập trong những năm qua đã thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ mua bán hàng hóa giữa nước ta với các nước trên thế giới. Hiện nay Việt Nam đang có quan hệ nhập khẩu hàng hóa với hơn 170 quốc gia trên thế giới. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trong năm 2010 kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt hơn 84 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm 2009. Trong đó, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của nước ta với tổng kim ngạch đạt trên 20 tỷ USD chiếm hơn 23% tổng kim ngạch nhập khẩu. Ngoài ra một số thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam như: ASEAN chiếm 19,3%, Hàn Quốc chiếm 11,5, Nhật Bản chiếm 10,6%... Thứ ba, bảo hộ sản sản xuất trong nước. Trong bối cảnh thị trường tiêu thụ gặp nhiều khó khăn do suy giảm kinh tế toàn cầu và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm trong nước còn chưa đủ mạnh thì các chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước là cần thiết và có vai trò quan trọng. Trên cơ sở các cam kết quốc tế và quy định của WTO, trong thời gian qua, chính sách thuế nhập khẩu đã được tận dụng tối đa để hỗ trợ cho những ngành sản xuất trong nước phát triển đặc biệt là những ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn nhằm tạo lập và nâng cao khả năng cạnh tranh. Ví dụ trước đây theo quy định của Bộ tài chính thép xây dựng nhập khẩu vào Việt Nam chịu mức thuế suất 15%, thép hợp kim nhập khẩu làm thép xây dựng chịu thuế suất 10%, thép hợp kim có chứa nguyên tố Bo để sản xuất que hàn thuế suất là 0%. Quy định này đã dẫn đến tình trạng không ít doanh nghiệp cố tình nhập khẩu thép có chứa Bo và khai là để sản xuất que hàn để hưởng mức thuế suất 0% nhưng thực tế lại bán ra làm thép xây dựng. Do đó giá bán thép nhập khẩu thấp hơn giá thép trong nước khiến cho nhiều doanh nghiệp sản xuất thép lâm vào tình trạng khó khăn. Để giải quyết tình trạng này, ngày 11/7/2011, Bộ tài chính đã ban hành thông tư 103/2011/TT-BTC tăng mức thuế suất đối với đối với thép có chứa Bo lên 10%. Thứ tư, thực hiện các cam kết quốc tế Trong quá trình đàm phán, tham gia, ký kết các điều ước quốc tế, hiệp định thương mại hợp tác kinh tế, thương mại trong khuôn khổ ASEAN, APECT, ASEM, hiệp định thương mại Việt – Mỹ, cam kết gia nhập WTO… Việt Nam đã đưa ra một loạt các cam kết về thuế đặc biệt là cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu. Để thực hiện những cam kết đó, trong thời gian vừa qua, những quy định về thuế nhập khẩu đã có những điều chỉnh đáng kể. Theo cam kết với WTO, Việt Nam cam kết ràng buộc toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành gồm 10.600 dòng thuế. Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm 23% so với mức thuế bình quân hiện hành (từ 17,4% xuống còn 13,4%), thời gian thực hiện sau 5-7 năm. Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5%), ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng thuế (chiếm 35,4%), ràng buộc theo mức thuế trần-cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30%), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hóa chất, một số phương tiện vận tải… Hiện nay chúng ta đang trong quá trình thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu theo cam kết, thuế suất thuế nhập khẩu của một số mặt hàng có xu hướng giảm mạnh như xe ôtô con dung tích xi lanh dưới 2500cc giảm từ 90% (khi gia nhập WTO) xuống còn 82% (2010) tiến tới giảm xuống còn 70% (theo cam kết)… Việc thực hiện giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế đã đem lại những tác động tích cực: Khẳng định nền kinh tế Việt Nam đáp ứng những tiêu chuẩn và nguyên tắc chung của kinh tế thị trường; việc cắt giảm thuế nhập khẩu, giảm bảo hộ sẽ thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế phát triển theo hướng hiệu quả, chuyên môn hóa, sản xuất quy mô lớn, phát huy tốt hơn các lợi thế so sánh về lao động, tài nguyên. Các dự án đầu tư sản xuất thay thế nhập khẩu dựa trên bảo hộ cao sẽ phải định hướng lại sản xuất; tạo điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài, tăng niềm tin với các nhà đầu tư về định hướng mở cửa và tiềm năng phát triển của Việt Nam; việc cắt giảm thuế sẽ thu hẹp bảo hộ quá mức ở một số ngành, các ngành sẽ có mức bảo hộ hợp lý, giảm chênh lệch về bảo hộ giữa các ngành. Những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật TNK. Thứ nhất, về thực tiễn áp dụng pháp luật về giá tính thuế nhập khẩu: Một trong những vấn đề làm đau đầu nhân viên hải quan tại các cửa khẩu chính là việc xác định chính xác giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu. Theo thống kê của ngành hải quan thì trong số các vụ việc trốn thuế nhập khẩu, số vụ do gian lận về giá chiếm tỉ lệ cao nhất. Với các quy định hiện hành, việc kê khai thuế chủ yếu dựa trên thái độ trung thực của người nhập khẩu, và giá tính thuế nhập khẩu được tính theo trị giá giao dịch thực tế của hàng hóa. Quy định này là vậy nhưng việc áp dụng lại rất đa dạng và có rất nhiều cách gian lận về giá. Ở đây xin đề cập tới một số thủ đoạn gian lận giá có tính phổ biến và điển hình trong quá trình áp dụng pháp luật về giá tính thuế nhập khẩu: Hiện tượng khai báo giá không trung thực: Với cách này bên nhập khẩu sẽ thông đồng với nhà sản xuất để khai báo giá trị hàng hóa nhập khẩu thấp hơn so với giá trị hàng hóa trong thực tế. Các hợp đồng chứng từ thanh toán ngân hàng như L/C chỉ thể hiện phần nào nội dung mà cơ quan hải quan đang kiểm tra, không thể hiện đầy đủ trị giá khai báo. Đa số nhà xuất khẩu khi đã có quan hệ giao dịch với nhà nhập khẩu thì họ đều bảo vệ khách hàng của mình vì điều này có lợi cho nhà xuất khẩu tiêu thụ được sản phẩm hàng hóa. Do đó, giao dịch dễ dàng được thực hiện theo hai hay nhiều hợp đồng để đối phó với cơ quan hải quan. Điển hình trong trường hợp này là vụ khai báo sai giá trị hàng hóa là điện thoại di động của Công ty Đông Nam. Giám đốc của công ty này là Nguyễn Gia Thiều đã móc nối với công y Đông Nam Hồng Kông mua trên 40.000 ĐTDD, khai giá thấp hơn so với giá thực tế thanh toán từ 75 USD đến 375USD/ chiếc, trốn thuế nhập khẩu trên 100 tỷ đồng. Hiện tượng khai thấp về chất lượng hàng hóa. Doanh nghiệp sẽ khai báo hàng hóa của họ là hàng thứ phẩm, hàng tồn kho , loại A, B, C, D hoặc là hàng vỡ vụn nhiều. Và thời gian qua, Tổng cục Hải quan đã phát hiện nhiều trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa (đặc biệt là mặt hàng ô tô, xe máy) khai báo giá trị tính thuế nhập khẩu rất thấp để trốn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng (GTGT) khâu nhập khẩu. Cụ thể, hóa đơn GTGT bán hàng của xe Toyota Land Cruiser Prado dung tích 4.0, doanh nghiệp xuất trình là 1.069 tỷ đồng, trong khi đó giá bán thực tế của chiếc xe này trên thị trường là từ 1,65 tỷ đồng đến 1,7 tỷ đồng...Như vậy, các doanh nghiệp này vừa khai báo giá trị nhập khẩu thấp với cơ quan Hải quan để trốn thuế nhập khẩu và thuế GTGT khâu nhập khẩu, đồng thời vừa khai báo giá bán rất thấp trên thị trường nội địa của hàng hóa nhập khẩu với cơ quan Thuế để trốn thuế GTGT trong nội địa và thuế thu nhập doanh nghiệp. Tình trạng trên dẫn đến sự thất thoát nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, và hiện nay khi các vụ việc được phát hiện việc truy thu thuế đối với các doanh nghiệp vi phạm cũng không hề dễ dàng. Việt Nam sau khi tham gia ký kết thực hiện xác định trị giá tính thuế theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện điều 7 Hiệp định chung thuế quan và thương mại, đã ban hành chính sách cho phép các Doanh nghiệp tự kê khai trị giá tính thuế hàng hoá theo GATT. Lợi dụng vào sự thông thoáng của chính sách này nhiều Doanh nghiệp nhập khẩu ô tô nguyên chiếc đã khai trị giá tính thuế thấp để trốn thuế nhập khẩu Hiện tượng khai báo hàng không thanh toán. Theo công văn hướng dẫn của ngành hải quan, nếu doanh nghiệp nhập hàng kem đánh răng thì khi có hàng khuyến mại là là bàn chải đánh răng sẽ được chấp nhận. Nếu doanh nghiệp nhập máy lạnh, khuyến mại một chảo chống dính thì vẫn được chấp nhận, vì khi cán bộ giá khảo sát trên thị trường qua các cửa hàng kim khí điện máy cho thấy thực tế có hình thức khuyến mãi này. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp lợi dụng hình thức trên để nhập số lượng chảo chống dính nhiêu gấp 5 lần số lượng máy lạnh trong cùng một lô hàng thì đây chính là hình thức gian lận. Một số công ty còn tranh thủ thêm tỷ lệ hàng khuyến mãi 10%, thường xảy ra với hàng hóa là rượu, bia, mỹ phẩm, thực phẩm đóng gói, thuốc tân dược. Ví dụ, công ty An Nam nhập 104 chai nước làm mềm da khuyến mãi 96 chai, toàn bộ lô hàng sau mỗi mục đều có số lượng hàng siêu F.O.C ( gọi là hàng siêu F.O.C vì mua 1 được tặng nhiều hơn 1). Công ty này đã từng bị phòng trị giá tính thuế bác bỏ trị giá giao dịch. Thủ đoạn đánh đồng tên hàng nhưng chất lượng và phẩm cấp thương mại cao hơn. Ví dụ doanh nghiệp khai báo đồng hồ treo tường, nếu không để ý rõ, yêu cầu doanh nghiệp xuất trình mẫu hàng hoặc ra bãi xem hàng cụ thể thì cán bộ hải quan dễ bị ngộ nhận vì đồng hồ treo tường có hàng trăm loại khác nhau, và có loại có giá trị vài chục ngàn, cũng có loại như đồng hồ đin tử có hiện thị độ ẩm, nhiệt độ phòng, có lịch âm dương thì giá ngoài thị trường trên 500.000 VNĐ/chiếc. Với những thủ đoạn như trên đòi hỏi các cán bộ hải quan phải thu thập nguồn thông tin bằng các kĩ năng nghiệp vụ giỏi mới có cơ sở bác bỏ trị giá khai báo của các doanh nghiệp nhập khẩu. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp công tác xác định trị giá tính thuế nhập khẩu gặp nhiều khó khăn khi tham vấn giá với các doanh nghiệp cụ thể là. - Bán hàng độc quyền, trị giá tính thuế khai báo cực thấp và riêng đối với mặt hàng ấy chỉ duy nhất có một công ty nhập và phân phối trên thị trường. Nếu xây dựng cơ sở dữ liệu giá sẽ gặp khó khăn và không thể cập nhật chính xác giá nhập khẩu vì nhà sản xuất không bao giờ cung cấpmà chỉ định đến đại lí liên hệ của chính hang – chính là doanh nghiệp nhập khẩu. Những trường hợp này thường xảy ra với ngành rượu và hàng mĩ phẩm. Trị giá thanh toán hay sẽ phải thanh toán của nhà nhập khẩu cho nhà xuất khẩu sẽ được khai báo thấp hơn so với giá trị giao dịch thực tế nhờ sự thông đồng của cả hai bên như đã phân tích ở trên. Việc xác định mối quan hệ đặc biệt trong giao dịch có ảnh hưởng đến trị giá giao dịch đối với những người này trong gia đình theo mô hình công ty me-con. Đối với những tình huống này đòi hỏi cán bộ hải quan phải có nguồn thôngin sẵn, phải có nghiệp vụ kiểm toán và được quyền đọc sổ sách tài chính của công ty nếu không rất khó bác bỏ trị giá giao dịch mà doanh nghiệp đã khai báo. Thứ hai, về thực tiễn áp dụng pháp luật về thuế suất thuế nhập khẩu. Thuế suất thuế nhập khẩu là căn cứ quan trọng nhất để xác định số thuế nhập khẩu mà doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước. Trong quá trình hội nhập kinh tế chúng ta đã cam kết cắt giảm hàng rào thuế quan theo lộ trình nhất định. Việc quy định thuế suất là rõ ràng trong các văn bản pháp luật và các cam kết quốc tế, song việc áp dụng thuế suất trên thực tế lại vô cùng phức tạp. Các nhà nhập khẩu có vô vàn cách biến hóa nhằm trốn thuế, hoặc hưởng thuế suất thấp hơn để thoát khỏi hoặc giảm bớt một phần nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Một trong số những ảo thuật mà nhà nhập khẩu sử dụng được coi là ngày càng tinh vi là việc gian lận giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa ( C/O). Ví dụ hơn 15 doanh nghiệp nhập khẩu tổng cộng gần 42.000 tấn thép lá cán nguội ( CRC) từ Philipine vào Việt Nam với mức giá thấp hơn cả mức giá nội địa của sản phẩm tại Philipine nhằm trốn thuế thông qua việc sử dụng C/O có lai lịch bất minh. Theo kết quả kiểm tra liên ngành thương mại, hải quan và quản lí thị trường tại cửa khẩu Cầu Treo,Hà Tĩnh cuối tháng 10/2005 có 23 lô nhập khẩu đã sử dụng C/O Form D với giấy chứng nhận 100% giá trị sản phẩm Thái Lan. Hàng hóa bao gồm nhiều chủng loại như ti vi, tủ lạnh, nồi cơm điện, lò vi sóng… mang nhãn hiệu Sony, Hitachi, Panasonic, Sharp. Trong đó chỉ tính riêng sản phẩm tivi đã lên đến tổng trị giá 729.230 USD.. Theo đánh giá của các nhà sản xuất điện tử ở Việt Nam và các chuyên gia thương mại sản phẩm điện tử không thể đạt mức tỉ lệ 100% xuất xứ Thái Lan mà đây chỉ là một cách lách để hưởng thuế suất ưu đãi của AFTA 20% năm 2005 và 5% năm 2006 thay vì phải chịu mức thuế thông thường là 50%. Tình trạng trên xuất phát từ các quy định về thuế, hàng hóa có C/O form D, tức trong sản phẩm phải có chứa trên 40% hàm lượng xuất xứ từ ASEAN khi xuất khẩu vào các nước trong ASEAN sẽ được hưởng mức thuế suất là 0% hoặc 10%, 15%..., thấp hơn nhiều so với hàng ngoài ASEAN. Thủ đoạn khai sai nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nhằm hưởng lợi từ việc ưu đãi về thuế đối với các nước mà Việt Nam có cam kết giảm thuế. Điển hình là trường hợp Vũng Tàu Sihanco khai sai xuất xứ hàng hóa bột ngọt để trốn thuế nhập khẩu. Thủ đoạn gian lận khác mà nhà nhập khẩu sử dụng là khai báo gian dối về tên hàng hóa nhập khẩu để được áp mã và hưởng thuế suất thấp hơn. Thứ ba, hạn chế trong quy trình hành thu thuế nhập khẩu. -Về khai thuế nhập khẩu. Theo quy định của pháp luật thuế nhập khẩu, việc kê khai thuế nhập khẩu do chủ thể tiến hành hoạt động nhập khẩu tự thực hiện, điều này đòi hỏi nhà nhập khẩu phải thực hiện tự giác, trụng thực và nghiệm chỉnh, Nội dung kê khai thuế trong các tờ khai hải quan bao gồm kê khai về mặt hàng nhập khẩu, số lượng hàng nhập khẩu và giá trị hải quan. Cả 3 nội dung này, trên thực tế đều không được kê khai một cách trung thực và khó có thể dựa trên ý thức tự giác của nhà nhập khẩu. Về vấn đề hàng hóa, rất khó có thể phân biệt và mã hóa loại hàng hóa nhập khẩu một cách chính xác, bởi lẽ hàng hóa nhập khẩu là vô cùng đa dạng về chủng loại. Về số lượng, nếu cán bộ hải quan không ra bãi kiểm tra một cách trực tiếp thì không thể hoàn toàn tin tưởng vào số lượng mà nhà nhập khẩu khai báo. Phần lớn các lô hàng nhập khẩu đều có số lượng lớn hơn nhiều so với số lượng khai báo, đặc biệt là đối với nguyên liệu dệt may, rất khó để kiểm tra được chính xác số lượng mà doanh nghiệp khai báo và kèm theo trong lô hàng có hàng lậu hay không. Hiện nay, công tác kiểm tra của hải quan còn nhiều yếu kém nên thực tế công việc không thể kiểm soạt hết được hàng hóa, và hàng lậu thì vẫn theo những lô hàng hợp pháp tràn vào Việt nam một cách tự do. Về trị giá hải quan, giá nhà nhập khẩu đưa ra bao giờ cũng là giá thấp nhất so với thực tế. Công tắc xác định trị giá hải quan hàng nhập khẩu hiện nay vẫn còn rất nhiều khó khăn và chưa thể giải quyết dứt điểm tình trạng này. -Về nộp thuế nhập khẩu: Mặc dù điều 15 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 quy định khá rõ ràng về thời hạn nộp thuế, nhưng trong thực tế đã xảy ra rất nhiều trường hợp lợi dụng chính sách ân hạn thuế gây thất thu thuế cho Nhà nước. Theo Cục điều tra chống buôn lậu tình trạng buôn lậu đang diễn ra hết sức phức tạp tại các cảng biển. Tình hình càng nghiêm trọng hơn khi Việt nam phổ biến áp giá tính thuế theo những cam kết với WTO, doanh nghiệp tự khai báo , tự xác định trị giá tính thuế trên tờ khai. Chính vì vậy, các đối tượng đã sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, đặc biệt là thông đồng làm giả hợp đồng thương mại, khai báo giá trị thấp so với thực thế, nhằm áp mã sai đối với những mặt hàng nhạy cảm để được hưởng mức thuế suất thấp. Nhiều doanh nghiệp, cá nhân nhập khẩu đã lợi dụng chính sách thông thoáng, miễn hoặc kiểm tra theo tỷ lệ để nhập hàng thừa so với hợp đồng, khai báo hải quan không đúng, nhập nguyên liệu để sản xuất hàng suất khẩu nhưng lại đem tiêu thụ trái phép trong nước, giả hợp đồng gia công… Ví dụ: năm 2007 xuất hiện thủ đoạn gain lận thương mại, nhập thép Trung Quốc dưới dạng “hợp đồng gia công 100%” của Công ty thép Việt – Ý. Không chỉ trên các cảng biển, hoạt động buôn lậu còn có những diễn biến phức tạp trên cả đường bộ, hàng không và bưu điện. Trên tuyến biên giới đường bộ, việc vận chuyển trái phép hàng hóa diễn ra phức tạp và tập trung chủ yêu tại một số địa bàn trọng điểm như Móng Cái (Quảng Ninh), Tân Thanh, Chi Mai, đường mòn 05-06 thị trấn Đồng Đăng (Lạng Sơn), Cầu Treo (Hà Tĩnh), Lao Bảo (Quảng Trị)… Các hàng hóa nhập khẩu khá đa dạng nhưng phần lớn là hàng tiêu dùng. Buôn lậu trên tuyến hàng không, bưu điện vẫn tập trung ở hai cửa khẩu sân bay quốc tế là Nội Bài và Tân Sơn Nhất, bưu điện Hà Nội và TP.HCM. Hiện nay, thủ đoạn trốn thuế ngày càng tinh vi hơn, giá trị trốn thuế ngày càng lớn, đòi hỏi việc xây dựng pháp luật phải ngày càng chặt chẽ, nhưng đồng thời cũng phải đơn giản hóa các thủ tục sao cho vừa có thể ngăn ngừa được tình trạng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trón thuế nhập khẩu mà vẫn không rườm rà, ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu nói chung. -Về miễn, giảm thuế nhập khẩu: Một trong những nội dung quan trọng của quá trình hành thu thuế phập khẩu là vấn đề xác định hàng hóa nhập khẩu nào nằm trong diện được miễn thuế nhập khẩu. Lợi dụng những ưu đãi của pháp luật, nhiều người đã nhập khẩu hàng hóa dưới chiêu bài “hàng miễn thuế” trá hình. Cụ thể là: Thứ nhất, theo quy định tại khoản 5 điều 16 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2005, hàng hóa nhập khẩu trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế của người nhập cảnh được miễn thuế. Lợi dụng quy định này của Luật, Nguyễn Gia Thiều – giám đốc Công ty Đông Nam – đã chỉ đạo Phạm Anh Vũ – Giám đốc công ty Thiên Anh – và Huỳnh Tiến Dũng, Đỗ Liên Anh – nhân viên Công ty Đông Nam và Nguyễn Quốc Tuấn nhập lậu điện thoại di động từ Hồng Kông về Việt Nam theo đường phi mậu dịch và xách tay qua các sân bay với thỏa thuận ăn chia lợi nhuận thư 22 đến 35 USD/chiếc. Để thực hiện trót lọt hành vi phạm tội này, bọn chúng đã móc nối với một số cán bộ nhân viên hải quan ở Hà Nội và TP.HCM, các phi công, tiếp viên thuộc hàng không Việt Nam, gây thất thu thuế nhập khẩu cho nhà nước 52,2 tỷ đồng [1 Xem ] Thứ hai, lợi dụng chính sách tạm nhập tái xuất, đối tượng buôn lậu chuyển hàng bằng tàu biển đến khu vực giáp ranh biên giới Việt Nam – Trung Quốc, mở kẹp chì chuyển thuốc lá lậu sang canô siêu tốc tự tạo với công suất 1800 mã lực chạy sát bờ biển Việt Nam rồi chuyển hàng sang canô nhỏ hoặc thuyền đánh cá và đưa sâu vào nội địa.1 Thực tế trên cho thấy việc áp dụng Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 trên thực tế vô cùng phức tạp do số lượng cũng như tính chất các vụ trốn thuế nhập khẩu ngày càng tăng và tinh vi hơn. Một phần do quy định của Luật còn có nhiều kẽ hở. Mặt khác do lực lượng hải quan của ta còn thiếu và còn yếu, trong khi các đối tượng buôn lậu ngày càng liều lĩnh và tinh vi hơn. Điều này đòi hỏi pháp luật thuế nhập khẩu phải không ngừng hoàn thiện để bám sát thực tế, tránh tình trạng nạn buôn lậu hoành hành gây thất thoát thuế của Nhà nước. Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu. Những định hướng chung. Xuất phát từ trực trạng trên, yêu cầu đặt ra là phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật, điều chính bổ sung cho phù hợp với thực tiễn tạo điều kiện cho việc tìm hiểu và áp dụng TNK trong thực tiễn. Tuy nhiên để đạt hiệu quả cao, tạo cơ sở pháp lý vững chắc đúng đắn thì trước hết việc bổ sung điều chỉnh hệ thống pháp luật phải có những định hướng nhất định. Cụ thể: + Hoàn thiện hệ thống pháp luật TNK cần phải quán triệt chủ trương đường lối của Đảng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với nội dung các cam kết quốc tế mà Việt Nam ký kết và tham gia. + Hoàn thiện hệ thống pháp luật TNK theo hướng đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước + Hoàn thiệt hệ thống pháp luật TNK phải bảo hộ được nền kinh tế trong nước, thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế này. + Hoàn thiện hế thống pháp luật TNK theo hướng xây dựng một hệ thống đồng bộ, thống nhất có tính ổn định cao, có khả năng đáp ứng được khả năng cạnh tranh giữa các thành phần trong nước và nước ngoài. Những giải pháp hoàn thiện. Thứ nhất, pháp luật thuế nhập khẩu phải xây dựng một hàng rào bảo hộ thuế quan hợp lý. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải cắt giảm thuế quan, do đó cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện nhanh chóng các loại thuế nhập khẩu bổ sung như thuế nhập khẩu để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa. Cần thẳng thắn nhìn nhận luật thuế nhập khẩu của ta chỉ mang tính hình thức, chưa rõ ràng, thiếu minh bạch, chưa phát huy được vai trò của nó. Thứ hai, thu hẹp diện miễn thuế, giảm thuế: Một chính sách thuế nhập khẩu nhiều ưu đãi sẽ thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực cần ưu tiên khuyến khích như sản xuất hàng xuất khẩu, sản phẩm thay thế nhập khẩu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa đáp ứng nhu cầu. Để phát huy mạnh mẽ tác động của thuế nhập khẩu đến tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng trong xã hội thì thời gian tới cần tiếp tục đơn giản hóa luật thuế theo hướng giảm dần các mức thuế suất và điều khoản miễn giảm thuế nhằm thực hiện chính sách xã hội. Chuyển dần các quy định về chính sách ưu tiên xã hội đã được lồng gép trong luật thuế sang thực hiện thông qua chi ngân sách nhằm đảm bảo tính trung lập của thuế. Như vậy, xét về quyền lợi của người được hưởng chính sách ưu đãi từ thuế sẽ không thay đổi, bởi thay vì được hưởng quyền lợi từ miễn giảm thuế, họ sẽ được bù đắp thông qua nhận trợ cấp từ chi ngân sách. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao tính công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu giữa những người nộp thuế, động lực ưu đãi thuế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sẽ có hiệu lực mạnh hơn , đảm bảo tăng thu vững chắc trong dài hạn. Thứ ba, về thuế suất: hiện nay thuế suất thông thường được Bộ tài chính quy định áp dụng thống nhất ở mức 150% thuế suất ưu đãi. Quy định này vô tình đã lấn áp Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 vì Luật cho phép dao động ở mức 100% đến 170%. Vì vậy, cần có những quy định cụ thể, trường hợp nào áp dụng thuế suất thông thường là bao nhiêu nhằm khắc phục sự cứng nhắc trong áp dụng thuế suất, đồng thời đảm bảo khung thuế suất không bị áp dụng tùy tiện, chủ quan cho từng trường hợp riêng lẻ nào. Thứ tư, về thời hạn nộp thuế: hiện nay Luật đưa ra hai tiêu chí để xác định thời hạn nộp thuế là thời hạn xác định theo mặt hàng nhập khẩu và thời hạn xác định theo sự chấp hành pháp luật thuế của chủ thể nộp thuế. Theo nhóm, luật chỉ nên lấy một tiêu chí là mức độ chấp hành pháp luật của chủ thể nộp thuế để quy định. Như vậy sẽ phù hợp với quy định của Luật hải quan đã sửa đổi, bổ sung năm 2005, vừa khuyến khích sự chủ động, tự giác tuân thủ pháp luật của chủ thể nộp thuế. Nếu dựa trên mặt hàng nộp thuế để xác định thời hạn nộp thuế, vô hình chung đã đánh đồng những người nhập khẩu chấp hành nghiêm chnhr pháp luật và nhưng người không chấp hành nghiêm chỉnh với nhau, đồng thời tạo kẽ hở cho những doanh nghiệp “ma” lợi dụng chính sách ân hạn thuế của nhà nước để trục lợi trốn thuế. Thứ năm, về giải pháp nhằm chống gian lận thương mại: Nhà nước cần xây dựng biểu thuế theo bản chất, tính chất lý hóa của sản phẩm, không thể vừa đánh theo bản chất, vừa đánh theo mục đích sử dụng của hàng hóa nhập khẩu như hiện nay, đồng thời xem xét lại chế độ ưu đãi về ân hạn nộp thuế, tăng cường lực lượng kiểm tra sau thông quan cả về số lượng lẫn chất lượng nhằm hạn chế tới mức thấp nhất việc gian lận qua khai báo giảm số lượng, chất lượng của hàng hóa nhập khẩu; kiểm tra kỹ hàng. Mặt khác, nhà nước cũng cần tăng cường hiện đại hóa cơ sở vật chất cho ngành hải quan. Đẩy mạnh tin học hóa các quy trình quản lý thu thuế nhập khẩu. Bên cạnh đó là đầu tư trang thiết bị hiện đại để giám định kỹ thuật hàng hóa. Theo quy định của biểu thuế nhập khẩu hiện hành thì có rất nhiều hàng hóa nhập khẩu đòi hỏi phải thông qua các công tác giám định về chất lượng, tiêu chuẩn ký thuật thì mới đảm bảo áp mã số thuế được chính xác. Do đó, để hạn chế thất thu thuế nhập khẩu qua công tác giám định, Tổng cục hải quan cần phải được trang bị kỹ thuật hiện đại , đáp ứng được yêu cầu giám định hàng hóa và cơ quan chức năng cần sớm có quy định thống nhất về công tác giám định, tăng cường quản lý công tác giám định. Thứ sáu, cấn quy định rõ ràng chế tài áp dụng đối với hành vi gian lận và chậm nộp tiền thuế: Khi quy định một hình thức xử phạt nào đó đối với hành vi gian lận thuế hay chậm nộp thuế cần phải quy định rõ các điều kiện áp dụng để tránh sự ngộ nhận và tùy tiện. Đối với cơ quan hải quan, pháp luật thuế nhập khẩu cần quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn trong việc đấu tranh, phát hiện kịp thời các hành vi gian lận thuế, chây ỳ nợ thuế kéo dài nhằm chiếm đoạt tiền thuế từ ngân sách. Về vấn đề này, pháp luật thuế nhập khẩu của các nước thường quy định xử phạt rất nghiêm khắc các trường hợp nợ thuế, khai man, trốn lậu thuế. Pháp luật cộng hòa Séc quy định “ Thuế nộp không đúng hạn sẽ bị phạt 0. 1%/ ngày/ số thuế phải nộp; không nộp tờ khai, nộp tờ khai thiếu sẽ tăng 105 số thuế phải nộp, ngoài ra cỏ thể sẽ bị xử hình sự từ 6- 12 tháng tù”; pháp luật Thụy Điển quy định “ trường hợp đối tượng nộp thuế lập tờ khai đã nộp thiếu so với số thuế phải nộp, khi cơ quan thuế kiểm tra, phát hiện, họ phải nộp bổ sung số thuế thiếu, đồng thời còn bị tính lãi trên số thuế nộp thiếu theo tỷ lệ 2%, nếu kéo dài sẽ bị tính theo tỷ lệ &% hoặc 9%”…Do vậy, pháp luật về thuế nhập khẩu của nước ta cũng cần phải có những quy định xử lí nghiêm khắc các trường hợp khai man, trốn lận thuế, nợ thuế kéo dài nhằm đảm bảo pháp luật thuế được thực hiện nghiêm. Thứ bảy, luật hóa các nội dung quản lý thuế nhập khẩu: Các nội dung quản lý thuế nhập khẩu phải được luật hóa, cụ thể: Luật hóa các thủ tục hành chính về thuế nhập khẩu, thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế nhập khẩu, thủ tục cưỡng chế thuế một cách cụ thể, rõ rang để nâng cao tính pháp lí và đảm bảo sự thống nhất. Áp dụng cơ chế và kỹ thuật quản lý thuế hiện đại vào công tác quản lý thuế nhập khẩu một cách hiệu quả. Muốn vậy, cần: + Quy định rõ ràng trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin về đối tượng nộp thuế cho cơ quan hải quan. + Chế tài xử lý vi phạm hành chính về thuế nhập khẩu cần rõ ràng, phù hợp với thực tiễn và mang tính khả thi. + Tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ nhằm phục vụ vho công tác quản lý thuế. + Kiện toàn bộ máy quản lý thuế theo chức năng và nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức cán bộ hải quan theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp. + Nâng cao trình độ nhận thức và thái độ chấp hành của người nộp thuế nhập khẩu, một mặt cần hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, mặt khác, phải tuyên truyền, giáo dục vận động người nộp thuế tự giác chấp hành đúng nghĩa vụ và quyền lợi của họ. + Tiếp tục nội luật hóa các điều ước quốc tế bằng cách chuyển hóa các cam kết quốc tế thành quy định pháp luật trong nước cũng như thừa nhận các quy định quốc tế để áp dụng. Tham gia và thực hiện đúng các cam kết quốc tế đã kí kết là cách hợp lý hướng tới sự phát triển đất nước theo xu hướng hội nhập hiện nay. KẾT LUẬN. Với xu thế hội nhập sâu rộng về mọi mặt trong giai đoạn hiện nay, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật là yêu cầu cần thiết. Các hoạt động giao lưu, hợp tác sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế nếu có một hành lang pháp lý phù hợp làm nền tảng cho nó, đặc biệt trong hoạt động nhập khẩu và hệ thống pháp luật về nhập khẩu. Các quy định của pháp luật nhập khẩu cần sát thực tế hơn nữa, phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam hơn nữa…như vậy, mới thúc đẩy và phát huy được vai trò của thuế nhập khẩu trong thời đại giao lưu, hội nhập. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. Giáo trình Luật thuế Việt Nam – Nhà xuất bản tư pháp. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005. Nghị định 87/ 2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Khóa luận tốt nghiệp, Pháp luật thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Trịnh Thu Thảo, 2006. Pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế : Khoá luận tốt nghiệp / La Thị Tuyết Anh, 2007. g Thực tiến áp dụng Luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam, 2007, Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay những vấn đề cần hoàn thiện, 2008.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBT nhóm 9đ -Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu và giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật thuế nhập khẩu.doc